Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 3 | Chương 5 >> | Hướng Dẫn

THÁNH KINH

Sáng-Thế Ký

 

Khởi đầu của thế giới, loài người và dân tộc Hê-bơ-rơ. Chép về công cuộc sáng tạo, nạn nước lụt, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Giô-sép.

Tác Giả Của Sách Sáng-Thế Ký

Truyền thuyết lâu đời của dân Hê-bơ-rơ và của tín đồ Ðấng Christ là: Do Thánh Linh của Ðức Chúa Trời dắt dẫn, Môi-se đã dựa vào các tài liệu cổ sẵn có đương thời mình mà chép ra sách Sáng thế ký. Sách nầy chấm dứt chừng 300 năm trước thời Môi-se. Ông chỉ có thể được sự tri thức đó hoặc bởi Ðức Chúa Trời trực tiếp khải thị, hoặc nhờ những tài liệu lịch sử của tổ tiên truyền lại cho.

Mở đầu bằng "Bài ca Sáng Tạo," rồi có 10 "Sách Dòng dõi(1) " họp thành "cái cốt" của sách Sáng thế ký. Dường như các "sách dòng dõi" nầy hoặc do Môi-se phối hợp cụ thể, rồi thêm vào các đoạn và các lời giải thích tùy theo ông được Ðức Chúa Trời dắt dẫn, hoặc chính ông đã dựa vào các tài liệu lịch sử khác mà mình sẵn có để biên trứ dưới sự dẫn dắt của Ðức Chúa Trời. Mười một tài liệu ấy như sau đây:

"Bài ca Sáng Tạo" (1:1-2:3).

"Gốc tích(2) trời và đất" (2:4-4:26).

"Sách chép dòng dõi của A-đam" (5:1-6:8).

"Dòng dõi của Nô-ê" (6:9-9:28).

"Dòng dõi của các con trai Nô-ê" (10:1-11:9).

"Dòng dõi của Sem" (11:10-26).

"Dòng dõi của Tha-rê" (11:27-25:11).

"Dòng dõi của Ích-ma-ên" (25:12-18).

"Dòng dõi của Y-sác" (25:19-35:29).

"Dòng dõi của Ê-sau" (36:1-43).

"Dòng dõi của Gia-cốp" (37:2-50:26).

Mười một tài liệu thượng cổ nầy vốn là gia phổ của dòng dõi được Ðức Chúa Trời lựa chọn và của những gia tộc liên hệ. Chúng hợp thành sách Sáng thế ký và gồm 2000 năm đầu tiên của lịch sử loài người, từ khi dựng nên loài người đến khi tuyển dân của Ðức Chúa Trời kiều ngụ tại Ai-cập.

"Bài ca Sáng Tạo" (1:1-2:3)

Ðây là một bài đầy thi vị, có sự uyển chuyển đều mực và oai nghiêm, mô tả các giai đoạn liên tiếp của sự sáng tạo. Sự sáng tạo nầy được thực hiện trong bảy ngày, là con số hay được nhắc đến trong Kinh Thánh. Trong tất cả văn chương, hoặc thuộc về khoa học, hoặc thuộc về ngành nào khác, không có truyện tích nào tuyệt diệu hơn về căn nguyên muôn vật.

Ai đã viết "Bài ca Sáng Tạo?" Môi-se dùng nó, nhưng chắc nó đã được viết ra từ lâu đời về trước, có lẽ bởi Áp-ra-ham, hoặc Nô-ê, hoặc Hê-nóc, hoặc A-đam. Người ta thường dùng chữ viết từ bao nhiêu đời trước thời Môi-se. Một số "điều răn, qui tắc và luật pháp" (Nê-hê-mi 9:14) đã có đương thời Áp-ra-ham, tức là 600 năm trước thời Môi-se (xem Sáng thế ký 26:5).

Tác giả làm sao biết được việc xảy ra trước khi loài người xuất hiện? Chắc hẳn Ðức Chúa Trời "đã khải thị quá khứ xa vời cho ông cùng một cách như về sau, Ngài bày tỏ tương lai xa vời cho các đấng tiên tri vậy."

Biết đâu Ðức Chúa Trời đã chẳng dạy "bài ca" nầy, hoặc đại ý của nó cho chính A-đam? Có lẽ "bài ca" nầy đã được truyền miệng trong lúc gia đình sum họp, hoặc được hát lên như một nghi lễ trong cuộc thờ phượng thời cổ (thánh ca là phần lớn của các hình thức văn chương thời tối cổ), từ thế hệ nầy đến thế hệ kia, cho đến khi chữ viết được đặt ra. Chính Ðức Chúa Trời canh giữ sự lưu truyền "bài ca" ấy cho đến khi nhờ trí óc phi thường của Môi-se, nó chiếm được địa vị mở đầu Sách của Ðức Chúa Trời ban cho các thời đại.

Nếu Kinh Thánh là Lời Ðức Chúa Trời như chúng ta đã tin, và nếu Ðức Chúa Trời biết từ lúc ban đầu rằng Ngài sẽ dùng Kinh Thánh làm khí cụ chánh yếu trong sự cứu chuộc loài người, thì tại sao lại khó tin rằng cùng một lúc dựng nên họ, Ngài đã ban cho họ mầm giống và nguyên tử của Lời ấy?

 

Ðoạn 1:1 -- Sáng tạo vũ trụ

"Ban đầu" Ðức Chúa Trời dựng nên vũ trụ. Ðó là sự sáng tạo tuyệt đối.

Những điều chép nối tiếp trong "bảy ngày" mô tả nhiều cách nắn hình vật chất đã dựng nên có liên quan đến trái đất, để dự bị mặt đất cho sự dựng nên loài người và làm nơi ở của họ. Theo niên biểu của Kinh Thánh, thì loài người được dựng nên chừng 4000 năm T.C.. Nhưng vũ trụ có thể được dựng nên từ vô số đời về trước, từ quá khứ xa xăm, sâu thẳm vô cùng, từ trước khi có thời gian.

Ðức Chúa Jêsus có mặt ở đó, và đã góp tay dự phần (Giăng 1:1-3; 17:5, 24).

 

Ai tạo nên Ðức Chúa Trời?

Con trẻ nào cũng hỏi câu nầy? Và không ai trả lời được. Có những điều vượt quá trí chúng ta. Chúng ta không thể khái niệm lúc bắt đầu của thời gian, hoặc lúc tận cùng của thời gian, hoặc biên giới của không gian. Vũ trụ đã thực hữu luôn, không hề có lúc ban đầu; hoặc vũ trụ được tạo nên từ cõi không không. Hai điều ấy phải có một, nhưng ta không thể khái niệm điều nầy hoặc điều kia. Ta biết điều nầy: Những sự vật cao tột mà ta nghĩ tới được là: Thân vị, tinh thần, trí khôn. Nó từ đâu mà đến? Vật vô tri có thể dựng nên trí khôn chăng? Bởi ÐỨC TIN, chúng ta nhìn nhận một Quyền phép cao trọng hơn mình, tức là ÐỨC CHÚA TRờI, như là tuyệt điểm của tư tưởng mình, và hy vọng rằng một ngày kia, trong cõi đời sau, ta sẽ hiểu được những lẽ mầu nhiệm của sự thực hữu (hoặc: sự sống).

 

Vũ trụ mà Ðức Chúa Trời đã dựng nên

Các nhà thiên văn học phỏng định rằng Ngân hà mà trái đất và thái dương hệ thống thuộc về đó, có hơn 30 tỷ mặt trời, nhiều cái lớn hơn mặt trời của chúng ta bội phần; vả mặt trời của chúng ta lớn hơn trái đất một triệu rưỡi lần. Ngân hà có hình như một chiếc đồng hồ mỏng, đường kính từ đầu nầy tới đầu kia là 200 ngàn năm ánh sáng; một năm ánh sáng là khoảng đường mà ánh sáng vượt qua trong một năm với tốc độ 186.000 dặm (chừng 300.000 cây số) một giây đồng hồ. Vả, có rất ít là 100.000 nhóm tinh tú giống như Ngân hà, và một vài nhóm cách nhau hàng triệu năm ánh sáng. Và mọi sự nầy có thể chỉ là một chấm nhỏ trong không gian vô biên, vô tận.

 

Ðoạn 1:2 đến 2:3 -- "Bảy ngày."

Chúng ta chẳng biết đây là những ngày có 24 giờ, hay là những thời kỳ dài kế tiếp nhau, hay là các khoảng xen vào giữa những thời kỳ ấy. Chữ "ngày" có nhiều nghĩa khác nhau. Chữ "ngày" ở Sáng thế ký 1:5 dùng để chỉ về sự sáng. Ở 1:8, 13 dường như có nghĩa là một ngày 24 giờ. Ở 1:14, 16 dường như có nghĩa là ban ngày 12 giờ. Ở 2:4 (2) dường như gồm cả thời kỳ sáng tạo. Trong những khúc sách như Giô-ên 2:18, Công vụ các sứ đồ 2:20, Giăng 16:23, hai chữ "ngày đó" dường như chỉ về cả kỷ nguyên đạo Ðấng Christ. Trong những khúc sách như II Ti-mô-thê 1:12, dường như chỉ về kỷ nguyên sau lúc Chúa tái lâm. Còn theo Thi Thiên 90:4 và II Phi-e-rơ 3:8, thì "ở trước mặt Chúa một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày." Vậy, chúng ta chớ quá độc đoán về kỳ gian của sáu ngày sáng tạo.

Nhưng bất cứ kỳ gian của nó là chừng nào, chúng ta cũng hãy nhớ rằng công việc của mỗi ngày đã thành tựu như là kết quả do mạng lịnh Ðức Chúa Trời. Ðoạn nầy không phải là một bài luận về khoa học, nhưng giống như một bài thơ hoặc một bài ca nhiều hơn. Tuy nhiên, nó ăn hiệp rất lạ lùng với môn sanh vật học và môn động vật học ngày nay.

 

Ngày thứ nhứt (1:2-5)

Sự sáng.-- Sự sáng chắc đã gồm trong "trời đất" mà Ðức Chúa Trời dựng nên lúc "ban đầu." Nhưng mặt địa cầu chắc còn tối tăm, vì vỏ địa cầu đang nguội lần, là một khối hiu quạnh sôi sùng sục và có nước sôi bao phủ, chắc đã bốc lên nhiều lớp sương mù và hơi dày, che khuất hẳn ánh sáng mặt trời. Sự sáng và sự liên tiếp của ngày và đêm đã được thiết lập trên mặt địa cầu khi sự nguội lần đã giảm bớt mật độ của sương mù, đủ cho ánh sáng thấu qua. Tuy nhiên, mãi đến ngày thứ tư, mặt trời mới xuất hiện, mắt xem thấy được.

 

Ngày thứ hai (1:6-8)

Khoảng không.-- gọi là "trời" đây chỉ về bầu không khí, hoặc lớp khí trời, ở giữa trái đất có nước bao phủ và các từng mây bên trên. Có khoảng không nầy là vì nước của trái đất càng nguội hơn; tuy nhiên, mặt trái đất còn nóng đủ để làm ra mây che khuất mặt trời.

 

Ngày thứ ba (1:9-13)

Ðất đai và cây cối.-- Cho tới bây giờ, dường như mặt trái đất đã bị nước phủ kín hết; ấy vì lớp vỏ mỏng mới kết thành luôn luôn nứt vỡ, chắc đã giữ cho mặt trái đất trơn tru, như một trái cầu bằng nước vậy. Nhưng khi lớp vỏ nguội hơn, dày hơn và bất động hoặc ít hoặc nhiều, thì nó bắt đầu cong lên, các hải đảo và địa lục bắt đầu hiện ra. Chưa có mưa, nhưng các lớp sương dày nhuần tưới đất đai mới tạo thành khi ấy tự nó vẫn còn nóng. Khắp nơi có khí hậu nhiệt đới, cây cối chắc đã mọc lên mau chóng và rất nhiều; rồi do biết bao nhiêu lần dìm xuống và cất lên liên tiếp, cây cối ấy biến thành những lớp than mà ta có ngày nay.

 

Ngày thứ tư (1:14-19)

Mặt trời, mặt trăng, ngôi sao.-- Nhưng vì sáng nầy chắc đã được dựng nên lúc "ban đầu." "Ngày thứ nhứt," ánh sáng của chúng chắc đã thấu qua những lớp sương của trái đất (1:3), nhưng chính chúng thì chưa lộ ra. Bây giờ, vì các đám mây bớt mật độ, là kết quả do trái đất càng nguội thêm, nên trên mặt trái đất thấy chúng được. Khi mặt đất không còn nhận chịu sức nóng từ bên trong. Nhưng chỉ còn nhờ mặt trời mà có sức nóng, thì liền có thời tiết. Bấy giờ các cuộc phát triển địa chất chắc đã chậm lại và gần như ngừng hẳn.

 

Ngày thứ năm (1:20-25)

Biển, cá và chim.-- Hãy chú ý sự tấn triển: Ngày thứ nhứt và ngày thứ hai có những vật vô tri giác; ngày thứ ba có sự sống thảo mộc; ngày thứ năm có sự sống động vật.

 

Ngày thứ sáu (1:24-31)

Ðất đai, súc vật và loài người.-- Rốt lại, trái đất đã sẵn sàng làm nơi ở của người; Ðức Chúa Trời bèn làm nên người theo hình ảnh Ngài, và ban cho người quyền cai trị trái đất cùng mọi loài trên đất. Chắc Ðức Chúa Trời đã rất hài lòng về công việc của Ngài, vì Ngài thấy mọi công trình đó "thật rất tốt lành" (1:4, 10, 12, 18, 21, 25, 31). Nhưng chẳng bao lâu bức tranh đã đổi ra ảm đạm. Ðức Chúa Trời chắc đã biết trước sẽ xảy ra như vậy, và chắc đã coi tất cả công trình sáng tạo loài người chỉ như một bước đi tới thế giới vinh hiển sẽ còn từ bức tranh đó lộ ra, theo như có mô tả trong những đoạn chót của sách Khải Huyền.

 

Ngày thứ bảy (2:1-3)

Ðức Chúa Trời yên nghỉ.-- Không phải là yên nghỉ tuyệt đối (Giăng 5:7), nhưng là yên nghỉ sau công trình sáng tạo đặc biệt nầy. Ðó là nền tảng của ngày Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô ký 20:11). Xin chú ý rằng ngày thứ bảy không có "buổi chiều." Nó có liên quan thần bí với Thiên đàng (Hê-bơ-rơ 4:4, 9). Con số "bảy" có thể đứng trong cơ cấu vũ trụ, vượt quá sự hiểu biết của loài người bội phần.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Những truyện tích của xứ Ba-by-lôn về công cuộc sáng tạo

Những năm gần đây, trong đống di tích của các thành Ba-by-lôn, Ni-ni-ve, NipputAshur, người ta đã tìm thấy nhiều bản ca về công cuộc sáng tạo, dưới nhiều hình thức, ghi trên các tấm bảng lưu hành từ trước thời Áp-ra-ham, giống hệt như "Bài ca Sáng Tạo" trong sách Sáng thế ký.

Có "bảy tấm bảng" (hoặc thời kỳ) về công cuộc sáng tạo: "Ban đầu" có một "vực sâu nguyên thủy," có "những nước hỗn loạn" gọi là "vực." Các thần đã "tạo thành muôn vật," đã làm ra "khoảng không ở trên và khoảng không ở dưới," đã "lập vững các từng trời và trái đất." Ngày thứ tư, các thần đã "đặt những ngôi sao đúng chỗ," đã "làm cho cỏ xanh mọc lên," đã "dựng nên loài thú ngoài đồng, gia súc và mọi vật sống." Ðến ngày thứ sáu, các thần "làm nên người bằng bụi đất; người trở nên loài sống; người và vợ ở chung, kết bạn với nhau; một cái vườn là nơi họ ở, và họ chẳng biết đến y phục." Ngày thứ "bảy" được chỉ định làm "ngày thánh," và "có lịnh phải ngừng mọi công việc."

Những truyện tích sáng tạo của người Ba-by-lôn và người A-si-ri nầy đều thiên về thuyết đa thần quá đáng. Nhưng vì có rất nhiều điểm giống như truyện tích trong sách Sáng thế ký, nên dường như cả hai truyện có cùng một nguồn. Ðiều nầy há chẳng chứng tỏ rằng một vài ý tưởng của sách Sáng thế ký đã in sâu trong trí nhớ của những người thượng cổ ở trên mặt đất, sao? rằng các nhơn chủng, một khi tách khỏi dòng giống lựa chọn của Ðức Chúa Trời và sa xuống vòng thờ lạy hình tượng, vẫn thọ hưởng và lưu truyền di phẩm của một chơn lý mà họ đã đem đồng hóa với nền văn hóa quốc gia của mình, sao? Những truyền thoại đại bại nầy há chẳng làm chứng cho cái thực sự rằng đã có một nguyên bổn từ Ðức Chúa Trời mà ra, sao?

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Nhứt thần luận nguyên thủy

Kinh thánh trình bày rằng loài người phát nguyên với lòng tin tưởng Nơi Một Ðức Chúa Trời Duy Nhất, rằng sự thờ lạy hình tượng theo thuyết đa thần về sau mới bành trướng. Ðó là trái hẳn với lý thuyết kim thời rằng ý niệm về một Ðức Chúa Trời duy nhứt đã lần lần phát triển từ bái vật giáo. Mới đây, quan điểm của Kinh Thánh đã được khảo cổ học xác nhận. Tấn sĩ Stephen Langdon, thuộc Ðại học đường Oxford, đã nhận thấy những bi văn tối cổ của xứ Ba-by-lôn nêu lên rằng tôn giáo đầu tiên của loài người là tin nơi một Ðức Chúa Trời duy nhứt, rồi từ dó mới mau lẹ sa xuống chủ nghĩa đa thần và sự thờ lạy hình tượng(1).

Huân tước Flinders Petrie nói rằng tôn giáo nguyên thủy của Ai-cập là tôn giáo độc thần.

Năm 1898, Sayce báo cáo rằng trên ba tấm bảng của Anh quốc Bảo tàng viện, về thời vua Hammurabi, ông đã khám phá được mấy chữ: "Jahwe (Giê-hô-va) là Ðức Chúa Trời."

Mới đây, nhiều nhà nhơn loại học trứ danh đã báo cáo rằng giữa vòng các chủng tộc thượng cổ, đã có sự tín ngưỡng phổ thông nơi Ðức Chúa Trời Cao cả độc nhứt vô nhị(2).

 

"Gốc tích trời và đất" (2:4-4:26)

Mấy đoạn nầy thường khi gọi là "truyện tích thứ hai" về sự sáng tạo. Thoạt đầu có lời nhắc đến tình trạng hiu quạnh của trái đất (2:5, 6), rất ứng hợp với phần đầu "ngày thứ ba" của "truyện tích thứ nhứt" (1:9, 10); rồi tới mấy chi tiết mà truyện tích thứ nhứt bỏ sót; đoạn, bắt đầu kể sự sa ngã của loài người. Truyện tích nầy có tánh chất bổ túc, chớ không mâu thuẫn. Những chi tiết phụ thêm thì chẳng phải là mâu thuẫn đâu.

Ai là tác giả nguyên thủy của tài liệu nầy? Nó chuyển truyện tích xuống tới thế hệ thứ 6 của dòng dõi Ca-in (4:17-22), và kết thúc trong lúc A-đam còn sống (ông sống đến tận thế hệ thứ 8 của dòng dõi Sết -- 5:4-25). Như vậy, mọi biến cố trong tài liệu nầy đã xảy ra trong đời A-đam. Nếu chữ viết chưa đặt ra khi A-đam còn sống, thì ông há chẳng có thể thuật đi thuật lại mọi sự nầy trong chốn gia đình, đến nỗi ít ra đại ý của nó in hình trong trí óc người ta cho tới lúc đặt chữ viết, sao? Môi-se há chẳng có thể ghi chép đại khái truyện tích loài người sa ngã theo chính lời A-đam đã kể, sao?

 

Ðoạn 2:4-17 -- Vườn Ê-đen

Trong đoạn 1, Ðấng Tạo Hóa được xưng là Ðức Chúa Trời (Elohim), tức là thông danh (nom générique) của Ðấng Cao Cả. Ðây lại xưng Ngài là "Giê-hô-va Ðức Chúa Trời" (Jehovah Elohim), tức là biệt danh của Ngài. Ðó là bước thứ nhứt trong phương thức dài dặc của Ðức Chúa Trời tự khải thị.

"Chưa có mưa, song có hơi nước." Ðiều nầy chắc có nghĩa rằng trong một thời gian, trước khi có mưa, trái đất đã được nhuần tưới bằng những lớp sương mù dày dặc, vì lúc ấy mặt địa cầu còn nóng lắm, do đó hơi nước rất đặc, đến nỗi những giọt mưa mát mẻ ở vành ngoài của các đám mây cũng lại biến thành hơi nước trước khi xuống tới mặt đất.

"Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lập một cảnh vườn" (câu 8). Về vị trí, xin xem trang 63.

"Cây sự sống" (câu 9; 3:29) có lẽ thật là món ăn để được bất tử, tỏ ra sự bất tử của chúng ta tùy thuộc một cái gì ở bên ngoài ta. Cây nầy lại sẽ dành cho những ai đã giặt áo mình trong Huyết Chiên Con (Khải Huyền 2:7; 22:2, 14).

"Cây biết điều thiện và điều ác" (9, 17) thì "ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn" (3:6). Dầu tánh chất của cây nầy thật là gì đi nữa, -- là một cây thật, hay là hình bóng hoặc tượng trưng, -- nhưng ít ra một phần yếu tố của tội lỗi A-đam và Ê-va cũng là điều nầy: Chuyển quyền kiểm soát đời mình từ Ðức Chúa Trời qua chính mình. Ðức Chúa Trời đã phán bảo họ đại khái rằng họ có quyền làm bất cứ điều chi mình muốn. Trừ Ra một điều. Ðó là thử xem họ có vâng lời Ngài hay không? Ðang khi họ tự chế, thì Ðức Chúa Trời là Chủ của họ. Một khi họ bất kể mạng lịnh của Ðức Chúa Trời mà làm điều cấm duy nhứt đó, thì họ tự tôn mình làm chủ mình. Ðó há chẳng phải yếu tố của tội lỗi loài người sao? Tức là tự nhận điều khiển đời mình cho hợp theo ý mình. Từ ban đầu, Ðức Chúa Trời định cho loài người sống đời đời, và điều kiện duy nhứt là phải vâng lời Ngài. Loài người đã thất bại. Bấy giờ bắt đầu phương thức cứu chuộc dài dặc nhưng chậm chạp, bởi một Cứu Chúa, nhờ Ngài mà loài người có thể được lại địa vị đã mất. Sự sống tuyệt đối chỉ có trong sự vâng lời tuyệt đối.

 

Ðoạn 2:18-25 -- Sự dựng nên người nữ

Ðoạn 1:27 đã tuyên bố rằng người được dựng nên có nam, có nữ. Tới đây, cách dựng nên người nữ được kể lại đầy đủ hơn. Tại đây, lúc khởi đầu của loài người và của Sách Thánh, nguyên thủy thiên thượng và tánh chất thánh khiết của hôn nhơn đã được xác định: Một người nam, một người nữ, một thịt (câu 24).

Kinh Thánh hình dung hôn nhơn như là đạo nghĩa trần gian đối chiếu với mối liên quan giữa Ðấng Christ và Hội Thánh (Ê-phê-sô 5:25-32; Khải Huyền 19:7; 21:2-9). Hội Thánh được xưng là "Tân Phụ" của Ðấng Christ. Tân phụ của A-đam được làm nên bởi sườn ông đang khi ông ngủ (câu 21, 22). Ðó có thể là bức tranh nguyên thủy về Hội Thánh: Tân phụ của Ðấng Christ, được tạo nên bởi "huyết và nước" từ cạnh sườn Ðấng Christ chảy ra, đang khi Ngài "ngủ" trên Thập tự giá (Giăng 19:34; I Giăng 5:6, 8).

"Trần truồng, mà chẳng hổ thẹn" (câu 25). Có lẽ họ được bao phủ bằng sự sáng cao khiết của Ðức Chúa Trời, cũng như Ðức Chúa Jêsus khi Ngài hóa hình vậy (Mác 9:3). Sự sáng nầy đã biến mất khi tội lỗi xen vào; song một ngày kia, nó lại sẽ bao phủ những người được cứu chuộc (Khải Huyền 3:4; 21:23). Theo chỗ ta biết, trong mọi loài Ðức Chúa Trời dựng nên, chỉ có loài người mặc quần áo, đó là dấu hiệu tỏ ra bổn tánh tội lỗi của chúng ta và là chứng cớ thầm lặng về chơn lý nguyên thủy.

 

Vị trí của vườn Ê-đen

Vườn ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ, tại nơi hai sông nầy gặp sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn (2:10-14). Chưa chỉ đúng được vị trí sông Bi-sôn và sông Ghi-hôn. Sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ phát nguyên từ miền núi Causase, ở Tây nam Á Châu, chảy về phía Ðông nam, rồi đổ vào vịnh Ba-tư, là một vũng của Ấn độ dương.

Vậy, ta có thể nói rằng loài người đã được dựng nên và đặt trên đất, vào khoảng gần giữa mặt địa cầu; vì khu vực sông Ơ-phơ-rát và núi Caucase ở gần trung tâm của đông bán cầu, vốn rộng lớn hơn tây bán cầu.

Nói chung, các nhà nhơn chủng học đều nhận xét rằng khu vực nầy là nơi phát tích mọi chủng tộc của loài người. Từ khu vực nầy sản xuất con bò, dê, chiên, ngựa, heo, chó, và phần nhiều gia súc. Tại đây cũng phát sanh trái táo, đào, lê, mận, anh đào, mộc qua, dâu, phúc bồn tử, nho, ô-li-ve, vả, chà là, hột giẻ, lúa mì, lúa mạch, lúa kiều mạch, đậu, cây gai, rau dền, củ cải, hành, và hầu hết trái cây cùng rau cỏ của chúng ta. Ðó là nơi loài người phát xuất.

 

Xứ Ba-by-lôn

Một số người tưởng rằng vùng cao nguyên xứ ạc-mê-ni, nơi nguồn sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ (có lẽ thời ấy chưa cao hơn mặt biển nhiều như ngày nay), có thể là vị trí đặc biệt của vườn Ê-đen. Dầu vậy, theo truyền thoại và theo phần đông người đồng ý, thì vị trí của vườn Ê-đen chính là xứ Ba-by-lôn, gần cửa sông Ơ-phơ-rát. "Edin" là tên thời thượng cổ của đồng bằng Ba-by-lôn.

Hiện nay, sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ gặp nhau chừng 100 dặm phía trên vịnh Ba-tư. Ðương thời Áp-ra-ham, vịnh nầy ăn sâu vào địa lục đến tận U-rơ, và hai sông nầy đổ vào vịnh bởi nhiều nhánh riêng biệt, theo như những dòng chấm trên bản đồ ở trang 64 chỉ tỏ. Cả đồng bằng Ba-by-lôn do phù sa của hai con sông nầy kết thành. Lòng hai con sông nầy thường hay đổi chiều.

Có lẽ đương thời A-đam, hai sông nầy hợp nhau một quãng, rồi lại chia ra trước khi đổ vào vịnh Ba-tư.

Vườn Ê-đen ở trên dòng sông hợp nhứt, khoảng giữa chỗ hợp lại và chỗ chia ra, và như vậy, chia thành bốn "ngả"(2) (2:10). Hai con sông cứ chảy tới bờ phía Ðông và bờ phía Tây của vịnh Ba-tư, và được gọi là Bi-sôn và Ghi-hôn. Trên những bi văn thượng cổ, vịnh Ba-tư được gọi là một "con sông." Thủy triều của nó lên cao chừng 3 thước, làm cho những dòng sông nầy nhô lên, trông giống như "đầu" người vậy.

Bản đồ số 20 -- Nơi loài người phát tích

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Eridu, vườn Ê-đen theo truyền thoại

Chỗ đặc biệt mà truyền thoại xác định là vị trí vườn Ê-đen chính là một nhóm gò nỗng cách U-rơ 12 dặm về phía Nam, gọi tên là Eridu (Abu Sharem). Giác trụ của Weld có ghi rằng hai vua đầu tiên trong lịch sử đã trị vì ở Eridu.

Các bi văn cổ xứ Ba-by-lôn ghi rằng: "Gần Eridu có một khu vườn, trong đó có một cây thiêng liêng, mầu nhiệm, gọi là cây sự sống, do các thần trồng. Rễ nó ăn sâu, còn nhánh lên cao tận trời, có các thần linh canh giữ, và không ai tới gần bên cây được."

Di tích của Eridu đã do HallThompson đào bới năm 1918-1919. Hai ông nầy thuộc Anh quốc Bảo tàng viện, đã thấy bằng cớ tỏ rõ Eridu vốn là một đô thị thạnh vượng có văn hóa, và được tôn trọng như là nơi phát tích của loài người.

 

Khu vực Eridu

Cuộc đào bới đã tỏ ra rằng trong những thời kỳ lịch sử đầu tiên mà ta được biết, khu vực chung quanh Eridu có cư dân đông đúc, và trải qua bao nhiêu thế kỷ, là trung tâm thông trị thế giới. Tại khu vực nầy, người ta đã tìm được nhiều bi văn cổ nhứt và quí giá nhứt.

U-rơ, nơi sanh trưởng của Áp-ra-ham, chỉ cách Eridu 12 dặm.

Fara, nơi sanh trưởng của Nô-ê theo truyền thoại, cách Eridu 70 dặm.

'Obeid (Al 'Ubaid), nơi tìm được tài liệu lịch sử lâu đời nhứt, chỉ cách Eridu 15 dặm.

Lagash, nơi tìm được những thơ viện thượng cổ rộng lớn, chỉ cách Eridu 60 dặm.

Nippur, một trung tâm thơ viện khác, cách Eridu 100 dặm.

Ê-rết (Sáng thế ký 10:10), một trong những đô thị của Nim-rốt, cách Eridu 50 dặm.

Larsa, nơi tìm thấy giác trụ của Weld, cách Eridu chừng 40 dặm.

Ba-by-lôn chỉ cách Eridu 150 dặm.

 

Ðoạn 3 -- Loài người sa ngã

Sự sa ngã của loài người xảy ra do sự xảo trá và mưu chước của con rắn. Theo Kinh Thánh chép, thì con rắn tự nó nói được. Nhưng các đoạn Kinh Thánh khác chỉ tỏ rằng chính là Sa-tan đã nói bởi con rắn (II Cô-rinh-tô 11:3, 14; Khải Huyền 12:9; 20:2). Lúc đó A-đam và Ê-va ở một mình, chẳng có bầu bạn nào trừ ra các súc vật, và ông bà có vẻ thân mật với chúng lắm (2:19, 20). Có người tưởng rằng nguyên thủy con rắn đứng thẳng được, rất đẹp đẽ, và tự nhiên thích hợp nhứt để làm dụng cụ của Sa-tan. Nó dụ dỗ A-đam và Ê-va không vâng lời Ðấng Tạo Hóa của họ. Việc khủng khiếp đã xảy ra. Tấm vải liệm của tội lỗi, tối tăm, làm lụng khó nhọc, đau đớn và sự chết phủ trên một thế giới mà Ðức Chúa Trời đã làm nên rất đẹp đẽ và "rất tốt lành" (1:31). Không vâng lời Chúa, nên sanh ra tội lỗi và sự chết.

 

Tại sao Ðức Chúa Trời làm nên người có thể phạm tội?

Ðức Chúa Trời há có thể dựng nên người một cách khác, trừ ra làm họ như một cái máy, hoặc như con vật chỉ do trực giác sai khiến? Há có thể có một loài thọ tạo có ý niệm đạo đức mà lại không có quyền lựa chọn sao? Tự Do là điều Ðức Chúa Trời phú bẩm cho loài người: Tự do tư tưởng, tự do lựa chọn, tự do tín ngưỡng, -- mặc dầu loài người dùng sự tự do ấy để chối bỏ và không vâng lời Ðức Chúa Trời mình.

Trong một tai nạn xe lửa kia, người thợ máy đáng lẽ có thể nhảy ra ngoài để cứu mạng mình, nhưng đã ở nguyên tại chỗ, thi hành phận sự, do đó, ông cứu được hành khách, nhưng lại bỏ mạng. Họ bèn dựng đài kỷ niệm, chẳng phải cho đoàn xe lửa, vì nó chỉ làm việc máy móc buộc nó phải làm, nhưng cho người thợ máy, vì ông đã tự ý lựa chọn mà liều mình để cứu hành khách. Sự vâng lời Ðức Chúa Trời sẽ có giá trị gì nếu trong bổn tánh ta không có một ý hướng làm trái lại? Nhưng nếu ta vâng lời Ðức Chúa Trời bởi tự ý lựa chọn và bởi chống lại sự xui giục mạnh mẽ của bổn tánh mình, thì sự vâng lời đó mới là do tâm tình cương nghị.

Nhưng Ðức Chúa Trời há chẳng biết trước rằng loài người sẽ phạm tội sao?

Có chớ, và Ngài cũng biết trước những hậu quả khủng khiếp, tối hậu nữa. Chúng ta chịu đau khổ quá, và nhiều lần tự hỏi tại sao Ðức Chúa Trời lại tạo nên một thế giới như vậy? Nhưng ngày kia, khi mọi sự đã tới chỗ thực hiện chung kết, thì sự đau đớn của ta sẽ hết, ta chẳng còn ngạc nhiên nữa, và cùng với những người được cứu chuộc của mọi thời đại, chúng ta sẽ hòa tiếng hát: "A-lê-lu-gia!" vô tận để ngợi khen Ðức Chúa Trời vì Ngài đã dựng nên chúng ta như vậy đó, và vì Ngài cứ dắt dẫn ta đến sự sống, vui mừng, vinh hiển trong cõi đời đời vô tận (Khải Huyền 19:1-8).

 

Ảnh hưởng của tội lỗi trên cõi thiên nhiên

Ðây, trong những trang đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy lời giải thích khởi thủy về cõi thiên nhiên đúng như tình trạng của nó ngày nay: Người ta thường ghét loài rắn (3:14, 15); đờn bà đau đớn khi sanh con (3:15); trái đất tự nhiên sanh nhiều loài cỏ vô ích, còn cây cỏ dùng làm lương thực thì phải trồng trọt rất khó nhọc (3:17-19); cũng có lời giải thích khởi thủy về căn nguyên ngày yên nghỉ (2:2, 3), căn nguyên của hôn nhơn (2:24), và có dự ngôn về Ðấng Christ trong "dòng dõi người nữ" (3:15) và trong tế lễ chuộc tội (4:4).

 

"Dòng dõi người nữ" (câu 15)

Ðây, ngay sau khi loài người sa ngã, Ðức Chúa Trời ban lời tiên tri và quyết chắc rằng nhờ "dòng dõi người nữ," sự dựng nên loài người sẽ còn được chứng tỏ là thành công mỹ mãn. Ðó là lời đầu tiên trong Kinh Thánh ngụ ý nói tới Ðấng Cứu Chuộc hầu đến. Chữ "người(1)" ở câu 15 tỏ ra rằng chỉ nói đến một người thôi. Chỉ có một người dòng dõi của Ê-va do người nữ sanh ra, chớ không do người nam. Ðây, ngay đầu truyện tích Kinh Thánh, đã có dự ngôn nguyên thủy về Ðấng Christ; rồi lần qua các trang, những lời ngụ ý, dự ngôn, hình ảnh mập mờ, hình bóng và những lời tuyên bố tỏ tường càng lâu càng rõ, càng nhiều, đến nỗi khi chấm hết Cựu Ước, thì đã có một bức tranh khá đầy đủ của Ðấng Christ.

 

"Mẹ của cả loài người" (câu 20)

Ơn cứu chuộc bởi Ðấng Christ căn cứ trên sự duy nhứt của loài người. Tội lỗi của một người đã gây nên sự chết, và sự chết của một Người đã đem lại ơn cứu chuộc khỏi tội lỗi (Rô-ma 5:12-19).

 

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Truyền thoại của xứ Ba-by-lôn về loài người sa ngã

Những bi văn thượng cổ của xứ Ba-by-lôn nói nhiều đến "cây sự sống" và loài người đã bị đuổi xa cây ấy do ảnh hưởng của một tà thần mượn hình con rắn; và những chê-ru-bin đứng canh giữ đã ngăn cản không cho loài người trở về bên cây ấy.

Trong số những tấm bảng nầy có truyện tích "Adapa," giống hệt như truyện tích A-đam trong Kinh Thánh, đến nỗi "Adapa" được gọi là A-đam của xứ Ba-by-lôn: "Adapa, dòng dõi của loài người, vốn là kẻ khôn ngoan ở Eridu, và không chỗ trách được. Song ông đã làm mếch lòng các thần bởi sự hiểu biết của mình, nên rồi phải chết, không được ăn thực phẩm sanh mạng. Ông làm cho ai nấy bị bịnh tật. Các thần nói rằng ông sẽ không được yên nghỉ, và mặc áo tang cho ông." (Xem sách "Monuments and the Old Testament" của Price).

Có hai cái ấn thời cổ dường như vẽ đúng bức tranh mà sách Sáng thế ký đã mô tả bằng lời.

Ấn "Cám dỗ" tìm được giữa các tấm bảng thượng cổ của xứ Ba-by-lôn và hiện nay đặt ở Anh quốc Bảo tàng viện, dường như liên quan rõ ràng với truyện tích Vườn Ê-đen. Chính giữa có một cái cây, bên hữu có người nam; bên tả có người nữ đang hái trái, đằng sau người nữ có con rắn đứng thẳng, dường như đang nói thầm với bà.

Ấn "A-đam và Ê-va" do Tấn sĩ E.A. Speiser, thuộc Bảo tàng viện của Ðại học đường Pennsylvania, tìm thấy năm 1932, gần chơn gò nỗng Tepe Gawra, cách thành Ni-ni-ve 12 dặm về phía Bắc. Ông cho rằng ấn nầy có từ năm 3500 T.C., và nó "nhắc lại rõ ràng truyện tích A-đam và Ê-va: " Một người nam lõa thể và một người nữ lõa thể, bước đi dường như hoàn toàn thất vọng, có con rắn theo sau. Ấn nầy có đường kính chừng 2 phân rưỡi, và khắc trên đá. Hiện nay nó đặt tại Bảo tàng viện của Ðại học đường Philadelphia.

Sự quan trọng của những bi văn thương cổ nầy. -- Những tài liệu cổ nầy, ghi trên đá và đất sét chính lúc khởi đầu lịch sử, tại nơi phát tích của loài người, được bảo tồn dưới bụi đất của các thời đại, và rốt lại bây giờ được cái cuốc của nhà khảo cổ đem ra ánh sáng, chính là bằng cớ hiển nhiên rằng các nét chính của truyện tích A-đam trong Kinh Thánh đã in sâu vào tư tưởng của người thượng cổ.

 

Các truyền thoại khác về sự sa ngã của loài người

Ba-tư: Tổ tông chúng ta vốn hồn nhiên, đức hạnh, sung sướng, ở trong một cái vườn, tại đó có cây trường sanh bất tử, cho đến khi một ác thần mượn hình con rắn hiện ra. Có lẽ họ nhận được truyền thoại nầy nơi Gia-phết, cũng như dân Hê-bơ-rơ đã nhận được truyền thoại của mình nơi Sem.

Ấn Ðộ: Trong thời đại đầu tiên, loài người không có tội ác, tật bịnh, muốn chi được nấy, và sống lâu.

Hi-lạp: Trong hoàng kim thời đại, những người đầu tiên trần truồng, không có tội ác và khổ nạn, được thông công không dứt với các thần, và đất tự nhiên sanh bông trái.

Trung Hoa: Có truyền thoại về một thời kỳ hạnh phước, khi ấy người ta có đồ ăn dư dật, và chung quanh có những thú vật sống hòa bình.

Mông CổTây Tạng: Cũng có những truyền thoại tương tự.

Teutons (Ðức quốc thời xưa): Loài người nguyên thủy hưởng cuộc đời yến tiệc không dứt.

Hết thảy chủng tộc dã man: Có truyền thoại về một tình trạng văn minh hơn.

Chắc hẳn A-đam đã kể lại truyện tích nguyên thủy của vườn Ê-đen cho Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la kể lại cho Nô-ê, Nô-ê kể lại cho các con trai mình; rồi trong các nền văn hóa quốc gia, truyện tích nầy đã biến đổi nhiều cách và thô lậu. Những truyền thoại nầy há chẳng làm chứng về một thực sự căn bản nguyên thủy sao?

 

Ðoạn 4 -- Ca-in và A-bên

Giả định rằng khi A-đam và Ê-va mới được dựng nên, đã thành nhơn rồi, thì lúc giết A-bên, chắc Ca-in chừng 129 tuổi; vì sau đó ít lâu, Sết đã sanh ra, và lúc ấy A-đam đã 130 tuổi (5:3).

Tế lễ của A-bên (4:4) được Ðức Chúa Trời tiếp nhận vì ông là người công bình (I Giăng 3:12), và vì ông dâng lên bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:4). Khi tội lỗi xen vào, thì dường như Ðức Chúa Trời đã truyền lịnh dâng tế lễ như vậy. Dường như đó là một thứ hình bóng nguyên thủy về Ðấng Christ chịu chết để đền tội loài người.

Vợ của Ca-in (4:17) chắc là em gái của ông, vì Ê-va là "mẹ của loài người" (3:20). A-đam có nhiều con trai,con gái mà Kinh Thánh không kể tên (5:4). Theo truyền thoại, thì ông sanh 33 con trai và 27 con gái.

Như vậy, Ca-in phải sợ ai? (4:14). Trong khoảng 130 năm từ khi A-đam được dựng nên cho đến khi A-bên bị giết, nhiều thế hệ đã sanh ra, và tổng số loài người có lẽ đã lên tới mấy ngàn người.

Dấu trên mình Ca-in (4:15). Bất cứ dấu nầy là gì, người ta chắc đã hiểu nghĩa của nó. Ðó chắc là căn nguyên của chữ viết; dấu hình dung một ý tưởng, và chẳng bao lâu, đã có nhiều dấu khác nhau cho nhiều ý tưởng khác nhau.

Thành của Ca-in (4:17) ở một nơi nào đó về phía Ðông vườn Ê-đen, có lẽ chỉ là một làng gồm những túp lều thô sơ, có vách phòng vệ chung quanh, dùng làm trụ sở cho con cháu ông đã bị từ bỏ.

Chủ nghĩa đa thê (4:19) chẳng bao lâu đã tiếp theo tội sát nhơn, trong gia đình Ca-in. Lúc khởi đầu, Ðức Chúa Trời đã truyền lịnh rằng một người nam sống chung với một người nữ trong cuộc hôn nhơn (2:24). Nhưng chẳng bao lâu, người nam đã sắp đặt cách khác.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Sự sử dụng kim khí trong thời thượng cổ

Khi A-đam còn sống, con cháu ông đã học tập dùng đồng, sắt và chế ra nhạc cụ (câu 21, 22).

Cách đây ít lâu, người ta cứ tưởng rằng nhơn loại không biết dùng sắt trước thế kỷ thứ 12. Những danh từ mà nhà sử học đã khảo cổ học đã dùng để chỉ các bước tấn bộ liên tiếp của nền văn mình là;

Cổ thạch khí thời đại: Dùng những viên đá không mài giũa ra hình chi hết.

Tân thạch khí thời đại: Dùng đá, xương và gỗ có mài giũa ra hình.

Giữa đồng khí và tân thạch khí thời đại: Chuyển từ dùng đá qua dùng kim khí.

Thanh đồng thời đại: 2500-1200 T.C..

 

Thời đại đồ sắt: Từ năm 1200 T.C. trở đi.

Năm 1933, Tấn sĩ H.E. FRANKFORT, thuộc Viện Ðông phương, đã tìm được trong di tích của thành Asmar, cách Ba-by-lôn chừng 100 dặm về phía Ðông Bắc, một lưỡi dao làm khoảng 2700 năm T.C.; như vậy, đã đẩy lui sự biết dùng sắt tới 1500 năm.

Những bi văn thượng cổ đã tỏ ra rằng xứ Ba-by-lôn chẳng hề có người không quen dùng kim khí ở đó. Ðã tìm thấy dụng cụ bằng đồng trong di tích của một số đô thị trước nạn nước lụt (xem mục: "Ðoạn 5, sách Sáng thế ký."

Giác trụ của Weld ghi tên 10 vị vua trường thọ đã trị vì trước nạn lụt, có nói rằng các vua thứ 3, 5 và 6 trị vì tại một thành tên là "Badgurgurru." Tên nầy nghĩa là "đô thị của những thợ đồng đỏ." Có lẽ đó là một truyền thoại về thành của Ca-in (4:17).

 

"Sách chép dòng dõi của A-đam" (5:1 đến 6:8)

Ðây là tài liệu thứ ba trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Nó chuyển đưa truyện tích tới năm thứ 500 của đời Nô-ê (5:32). Có lẽ tài liệu nầy do A-đam thuật lại đầu tiên, do Hê-nóc và Mê-tu-sê-la tiếp tục, rồi do Nô-ê kết thúc. Có lẽ Nô-ê đã ghi tài liệu nầy và hai tài liệu trước trên những tấm bảng đất sét, rồi đem chôn tại Sippar theo như truyền thoại. Có lẽ ông cũng sao lại những tấm bảng nầy và đem vào tàu.

 

Ðoạn 5 -- Gia hệ từ A-đam tới Nô-ê

Tuổi thọ của các ông nầy ghi như sau đây: A-đam, 930 tuổi; Sết, 912 tuổi; Ê-nót, 905 tuổi; Kê-nan, 910 tuổi; Ma-ha-la-le, 895 tuổi; Giê-rệt, 962 tuổi; Hê-nóc, 365 tuổi; Mê-tu-sê-la, 969 tuổi; Lê-méc, 777 tuổi; Nô-ê, 950 tuổi.

Người ta thường giải thích tuổi thượng thọ của các ông nầy, dựa vào lý thuyết rằng tội lỗi chỉ mới bắt đầu có ảnh hưởng độc hại trên loài người vốn phát sanh từ một bổn chất nguyên thủy là bất tử. Có người tưởng đây là tên của những thời kỳ triều đại, chớ chẳng phải của những cá nhơn. Có người lại tưởng rằng trong thời kỳ đó, một tháng được kể là một năm. Các nhà phê bình kim thời tự nhiên cho đó là thần thoại.

Những số tuổi trong đoạn nầy cùng với đoạn 6, câu 3, tỏ ra có 1656 năm giữa sự dựng nên loài người và nạn nước lụt. Có người nghĩ rằng vì gia phổ nầy và gia phổ ở đoạn 11, mỗi cái chỉ có 10 đời, nên có lẽ đã bị rút ngắn, cũng như gia phổ Ðức Chúa Jêsus ở sách Ma-thi-ơ, đoạn 1, vậy. Song mấy chữ dùng luôn, là: "tuổi, ... sanh, ... hưởng thọ," chống lại lý thuyết nầy.

 

Hê-nóc (câu 21-24)

Ông là người tốt hơn hết cả. Trong một xã hội gian ác khôn tả xiết, ông đã "đồng đi cùng Ðức Chúa Trời." Ông sanh 622 năm sau khi A-đam được dựng nên, nên đã cùng sống với A-đam 308 năm. "Ðức Chúa Trời tiếp ông đi" 69 năm trước khi Nô-ê sanh ra, lúc ông mới có 365 tuổi.

Cũng có một người nữa, là Ê-li, được biến hóa như vậy, không phải chết (II Các vua 2). Có lẽ Hê-nóc và Ê-li được Ðức Chúa Trời chỉ định để nêu lên trước cái số phận hạnh phước của các thánh đồ còn ở trong xác thịt khi Chúa tái lâm (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17).

Người Ả-rập có một thần thoại rằng Hê-nóc đã đặt ra chữ viết. Tân Ước có nhắc đến một lời tiên tri của Hê-nóc (Giu-đe 14).

 

Mê-tu-sê-la (câu 25-27)

Ông sống lâu nhứt trong số 10 người nầy, đã hưởng thọ 969 tuổi, và là con trai của Hê-nóc. Ông đồng sống với A-đam 243 năm và với Sem 98 năm: như vậy, ông là cái vòng nối liền vườn Ê-đen với thế giới trước nạn nước lụt. Ông qua đời chính năm xảy ra nạn nước lụt.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Sự trường thọ trong thời kỳ nguyên thủy

Berosus, một sử gia Ba-by-lôn, khoảng 300 T.C., đã căn cứ vào các tài liệu trong miễu thờ Marduk mà chép sử; ông sao lục những bi văn thượng cổ mà phần nhiều đã tìm thấy, rồi kể ra 10 vua trường thọ đã trị vì trước nạn nước lụt, -- mỗi vua trị vì từ 10 ngàn tới 60 ngàn năm. Tên các vua ấy là: Aloros, Alaparos, Amelon Ammenon, Megalaros, Daonos, Eudorachos, Amenpsinos, Otiartes, và Xisuthros. Berosus nói rằng: "Nạn Ðại hồng thủy xảy ra đương thời Xisuthros."

Giác trụ của Weld và các bi văn ở Nippur cũng phù hợp với Berosus về mỗi đời trị vì lâu tới hàng vạn năm, nhưng lại kể tên các vua trước nạn nước lụt như sau đây:

 

Alulim                       trị vì tại Eridu         28.000   năm

Alalmar                     trị vì tại Eridu         36.000   năm

Emenluanna               trị vì tại Badgurgurru 43.000 năm

Kichunna                   trị vì tại Larsa         43.000   năm

Enmangalanna            trị vì tại Badgurgurru 28.000 năm

Dumuzi                      trị vì tại Badgurgurru 36.000 năm

Sibzianna                   trị vì tại Larak         28.000   năm

Emenduranna             trị vì tại Sippar        21.000   năm

Uburratum                 trị vì tại Shuruppak 18.000   năm

Zinsuddu (Utnapishtim)            trị vì tại Shuruppak   64.000        năm

"Rồi nước lụt phá hoại mặt đất."

Ðó chắc cũng là những vua mà Berosus đã ghi chép, song sau khi tiếng nói lộn xộn tại Ba-bên, thì tên đã kêu khác đi. Những tấm bảng ghi các tên nầy đã viết sau khi thời kỳ lịch sử bắt đầu. Khi nói về những thời kỳ tiền sử, dường như người đời xưa cũng bị cám dỗ như người đời nay, -- ấy là tăng gia quá đáng số năm của thế giới nguyên thủy.

Ngoài người Ba-by-lôn ra, người Ba-tư, Ai-cập, Ấn-độ, Hy-lạp và nhiều dân khác cũng có truyền thoại về những người thượng cổ trên mặt đất sống rất lâu. Các truyền thoại ấy từ đâu mà có, nếu chẳng phải là vì những người thượng cổ thật đã sống lâu?

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Ðào bới tại các đô thị trước nạn nước lụt

Người ta đã xác định được những đô thị ghi trên đây là nơi trị vì của các vua trước nạn nước lụt, trừ ra Badgurgurru. Cuộc đào bới di tích của những đô thị nầy và của nhiều đô thị khác trước nạn nước lụt, đã đem ra ánh sáng nhiều đặc điểm của sự sanh hoạt trước nạn nước lụt và đã cho ta thấy thế giới của những đoạn đầu sách Sáng thế ký là xác thực.

Trong số các đô thị trước nạn nước lụt mà người ta đào bới lên có: Eridu, 'Obeid, Ê-rết (Sáng thế ký 10:10), Sura, Tepe, Gawra, U-rơ, Kish, Fara (Shuruppak), Sippar (A-cát -- Sáng thế ký 10:10), Larsa, Jemdet Nasr. Nhờ di tích của những đô thị nầy, các nhà khảo cổ đã tiến đến gần sát khởi điểm đời sống định cư tại xứ Ba-by-lôn.

Trong số di vật của những dân tộc trước nạn nước lụt mà người ta tìm thấy ở các đóng hoang tàn nầy, có đồ gốm tô màu; đồ dùng bằng đá lửa; đồ dùng bằng hắc diệu thạch (obsidienne); bình bằng lam ngọc; rìu bằng đồng; gương soi bằng đồng; cuốc; lưỡi liềm; các thứ đồ dùng bằng đá, đá lửa, đá thạch anh; lưỡi câu; các kiểu thuyền; một lò nung ở dưới đất; nhiều mẫu đồ gốm hóa thành pha-lê tuyệt đẹp; thuốc mà phụ nữ thời tiền sử dùng để kẻ lông mày và mí mắt; di tích bằng gạch của các miễu thờ, -- gạch nầy tô màu đỏ hoặc trát hồ; đồ gốm có vẽ hình màu rất đẹp, như mẫu kỷ hà học phức tạp, chim, một cái xe ngựa; và những công trình kiến trúc chứng tỏ "một nền văn minh tấn bộ lạ lùng."

 

Ðoạn 6:1-8 -- Tội ác thời trước nạn nước lụt

"Các con trai của Ðức Chúa Trời" (6:2)

Người ta tưởng rằng các con trai nầy hoặc là thiên sứ sa ngã mà thơ II Phi-e-rơ 2:4 và Giu-đe 6 có nói đến, hoặc là những thủ lãnh trong gia tộc Sết đã cưới gả lẫn lộn với dòng dõi Ca-in không kính thờ Ðức Chúa Trời. Những cuộc hôn nhơn trái lẽ thường nầy, bất cứ là thể nào, cũng đã làm cho trái đất đầy dẫy bại hoại và hung bạo.

Ðức Chúa Jêsus kể nạn nước lụt là một thực sự lịch sử, và Ngài đã ví sánh ngày tái lâm của Ngài với thời kỳ Nô-ê (Ma-thi-ơ 24:27-29). Những việc đang xảy ra trên thế giới ngày nay khiến chúng ta tự hỏi phải chăng chính lúc nầy, thời kỳ Nô-ê có thể tái diễn?

Số "120 năm" ở 6:3 dường như chỉ về khoảng triển hạn nạn nước lụt. Hoặc nó cũng có nghĩa là đời người bị rút ngắn, chớ không lâu dài như có chép ở đoạn 5 nữa.

"Dòng dõi của Nô-ê" (6:9 đến 9:28)

Ðây là tài liệu thứ tư trong số các tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Tài liệu nầy gồm truyện tích nạn nước lụt mà Nô-ê đã thuật và có lẽ cũng đã ghi chép, rồi do Sem truyền lại cho Áp-ra-ham.

 

Ðoạn 6:9-18 -- Nô-ê và chiếc tàu

Chiếc tàu dài chừng 140 thước tây, rộng chừng 23 thước tây, và cao chừng 14 thước tây. Nó có ba từng, chia làm nhiều phòng, và có cửa sổ chung quanh mái. Có người tính rằng tàu chở nặng được chừng 40 ngàn tấn. Nó lớn bằng những chiếc tàu vượt biển ngày nay. Loài người vốn sống trên bờ một con sông lớn, nên đóng tàu là một trong những công tác đầu tiên của họ. Những tấm bảng chữ tiết hình tỏ ra rằng lúc khởi đầu lịch sử, dân xứ Ba-by-lôn chuyên du hành trên sông và biển. Theo truyền thoại của xứ Ba-by-lôn, thì Nô-ê ở tại Fara, trên sông Ơ-phơ-rát, cách vị trí vườn Ê-đen chừng 70 dặm về phía Tây bắc. Vậy, từ khi còn thơ ấu, Nô-ê chắc đã thông thạo việc đóng tàu và du hành trên sông.

 

Ðoạn 6:19 đến 7:5 -- Các thú vật

Ðoạn 6:19-21 và 7:2 chép rằng phải đem vào tàu bảy cặp của mỗi loại thú vật tinh sạch, còn những thú vật khác thì mỗi loài chỉ đem vào một cặp thôi. Có người tính rằng trong tàu có đủ chỗ cho 7000 loài thú vật. Khi tập hợp thú vật, chắc họ đã lựa chọn những con còn non. Vả, người ta cũng nói rằng thường khi thú dữ cảm thấy trước một tai họa sắp xảy ra, và trở nên hiền lành.

Ðóng tàu, tập hợp thú vật và tích trữ lương thực, thật là một công việc lớn lao! Nô-ê và ba con trai ông không thể làm việc ấy một mình. Ông là cháu nội của của Mê-tu-sê-la và chắc nội của Hê-nóc, nên theo truyền thoại xứ Ba-by-lôn, ông có thể làm vua một thành và dùng hàng ngàn người làm công việc ấy. Có lẽ ông đã dành phần lớn 120 năm kia để làm việc ấy. Chắc ông bị chúng chế giễu luôn, nhưng cứ mạnh mẽ trong đức tin (II Phi-e-rơ 2:5; Hê-bơ-rơ 11:7).

 

Ðoạn 7:6 đến 8:19 -- Nước lụt

"Các nguồn của vực lớn nổ ra, và các đập trên trời mở xuống" (7:11). Thung lũng sông Ơ-phơ-rát hầu như có thể gọi là eo đất của đông bán cầu, tại đó Ðịa Trung Hải và Ấn Ðộ dương đến gần nhau, và gần chia Phi Châu ở phía Nam với Âu Châu và Á Châu ở phía Bắc. Xứ ạc-mê-ni có nhiều núi non gần giống như một quần đảo, có biển Caspienne, Hắc Hải ở phía Bắc, Ðịa Trung Hải ở phía Tây, vịnh Ba Tư và Ấn Ðộ dương ở phía Nam. Nếu một đại tai biến làm cho đất vùng nầy sụt xuống, thì nước bèn từ các biển trên đây tràn vào, cũng như mưa từ trời đổ xuống.

 

Phạm vi của nước lụt

"Hết thảy những ngọn núi cao ở dưới trời đều bị ngập... Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết ngột" (7:19, 21). Chắc đây là chính lời Sem đã dùng để thuật lại hoặc viết ra truyện tích nước lụt cho các con và cháu biết. Ông thuật theo điều mắt mình thấy. Chúng ta phải giải thích lời ông theo môn địa dư riêng của ông, hay là theo môn địa dư kim thời? Cả loài người bị tiêu diệt, trừ ra Nô-ê và gia đình ông. Muốn tiêu diệt loài người, nước lụt chỉ cần bao phủ miền đất có người ở. Nếu ta nhìn nhận truyện tích Kinh Thánh, thì chỉ có Mười thế hệ kể từ A-đam, là người thứ nhứt. Vậy, Một gia đình, trong Mười thế hệ, với những phương tiện du lịch thượng cổ, sao hay ở khắp mặt đất được? Có lẽ lắm, loài người chưa tràn ra xa hơn lưu vực sông Ơ-phơ-rát. Tuy nhiên, có người tưởng nước lụt thật đã bao phủ cả địa cầu mà ta được biết ngày nay, tức là địa cầu mà bề mặt trải qua cuộc biến cải lớn lao sau chót lúc chấm hết thời kỳ băng giá.

Bản đồ số 21

 

Thời gian ở trong tàu

Nô-ê vào tàu 7 ngày trước khi trời bắt đầu mưa (7:4, 10). Trời bắt đầu mưa ngày 17, tháng 2, năm thứ 600 của đời Nô-ê (7:11). Mưa sa trọn 40 ngày, đêm (7:12). Nước bao phủ mặt đất 150 ngày (7:24; 8:3). Ngày 17, tháng 7, tàu tấp xuống. Ngày 1, tháng 10, chót núi lộ ra, mắt thấy được (8:5). Giở mui tàu ngày 1, tháng giêng, năm 601 của đời Nô-ê (8:13). Ra khỏi tàu ngày 27, tháng 2 (8:14-19). Ở trong tàu nổi trên nước 1 năm, 17 ngày; ở trong tàu tấp trên núi 7 tháng.

 

Núi A-ra-rát

Sau khi trôi giạt xa nơi đã đóng chừng 500 dặm, tàu bèn tấp xuống một đỉnh trong dãy núi xứ ạc-mê-ni, gọi là A-ra-rát, cách Ni-ni-ve 200 dặm về phía Bắc. Núi A-ra-rát cao chừng 5100 thước. Dưới chơn núi có đô thị tên là Naxuana, hoặc Nakhichevan, và người ta tưởng phần mộ Nô-ê ở đây, vì tên nầy nghĩa là: "Nô-ê định cư tại đây."

 

Ðoạn 8:20 đến 9:17 -- Cái mống

Nếu theo như một vài nhà địa chất học suy tưởng, đã có nhiều lần nước lụt trước nạn Ðại hồng thủy nầy vì cớ mặt đất thường bị biến cải, thì với một khí hậu nóng hơn sanh ra mật độ ẩm ướt trong bầu không khí, sự thay đổi địa chất lớn lao nầy có thể kết quả làm cho khí trời trong trẻo hơn, thấy rõ cái mống được. Ðức Chúa Trời đã chỉ định cái mống làm dấu hiệu cho giao ước Ngài lập với loài người rằng sẽ không có nạn nước lụt như vậy nữa (9:8-17). Sau nầy trái đất sẽ bị hủy diệt bằng lửa (II Phi-e-rơ 3:7).

 

Ðoạn 9:18-28 -- Lời tiên tri của Nô-ê (9:25-27)

Dòng dõi của Cham sẽ là những chủng tộc tôi tớ; dòng dõi của Sem sẽ bảo tồn sự hiểu biết Ðức Chúa Trời chơn thật; các chủng tộc Gia-phết sẽ có phần rộng lớn nhất của thế giới, và sẽ thay thế các chủng tộc Sem để giảng dạy về Ðức Chúa Trời. Lời tiên tri nầy được ứng nghiệm khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm xứ Ca-na-an, người Hy-lạp chiếm thành Si-đôn, và người La-mã chiếm xứ Carthage. Từ đó tới nay, các chủng tộc Gia-phết làm bá chủ thế giới và trở lại tin thờ Ðức Chúa Trời của Sem; còn các chủng tộc Sem đã chiếm một địa vị tương đối không quan trọng, và các chủng tộc Cham ở địa vị tôi tớ. Thật là một lời tiên tri lạ lùng về lịch sử!

 

Phúc trình tìm được chiếc tàu Nô-ê

Trong một số ấn phẩm có báo cáo rằng ngay trước cuộc cách mạng Bôn-sơ-vích, một nhóm phi công Nga quả quyết rằng đã thấy sườn chiếc tàu lớn ở trên băng hà đông đặc của núi A-ra-rát, không sao tới gần được. Họ đã phúc trình sự khám phá ấy với chánh phủ Nga. Liền đó, Nga Hoàng cử một phái đoàn đi; họ tìm thấy chiếc tàu, bèn đo, vẽ và chụp hình. Chính lúc đó, chánh phủ của Nga Hoàng bị phe Bôn-sơ-vích vô thần lật đổ, và những bản phúc trình ấy không hề được công bố. Chúng ta hãy hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ có cuộc điều tra về chiếc tàu Nô-ê.

 

Truyền thoại của xứ Ba-by-lôn về nạn nước lụt

Theo như Berosus kể lại (300 năm T.C.), các tài liệu lưu trữ trong miễu thờ Marduk, ở thành Ba-by-lôn, có ghi nhắc truyện tích nầy. Một vua, tên là Xisuthros, đã được một thần cảnh cáo phải đóng tàu, đem bạn hữu, bà con, mọi loài thú vật vào đó, cùng đủ thứ lương thực cần thiết. Liền đó, vua nầy đóng một chiếc tàu rất lớn, trên cạn xứ ạc-mê-ni. Khi nước lụt rút rồi, vua thả nhiều chim ra; đến lần thứ ba, chúng không trở lại nữa. Vua bèn ra khỏi tàu, dựng một bàn thờ và dâng tế lễ. Một bản cũ hơn của truyền thoại nầy có ghi trên những Tấm Bảng Nước Lụt mà George Smith tìm được năm 1872 tại Ni-ni-ve.

 

Những truyền thoại khác

Người Ai-cập có một truyền thoại rằng có lần các thần đã tẩy uế trái đất bằng một Ðại hồng thủy, chỉ có mấy người chăn chiên chạy lên núi thoát nạn.

Truyền thoại Hy-lạp: Deucalion được cảnh cáo rằng các thần sắp làm nước lụt trên trái đất vì cớ sự gian ác gớm ghê của nó. Ông bèn đóng một chiếc tàu, và tàu tấp trên núi Parnassus. Ông thả một con bò câu ra hai lần.

Truyền thoại Ấn-độ: Manu được cảnh cáo, bèn đóng một chiếc tàu, nhờ đó một mình ông thoát nạn nước lụt tiêu diệt muôn loài.

Truyền thoại Trung Hoa: Truyện kể rằng Fa-He, người sáng lập nền văn minh Trung Hoa, đã cùng vợ, ba con trai và ba con gái thoát nạn nước lụt xảy ra vì cớ loài người đã dấy nghịch cùng Thượng Ðế.

Truyền thoại nước Anh: Các tế sư (Druides) kể một thần thoại rằng thế giới lại có dân ở là do một tộc trưởng công bình, đạo đức đã nhờ ở trong chiếc tàu lớn mới thoát khỏi nạn nước lụt của Ðấng Chí Cao làm ra để hủy diệt loài người gian ác.

Dân miền Polynésie: (Úc Châu): Có truyện tích về một nạn nước lụt, có 8 người nhờ chiếc xuồng mà thoát nạn.

Dân Mễ-tây-cơ: Một người cùng vợ con nhờ chiếc tàu mà được cứu khỏi nạn nước lụt bao phủ trái đất.

Dân Pérou: (Nam Mỹ Châu): Một người nam và một người nữ được cứu trong một cái thùng nổi trên nước lụt.

Người Da đỏ ở nước Mỹ: Có nhiều thần thoại, theo đó, 1, 3, hoặc 8 người đã được cứu trong chiếc tàu nổi trên nước ngập ngọn núi cao.

Ðảo Greenland: Có lần trái đất nghiêng đi, mọi người chết đuối, trừ ra một người nam và một người nữ; về sau, họ lại sanh ra người trên mặt đất. Xin xem quyển "International Standard Bible Encyclopaedia."

 

Truyền thoại phổ thông

Người Ba-by-lôn, A-si-ri, Ai-cập, Ba-tư, Ấn-độ, Hy-lạp, Trung-hoa, người xứ Phrygie, dân đảo Fiji, người Esquimaux, thổ dân Mỹ-châu, người Da-đỏ, người Ba-tây, dân xứ Pérou, và mọi nhánh của toàn thể loài người (Sémitique, Aryen, Turanien) đều có những truyền thoại về một Ðại-hồng thủy tiêu diệt cả loài người, trừ ra một gia đình. Những truyền thoại nầy in sâu vào trí nhớ của tổ tiên mọi chủng tộc đó trước khi họ phân rẽ nhau. "Ta chỉ có thể hiểu những thần thoại nầy nếu giả định rằng một biến cố như vậy thật đã xảy ra. Một sự tin tưởng phổ thông dường ấy đã không phát sanh từ một yếu tố trực giác của bổn chất chúng ta, ắt phải căn cứ trên một thực sự lịch sử.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Những tấm bảng ghi chép nạn nước lụt

Năm 1872, ông George Smith, nhơn viên Anh quốc Bảo tàng viện, đã tìm thấy trên các tấm bảng lấy ở thơ viện Assurbanipal, tại Ni-ni-ve, những truyện tích về nạn nước lụt giống hệt truyện tích trong Kinh Thánh. Người ta đã sao lại những truyện tích nầy trên các tấm bảng có từ triều đại thứ nhứt của thành U-rơ, tức là thời gian giữa nạn nước lụt và đời Áp-ra-ham. Người ta đã tìm thấy nhiều tấm bảng đó, trên đó thường lặp lại mấy lời nầy: "Nước Lụt" -- "Thời kỳ trước nạn nước lụt" -- "Các bi văn của thời kỳ trước nạn nước lụt." Giác trụ bằng đất sét ghi tên 10 vua trường thọ trị vì trước nạn nước lụt, sau khi ghi tên vua thứ 10, có thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt phá hủy đất."

 

Nô-ê của xứ Ba-by-lôn thuật truyện tích nước lụt

Ðây là một phần của tài liệu gọi là: "Bản Anh hùng ca của Gilgamesh." Gilgamesh làm vua thứ 5 của triều đại Ê-rết, là một trong những triều đại đầu tiên sau nạn nước lụt. Bản anh hùng ca nầy tường thuật các cuộc phiêu lưu của ông; trong một cuộc phiêu lưu ấy, ông đã tới thăm hòn đảo là nơi cư trú của Utnaspishtim, Nô-ê của xứ Ba-by-lôn, để tìm kiếm bí quyết được sự sống đời đời mà ông tưởng Utnaspishtim biết rõ. Cuộc viếng thăm nầy được mô tả trên một cái ấn mới tìm thấy ít lâu nay tại Tell Billa, gần Ni-ni-ve. Trong lời giải đáp cho Gilgamesh, Utnaspishtim (Nô-ê) kể lại truyện tích nước lụt và mình đã thoát nạn thể nào. Truyện tích của ông được ghi trên nhiều tấm bảng và tấm bảng nầy có chi tiết khác tấm bảng kia. Ðại ý như sau đây: Hội nghị các thần quyết định làm nước lụt. Các thần nói rằng: "Nguyện tội lỗi của tội nhân đổ trên mình nó! Hỡi người ở Shuruppark, hãy đóng một chiếc tàu để cứu mạng ngươi! Hãy đóng tàu có 6 từng, mỗi từng có 7 phòng. Bên trong và bên ngoài phải trét nhựa lịch thanh. Hãy thả tàu xuống biển cả. Hãy đem vào mọi loài thú vật để làm giống." Tôi đã dùng mọi vật liệu mình có để đóng tàu. Tôi đem vào đó bạc, vàng, cùng mọi loài sanh vật mình có. Tôi cùng gia đình và bà con, họ hàng lên tàu. Tôi đóng cửa lại. Ðã tới giờ định. Tôi ngắm xem ngày ấy hiện ra, thật là khủng khiếp. Ánh sáng đổi ra tối tăm hết. Mưa sa dồn dập, bão tố gào thét, chẳng khác gì một trận tấn công loài người. Chiếc tàu rung rinh. Các thần khóc lóc. Tôi nhìn ra biển. Cả loài người biến thành đất sét, và giống như những khúc gỗ trôi giạt đó đây. Bão tố dứt, nước lụt đã hết, tàu tấp trên núi Nazir. Ngày thứ bảy, tôi thả một con bò câu ra, và nó quay về. Tôi thả một con chim yến ra, nó cũng quay về. Tôi thả một con quạ ra; nó đậu xuống, đi đi lại lại, kêu lên, mà không quay về. Tôi ra khỏi tàu và dâng một tế lễ. Các thần ngửi mùi thơm và nói rằng: "Sẽ không làm như vậy nữa." Lại rằng: "Trước kia, Utnaspishtim là một người; bây giờ hãy cho hắn được bất tử y như chúng ta, hãy cho hắn ở thật xa, nơi các cửa sông."

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống tại U-rơ

Dầu những truyền thoại về nạn nước lụt nầy pha lẫn chủ nghĩa đa thần và một phần truyện thần tiên rõ rệt, nhưng cũng tỏ ra rằng nạn nước lụt đã thành một sự thực in sâu trong trí nhớ của những người ở xứ Ba-by-lôn thời cổ. Ngày nay, cách đây mấy năm, người ta đã tìm thấy một lớp bùn, chắc do nạn nước lụt làm lắng xuống, tại ba chỗ: Tại U-rơ, cách vị trí (theo truyền thoại) của vườn Ê-đen 12 dặm; tại Fara, nơi cư trú (theo truyền thoại) của Nô-ê, cách 60 dặm nữa ngược dòng sông; và tại Kish, một vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, cách thêm 100 dặm nữa ngược dòng sông; có lẽ tại một chỗ thứ tư nữa, là thành Ni-ni-ve, phải đi 300 dặm nữa ngược dòng sông mới tới.

Năm 1929, tại U-rơ, nơi sanh trưởng của Áp-ra-ham, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện, dưới quyền điều khiển của Tấn sĩ C.L. Woolley, đã tìm thấy, gần chơn các gò nỗng U-rơ, bên dưới nhiều lớp chứng tỏ có loài người chiếm cứ, một vùng đất sét lớn và cứng, do nước lụt làm lắng xuống, dày chừng 2 thước rưỡi. Vùng đất sét nầy không có lẫn di vật của loài người, nhưng có di tích của một đô thị khác chôn vùi bên dưới. Tấn sĩ Woolley nói rằng 2 thước rưỡi đất lắng khiến ta hiểu rằng nước đã ở đó sâu lắm và lâu lắm; lại nữa, nước không thể tới đó do các dòng sông thường chảy, nhưng chỉ do một nạn nước lụt lớn lao như Kinh Thánh đã mô tả. Nền văn minh ở dưới lớp bùn do nước lụt làm lắng xuống đó khác hẳn nền văn minh ở trên lớp ấy, đến nỗi nó cho Tấn sĩ Woolley nhận thấy "dòng lịch sử đã thình lình có sự gián đoạn kinh khủng." (Xem sách "Ur of the Chaldees"(1) Của Woolley).

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Lớp do nạn nước lụt làm lắng xuống tại Kish

Kish (Ukheimer, El-Ohemer, Uhaimir) ở phía Ðông Ba-by-lôn, trên một khu lòng sông Ơ-phơ-rát hiện nay đã khô cạn. Theo các tấm bảng đã ghi, thì Kish là đô thị đầu tiên được xây dựng lại sau nạn nước lụt, trên chính vị trí cũ.

Bản đồ số 22

 

Năm 1928-1929, một phái đoàn hỗn hợp của Bảo tàng viện Field và Ðại học đường Oxford, do Tấn sĩ Stephen Langdon điều khiển, đã tìm thấy lớp đất sét sạch sẽ do nước làm lắng xuống, giữa những lớp dưới của di tích thành Kish. Lớp đất sét nầy dày 1 thước 60 phân, tỏ ra đã có nước lụt lớn lắm. Người ta thấy lớp đất sét do nước lụt làm lắng xuống ở ngay trên di tích của vách thành. Nó không chứa đồ vật bất cứ thuộc loại nào. Tấn sĩ Langdon bàn rằng có thể là nước lụt đã chép trong Kinh Thánh. Những di vật ở dưới lớp đất sét nầy bày tỏ một nền văn hóa khác hẳn. Trong số những di vật tìm thấy, có một chiếc xe ngựa bốn bánh, bánh xe làm bằng gỗ và đóng đinh đồng, cùng với các bộ xương của những thú vật kéo nó nằm giữa các càng xe. Xem sách "Field Museum Oxford University Expedition to Kish," của Henry Field, quyển 28.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Lớp do nước lụt làm lắng xuống tại Fara

Fara (Shuruppark, Sukkurru), nơi cư trú của ông Nô-ê xứ Ba-by-lôn, giữa đường Ba-by-lôn và U-rơ. Ngày xưa ở trên bờ sông Ơ-phơ-rát; ngày nay ở cách 40 dặm về phía Ðông. Ðây là một nhóm gò nỗng thấp, bị cát của sa mạc dồi dập. Năm 1931, Tấn sĩ Eric Schmidt, nhơn viên Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania, đã đào bới Fara. Ông tìm thấy di tích của ba đô thị: Ðô thị ở trên hết, đồng thời với triều đại thứ 3 tại U-rơ; đô thị ở giữa là của dân Sumériens thượng cổ; còn đô thị ở dưới cùng thuộc về thời kỳ trước nạn nước lụt.

Lớp do nước lụt làm lắng xuống ở giữa đô thị chính giữa và đô thị dưới cùng. Ðây là lớp bùn màu vàng, tức là cát trộn lẫn với đất sét; chắc chắn là phù sa do nước làm lắng xuống và đóng cứng lại. Không có di tích tỏ ra loài người đã cư trú. Dưới lớp do nước lụt làm lắng xuống còn có một lớp than và tro, những cái sót lại của một nền văn hóa đã biến ra màu sẫm, có lẽ là di tích của vách tường, đồ gốm tô màu, những bộ xương, ấn hình trụ, ấn dùng đóng dấu, nồi, chảo, bình, với một hình thái tỏ ra rằng dân chúng đã "vội vã dời khỏi nhà, bỏ lại hết tài sản." (Hãy xem "University Museum Journal," tháng 9, 1931).

Cũng tại Ni-ni-ve nữa chăng? Trong tạp chí "Annals of Archaeology and Anthropology," quyển XX, trang 134-35, ông Mallowan, quản đốc công cuộc đào bới của Anh quốc Bảo tàng viện tại Ni-ni-ve (1932-33), có mô tả việc đào một cái hầm tại Gò nỗng Lớn, từ đỉnh tới đất chưa khai phá chừng 81 thước tây. Ông tuyên bố rằng 63 thước trong số 81 thước đó gồm năm lớp cư trú tiền sử. Lại nữa, chừng nửa đường, giữa lớp thứ hai và lớp thứ ba tính từ dưới lên, có một lớp dày chừng 2 thước rưỡi, gồm những lớp bùn nhớt và cát sông liên tiếp nhau, có 13 ngấn đặc biệt. Theo ý kiến ông, nó tỏ ra đã có một loạt mùa mưa rất lớn. Ðồ gốm ở dưới lớp ướt và đồ gốm ở trên lớp ướt khác nhau rõ rệt. Ðó có phải là vật do Ðại hồng thủy làm lắng xuống chăng?

 

"Dòng dõi của ba con trai của Nô-ê" (10:1 đến 11:9)

Ðây là tài liệu thứ năm trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký, có lẽ do Sem soạn thảo rồi trao cho Áp-ra-ham; Sem đã sống từ 98 năm trước nạn nước lụt tới 150 năm sau khi Áp-ra-ham sanh ra (11:10).

 

Ðoạn 10 -- Các dân tộc dòng dõi của Nô-ê

Gia quyến Nô-ê ra khỏi tàu trên núi A-ra-rát, gần thượng lưu sông Ơ-phơ-rát. Rồi dường như họ đã di cư xuống xa 500 dặm về phía Ðông Nam, và định cư tại xứ Ba-by-lôn, là nơi họ cư trú trước nạn nước lụt. Rồi 100 năm sau, họ bị tan lạc vì cớ tiếng nói lộn xộn (10:25).

Bản đồ số 23 -- Nơi tàu Nô-ê tấp xuống

 

Dòng dõi của Gia-phết -- Các dân tộc ở phía Bắc (2-5)

Chi tộc Gia-phết đi về phía Bắc, định cư tại những miền chung quanh Hắc hải và biển Caspienne; họ trở thành tổ tiên các đại chủng tộc Caucasiennes ở Âu Châu và Á Châu. Người Hy-lạp có một truyền thoại rằng "lapetos" (Gia-phết?) là tổ tông loài người.

 

Dòng dõi của Cham -- Các dân tộc phía Nam (6-20)

Chi tộc Cham đi về phía Nam. Các tên chép đây dường như chỉ về nam bộ và trung bộ A-ra-bi, Ai-cập, bờ phía Ðông của Ðịa Trung Hải, và miền duyên hải phía Ðông Phi Châu. Ca-na-an, con trai của Cham, và dòng dõi người định cư tại xứ (họ lấy tên Ca-na-an đặt cho xứ nầy) sau nầy trở thành tổ quốc của dân Do-thái. Ai-cập vốn có tên là "Xứ của Cham". Có lẽ chính Cham đã dẫn đầu cuộc di cư qua Ai-cập. Tên "Khen," một vị thần Ai-cập, tương đương với chữ "Cham" trong tiếng Hê-bơ-rơ. Ai-cập cũng có tên là "Mizraim" (Mích-ra-im), tức là tên của con trai Cham. Nim-rốt là một người thuộc chi tộc Cham.

 

Dòng dõi của Sem -- Các dân tộc phía Trung (21-31)

Chi tộc Sem gồm người Do-thái, A-si-ri, Sy-ri, Ê-lam ở phần Bắc thung lũng sông Ơ-phơ-rát và phụ cận. "Giô-báp" ở câu 29 có lẽ là Gióp.

 

Nim-rốt (8-12)

Nim-rốt là vị lãnh tụ lừng danh nhứt trong khoảng 400 năm giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham. Ông là cháu nội của Cham (câu 8), và sanh ra ít lâu sau nạn nước lụt. Xét theo các tuổi ghi ở 11:10-16, thì có lẽ ông đã sống suốt cả thời kỳ nầy. Ông là một người rất mạo hiểm.

Ông nổi danh là "một tay thợ săn can đảm" (10:9); ấy có nghĩa là ông che chở nhơn dân trong một thời kỳ mà thú dữ luôn luôn gây mối đe dọa. Trên các ấn và di vật thượng cổ của xứ Ba-by-lôn thường có hình một vua đang chiến thắng con sư tử. Ðó có thể là một truyền thoại về Nim-rốt.

Vì có dục vọng kiểm soát loài người mau gia tăng và lan tràn, nên Nim-rốt dường như đã làm thủ lãnh công cuộc xây tháp Ba-bên (10:10; 11:9). Sau khi tiếng nói bị lộn xộn và dân chúng bị tan lạc, thì Nim-rốt lại bắt tay xây cất Ba-by-lôn. Ông cũng xây cất ba đô thị tiếp cận nữa, là Ê-rết, A-cát, Ca-ne (câu 10), và củng cố các đô thị ấy thành một nước dưới quyền trị vì của mình. Các đô thị và vương quốc thời ấy rất nhỏ, nhưng đó là khởi điểm của đế quốc chủ nghĩa.

Từ lâu, Ba-by-lôn được gọi là "Xứ sở của Nim-rốt." Về sau, Nim-rốt được tôn làm thần của Ba-by-lôn, và tên ông giống như tên "Mê-rô-đác" (xem Giê-rê-mi 50:2).

Nim-rốt còn có dục vọng kiểm soát chủng tộc ngày càng lan rộng, bèn đi thêm 300 dặm về phía Bắc, và lập thành Ni-ni-ve (dầu có một bản chép là Asshur) cùng ba đô thị tiếp cận, là Rê-hô-bô-ti, Ca-lách, Rê-sen (Sáng thế ký 10:11, 12). Miền nầy là nước phía Bắc của Nim-rốt. Trải qua nhiều thế kỷ về sau, hai thành Ba-by-lôn và Ni-ni-ve nầy, do Nim-rốt sáng lập, là những đô thị lớn nhứt thế giới. Có người cho rằng Nim-rốt chính là Gilgamesh, vua thứ năm của triều đại Ê-rết.

Các bi văn chữ tiết hình bày tỏ rằng Ni-ni-ve đã bị Ba-by-lôn chiếm làm thuộc địa; đó là khảo cổ học đã xác nhận sách Sáng thế ký (10:11).

 Bản đồ số 24 -- Căn nguyên của các dân tộc

 

Ðoạn 11 -- Từ nước lụt tới Áp-ra-ham

Tháp Ba-bên và tiếng nói lộn xộn (1-9)

Tiếng nói lộn xộn xảy ra nhằm thế hệ thứ tư sau nạn nước lụt, vào khoảng Bê-léc sanh ra (10:25); vả, Bê-léc sanh ra 101 năm sau nạn nước lụt, và 326 năm trước khi Áp-ra-ham được Chúa kêu gọi (10-26). Ấy là cách Ðức Chúa Trời làm tan lạc loài người ngõ hầu họ thi hành phận sự "làm cho đất phục tùng" (Sáng thế ký 1:28). Tiếng nói lộn xộn có thể giải thích một phần tại sao có nhiều thần và tại sao những người sống trước nạn nước lụt có nhiều tên khác nhau.

Công trình xây cất tháp Ba-bên đã bị tạm thời đình chỉ; nhưng chẳng bao lâu, những kẻ cứ ở xứ Ba-by-lôn đã xây cất nó lại, và tháp làm trung tâm để xấy cất thành Ba-by-lôn chung quanh. Tháp nầy làm kiểu mẫu để xây nhiều tháp tương tự trong những đô thị khác của xứ Ba-by-lôn, và có lẽ gợi hình cho các Kim-tự-tháp sau đó ít lâu đã bắt đầu mọc lên tại Ai-cập.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Vị trí tháp Ba-bên

Theo truyền thoại, tháp Ba-bên ở tại Borsippa, cách trung tâm Ba-by-lôn 10 dặm về phía Tây nam. Huân tước Henry Rawlinson tìm thấy ở một góc nền nhà, trong thành Borsippa, một hình trụ có ghi như vầy: "Một vua thời xưa đã xây tháp Borsippa, cao tới gần 20 thước tây; nhưng ông không xây xong đỉnh tháp, và tháp đã đổ nát từ thời xưa. Người ta không cẩn thận giữ gìn cống nước của tháp nầy. Mưa và bão đã cuốn gạch đi, và ngói trên mái cũng bể. Vị thần oai mạnh Marduk đã thúc giục tôi xây tháp lại. Tôi không thay đổi vị trí hoặc tường nền của nó. Gặp lúc thuận tiện, tôi lại xây gạch, lợp mái ngói, và viết tên tôi trên hiên của tháp. Tôi xây lại y như bao nhiêu đời trước, và dựng vòm trên chót tháp giống như thời xưa." Ðây có vẻ như một truyền thoại về tháp Ba-bên xây lở dở.

Các nhà khảo cổ thường nghĩ rằng có lý hơn là vị trí thật của tháp Ba-bên ở trung tâm thành Ba-by-lôn, và nó chính là di tích ở ngay phía Bắc miễu thờ Marduk. Ông G.Smith tìm thấy một tấm bảng ghi rằng: "Sự xây cất tháp trứ danh nầy làm mếch lòng các thần. Trong một đêm, các thần phá hủy công trình xây cất của họ. Các thần khiến họ tan lạc khắp nơi, và làm lộn xộn tiếng nói của họ. Các thần ngăn cản bước tiến của họ. Các thần khóc lóc thảm thiết vì cớ Ba-by-lôn." Ðây dường như là một truyền thoại về tháp Ba-bên. Bây giờ là một hố rộng chừng 34 thước vuông, và người ta tới đó lấy gạch. Khi còn đứng vững, thì tháp gồm có nhiều từng chồng chất lên nhau, từng trên lại nhỏ hơn từng dưới, và trên đỉnh tháp là miễu thờ Marduk.

 

"Dòng dõi của Sem" (11:10-26)

Ðây là tài liệu thứ sáu trong các tài liệu. Ở đoạn 10:21-31, dòng dõi của Sem được ghi tên một cách tổng quát hơn. Tại đây, dòng dõi được đưa thẳng từ Sem tới Áp-ra-ham, gồm 10 thế hệ tất cả, trong khoảng 427 năm. Có là chính Sem đã chép cả gia phổ nầy, vì ông sống suốt thời gian gồm trong đó. Dưới đây là một đồ biểu chỉ tỏ các đời từ A-đam đến nước lụt, theo như đã chép ở đoạn 5, và từ nước lụt đến Áp-ra-ham, theo như có chép ở đây (đoạn 11).

 

Tuổi lúc sanh con trai

Hưởng thọ

Tuổi lúc sanh con trai

Hưởng thọ

A-đam

130

930

A-bác-sát,

sanh sau nạn nước lụt

2

 

Sết

105

912

A-bác-sát

35

438

Ê-nót

90

905

Sê-lách

30

433

Kê-nan

70

910

Hê-be

34

464

Ma-ha-la-le

65

895

Bê-léc

30

239

Giê-rệt

162

962

Rê-hu

32

239

Hê-nóc

65

865

Sê-rúc

30

230

Mê-tu-sê-la

187

969

Na-cô

29

148

Lê-méc

182

777

Tha-rê

130

205

Nô-ê lúc nạn nước lụt xảy ra

600

950

Áp-ra-ham, vào xứ Ca-na-an

75

 

Cộng:

1656

 

Cộng:

427

 

       

Theo các con số trên đây, thì:

Từ A-đam đến nạn nước lụt có 1656 năm; từ nạn nước lụt đến Áp-ra-ham có 427 năm.

A-đam sống đồng thời với Mê-tu-sê-la 243 năm.

Mê-tu-sê-la sống đồng thời với Nô-ê 600 năm, và với Sem 98 năm.

Chỉ có 126 năm giữa lúc A-đam qua đời và lúc Nô-ê sanh ra.

Nô-ê còn sống 350 tuổi sau nạn nước lụt; ông qua đời 2 năm trước khi Áp-ra-ham sanh ra.

Sem sống từ 98 năm trước nạn nước lụt tới 502 năm sau nạn nước lụt.

Sem sống cho tới 75 năm sau khi Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an.

A-đam còn sống lúc cháu bảy đời của ông sanh ra.

Nô-ê sống tới đời thứ chín của dòng dõi mình.

Ở cột bên mặt, trừ ra Bê-léc và Na-cô, hết thảy còn sống lúc Áp-ra-ham sanh ra.

Trong thời trường thọ dường ấy, dân số tăng lên rất mau chóng.

Trước nạn nước lụt, người ta sống rất lâu. Từ đó trở đi, tuổi thọ lần lần giảm bớt.

 

"Dòng dõi của Tha-rê" (11:27 tới 25:11)

Ðây là tài liệu thứ bảy trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Có lẽ truyện tích Áp-ra-ham đã do chính Áp-ra-ham và Y-sác chép.

*  *  *

Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham2

Thời kỳ nầy trong lịch sử xứ Ba-by-lôn

Sau khi ghi tên 10 vua trị vì trước nạn nước lụt, các bi văn của xứ Ba-by-lôn thời cổ còn thêm rằng: "Bấy giờ nước lụt hủy phá mặt đất."

Rồi có ghi tên 100 vua của 20 đô thị, hoặc triều đại khác nhau, trị vì suốt thời kỳ giữa nạn nước lụt và Hammurabi, là kẻ đồng thời với Áp-ra-ham.

Về phần đầu của thời kỳ nầy, trên các tấm bản thình lình rút ngắn thời hạn của các đời trị vì, rút từ các con số lớn lao quá xuống các con số vừa phải. Như vậy là đánh dấu con đường phân chia giữa "lịch sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố đương thời nay) và "tiền sử" (tức là những bản ghi chép các biến cố thời xưa, căn cứ vào khẩu truyền, hoặc dịch từ chữ tượng hình thượng cổ ra chữ tiết hình; và khi ấy người ta không đoán được chữ tượng hình, hay là đã đọc sai).

 

Những nước gồm một đô thị

Lúc mở đầu lịch sử, có những khu định cư tại Kish, Lagash, Ê-rết, U-rơ, Eridu, Nippur, A-cát, Ba-by-lôn, Larsa, Fara, và nhiều chỗ khác. Có những đô thị nhỏ chung quanh có vách lũy, mỗi đô thị ở dưới quyền cai trị của một vua, hoặc một người vừa làm vua, vừa làm thầy tế lễ. Các vua nầy xung đột với nhau luôn. Thường khi một đô thị kiểm soát được nhiều đô thị khác, và như vậy, tạo thành một tiểu đế quốc. Nền thống trị nầy kéo dài một thời gian, rồi tan rã, hoặc chuyển qua một hoặc nhiều đô thị khác. Các vua nầy ghi chép các chiến công của mình trên những tấm bảng đất sét, và mấy năm gần đây, người ta đã đào bới được cả ngàn tấm bảng như vậy. Tuy nhiên, các tấm bảng không chỉ tỏ các đô thị triều đại nầy đồng thời với nhau, hoặc kế tiếp nhau tới mực nào. Vậy, niên biểu của thời kỳ nầy rất không xác thực.

Sau đây có kê khai những triều đại chánh yếu đã cai trị xứ Ba-by-lôn giữa nạn nước lụt và thời Áp-ra-ham, y theo các tấm bảng ấy. Hãy chú ý: Những trung tâm cư dân nầy vẫn còn tập hợp chung quanh Eridu, là vườn Ê-đen theo truyền thoại, và chung quanh Fara, là nơi cư trú của Nô-ê theo truyền thoại.

Bản đồ số 25

 

Triều đại Kish

Các tấm bảng gọi triều đại nầy là triều đại thứ nhứt sau nạn nước lụt. Kish là một vùng ngoại ô của Ba-by-lôn, gần vị trí của tháp Ba-bên. Ba-by-lôn là đô thị tối cổ, rộng lớn, có từ trước nạn nước lụt, và là thủ đô chính của xứ Ba-by-lôn trong thời kỳ theo sau nạn nước lụt. Chính tại đây mà Tấn sĩ Langdon đã tìm được di tích của lớp do nước lụt làm lắng xuống.

 

Triều đại Lagash

Lagash là thủ đô nước thứ nhứt của người Sumériens, hoặc dòng dõi Cham, sau nạn nước lụt, ở nam bộ xứ Ba-by-lôn, cũng như Kish là thủ đô của nước Sémitique (dòng dõi của Sem) thứ nhứt ở bắc bộ xứ Ba-by-lôn; hai thủ đô nầy cách nhau chừng 100 dặm. Eannatum, một vua của Lagash, đã trị phục được toàn xứ Ba-by-lôn, và chánh quyền của ông lan rộng tới người Ê-lam ở vùng cao nguyên phía Ðông. Lagash là một trung tâm thơ viện, do Sarzec đào bới năm 1877-1901.

 

Triều đại Ê-rết

Ê-rết cũng gọi là Uruk, hoặc Warka, một trong những đô thị do Nim-rốt xây cất, chỉ cách vườn Ê-đen theo truyền thoại có 50 dặm. Một vua của Ê-rết tên là Gilgamesh. Một vua khác tên là Lugalziggissi, là vua đầu tiên tiến tới Ðịa Trung Hải từ nhiều thế hệ trước khi Áp-ra-ham ra đi theo tiếng Ðức Chúa Trời kêu gọi. Vua nầy tự xưng là "chúa của thế giới." Ê-rết do Roldewey đào bới năm 1913, lại do NoldekeJordan đào bới năm 1928-33. Họ nhận thấy Ê-rết là một trong những đô thị cổ nhứt, có 18 lớp tiền sử đặc biệt. Ê-rết là trung tâm thờ lạy thần Ishtar, và trong cuộc thờ lạy nầy, người ta bắt buộc phải phạm tội gian dâm.

 

Triều đại A-cát

A-cát, cũng gọi là Sippar, là một đô thị khác do Nim-rốt xây cất, và cũng là một trung tâm thơ viện. A-cát cách Fara, nơi cư trú của Nô-ê theo truyền thoại, chừng 100 dặm về phía tây bắc. Tại đây đã phát xuất SARGON đệ nhứt, là một chiến sĩ lừng danh trước thời Áp-ra-ham; ông cai trị từ xứ Ê-lam đến núi Si-na-i, và tự xưng là "vua của bốn phương thế giới." Ông là một nhà đại chinh phục, đại kiến thiết, và đã phát triển văn học. Ông sáng lập một thơ viện đồ sộ. Người ta tưởng rằng ông gần đồng thời với Chéops, là người xây cất Kim tự tháp Lớn ở Ai-cập.

 

Các triều đại U-rơ

U-rơ chỉ cách Eridu, vườn Ê-đen theo truyền thoại, có 12 dặm. Sau nạn nước lụt, thành U-rơ đã bị các đô thị tiếp cận cướp phá ít lâu. Nhưng đương thời Áp-ra-ham, U-rơ đã trở thành đô thị quan trọng bậc nhứt thế giới. Dưới đời trị vì của hai vua danh tiếng hơn hết, là Ur-engurDungi, U-rơ đã thống trị từ vịnh Ba-tư tới Ðịa Trung Hải.

 

Triều đại Ba-by-lôn

Vào khoảng Áp-ra-ham di cư qua xứ Ca-na-an (2000 năm T.C), thành Ba-by-lôn, dưới sự trì vì của Hammurabi, đã chiếm được ngôi bá chủ. Hammurabi, một chiến sĩ lừng danh, đã xây nhiều miễu thờ, đào nhiều con kinh, và soạn thảo một bộ luật. Người ta thường cho ông là một với Am-ra-phên ở Sáng thế ký 14:1.

*  *  *

Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham3

Thời kỳ nầy trong lịch sử Ba-by-lôn2

Những cuộc đào bới tại U-rơ, quê hương của Áp-ra-ham

U-rơ, cũng gọi là MugheirMugayyar, xưa kia là một hải cảng trên vịnh Ba-tư, ở cửa sông Ơ-phơ-rát, cách xa Eridu, vị trí của vườn Ê-đen theo truyền thoại, 12 dặm. Ðây là một đô thị trước nạn nước lụt, bị nước lụt phá hủy, rồi được xây cất lại. Ngay trước thời Áp-ra-ham, U-rơ là đô thị tráng lệ nhứt thế giới, là một trung tâm chế tạo, nông nghiệp và hàng hải trong một xứ phì nhiêu và giàu có lạ lùng. Những thương đội đi ra bốn phương, tới các xứ xa xôi, những chiếc tàu đi từ các bến của U-rơ dọc theo vịnh Ba-tư, chở rất nhiều đồng và đá cứng. Ðoạn, vào khoảng thời Áp-ra-ham, U-rơ bị thành Ba-by-lôn làm cho lu mờ, nhưng vẫn còn là một đô thị quan trọng cho tới thời đế quốc Ba-tư. Vào khoảng nầy, vịnh Ba-tư đã lùi ra phía biển, và sông Ơ-phơ-rát đổi đường, chảy 10 dặm về phía đông; còn thành U-rơ bị bỏ hoang vu và bị chôn vùi bởi những trận bão cát của sa mạc.

Các di tích của U-rơ.-- Có một số đô thị chồng chất lên nhau, và đô thị của Áp-ra-ham ở gần dưới cùng. Những đô thị nầy gồm một gò nỗng cao, chung quanh có những gò nỗng phụ thuộc thấp hơn, chiếm một khoảng dài chừng 2 dặm từ Tây-bắc tới Ðông-nam, và rộng chừng nửa dặm. Trên khoảng dài 2 dặm rưỡi, người ta đã dò thấy di tích của bức vách bao quanh thành, dày chừng 23 thước tây và cao chừng 26 thước tây. Khu thánh địa, gồm những miễu thờ và cung điện, có bức vách bên trong bao quanh, dài chừng 130 thước tây, và rộng chừng 65 thước tây.

Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania và Anh quốc Bảo tàng viện đã cử một phái đoàn hỗn hợp dưới quyền điều khiển của C.L.Woolley, đi làm việc suốt 12 mùa (1922-1934), mỗi mùa gồm 4 hoặc 5 tháng tiết đông. Với 200 công nhân làm việc mỗi mùa, phái đoàn đã hoàn toàn khám phá các bí mật của những di tích nầy.

Ziggurat, hoặc Miễu Tháp, làm theo kiểu mẫu tháp Ba-bên, hiện nay là gò nỗng cao nhứt; và đương thời Áp-ra-ham, nó là công trình kiến trúc dễ nhận thấy nhứt trong đô thị. Nó đã được Nabonidus xây cất lại vào thế kỷ thứ 6 T.C., trên đi tích của miễu thờ đương thời Áp-ra-ham; còn chính miễu thờ nầy cũng đã được xây cất lại trên nền (nay vẫn còn) của một miễu thờ khác xây từ thời tiền sử.

Theo như Áp-ra-ham được thấy, tháp nầy hình vuông, có hiên, và xây bằng gạch vững chắc; các hiên kế tiếp nhau có trồng cây lớn và cây nhỏ; trên đỉnh tháp có miễu thờ thần Mặt Trăng.

Các miễu thờ: Hai miễu thờ lớn nhứt là miễu thờ Nannar; nam thần Mặt Trăng và miễu thờ Ningal, nữ thần Mặt Trăng; hai nữ thần nầy nổi tiếng đương thời Áp-ra- ham; có rất nhiều bàn thờ, phòng nhỏ, nơi ở của các nam tế sư, nữ tế sư và tôi tớ. Ðó là các thần mà thân phụ Áp-ra-ham đã thờ lạy.

Các lăng tẩm: Lạ lùng hơn hết là đã khám phá được những bửu vật vô giá trong lăng tẩm của hoàng hậu Shubad Mes-kalam-dug và một vua vô danh, ở từng dưới của một nghĩa địa, thuộc về khoảng giữa thời Áp-ra-ham và nạn nước lụt. Cùng với hài cốt hoàng hậu nầy, còn tìm thấy một vương miện bằng vàng, một khăn trùm đầu, rất nhiều ngọc, vòng đeo cổ và đồ nữ trang bằng vàng, bạc, bửu thạch, tách, dĩa, hộp đựng đồ trang điểm, chén đựng thuốc vẽ mặt, và một đờn thụ cầm bằng vàng. Cũng có hài cốt của 40 cung nữ đã bị chôn chung với hoàng hậu, cùng vô số dụng cụ bằng đồng, thau, đá và đá lửa, để hầu hạ hoàng hậu trong đời sau; có di tích của một chiếc xe ngựa cùng với hài cốt những con vật đã kéo nó. Ngày nay ta có thể xem thấy mọi vật nầy tại Bảo tàng viện Ðại học đường Philadelphia. Nó chứng minh một mức kỹ xảo rất cao trong thời thượng cổ đó, và tỏ ra lúc ấy họ đã dâng mạng người làm tế lễ và tin có đời sau.

Một khu nhà ở đương thời Áp-ra-ham cũng đã tìm thấy: nào nhà ở, tiệm buôn, trường học, miễu thờ, và cả ngàn tấm bảng, giấy tờ buôn bán, giao kèo, biên lai, bài hát, lễ thức, vân vân. Ngày nay ta có thể thấy chính các đường phố mà Áp-ra-ham đã đi. Nhà xây bằng gạch, có hai từng, ngang với mặt đường, và bên trong có sân.

*  *  *

Ðoạn 11 -- Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham4

Thời kỳ nầy trong lịch sử Ai-cập

Dầu truyện tích Kinh Thánh bắt đầu tại xứ Ba-by-lôn, nhưng chẳng bao lâu nó đã chuyển qua Ai-cập; và từ đó về sau, Ai-cập hiện ra trong Cựu Ước.

Sau nạn nước lụt ít lâu, nước Ai-cập được sáng lập bởi Mích-ra-im, con trai của Cham. Nó được gọi là "xứ của Cham."

Dầu nền văn minh được mở mang tại xứ Ba-by-lôn, dưới đời trị vì của Nim-rốt, SargonHammurabi, nhưng nó đã tấn triển mau lẹ hơn tại Ai-cập, dưới 12 triều đại đầu tiên, bao gồm thời kỳ giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham.

31 triều đại của Manetho. -- Manetho, người Ai-cập, khoảng 250 năm T.C., đã chép lịch sử Ai-cập, sắp đặt thành 31 triều đại, từ Menes, vua đầu tiên trong lịch sử, đến khi A-lịch-sơn đại đế, vua Hy-lạp chinh phục Ai-cập, năm 332 T.C.. Cho tới ngày nay, người ta vẫn thừa nhận lịch sử Ai-cập thời xưa gồm 31 triều đại; về đại cương, các sự khám phá của khảo cổ học đã xác chứng thật có 31 triều đại ấy.

 

 

 

Ðồng thời với

Triều đại thứ   1

Menes

Nim-rốt (?)

Triều đại thứ   2

 

 

Triều đại thứ   3

 

 

Triều đại thứ   4

Kim tự tháp

Sargon (?)

Triều đại thứ   5

 

 

Triều đại thứ   6

 

 

Triều đại thứ   7

 

 

Triều đại thứ   8

 

 

Triều đại thứ   9

 

 

Triều đại thứ  10

 

 

Triều đại thứ  11

 

 

Triều đại thứ  12

2000 T.C.

Áp-ra-ham

Triều đại thứ  13

 

 

Triều đại thứ  14

 

 

Triều đại thứ  15

 

 

Triều đại thứ  16

1800 T.C.

Giô-sép (?)

Triều đại thứ  17

 

 

Triều đại thứ  18

1580-1340

Môi-se

Triều đại thứ  19

1340-1200

 

Triều đại thứ  20

1200-1100

 

Triều đại thứ  21

1100-950

Ða-vít

Triều đại thứ  22

950-750

 

Triều đại thứ  23

750-720

 

Triều đại thứ  24

720-712

 

Triều đại thứ  25

712-663

 

Triều đại thứ  26

663-525

 

Triều đại thứ  27-31

525-332

Ba-tư

Thời kỳ ở dưới quyền đế quốc Hy-lạp

322-30 T.C.

Bản Septante

Thời kỳ ở dưới quyền đế quốc La-mã

30  T.C.-300 S.C.

Ðấng Christ

 

Thoạt tiên, Ai-cập gồm một số nhóm gia tộc, hoặc bộ lạc nhỏ, mỗi nhóm gọi là một "nước." Họ có thời kỳ "tiền sử," nghĩa là một thời kỳ trước khi ghi chép những biến cố thời nay, duy có những thần, á thần và vua sống lâu trong thời nguyên thủy. Họ biết dùng vàng, bạc, đồng, chì và đá lửa. Họ có chữ viết và biết đóng tàu.

 

Ba thời kỳ trọng đại của lịch sử Ai-cập là:

Nước thời cổ: Triều đại thứ 3 tới triều đại thứ 6. Kỷ nguyên xây cất Kim tự tháp. Theo nhiều ý kiến khác nhau, các triều đại nầy ở vào những khoảng giữa 4000 năm T.C. tới 2000 năm T.C.; nhưng thường thì cho là vào khoảng 2700 năm T.C..

Nước khoảng giữa: Triều đại thứ 11 và 12. Kỷ nguyên đào kinh. Ðây là một thời kỳ rất thạnh vượng. Khoảng 2000 năm T.C. Thời Áp-ra-ham.

Thời kỳ đế quốc: Triều đại 18 và 19. 1600-1200 T.C. Ðế quốc thứ nhứt cầm quyền cả thế giới mà người ta biết hồi đó. Cai trị từ xứ Ê-thi-ô-bi đến sông Ơ-phơ-rát. Ðây là thời kỳ dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập.

Niên biểu Ai-cập đã được thành lập khá đúng từ năm 1600 T.C.; nhưng trước đó, thì rất mơ hồ. Vậy, các nhà Ai-cập-học chỉ định khác nhau về niên hiệu của Menes, vua thứ nhứt của thời kỳ lịch sử, như sau nầy: Petrie, 5500 T.C.; Mariette, 5000; Brugsch, 4500; Chabas, 4000; Lepsius, 3900; Bunsen 3600; Hall, 3500; Breasted 3400; Barton 3400; Meyer 3300; Scharff, 3000; Poole 2700; G. Rawlinson 2450; Wilkinson 2320; Sharpe 2000. Như vậy, ta có thể thấy rằng PetrieBreasted, là hai nhà Ai-cập-học trứ danh nhứt, sai biệt nhau tới hơn 2000 năm đối với khởi điểm của lịch sử Ai-cập. Hai ông nầy cũng sai biệt nhau cả ngàn năm về niên hiệu của các Kim tự tháp, và 700 năm về thời kỳ các Hyksos (dòng vua trị vì đương thời dân Do-thái kiều ngụ tại Ai-cập). Ngày nay người ta có khuynh hướng hạ thấp các niên hiệu trong niên biểu Ai-cập và Ba-by-lôn, cho rằng Kim tự tháp Lớn được xây cất khoảng 2400 hoặc 2500 năm T.C.

Niên biểu của Kinh Thánh và niên biểu của Ai-cập. -- Người Ai-cập có truyền thuyết rằng nạn nước lụt xảy ra trong thời tiền sử. Nền văn minh Kim tự tháp phát triển sau nạn nước lụt. Phải có đủ thì giờ cho gia quyến Nô-ê sanh con đẻ cháu rất đông đúc. Kinh Thánh dường như đặt nạn nước lụt vào khoảng 2400 T.C.; còn các nhà Ai-cập-học tính đổ đồng rằng thời kỳ lịch sử Ai-cập bắt đầu khoảng 3000 năm T.C. (xem ở trên); như vậy là đặt ở 600 năm trước nạn nước lụt những biến cố đáng phải xảy ra lâu lắm sau nạn nước lụt. Ðó dường như là một mâu thuẩn giữa niên biểu Ai-cập và niên biểu Kinh Thánh. Nhưng dựa vào đoạn luận về niên biểu Ai-cập trên đây, ta có thể nhận xét rằng một vài nhà Ai-cập học đem khởi điểm của thời kỳ lịch sử Ai-cập xuống sau 2400 năm T.C.; và ta phải nhớ rằng bản Septante và bản Ngũ kinh Sa-ma-ri đẩy niên hiệu Kinh Thánh cho nạn nước lụt lui về 3000 T.C. (xem dưới mục "Niên biểu Cựu Ước"). Như vậy, chỉ có vài hệ thống niên biểu Ai-cập mâu thuẩn với vài hệ thống niên biểu Kinh Thánh; còn những niên biểu khác thì phù hợp hoàn toàn.

*  *  *

Từ nạn nước lụt tới Áp-ra-ham5

Thời kỳ nầy trong lịch sử Ai-cập2

Thời đại thứ nhứt.-- Menes (Mena), vua lịch sử thứ nhứt, củng cố nhiều bộ lạc khác nhau, và thống nhứt Thượng-Ai-cập với Hạ-Ai-cập. Ông chiếm cứ vùng Si-na-i và khai thác các mỏ lam ngọc ở đó. Một vài nhà học giả cho rằng ông là một với Mích-ra-im, con trai của Cham. Có lẽ ông gần đồng thời với Nim-rốt; đang khi Nim-rốt đặt nền tảng của đế quốc chủ nghĩa giữa các tiểu bang của xứ Ba-by-lôn, thì Menes cũng làm việc ấy tại Ai-cập. Người ta tìm thấy phần mộ ông tại Abydos, và trong đó có một cái bình tráng men xanh lá cây có khắc tên ông. Triều đại nầy có 9 vua.

Triều đại thứ hai.-- 9 vua. Những tên Sémitique chỉ tỏ cuộc giao dịch với Ba-by-lôn. Khai thác các mỏ ở vùng Si-na-i.

Triều đại thứ ba.-- 5 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Ðóng tàu dài chừng 48 thước để buôn bán tại vùng Ðịa trung hải; tổ chức hàng hải tới xứ Li-ban. Bắt đầu kỷ nguyên Kim tự tháp. Zozer xây cất "Kim tự tháp có bậc" tại Sakkarah, cách thành Mem-phi (xem Ô-sê 9:6) 2 dặm về phía Tây, có 6 từng có sân thụt vô trong, gần giống như các miễu tháp của xứ Ba-by-lôn vậy. Sau đó, Snefru (Seneferu) bắt chước Zozer, nhưng lấp kín các từng có sân thụt vô, làm thành các sườn phẳng phiu. Ðó thật là Kim tự tháp đầu tiên, tại Meydum, gần Sakkarah.

Triều đại thứ tư.-- 7 vua. Tuyệt điểm của kỷ nguyên Kim tự tháp. Xây cất 3 Kim tự tháp của Chéops (Khufu), Khafre (Cephren), Menkure (Menkaura) tại Gizeh, cách kinh thành Le Caire 8 dặm về phía Tây. Lớn nhứt là Kim tự tháp của Chéops, một trong những vua hùng mạnh nhứt của Ai-cập. Rồi tới Kim tự tháp của Khafre, có khắc tượng nhân sư (sphinx) mà mặt là chính mặt ông. Còn trong Kim tự tháp của Menkure thì người ta tìm thấy chính xác ướp của ông.

Triều đại thứ năm.-- 9 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Cử các phái đoàn thương mại vượt Ðịa trung hải, tới các xứ Phê-ni-xi, Sy-ri và Ô-phia (ICác Vua 9:28).

Người Ai-cập rất mạnh tin có đời sau. Ở vườn phía Tây Kim tự tháp của hoàng hậu Khent-Kawes, thuộc triều đại thứ 5, người ta đã thấy một chiếc tàu dài chừng 36 thước, ngang chừng 5 thước, mà bà đã cho khắc sâu vào đá để chở linh hồn bà qua thế giới bên kia. Lăng tẩm của các Pha-ra-ôn (vua Ai-cập) chứa nhiều vật báu của thế giới nầy mà họ tưởng có thể đem theo qua thế giới bên kia.

Triều đại thứ sáu.-- 6 vua. Nước thời cổ chấm dứt. Pepi đệ nhị, vua thứ năm, trị vì 90 năm; đó là đời trị vì lâu dài nhứt trong lịch sử.

Các triều đại thứ bảy, tám, chín, mười.-- 20 vua. Thời kỳ phân tán; nhiều nước giao tranh với nhau.

Triều đại thứ mười một.-- 7 vua. Khởi đầu nước hùng mạnh ở khoảng giữa; nước nầy tồn tại suốt triều đại thứ 12.

Triều đại thứ mười hai.-- 8 vua. Amenembet đệ tam xây cất miễu thờ Serabit tại vùng Si-na-i; tại đây, Petrie mới tìm thấy lối viết có chữ cái cổ nhứt thế giới. Có nhiều cuộc giao dịch với xứ Sy-ri. Ðào một con kinh từ sông Ni-lơ tới Hồng hải. Senusert đệ nhứt xây tháp hình chóp (obélisque) tại thành Ôn (Sáng thế ký 41:45), đến nay vẫn còn. Người ta thường nghĩ rằng Senusert đệ nhị chính là Pha-ra-ôn khi Áp-ra-ham ghé thăm Ai-cập.

Các kim tự tháp Ai-cập không giống những miễu tháp Ba-by-lôn, vì trên chót những miễu tháp nầy có xây nơi thờ lạy các thần; còn Kim tự tháp chỉ là mộ phần cốt để vĩnh cửu hóa vinh quang của các Pha-ra-ôn đã xây cất nó. Sự ham mê Kim tự tháp bắt đầu từ triều đại thứ nhứt, và tới triều đại thứ tư thì lên đến cực độ.

Kim tự tháp lớn của Chéops.-- Ðây là công trình kiến trúc vĩ đại nhứt của các thời đại. Chiếm một khoảng hơn 5 mẫu tây và cao chừng 155 thước tây (nay còn chừng 145 thước). Tính phỏng để xây cất nó, phải dùng 2.300.000 phiến đá, mỗi phiến dày đổ đồng gần 1 thước tây và cân nặng đổ đồng 2 tấn rưỡi. Xây bằng nhiều lớp phiến đá vôi đẽo sơ sài, ngoài cùng là lớp phiến đá hoa cương chạm trổ tuyệt xảo và ráp nhau rất khít. Những phiến đá của lớp ngoài cùng nầy đã bị bóc và đem dùng xây cất kinh thành Le Caire. Giữa sườn phía Bắc có một lối đi rộng gần 1 thước tây, cao chừng 1 thước 25, dẫn vào một phòng đục trong đá nguyên khối, ở dưới mặt đất chừng 33 thước tây và cách đỉnh Kim tự tháp gần 200 thước tây. Giữa phòng nầy và đỉnh Kim tự tháp lại có hai phòng khác, có nhiều tranh vẽ và tượng chạm mô tả chiến công của vua nầy. Xác ướp của Chéops không có ở đó.

Xây cất thể nào?-- Người ta dùng dụng cụ bằng đá và bằng đồng mà lấy đá từ một hầm đá cách xa 12 dặm về phía Ðông, thả trôi qua sông Ni-lơ trong mùa lụt, rồi có những đoàn người vô tận dùng dây kéo trên con đường rất dài thoai thoải mà họ đã đắp cho công cuộc xây cất nầy. Họ dùng những cái nêm có đáy như cái nôi mà kéo đá lên và đưa tới đúng chỗ; những cái nêm nầy liên tiếp đưa qua một phía gióng, rồi lại qua phía kia. Tính ra phải có 10 vạn người làm việc luôn 10 năm để đắp xong đường đất trên đây, rồi phải mất 20 năm nữa mới xây xong chính Kim tự tháp. Hết thảy là lao công cưỡng bách, giai cấp thợ thuyền và tôi mọi bị kéo đi làm việc, dưới cái roi da tàn nhẫn, không chút thương xót của bọn đốc công.

Tánh cách quan trọng.-- Ðiểm kỳ lạ của các Kim tự tháp là nó được xây cất ngay lúc khởi đầu lịch sử. Huân tước Flinders Petrie gọi Kim tự tháp của Chéops là "công trình kiến trúc lớn lao nhứt và tính đúng nhứt mà thế giới từng mục kích." Bách khoa Từ điển Brilannica luận rằng: "Sức óc mà Kim tự tháp chứng minh thật lớn bằng sức óc của bất cứ người nào ngày nay."

 

Ðoạn 12 -- Sự kêu gọi Áp-ra-ham

Ðây bắt đầu truyện tích Sự Cứu Chuộc. Trong vườn Ê-đen, đã ngụ ý đến chuyện tích nầy. 2000 năm sau khi loài người được dựng nên và sa ngã, 400 năm sau nạn nước lụt, bây giờ, giữa một thế giới sa xuống vòng thờ lạy hình tượng và gian ác, Ðức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham để ông trở nên nhà sáng lập một phong trào có mục đích Ðòi LạiCỨứu Chuộc loài người.

Trong thời đại tiền phong của địa cầu nầy, đang khi các dân tộc vẫn chưa vượt qua mức tổ chức bộ lạc và đang tìm kiếm cùng định cư trên những đất đai tốt hơn, thì Áp-ra-ham, một người công bình, tin thờ Ðức Chúa Trời, chớ chẳng thờ lạy hình tượng, một trong số ít người còn cố giữ cổ phong của độc thần chủ nghĩa từ lúc thái sơ, đã được Ðức Chúa Trời hứa với dòng dõi mình rằng:

1. Chúng sẽ thừa hưởng xứ Ca-na-an.

2. Chúng sẽ trở nên một dân tộc hùng mạnh.

3. Và nhờ chúng, mọi nước sẽ được phước.

Lời hứa nầy (12:2, 3; 22:18) là ý tưởng căn bản mà cả Kinh Thánh là một bài giảng luận rộng ra. Trước hết, Ðức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham tại U-rơ (Công-vụ các Sứ- đồ 7:2-4; Sáng thế ký 11:31). Ngài lại kêu gọi ông nữa tại Cha-ran (Sáng thế ký 12:1-4), tại Si-chem (Sáng thế ký 12:7), tại Bê-tên (Sáng thế ký 13:14-17), và hai lần tại Hếp-rôn (Sáng thế ký 15:5, 18; 17:1-8). Lời hứa được lặp lại cho Y-sác (Sáng thế ký 26:3, 4) và Gia-cốp (Sáng thế ký 28:13, 14; 35:11, 12; 46:3, 4).

 

Áp-ra-ham

Căn cứ vào Sáng thế ký 11:26, 32; 12:4 và Công vụ các sứ đồ 7:2, 4, thì dường như Áp-ra-ham sanh ra lúc thân phụ của ông đã 130 tuổi, và ông chẳng phải là con đầu lòng theo như Sáng thế ký 11:26 đã ngụ ý. Áp-ra-ham được 75 tuổi khi vào xứ Ca- na-an; chừng 80 tuổi thì ông giải cứu Lót và gặp Mên-chi-xê-đéc; 86 tuổi khi Ích-ma-ên sanh ra; 99 tuổi khi Sô-đôm bị hủy diệt; 100 tuổi khi Y-sác ra đời; 137 tuổi khi Sa-ra qua đời; 160 tuổi khi Gia-cốp sanh ra. Ông qua đời năm 175 tuổi, tức là 115 năm trước khi Gia-cốp di cư xuống Ai-cập.

 

Phát triển sự thờ lạy hình tượng

Áp-ra-ham chẳng phải người thờ lạy hình tượng, nhưng ông sống trong một thế giới thờ lạy hình tượng. Lúc ban đầu, loài người chỉ có một Ðức Chúa Trời; và trong vườn Ê-đen, họ được thông công khá thân mật với Ngài. Nhưng khi họ phạm tội và bị xua đuổi, thì mất sự hiểu biết nguyên thủy về Ðức Chúa Trời; đang khi rờ rẫm trong bóng tối để tìm phương giải quyết những bí mật của đời sống, họ bèn quay ra thờ lạy các sức mạnh thiên nhiên mà họ cho là nguồn sự sống. Vì tánh giao là phương pháp do đó có sự sống, nên nó đóng một vai rất quan trọng trong tôn giáo thượng cổ xứ Ba-by-lôn. Các bi văn chữ tiết hình bày tỏ rằng một phần lớn lễ thức mô tả tánh giao giữa các nam thần và nữ thần do đó (theo như họ nghĩ) mà có muôn vật. Rồi mặt trời, mưa và nhiều sức mạnh thiên nhiên khác cũng được thần thánh hóa, vì sự sống của thế giới tùy thuộc vào chúng. Các vua vì có quyền hành nên cũng được tôn làm thần. Nhiều đô thị và nhiều nước tôn kẻ sáng lập làm thượng đẳng thần: tỉ như Asshur, tổ phụ người A-si-ri , đã trở nên thượng đẳng thần của họ; và Marduk (Nim-rốt), người sáng lập Ba-by-lôn, đã trở nên thượng đẳng thần của thành ấy. Ðể cho các thần được thực hữu hơn, họ đã làm tượng để hình dung chúng; rồi chính tượng lại được thờ lạy như là thần. Vậy, loài người đã từ chủ nghĩa độc thần nguyên thủy đâm nhào xuống vực sâu của chủ nghĩa đa thần với vô số hình tượng; một vài sự thờ lạy nầy, trong lúc thực hành, thật là hư hoại và ghê gớm khôn tả xiết.

 

Sự thờ lạy hình tượng đương thời Áp-ra-ham

Thành U-rơ thuộc xứ Ba-by-lôn, và người Ba-by-lôn có nhiều nam thần, nữ thần. Họ thờ lửa, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, và nhiều sức mạnh thiên nhiên khác nữa. Nim-rốt, người tự tôn lên nghịch cùng Ðức Chúa Trời bằng cách xây tháp Ba-bên, từ đó về sau đã được nhìn nhận là thượng đẳng thần của xứ Ba-by-lôn. Người ta thường gọi tên ông là Marduk; về sau, họ cho ông là một với Bel. Shamash, là tên của thần Mặt Trời. Sin, nam thần Mặt Trăng, là thượng đẳng thần của thành U-rơ, quê hương Áp-ra-ham. Vợ của Sin tên là Ningal, nữ thần Mặt Trăng của thành U-rơ. Nó có nhiều tên và được thờ lạy khắp các đô thị như là Mẫu Thần. Nó cũng có tên là Nina, do đó mà đặt tên thành Ni-ni-ve. Trong xứ Ba-by-lôn người ta thường gọi nó là Ishtar. Nó là tình dục được thần thánh hóa, và sự thờ lạy nó đòi hỏi phải phóng túng theo tình dục. Sự gian dâm "thánh" tại miễu thờ nó là một phong tục phổ thông giữa vòng phụ nữ xứ Ba-by-lôn. Trong các miễu thờ nó có những phòng trang biện lịch sự, tại đó nữ tế sư tiếp đờn ông tới thờ lạy bằng nhiều nghi lễ nhơ nhuốc. Ngoài người nữ tế sư mãi dâm đó, mỗi thiếu nữ, thiếu phụ, hoặc quả phụ đều phải hành dâm trong các nghi lễ ấy rất ít là một lần trong đời mình.

 

Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời độc nhứt vô nhị

Ðồng bào của Áp-ra-ham là kẻ thờ lạy hình tượng. Thân phụ ông cũng thờ lạy hình tượng (Giô-suê 24:2). Có truyện truyền khẩu rằng lúc còn thơ ấu, ông đã bị bắt bớ vì không chịu thờ lạy hình tượng. Áp-ra-ham làm thể nào mà biết được Ðức Chúa Trời? Chắc là nhờ Ðức Chúa Trời trực tiếp khải thị. Hơn nữa, căn cứ vào những con số ở đoạn 5 và đoạn 11, ta thấy Nô-ê còn sống lúc Áp-ra-ham sanh ra, Mê-tu-sê-la sống đồng thời với Nô-ê 600 năm, và A-đam sống đồng thời với Mê-tu-sê-la 243 năm. Vậy, Áp-ra-ham có thể được Sem trực tiếp dạy cho biết truyện tích nước lụt do Nô-ê kể, và truyện tích A-đam cùng vườn Ê-đen do Mê-tu-sê-la kể.

 

Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an (Sáng thế ký 12:4-9)

Nơi Áp-ra-ham dừng lại đầu tiên là Cha-ran, cách U-rơ chừng 600 dặm về phía Tây bắc, và cách xứ Ca-na-an 400 dặm về phía Ðông bắc. Ông đã từ U-rơ ra đi, tìm một xứ tại đó có thể gây dựng một dân tộc thoát khỏi sự thờ lạy hình tượng, mặc dầu ông chẳng biết mình đi đâu (Hê-bơ-rơ 11:8). Nhưng thời ấy Cha-ran đã là một miền rất đông dân, có đường đi Ba-by-lôn, A-si-ri, Sy-ri, Tiểu Á tế á và Ai-cập; các thương đội và quân đội luôn luôn trải qua những con đường nầy. Nhơn dân thờ lạy hình tượng; họ cũng thờ thần Mặt Trăng của thành U-rơ. Vậy, sau khi cha, là Tha-rê, qua đời, thì Áp-ra-ham, do sự kêu gọi của Ðức Chúa Trời, lại tiến bước đi tìm một xứ dân thưa thớt hơn.

Si-chem, nơi Áp-ra-ham dừng lại đầu tiên trên đất Ca-na-an, ở chính giữa xứ, và nằm trong một thung lũng đẹp tuyệt, giữa núi Ê-banh và núi Ga-ri-xim. Tại đây, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, nhưng chẳng bao lâu, ông lại tiến xuống phía Nam để thám hiểm xứ nầy nhiều hơn nữa.

Rồi ông dựng lại tại Bê-tên, cách Si-chem 20 dặm về phía Nam, và cách Giê-ru-sa- lem 10 dặm về phía Bắc. Ðây là một trong những chỗ cao nhứt của xứ Ca-na-an, bốn phía có phong cảnh đẹp đẽ. Có lẽ Áp-ra-ham đi dọc theo đỉnh dãy núi, vì thung lũng sông Giô-đanh ở phía Ðông và đồng bằng mé biển ở phía tây đã có khá đông người ở. Tại Bê-tên, ông cũng dựng một bàn thờ, y như ông đã dựng tại Si-chem và về sau dựng tại Hếp-rôn, chẳng những để nhìn nhận Ðức Chúa Trời, song cũng để tuyên bố đức tin của mình với dân chúng mà ông đến ở chung đó. Chắc ông đã ưa thích Bê-tên, vì khi từ Ai-cập trở về, ông định cư tại đây cho đến khi ông và Lót phân rẽ nhau.

 

Áp-ra-ham kiều ngụ tại Ai-cập (12:10-20)

Khi từ Bê-tên tiến xuống phía Nam, chắc ông đã đi gần sát Giê-ru-sa-lem; nếu Mên-chi-xê-đéc là Sem, có lẽ Áp-ra-ham đã ghé thăm Sem, vì ông chắc phải quen biết Sem tại xứ Ba-by-lôn. Vì cớ nạn đói kém, Áp-ra-ham cứ đi suốt niềm Nam mà vào Ai-cập, và kiều ngụ tại đó cho đến khi hết nạn ấy. Thiếu điều ông lâm nạn. Vợ ông là Sa-ra, có nhan sắc, và các vua chúa hùng mạnh có lệ "tịch thâu" mỹ nhơn cho phần mình và giết chồng họ đi. Về sau, Áp-ra-ham cũng bị rắc rối như vậy với A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin (đoạn 20). Ông cẩn thận và mưu mẹo gọi Sa-ra là "em gái" mình, thì không phải là hoàn toàn nói dối đâu. Sa-ra chính là "em một cha khác mẹ" của ông (Sáng thế ký 20:12). Thời thượng cổ, người ta thường thành hôn với bà con gần gũi, cho đến khi thành lập các chi tộc để lựa chọn được dễ dàng mới thôi.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Áp-ra-ham viếng Ai-cập

Tại Benihassen, trên lăng tẩm của Senusert đệ nhị, thuộc triều đại thứ 12, mà người ta tưởng là Pha-ra-ôn đương thời đó, có một bức điêu khắc mô tả nhà buôn Sémitique (Á châu) tới thăm triều đình vua ấy, dường như là một biến cố quan trọng phần nào. Có lẽ đó là bản ghi lúc Áp-ra-ham thăm viếng Ai-cập.

 

Ðoạn 13 -- Áp-ra-ham và Lót phân rẽ nhau

Lót là cháu Áp-ra-ham. Hai người sống chung với nhau từ khi dời khỏi U-rơ mấy năm trước. Nhưng bây giờ các bầy súc vật và trại của họ đông đúc quá, lại thêm bọn chăn chiên cho họ hay cãi nhau về đồng cỏ quá, đến nỗi dường như phân rẽ nhau là điều tốt nhứt. Áp-ra-ham cao thượng đã cho Lót được lựa chọn trước. Lót ngu dại chọn lấy đồng bằng Sô-đôm. Bấy giờ Áp-ra-ham lựa chọn Hếp-rôn, là nơi ông định cư từ đó về sau.

 

Ðoạn 14 -- Áp-ra-ham đánh bại các vua Ba-by-lôn

Ấy cốt để cứu Lót. Áp-ra-ham chắc phải có thiên tài về quân sự. Với 318 người và sự giúp đỡ của một số người lân cận liên minh, ông đã tấn công bất ngờ lúc nửa đêm và đánh tan bốn vua Ba-by-lôn danh tiếng. Thời ấy, các đạo quân không đông đúc. Tổng số dân trên thế giới còn ít ỏi và tản mác. Vua chỉ là vị tù trưởng một bộ lạc. Áp-ra-ham cũng như là một vua, có lẽ là tộc trưởng của một ngàn người hoặc hơn.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Hammurabi

Người ta thường cho "Am-ra-phên" (câu 1) là một với Hammurabi, là vua Ba-by-lôn danh tiếng nhứt thời thượng cổ; vì đã tìm thấy bộ luật trứ danh của ông, nên tên tuổi ông được nhắc nơi cửa miệng. Có lẽ Áp-ra-ham quen thân vua nầy khi ông còn ở U-rơ. "Bộ luật" của Hammurabi là tiếng của thế giới đương thời Áp-ra-ham từ bụi đất phát ra.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Ðường của các vua (câu 5, 6)

Những chỗ ghi trong câu 5-6, do đó bốn vua Ðông phương kéo đến đánh thành Sô- đôm, cách xa thương lộ thông thường nhiều lắm về phía Ðông; vậy nên Albright nói rằng có lần ông tưởng điều đó chỉ tỏ tánh chất thần thoại của đoạn 14, sách Sáng thế ký. Nhưng đến năm 1929, ông tìm thấy một hàng gò nỗng lớn tại Hauran và dọc theo biên giới phía Ðông của xứ Ga-la-át và xứ Mô-áp; hàng gò nỗng nầy là những đô thị phồn thịnh khoảng 2000 năm T.C., tỏ ra đó là một miền đông dân trên thượng lộ trực tiếp giữa Ða-mách và các miền Ê-đôm, Si-na-i, có vàng, đồng cùng chất mãnh (manganèse).

 

Mên-chi-xê-đéc (14:18-20)

Ông vừa làm vua, vừa làm thầy tế lễ tại Sa-lem (Giê-ru-sa-lem). Theo truyền thoại Hê-bơ-rơ, thì ông là Sem, người sống sót trong nạn nước lụt, lúc nầy vẫn còn sống, là người cao tuổi nhứt thế giới, và là thầy tế lễ của loài người trong thời kỳ tộc trưởng. Nếu điều nầy đúng, thì nó ngụ ý rằng ngay sau nạn nước lụt, Ðức Chúa Trời đã sớm chọn Giê-ru-sa-lem làm sân khấu của sự cứu chuộc loài người. Có kẻ nghĩ rằng Mên-chi-xê-đéc là một thiên sứ; có kẻ lại nghĩ rằng ông là Ðức Chúa Trời thể hiện; cũng có kẻ nghĩ rằng ông là Ðấng Mê-si. Dầu là ai đi nữa, ông cũng làm hình bóng về Ðấng Christ (Thi Thiên 110; Hê-bơ-rơ 5:6, 7).

 

Ðoạn 15, 16, 17 -- Ðức Chúa Trời nhắc lại các lời hứa với Áp-ra-ham

Ðức Chúa Trời giải thích rằng trước khi thừa hưởng xứ Ca-na-an, dòng dõi ông phải ở 400 năm trên một đất ngoại bang, tức là Ai-cập (15:13). Khi Áp-ra-ham 100 tuổi và Sa-ra 90 tuổi, thì Ðức Chúa Trời hứa ban Y-sác cho ông bà, và giao ước về lễ cắt bì được thiết lập, làm dấu hiệu đặc biệt của dân tộc được Ðức Chúa Trời lựa chọn.

 

Ðoạn 18, 19 -- Sô-đôm và Gô-mô-rơ

Hai "hố phân" gian ác nầy chỉ cách Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham ở, và Giê-ru-sa-lem, nơi Mên-chi-xê-đéc ở, có mấy dặm đường; nhưng nó hư hoại đến nỗi bay mùi lên trời. Tình trạng nầy chỉ xảy ra sau nạn nước lụt 400 năm, -- nạn nước lụt mà mọi người sống thời đó còn có thể nhớ rõ. Vậy mà ai nấy đã quên bài học do đại tai biến tiêu diệt loài người đó. Và Ðức Chúa Trời "giáng mưa diêm sanh và lửa" (Sáng thế ký 19:24) để nhắc cho loài người nhớ, để cảnh cáo về cơn thạnh nộ của Ngài vẫn dành sẵn cho kẻ ác, và có lẽ cũng để dùng làm bằng chứng rằng sau rốt, trái đất sẽ bị đoán phạt bằng lửa hừng (II Phi-e-rơ 2:5, 6; 3:7, 10).

Ðức Chúa Jêsus ví sánh lúc Ngài tái lâm với thời kỳ của Sô-đôm (Lu-ca 17:26-32), cũng như với thời kỳ nước lụt. Cả hai thời kỳ nầy gian ác khôn tả xiết. Ngày nay có sự tham lam, hung bạo, thú tánh và trực giác sát nhơn hơn bao giờ hết trong lịch sử; ấy là do quỉ địa ngục đang cai trị lòng những kẻ cầm quyền tối cao trên mặt đất. Vậy, ta không cần phải giàu trí tưởng tượng mới thấy thế giới đang tiến tới chung cuộc nào, mặc dầu nhiều thiện nhơn và chánh khách cố tránh chừng nào. Nếu chẳng có một phong trào Ăn Năn khắp thế giới, thì ngày Ðoán phạt chẳng bao xa.

 

Vị trí của Sô-đôm và Gô-mô-rơ

Ở phần cực bắc hoặc phần cực nam của Biển Chết. "Sô-đôm" (Usdom) là tên của hòn núi ở góc tây nam . Theo truyền thoại từ thời cổ, địa hình đã trải qua những cuộc biến cải lớn lao chung quanh phần cực nam của Biển Chết khi thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ bị hủy diệt. Nói chung, các văn sĩ thượng cổ nghĩ rằng vị trí của hai đô thị nầy đã bị chôn vùi dưới nước Biển Chết.

 

Biển Chết

Biển Chết dài chừng 40 dặm và rộng chừng 10 dặm. Phần cực bắc rất sâu, có chỗ sâu tới hơn 300 thước tây. Ở phần phía Nam, không có chỗ nào sâu quá 5 thước, và nhiều chỗ chỉ sâu hơn 3 thước tây. Ngày nay mực nước cao hơn đương thời Áp-ra-ham, vì cớ sông Giô-đanh và nhiều dòng nước đổ bùn vào mà không có lối thoát. Chỗ bây giờ là phần phía Nam của Biển Chết, thì khi ấy là một đồng bằng.

 

Bí Chú Khảo Cổ: 

Năm 1924, Tấn sĩ W.F. Albright và Tấn sĩ M.G. Kyle, chỉ huy phái đoàn hỗn hợp của các Học đường Mỹ và Thần đạo Học viện Xenia, đã tìm thấy năm khoảng đất có cây cối ở giữa sa mạc (oasis) do những suối nước trong mát tạo nên; chính giữa năm khoảng nầy, trên một đồng vắng cao hơn mặt Biển Chết chừng 160 thước, tại một chỗ gọi là Bab-ed-Dra, có di tích của một vách thành lớn xây kín, rõ ràng lắm là một "nơi cao" để mở hội hè tôn giáo. Có rất nhiều mảnh bát, chén bể, đá lửa, và di tích khác của một thời kỳ từ 2500 đến 2000 năm T.C; và cũng có chứng cớ tỏ ra rằng nhơn dân ở đây thình lình không còn nữa, vào khoảng năm 2000 T.C.. Chứng cớ miền nầy vốn đông dân và thạnh vượng tỏ ra rằng chắc nó đã phì nhiêu "cũng như vườn của Ðức Giê-hô-va" (Sáng thế ký 13:10). Ðến như nhơn dân thình lình không còn nữa và từ đó tới nay miền nầy hoang vu trơn trọi, thì dường như tỏ ra rằng khu vực nầy bị hủy phá bởi một đại tai biến đã thay đổi cả đất đai và khí hậu.

Ý kiến của Albright, Kyle và phần đông các nhà khảo cổ học ngày nay là Sô-đôm và Gô-mô-rơ lập trên những khoảng đất có cây cối giữa sa mạc nầy, ở phần hạ lưu của các suối nước, và vị trí nầy ngày nay bị Biển Chết khỏa lấp.

 

Các "hố nhựa chai" và "diêm sanh" (14:10; 19:24)

"Nhựa chai" là chất lịch thanh (bitume), nhựa tráng đường (asphalte), hoặc hắc ín (goudron), tức là một chất đen, láng, có lẫn dầu lửa, tan ra và bốc cháy được. Có những lớp nhựa chai rộng lớn ở hai bên bờ Biển Chết, và phần cực nam có nhiều hơn; dưới đáy Biển Chết cũng có nhiều vùng nhựa chai rộng lớn. Trong các cơn động đất, vô số nhựa chai đã nổi lên mặt nước.

"Diêm sanh". -- Tấn sĩ Kyle nói rằng dưới núi Usdom có một lớp muối dày gần 50 thước tây; trên lớp muối nầy có một lớp đất sét lộn đất vôi (marne) và diêm sanh. Lớp nầy có đúng vào lúc Ðức Chúa Trời nhóm lửa; có một tiếng nổ dữ dội, muối và diêm sanh tung lên trời, đỏ rực và rơi xuống, đến nỗi thật đã có mưa lửa và diêm sanh từ trời đổ xuống. Vợ của Lót đã bị muối phủ kín như một lớp vỏ cứng. Có nhiều trụ muối ở phần cực nam Biển Chết đã mang tên "Vợ của Lót." Quả thật, mọi sự kiện ở miền nầy dường như ăn hiệp trọn vẹn với truyện tích Kinh Thánh về thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ.

Bản đồ số 26

 

Ðoạn 20 -- Sa-ra và A-bi-mê-léc

Dầu Áp-ra-ham định cư tại Hếp-rôn, nhưng từng hồi từng lúc, ông cũng đi từ chỗ nầy đến chỗ kia, để tìm đồng cỏ cho các bầy súc vật. Tại Ghê-ra, một đô thị Phi-li-tin, cách Hếp-rôn chừng 40 dặm về phía Tây, gần bờ biển, ông đã gặp việc rắc rối cũng như đã bị với Pha-ra-ôn (12:10-20). Sa-ra chắc phải có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nên đã cao tuổi như vậy mà còn được các vua chúa chú ý. Về sau, Y-sác và Rê-be-ca cũng bị rắc rối như vậy với một A-bi-mê-léc khác, tại chính đô thị nầy (đoạn 26).

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Các đô thị thời tộc trưởng

Tại nhiều đô thị có liên quan với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, tỉ như Si-chem, Bê-tên, A-hi, Giê-ru-sa-lem, Ghê-ra, Ðô-ta-in, ông Albright và ông Garstang đã tìm thấy, ở từng dưới cùng các di tích những đô thị đó, nhiều mảnh đồ gốm vào khoảng 2000 năm T.C., đủ chứng tỏ rằng lúc ấy thật đã có những đô thị đó.

Bản đồ số 27 -- Miền Áp-ra-ham cư ngụ

 

Ðoạn 21 -- Y-sác sanh ra

Lúc nầy, Ích-ma-ên đã được chừng 15 tuổi rồi (5:8; 16:16). Phao-lô dùng truyện tích hai câu nầy làm thí dụ về giao ước Môi-se và giao ước Ðấng Christ (Ga-la-ti 4:21-31).

Bê-e-sê-ba (câu 30-31), là nơi Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp cư ngụ rất lâu, ở biên giới cực nam của xứ Ca-na-an, cách Hếp-rôn chừng 20 dặm về phía Tây nam, và cách Ai-cập 150 dặm. Ðây là chỗ có "bảy cái giếng." Trong một xứ gần như sa mạc, giếng là một vật sở hữu vô giá. Chính những giếng nầy vẫn còn ở đó.

 

Ðoạn 22 -- Áp-ra-ham dâng Y-sác làm tế lễ

"Ðức Chúa Trời truyền làm việc ấy chỉ cốt để cấm việc ấy." Ðây là sự thử thách đức tin Áp-ra-ham. Ðức Chúa Trời đã hứa rằng Y-sác sẽ là cha của nhiều dân tộc (17:16). Nhưng đây Ðức Chúa Trời truyền lịnh giết Y-sác khi chàng chưa sanh được một con cái nào. Tuy nhiên, Áp-ra-ham tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ làm cho chàng sống lại (Hê-bơ-rơ 11:19). Chúng ta chẳng biết Ðức Chúa Trời dùng cách nào mà bày tỏ mạng lịnh ấy cho Áp-ra-ham. Nhưng ông không thể nào nghi ngờ rằng đó không phải là tiếng phán của Ngài; vì nếu chẳng tuyệt đối biết chắc rằng Ðức Chúa Trời đã truyền lịnh trực tiếp và dứt khoát, ắt ông không ra đi làm một việc tàn ác và đáng bất bình dường ấy! Có thuyết nào cho rằng Áp-ra-ham chịu ảnh hưởng của tục lệ người Ca-na-an dâng con trẻ làm tế lễ, nên chỉ tưởng tượng mình cũng phải dâng Y-sác làm tế lễ; nhưng thuyết nầy hoàn toàn phi lý, vì ý tưởng nầy phát xuất từ Ðức Chúa Trời, chớ chẳng từ Áp-ra-ham.

Sự dâng Y-sác làm tế lễ là hình bóng và lời tiên tri về sự chết của Ðấng Christ. Ðây là cha dâng con mình làm tế lễ. Trong trí óc của Áp-ra-ham, Y-sác đã chết ba ngày (câu 4). Ðây cũng có sự thay thế và một tế lễ thật. Và việc đã xảy ra trên núi Mô-ri-a, tại chính nơi nầy, 2000 năm sau, Con Ðức Chúa Trời cũng chịu dâng mình làm tế lễ. Vậy, ngay lúc khai sanh dân tộc Hê-bơ-rơ, sự dâng Y-sác làm tế lễ nầy là hình bóng về Biến cố Trọng đại mà dân tộc ấy sanh ra để thực hiện.

 

Ðoạn 23 -- Sa-ra qua đời

Hang đá Mặc-bê-la, nơi an táng Sa-ra, ở sườn phía Tây núi Hếp-rôn, trong một giáo đường thuộc quyền kiểm soát của người Hồi giáo; họ không cho phép tín đồ Ðấng Christ vào đó. Năm 1862, vị vua Hồi giáo đã đặc biệt cho phép thái tử nước Anh vào đó. Thái tử đã thấy mộ phần bằng đá của Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, Sa-ra, Rê-be-ca và Lê-a. Có một cửa hình tròn dẫn xuống cái hang bên dưới; và người ta đoán rằng đó chính thật là hang đá Mặc-bê-la; họ cũng nói rằng từ 600 năm nay, chẳng có ai bước chơn vào đó.

Bản đồ số 28 -- Thế giới đương thời Áp-ra-ham

 

Ðoạn 24 -- Y-sác cưới Rê-be-ca làm vợ

Rê-be-ca là em họ của Y-sác, về dòng thứ hai. Mục đích của Áp-ra-ham khi ông cho đưa Y-sác về quê hương và vùng bà con mình để hỏi vợ là để giữ cho dòng dõi mình thoát khỏi sự thờ lạy hình tượng. Nếu Y-sác cưới một thiếu nữ Ca-na-an làm vợ, thì lịch sử dân Y-sơ-ra-ên đã đổi khác biết bao! Ðó là một bài học quan hệ biết bao cho thanh niên trong sự kén chọn bạn trăm năm!

 

Ðoạn 25:1-11 -- Áp-ra-ham qua đời

Sa-ra qua đời năm 127 tuổi, vào lúc đó Áp-ra-ham được 137 tuổi. Sau đó, ông còn sống 38 năm nữa, và trong thời gian nầy, ông đã cưới Kê-tu-ra. Nàng sanh cho ông 6 con trai, là tổ phụ của dân Ma-đi-an và mấy dân tộc lân cận. 500 năm sau, Môi-se đã cưới một thiếu nữ Ma-đi-an (Xuất Ê-díp-tô ký 2:16-21). Về đại cương, Áp-ra-ham là "vị tộc trưởng danh tiếng, thanh khiết nhứt và đáng kính trọng nhứt, được cả người Do-thái, người Hồi giáo và tín đồ Ðấng Christ tôn quí." Ông là "bạn Ðức Chúa Trời" (Gia-cơ 2:23), và "làm cha hết thảy những kẻ tin" (Rô-ma 4:11). Ông rộng lượng và vô kỷ. Ông là một nhơn vật tuyệt hảo, có lòng tin cậy vô biên nơi Ðức Chúa Trời, mặc dầu ông ở gần hai thành Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và thở hút không khí của hai thành ấy.

 

"Dòng dõi của Ích-ma-ên" (25:12-18)

Ðây là tài liệu thứ tám trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Ích-ma-ên là con trai của Áp-ra-ham, do A-ga sanh ra và vốn là người Ai-cập (đoạn 16). Dòng dõi Ích-ma-ên cư ngụ tại xứ A-ra-bi và thường được gọi là người Ả-rập. Như vậy, Áp-ra-ham là tổ phụ của chủng tộc Ả-rập ngày nay. Sự tranh cạnh giữa Y-sác và Ích-ma-ên cứ kéo dài suốt các thế kỷ, do sự đố kỵ giữa người Do-thái và người Ả-rập.

Xứ A-ra-bi là một bán đảo lớn, dài 158 dặm, rộng 800 dặm, và lớn gấp chừng 150 lần xứ Pa-lét-tin. Phần lớn là sa mạc, rải rác thấy những khoảng đất có cây cối, và cư dân thưa thớt gồm các bộ lạc du mục. Ngày xưa, xứ A-ra-bi có nhiều mưa và nhiều cư dân hơn ngày nay. Những sự thay đổi khí hậu làm ít mưa đi, và các dòng nước khô cạn.

 

"Dòng dõi của Y-sác" (25:19 đến 35:29)

Ðây là tài liệu thứ chín trong số các tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Ðây là truyện tích Y-sác và Gia-cốp, do chính Gia-cốp truyền lại cho các con trai ông.

 

Ðoạn 25:19-34 -- Ê-sau và Gia-cốp sanh ra

Ê-sau, con trưởng nam, tự nhiên là kẻ kế tự Y-sác và thừa hưởng các lời hứa đã ban cho Áp-ra-ham. Nhưng Ðức Chúa Trời biết tánh hạnh của hai người nầy trước khi họ sanh ra, nên Ngài đã chọn Gia-cốp để lưu truyền gia tài quí báu. Ngài đã tỏ điều ấy cho thân mẫu của hai người (câu 23), và bà dạy lại cho Gia-cốp biết từ lúc chàng còn thơ ấu. Ðó là bối cảnh của cách Gia-cốp đối xử với Ê-sau (câu 31).

Trong dòng dõi lời hứa, chỉ có Y-sác được lựa chọn, còn hết thảy con trai khác của Áp-ra-ham đã bị loại bỏ. Trong số các con trai của Y-sác, thì Ê-sau đã bị loại bỏ khỏi dòng dõi lời hứa, còn Gia-cốp được lựa chọn. Tới Gia-cốp, thì phương thức loại bỏ không thi hành nữa, vì hết thảy dòng dõi của Gia-cốp được đứng trong số tuyển dân.

 

Ðoạn 26 -- Y-sác kiều ngụ giữa vòng dân Phi-li-tin

Kinh Thánh không chép nhiều về đời sống của Y-sác, trừ việc xảy ra giữa A-bi-mê- léc và Rê-be-ca, cùng sự tranh giành các giếng nước. Ông đã thừa hưởng các bầy súc vật đông đúc của cha để lại; ông thạnh vượng, giàu có, ưa hòa bình và cuộc đời ông không có biến cố nào quan trọng.

Y-sác sanh ra khi Áp-ra-ham được 100 tuổi và Sa-ra 90 tuổi; khi ông 37 tuổi, thì mẹ qua đời; ông cưới vợ năm 40 tuổi, và Gia-cốp sanh ra lúc ông 60 tuổi; ông 75 tuổi khi Áp-ra-ham qua đời, 137 tuổi (?) khi Gia-cốp chạy trốn, 150 tuổi (?) khi Giô-sép sanh ra, 157 tuổi (?) khi Gia-cốp trở về, 167 tuổi khi Giô-sép bị bán làm tôi mọi. Ông qua đời năm 180 tuổi, chính năm Giô-sép lên cầm quyền cai trị nước Ai-cập.

Áp-ra-ham hưởng thọ 175 tuổi, Y-sác 180 tuổi, Gia-cốp 147 tuổi, Giô-sép 110 tuổi.

Ðiều Quan Trọng: "Lịnh, luật và lệ(1)" (câu 5). Câu Kinh Thánh nầy dường như chứng tỏ rằng đương thời Áp-ra-ham đã có phần đầu của Lời Ðức Chúa Trời được biên chép ra.

 

Ðoạn 27 -- Gia-cốp được cha chúc phước cho

Chàng đã mua quyền trưởng nam của Ê-sau rồi (25:31-34). Bây giờ cần phải được cha xác nhận sự chuyển mại. Chàng dùng mưu chước để thực hiện điều ấy. Ðể đánh giá tánh cách đạo đức của hành động Gia-cốp, phải xét tới mấy điểm sau đây: 1) Mẹ chàng xui giục chàng làm việc ấy; 2) Chàng sốt sắng mong ước được quyền trưởng nam, đó là điều đáng khen, mặc dầu chàng đã dùng phương pháp cong quẹo để được quyền ấy; vì quyền trưởng nam có nghĩa là làm môi giới để truyền lời hứa lạ lùng của Ðức Chúa Trời ban phước lành cho cả thế giới; 3) Có lẽ chàng có thể được quyền trưởng nam ấy bằng một cách khác; 4) Ê-sau không màng tới quyền ấy chút nào; 5) Gia-cốp phải trả giá sự gian trá của mình rất mắc (xem đoạn 29 dưới đây); 6) Chính Ðức Chúa Trời đặt nền tảng của những kế hoạch vĩ đại cho thế giới (Rô-ma 9:10-13), và Ngài đã lựa chọn từ trước khi hai chàng sanh ra (Sáng thế ký 25:23).

Những lời tiên tri của Y-sác (câu 29, 40). -- Ðức Chúa Trời chắc đã đặt những lời nầy vào miệng Y-sác, vì nó đã ứng nghiệm lạ lùng. Dòng dõi của Gia-cốp thật chiếm được địa vị bá chủ giữa các dân; và theo thời gian, dòng dõi ấy sanh ra Ðấng Christ, do Ngài mà họ cứ tiến tới địa vị bá chủ hoàn cầu. Dòng dõi của Ê-sau, là dân Ê-đôm, phải phục tòng dân Y-sơ-ra-ên, và có lúc họ thật đã bẻ gãy ách thống trị của dân Y-sơ-ra-ên (II Các vua 8:20-22). Nhưng rốt lại, họ đã biến mất khỏi lịch sử.

 

Ðoạn 28 -- Sự hiện thấy của Gia-cốp tại Bê-tên

Y-sác đã xác nhận sự chuyển giao quyền trưởng nam từ Ê-sau qua Gia-cốp. Bây giờ nó lại được xác nhận trên Thiên đàng, vì chính Ðức Chúa Trời quả quyết với Gia- cốp rằng từ nay trở đi, chàng được thừa nhận là môi giới của các lời hứa. Cái thang ngụ ý rằng các lời hứa bề nào cũng lên tới tuyệt điểm, là làm cái cầu nối liền Thiên đàng với trái đất. Ðức Chúa Jêsus phán chính Ngài là Cái Thang (Giăng 1:51).

Người ta cho rằng lúc nầy Gia-cốp được 77 tuổi. Ông được 15 tuổi khi Áp-ra-ham qua đời, 84 tuổi mới cưới vợ, 90 tuổi khi Giô-sép sanh ra, và 98 tuổi khi trở về xứ Ca-na-an. Ông chừng 100 tuổi khi Bên-gia-min sanh ra, 120 tuổi khi Y-sác qua đời, 130 tuổi khi xuống Ai-cập, và 147 tuổi khi qua đời.

Ông sống 77 năm đầu tại Ca-na an, sống 20 năm sau đó tại Cha-ran, rồi sống 33 năm tại xứ Ca-na-an, và 17 năm cuối cùng tại Ai-cập.

 

Ðoạn 29, 30 -- Gia-cốp kiều ngụ tại Cha-ran

Cha-ran cách xứ Ca-na-an chừng 400 dặm về phía đông bắc. Ðó là nơi Rê-be-ca, mẹ của Gia-cốp sanh trưởng, và lâu năm về trước, ông nội của chàng, là Áp-ra-ham, đã từ đó di cư đi. La-ban là cậu của Gia-cốp. Gia-cốp ở đây 20 năm. Thật là những năm khó nhọc và đau khổ. Chàng đã bị lừa gạt mà phải cưới người vợ mình không ưa thích, đúng như chàng đã dùng mưu lừa gạt mà được cha chúc phước cho. Chàng đã bắt đầu gặt chính cái mình đã gieo. Mùa gặt của chàng thật là chứa chan, đầy dẫy (Ga-la-ti 6:7).

 

Gia đình của Gia-cốp

Ông có hai vợ và hai nàng hầu. Trừ ra một người vợ, là Ra-chên, còn thì ông chẳng ưa thích, nhưng do hoàn cảnh không may mà buộc phải chung sống với họ. Bốn bà nầy đã sanh hạ được 12 con trai.

Lê-a sanh Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn.

Ra-chên sanh Giô-sép, Bên-gia-min.

Xinh-ba, con đòi của Lê-a, sanh Gát, A-se.

Bi-la, con đòi của Ra-chên, sanh Ðan, Nép-ta-li.

Gia đình đa thê nầy có nhiều truyện xấu hổ, nhưng về toàn thể, đã được Ðức Chúa Trời tiếp nhận làm tổ tiên của 12 chi phái hợp thành nước Ðấng Mê-si, tức là nước được Ðức Chúa Trời lựa chọn để đưa Ðấng Mê-si vào trong thế gian. Ðiều nầy tỏ ra rằng:

1. Ðức Chúa Trời dùng người ta, trong nguyên trạng của họ, để làm thành các ý định của Ngài, và với "vật liệu" sử dụng. Ngài dường như đã làm được công việc tốt hết sức.

2. Không có gì tỏ rằng mọi người mà Ðức Chúa Trời dùng như vậy đều sẽ được cứu rỗi đời đời. Người ta có thể được Ðức Chúa Trời dùng thi hành kế hoạch của Ngài trong thế giới nầy mà vẫn chẳng đủ tư cách để hưởng phước đời đời khi Ðức Chúa Trời đoán xét những sự kín nhiệm của người ta để tuyên định chung thẩm (Rô-ma 2:12-16).

3. Ðây là một chứng cớ tỏ ra các tác giả Kinh Thánh đã thành thật. Không có sách nào khác trên thế giới đã thuật lại một cách thật thà trọn vẹn như vậy nhược điểm của các vai chính cùng những sự việc trái hẳn với lý tưởng mà nó định đề cao.

 

Ðoạn 31, 32, 33 -- Gia-cốp trở về xứ Ca-na-an

20 năm trước, ông đã từ giã xứ Ca-na-an, ra đi một mình với hai bàn tay trắng. Bây giờ ông trở về, là chúa của một bộ lạc, có rất nhiều bầy súc vật và tôi tớ. Ðức Chúa Trời đã giữ lời hứa với Gia-cốp (28:15), mặc dầu ông phải trải qua nhiều nỗi khó khăn. Việc Gia-cốp phân rẽ với La-ban sanh ra lời chúc phước tốt đẹp tại Mích-ba mà ngày nay rất nhiều người dùng: "Khi chúng ta phân cách nhau, cầu xin Ðức Chúa Trời coi sóc cậu và cháu!" (31:49).

Khi Gia-cốp lìa khỏi xứ Ca-na-an, thì các thiên sứ chúc ông được Ðức Chúa Trời đưa đi mau lẹ (28:12); khi ông trở về, thì có thiên sứ đón mừng (32:1).

Y-sác vẫn còn sống. Áp-ra-ham đã qua đời chừng 100 năm rồi. Bây giờ Gia-cốp vào hưởng cơ nghiệp trong Ðất Hứa, là xứ Ca-na-an. Từ trước tới nay, Ðức Chúa Trời vẫn ở cùng ông suốt bước đường đời gian khổ. Ông cảm thấy mình cần Ðức Chúa Trời hơn bao giờ hết (32:24-30). Ê-sau đã thề giết ông (27:41), và ông vẫn còn sợ hãi. Nhưng họ đã gặp nhau, rồi chia tay một cách hòa bình.

 

Ðoạn 34 -- Si-mê-ôn và Lê-vi trả thù cho Ði-na

Si-chem là nơi Gia-cốp dừng lại trước nhứt khi ông trở về xứ Ca-na-an. Tại đây ông mua một khoảnh đất và lập bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, dường như ông tính ở đó rất ít là trong một thời gian. Nhưng hành động lưu luyến của Si-mê-ôn và Lê-vi khiến cho những người lân cận gớm ghét; chẳng bao lâu ông dời đến Bê-tên cũng như Áp-ra-ham đã làm lâu năm về trước.

 

Ðoạn 35 -- Ðức Chúa Trời lặp lại giao ước tại Bê-tên

Bê-tên là nơi 20 năm trước, đang khi chạy trốn khỏi xứ Ca-na-an, Gia-cốp đã thấy cái Thang Thiên Thượng và được Ðức Chúa Trời lập làm kẻ kế tự các lời hứa với Áp-ra-ham. Bây giờ Ngài lại tái quyết với ông rằng các lời hứa ấy sẽ được ứng nghiệm. Ðoạn, Gia-cốp dời đến Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và Y-sác đã cư trú. Ông ở đây chừng 30 năm, cho tới lúc di cư xuống Ai-cập.

 

Ðoạn 36 -- Dòng dõi Ê-sau

Ðây là tài liệu thứ mười trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Ðây là một bản lược thuật gốc tích của người Ê-đôm.

Về cá tính của Ê-sau, ông là người phàm tục, không mộ đạo và khinh quyền trưởng nam; trong ông chẳng có gì đáng làm môi giới truyền phước của Ðức Chúa Trời cho thế giới. Ông chỉ chú ý đến tư dục của mình. Gia-cốp chẳng phải là thiên sứ, nhưng so sánh với Ê-sau, thì ông xứng đáng bội phần hơn để làm tổ phụ của dân Ðức Chúa Trời, tức là dân sẽ sanh ra Ðấng Mê-si.

Người Ê-đôm và xứ Ê-đôm. -- Dân A-ma-léc (câu 12) là một nhánh của dòng dõi Ê- sau. Họ là một bộ lạc không có chỗ ở nhứt định; phần lớn họ tập trung chung quanh Ca-đe, là bắc phần của bán đảo Si-na-i; còn thì họ đi lang thang rất rộng, rất xa, vào cả xứ Giu-đê đến tận Ðông phương. Họ là kẻ thù đầu tiên đã tấn công dân Y-sơ-ra-ên khi dân nầy ra khỏi Ai-cập; họ cũng hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên đương thời các Quan xét.

Có người nghĩ rằng có lẽ "Giô-báp" (câu 34) là Gióp, vai chánh trong sách Gióp. "Ê-li-pha" và "Thê-ma" đều được nhắc tên trong sách Gióp. Ðoạn nầy có thể cung hiến khung cảnh cho sách Gióp.

 

"Dòng dõi của Gia-cốp" (37:2 đến 50:26)

Ðây là đoạn thứ 11 và sau chót trong số tài liệu hợp thành sách Sáng thế ký. Truyện tích Giô-sép và việc dân Y-sơ-ra-ên di cư xuống Ai-cập chắc nhập chung với những ký văn của gia đình mà họ đã nhận lãnh từ nơi Áp-ra-ham và đã kính cẩn gìn giữ trải qua những năm kiều ngụ tại Ai-cập.

 

Ðoạn 37 -- Giô-sép bị bán xuống Ai-cập

"Cái áo dài có nhiều sắc" (câu 3) là biểu hiệu của sự thiên vị; có lẽ nó tỏ ra Gia-cốp định ý lập Giô-sép làm kẻ kế tự quyền trưởng nam.

Ru-bên, con trai đầu lòng của Gia-cốp, tự nhiên được kế tự quyền trưởng nam; nhưng chàng bị truất quyền ấy vì đã phạm tội loạn luân với một vợ bé của cha mình (35:22; 49:3, 4; I Sử ký 5:1, 2). Si-mê-ôn và Lê-vi, là người thứ hai và thứ ba có quyền kế tự cũng bị loại bỏ vì đã phạm tội sát nhơn hung bạo tại Si-chem (34:25-30; 49:5-7). Giu-đa là con trai thứ tư, và có lẽ trong gia đình ai cũng đoán rằng quyền trưởng nam sẽ vào tay chàng.

Nhưng Giô-sép, mặc dầu là con trai thứ 11 của Gia-cốp, mà lại là con đầu lòng của Ra-chên. Ra-chên là vợ được Gia-cốp thương mến nhứt, và Giô-sép là con trai ông thương mến nhứt (37:3). Vậy nên chiếc "áo dài" khả nghi lắm. Vả, những chiêm bao của Giô-sép về quyền thế của mình càng làm cho tình hình nghiêm trọng.

Thế là Giu-đa và Giô-sép có vẻ là địch thủ tranh quyền trưởng nam. Ðiều nầy có thể giải thích tại sao Giu-đa lại tích cực dự phần bán Giô-sép làm tôi mọi (câu 26, 27). Sự kình địch giữa Giu-đa và Giô-sép truyền qua dòng dõi của họ. Các chi phái Giu-đa và Ép-ra-im (con trai Giô-sép) luôn luôn tranh giành ngôi bá chủ. Giu-đa làm thủ lãnh dưới đời Ða-vít và Sa-lô-môn. Rồi họ Ép-ra-im làm thủ lãnh 10 chi phái đã ly khai.

 

Ðoạn 38 -- Con cái Giu-đa

Ðoạn nầy xen vào có lẽ vì Giu-đa là tổ tiên của Ðấng Mê-si theo phần xác, và nó cũng phù hợp với mục đích của Cựu Ước, là bảo vệ gia phổ suốt các đời kế tiếp nhau, mặc dầu có một vài điều chẳng đáng khen lắm.

 

Ðoạn 39 -- Giô-sép bị tù

Giô-sép có tâm tánh không tì vít chi, có sắc đẹp phi thường, có thiên tài lãnh đạo đặc biệt, và có thể triệt để lợi dụng bất cứ nghịch cảnh nào. Chàng sanh tại Cha-ran, 75 năm sau khi Áp-ra-ham qua đời, và 30 năm trước khi Y-sác qua đời, khi Gia-cốp, là cha nàng, được 90 tuổi, và 8 năm trước khi họ trở về xứ Ca-na-an. Năm 17 tuổi, chàng bị bán xuống Ai-cập, ở nhà Phô-ti-pha và ở tù tất cả 13 năm. Năm 30 tuổi, ông lên cầm quyền nước Ai-cập, đến năm 110 tuổi thì qua đời.

 

Bí Chú Khảo Cổ:  Giô-sép và vợ Phô-ti-pha

"Truyện hai anh em" ghi trên một bản chỉ thảo thời cổ và hiện nay để tại Anh quốc Bảo tàng viện, đã được chép dưới đời trị vì của Seti đệ nhị, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập ít lâu. Truyện nầy giống hệt truyện tích Giô-sép và vợ Phô-ti-pha, đến nỗi nhà ấn hành bản dịch quyển "Sử ký Ai-cập" của Brugsch ra tiếng Anh, phỏng đoán rằng truyện ấy dựa vào việc ngẫu nhiên nầy, là việc chắc đã được ghi chép vào biên niên sử (annales) của triều đình Ai-cập.

Truyện rằng: Một người anh đã có vợ sai em trai chưa có vợ (anh đã giao hết mọi vật trong nhà vào tay em) về nhà lấy ít lúa giống. Chị dâu bèn cám dỗ chàng. Chàng không chịu. Chị dâu nổi giận, bèn mách chồng rằng em trai đã toan cưỡng hiếp mình. Anh toan mưu giết em. Em chạy trốn, và về sau lên làm vua Ai-cập.

 

Ðoạn 40, 41 -- Giô-sép lên cai trị nước Ai-cập

Giô- sép cưới con gái của thầy tế lễ thành Ôn; mặc dầu ông có vợ ngoại đạo, cai trị một nước ngoại đạo và ở một trung tâm thờ lạy hình tượng hư tệ, nhưng ông vẫn giữ vẹn đức tin từ ngày thơ ấu nơi Ðức Chúa Trời của tổ tiên mình, là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.

 

 

Bí Chú Khảo Cổ: 

Dinh thự của Giô-sép tại thành Ôn. -- Năm 1912, Huân tước Flinders Petrie tìm thấy di tích của một dinh thự mà ông cho là của Giô-sép. Theo truyền thoại, thì đang khi lánh nạn tại Ai-cập, Giô-sép, Ma-ri và Ðức Chúa Jêsus đã ngụ tại thành Ôn.

Bảy năm đói kém. -- Trong quyển "Nước Ai-cập dưới đời trị vì của các Pha-ra-ôn," ông Brugsch có nói đến một bi văn mà ông gọi là "bản xác nhận bảy năm đói kém một cách rất lạ lùng và sáng tỏ." Có phần mộ gia đình đục trong vầng đá của một người kia, tên là Baba, làm tổng đốc đô thị El-Kab, ở phía Nam thành Thèbes; đô thị nầy được kiến thiết dưới triều đại thứ 17, đồng thời với triều đại thứ 16 ở phương Bắc có Giô-sép cầm quyền. Trong phần mộ nầy có một bi văn ghi lời Baba tự nhận đã làm cho đô thị mình chính việc Kinh Thánh chép rằng Giô-sép đã làm cho cả nước Ai-cập: "Là bạn của thần mùa gặt, ta đã thâu trữ lúa. Khi nạn đói kém xảy ra, kéo dài nhiều năm, ta đã phát lúa cho đô thị, suốt mấy năm của nạn ấy." Brugsch nói rằng: "Vì nạn đói kém ít khi xảy ra tại Ai-cập và vì Baba gần sống đồng thời với Giô-sép, nên chỉ còn một cách suy luận đúng mà thôi: Ấy là 'nhiều năm đói kém' đương thời Baba chính là 'bảy năm đói kém' dưới đời cai trị của Giô-sép."

 

Ðoạn 42 đến 45 -- Giô-sép tỏ mình

Người ta gọi các đoạn nầy là một trong những truyện tích hay nhứt, đẹp nhứt của tất cả văn chương thế giới.

Ðiểm cảm động nhứt trong truyện tích nầy là cách đây hơn mười năm, Giu-đa đã thủ xướng việc bán Giô-sép làm tôi mọi (37:26), nhưng bây giờ tự hiến thân làm con tin thế cho Bên-gia-min (44:18-34); cử chỉ nầy chuộc lại thiên tánh sát nhơn của chàng trước kia một phần nào.

 

Ðoạn 46, 47 -- Gia-cốp và gia đình ông định cư tại Ai-cập

Có lẽ Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp tưởng rằng dòng dõi mình sẽ tự nhiên đông đúc thêm và do đó chiếm hữu xứ Ca-na-an. Nhưng Ðức Chúa Trời hoạch định một cách khác; Ngài chỉ định rằng dân Y-sơ-ra-ên phải được trưởng dưỡng một thời gian tại Ai-cập, là nước có nền văn minh cao nhứt đương thời ấy. Khi Gia-cốp ra khỏi xứ Ca-na-an, thì Ðức Chúa Trời quả quyết với ông rằng dòng dõi ông sẽ trở về đó (46:3, 4).

 

Ðoạn 48, 49 -- Gia-cốp chúc phước và nói tiên tri

Gia-cốp dường như đã chia quyền trưởng nam làm hai: Ông chỉ định Giu-đa làm môi giới cho lời hứa về Ðấng Mê-si (49:10), nhưng lại tuyên bố rằng Ép-ra-im, con trai của Giô-sép, sẽ được uy danh đặc biệt trong nước (48:19-22; 49:22-26; I Sử ký 5:1, 2).

Lời tiên tri của Gia-cốp về 12 chi phái phù hợp lạ lùng với lịch sử sau nầy của các chi phái ấy. Người ta thường cho rằng "Si-lô" (câu 10) là một danh hiệu chỉ về Ðấng Mê-si. Chi phái Giu-đa sanh ra Ða-vít, và gia tộc Ða-vít sanh ra Ðấng Christ.

 

Ðoạn 50 -- Gia-cốp và Giô-sép qua đời

Thi hài Gia-cốp được đưa về Hếp-rôn an táng. Tới khi Giô-sép gần qua đời, thì ông đòi các anh em thề khi dân Y-sơ-ra-ên trở về xứ Ca-na-an, thì sẽ chở hài cốt mình theo. Họ chẳng bỏ lòng tin tưởng rằng xứ Ca-na-an sẽ còn là quê hương của họ; và 400 năm sau, khi dân Y-sơ-ra-ên lên đường về Ca-na-an, thì họ chở hài cốt của Giô-sép theo (Xuất Ê-díp-tô ký 13:19).

 

 



(1) Hoặc: thế hệ

(2) Nguyên văn Sáng thế ký 2:4 là "dòng dõi" (thế hệ).

(2)  Chữ "lúc" trong bản Kinh Thánh Việt ngữ theo nguyên văn là "ngày".

(1) Xem quyển: "Semitic Mythology" của Langdon, và quyển: "Field Museum-Oxford University Expedition to Kish" của Henry Field, cuốn 28.

(2) Xem quyển: "The Origin and Growth of Religion -- Facts and Theories" của Dr. Schmidt.

(2)  Nguyên văn là: "đầu."

(1)  Nguyên văn là nhân xưng đại danh từ (pronom personnel) , giống đực, số ít.

(1)  "Thành U-rơ của người Canh-đê."

(1) Có thể dịch là "các điều răn, qui tắc và luật pháp."