Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 81 | Chương 83 >> | Hướng Dẫn
Sử Ký Hội Thánh 3
Những Cơn Bắt Bớ
Néron.-- Năm 64 S.C., tại kinh thành La-mã có xảy ra một nạn cháy lớn. Nhân dân
nghi ngờ hoàng đế Néron đã gây nên
nạn đó. Ðể tránh cho người ta khỏi nghi ngờ mình, hắn bèn tố cáo tín đồ Ðấng
Christ là thủ phạm và ra lịnh trừng phạt họ. Hàng bao nhiêu ngàn tín đồ, trong
số đó có Phao-lô và có lẽ cả Phi-e-rơ, đã bị giết bằng những cách tàn bạo hơn
hết. Tacite chép rằng: "Vậy, để
chấm dứt lời đồn đại, Néron bèn đổ
tội cho những người khả ố vì có thói tục đáng hổ thẹn, mà thường dân gọi là tín
đồ Ðấng Christ. Néron trừng phạt họ
bằng những cực hình tinh tế. Ðấng Christ, Giáo chủ của những người đó, đã bị
quan Thống đốc Bôn-xơ-Phi-lát gia hình, dưới đời trị vì của hoàng đế Tibère. Sự mê tín chí tử đó đã bị đàn áp
một thời gian, song lại bộc phát, chẳng những ở xứ Giu-đê, là nơi phát xuất tệ
đoan đó, song cả ở thành phố (La-mã) nữa. Từ bốn phía, mọi sự gớm ghiếc hoặc
nhơ nhuốc vẫn cùng nhau tràn vào thành phố (La-mã) đó và thạnh hành."
Domitien (96 S.C.).-- Domitien phát động
sự bắt bớ tín đồ Ðấng Christ và tố cáo họ là vô thần, có lẽ vì họ không chịu
thờ lạy hoàng đế. Cơn bắt bớ nầy ngắn ngủi nhưng dữ dội cực điểm. Hàng bao
nhiêu ngàn tín đồ bị giết ở kinh thành La-mã và xứ Ý-đại-lợi, trong số đó có Flavius, Clemens, là em họ của hoàng đế; còn vợ của Clémens, là Flavia Domitilla, thì bị lưu đày. Sứ đồ Giăng
bị đày ra đảo Bát-mô.
Trajan (98-117 S.C.).-- Ông là một hoàng đế tốt nhứt,
nhưng cảm thấy mình phải duy trì luật pháp của đế quốc; đạo Ðấng Christ bị coi
là một tôn giáo bất hợp pháp, vì tín đồ Ðấng Christ không chịu dâng tế lễ cho
các thần La-mã, hoặc dự vào cuộc thờ lạy hoàng đế. Hội Thánh bị coi là một hội
kín bị cấm. Tín đồ Ðấng Christ không bị ruồng bắt, nhưng khi có ai tố cáo, thì
bị trừng phạt. Trong số những người tuận đạo dưới đời trị vì của Trajan, có Si-mê-ôn, em trai Ðức Chúa
Jêsus. Giám mục thành Giê-ru-sa-lem, bị đóng đinh vào thập tự giá năm 107 S.C..
và Ignace II, Giám mục thành An-ti-ốt,
bị giải về kinh thành La-mã và bị quăng cho thú dữ cắn xé năm 110 S.C.. Hoàng
đế cử Pline tới miền Tiểu-Á-tế- á, là
nơi tín đồ Ðấng Christ đông đúc quá đến nỗi các miễu thờ tà thần hầu như bị bỏ
vắng. Pline đem ra hình phạt những ai
không chịu rủa sả Ðấng Christ và dâng tế lễ cho tượng ảnh của hoàng đế. Pline gởi phúc trình tới hoàng đế Trajan như sau: "Họ quả quyết rằng
tất cả trọng tội hoặc sự sai lạc của mình là: Họ quen nhóm họp vào một ngày
nhất định trước khi trời sáng, thay phiên nhau hát thánh ca ngợi khen Ðấng
Christ như một Vị Thần, rồi họ tuyên thệ không bao giờ phạm tội ác, trộm cắp,
hoặc tà dâm, không bao giờ bội lời hứa, không bao giờ bội tín, dầu bị bắt buộc.
Sau những hành động ấy, họ chia tay, rồi lại tụ họp để ăn uống thanh đạm."
Hadrien (117-138) bắt bớ tín đồ Ðấng Christ, nhưng có
chừng mực. Télesphore, Mục sư chi hội
La-mã, và nhiều người khác đã tuận đạo. Tuy nhiên, dưới đời trị vì nầy, đạo
Ðấng Christ tấn bộ rõ rệt về số giáo hữu, tiền của, học vấn, và ảnh hưởng xã
hội.
Antonin le Pieux (138-161).-- Hoàng đế nầy hơi ủng hộ tín đồ Ðấng Christ,
nhưng cảm thấy mình phải duy trì luật pháp; vậy, nhiều người đã tuận đạo, trong
số ấy có Polycarpe.
Marc-Aurèle (161-180).-- Cũng như Hadrien,
ông coi sự duy trì quốc giáo là một nhu cầu chính trị; nhưng khác với Hadrien, ông đã khuyến khích sự bắt bớ
tín đồ Ðấng Christ. Cơn bắt bớ nầy tàn bạo, dã man, và kịch liệt nhứt kể từ
thời Néron. Bao nhiêu ngàn người bị
chém đầu, hoặc bị quăng cho thú dữ cắn xé, trong số ấy có Justin Martyr. Cơn bắt bớ
rất hung dữ ở miền Nam xứ Gaule. Người
tuận đạo đã chịu gia hình mà không nao núng, đến nỗi ta hầu như không thể tin
là có như vậy. Một người nữ tôi mọi, tên là Blandine,
chịu gia hình từ sáng đến đêm, nhưng chỉ nói rằng: "Tôi là tín đồ Ðấng
Christ; giữa vòng chúng tôi, không có làm một điều chi phi pháp."
Septime-Sévère (193-211).-- Cơn bắt bớ nầy rất ác liệt, nhưng không
phải là toàn thể. Ai-cập và Bắc-phi chịu bắt bớ nặng nề nhứt. Tại thành
A-léc-xăn-đơ-ri, "hằng ngày có nhiều thánh tuận đạo bị thiêu đốt, đóng
đinh vào thập tự giá, hoặc chặt đầu," trong số ấy có Léonidas, cha của Origène.
Tại thành Carthage, bà Perpétue, một bậc quí tộc, và người nữ
tôi mọi trung tín, là Félicité, đã bị
thú dữ xâu xé.
Maximien (235-238).-- Dưới đời trị vì của ông nầy, nhiều thủ lãnh quan trọng trong
đạo Ðấng Christ đã bị giết chết. Origène
thoát nạn vì ẩn trốn.
Decius (249-251) cương quyết tiêu diệt đạo Ðấng Christ. Cơn bắt bớ nầy lan rộng
khắp đế quốc; hắn làm cho vô số tín đồ bỏ mạng vì những gia hình tàn ác hơn hết
tại La-mã, Bắc phi, Ai-cập, Tiểu-Á-tế-á. Cyprien
nói rằng: "Cả thế giới bị tàn phá."
Valérien (252-260).-- Tàn ác hơn Decius;
hắn nhắm mục đích hoàn toàn tiêu diệt đạo Ðấng Christ. Nhiều thủ lãnh bị xử tử,
trong số đó có Cyprien, Giám mục
thành Carthage.
Dioclétien (238-305).-- Ðây là cơn bắt bớ cuối cùng của đế quốc La-mã, và cũng ác
liệt hơn hết. Cơn bắt bớ nầy lan rộng khắp đế quốc. Suốt 10 năm, các tín đồ bị
săn bắt trong hang đá và trong rừng rậm; họ bị thiêu đốt; bị quăng cho thú dữ,
bị xử tử bằng đủ cách gia hình mà kẻ tàn bạo có thể nghĩ ra. Ðây là một sự cố
gắng quyết liệt và có phương pháp để loại trừ Danh Ðấng Christ.
Các Hầm Mộ Ở Kinh Thành La Mã
Ðây là những hành lang lớn ở
dưới mặt đất, thường rộng từ 2 thước rưỡi đến 3 thước rưỡi, và cao từ 1 thước
30 đến 2 thước. Ðương thời các hoàng đế bắt bớ đạo Ðấng Christ, tín đồ dùng
những hầm mộ nầy làm nơi ẩn tránh, thờ phượng và an táng người chết. Người ta
tính phỏng có từ 2 triệu đến 7 triệu phần mộ của tín đồ. Ðã tìm thấy hơn 4 ngàn
bi văn thuộc về thời gian giữa Tibère
và Constantin.
Những Người Vô Tín Ðương Thời
Hội Thánh Ðầu Tiên
Celse (180 S.C.), là văn sĩ nổi tiếng nhứt đương thời Hội Thánh đầu tiên, chống
lại đạo Ðấng Christ. Ta có thể tìm thấy trong các tác phẩm của ông tất cả luận
điệu người ta đưa ra từ đó đến nay để chống lại đạo Ðấng Christ. Nhiều ý tưởng
mà ngày nay người ta khoe khoang là "kim thời," thì thật ra đã có từ
đời Celse. Porphyre (233-300 S.C.) cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ chống lại đạo
Ðấng Christ.