Bài 2
1Ban đầu có Ngôi Lời,
Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời. 2Ban
đầu Ngài ở cùng Ðức Chúa Trời. 3Muôn vật bởi Ngài làm nên,
chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài. 4Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng
của loài người. 5Sự sáng soi trong tối tăm,
tối tăm chẳng hề nhận lấy sự
sáng.
6Có một người Ðức
Chúa Trời sai đến, tên là Giăng. 7Người đến để làm chứng về sự sáng, hầu cho
bởi người ai nấy đều tin. 8Chính người chẳng phải là sự sáng,
song người phải làm chứng về sự sáng. 9Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng
mọi người. 10Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian
đã làm nên bởi Ngài;
nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. 11Ngài đã đến trong xứ
mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy. 12Nhưng hễ ai đã nhận
Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho
những kẻ tin danh Ngài, 13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc
bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy.
14 Ngôi Lời đã trở nên
xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển
của
Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.
15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng: Ấy là về Ngài
mà ta đã nói: Ðấng đến sau ta trổi hơn ta, vì
Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy
của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì
luật pháp đã
ban cho Môi-se, còn ơn và lẽ thật bởi Ðức Chúa
Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy
Ðức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã giải bày Cha cho chúng ta
biết. 19Nầy là lời chứng của Giăng, khi dân
Giu-đa sai mấy thầy tế lễ, mấy người Lê-vi từ thành
Giê-ru-sa-lem đến hỏi người rằng: Ông là ai?
Để trả lời cho câu hỏi Ngài Là Ai? các
triết gia, văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ đã từng có dịp diễn tả
tâm sự chân thành của họ trong nhiều tác phẩm
danh tiếng. Trong số những tác phẩm danh
tiếng này có bài hát mang tựa đề Ngài Là Vua, được phóng tác dựa theo nguyên bản
của Jim Cowan với nội dung như sau:
Ngợi tôn Cha Thánh trên muôn loài
Nguyện đời con hát tôn danh Ngài
Ngài là Vua muôn vua, là Cha yêu thương
Là cứu Chúa trên trần gian
Ngợi khen Cha cả tâm linh nầy
Ðời con nay bước với Jêsus
Ngài là Vua muôn vua, là Cha yêu thương
Là cứu Chúa trên trần gian
ÐK:
Ngài là Vua Thánh oai quyền
Ngài là Vua chí cao
Ngài là nguồn ánh sáng soi trên đời
Chiên Con Thánh
Một bài hát khác,
cũng với tựa đề Ngài Là Vua, tuy ngắn nhưng rất đầy ý nghĩa. Bài này có âm điệu được nhiều người biết đến:
Ngài là Vua, Chúa
muôn loài.
Ngài đã sống đắc
thắng cõi chết, Chúa rất quyền oai.
Mọi đầu gối sẽ quỳ. Mọi môi lưỡi xưng nhận:
Chính Jêsus
Christ Chúa ta.
Cũng với âm
điệu trên đây, một người khác đã viết lời như sau:
Ngài là Vua, Chúa là Ngài
Từ cõi chết Jêsus đắc thắng Chúa nay là Vua
Mọi dân đến bái phục, mọi môi sẽ chúc tụng
Chính Jêsus Chúa muôn loài
Ông Nguyễn
Hữu Ái là người đã viết những lời đầy ý nghĩa sau đây cho thánh ca có âm điệu vô cùng trang
trọng:
1. Ngài là ai mà
triệu người khắp năm châu trần gian
Ðã suy tôn làm Vua của đời mình
Ngài là ai mà mọi lòng có an vui tình thương
Nếu vâng theo lời Ngài đã khuyên răn.
Ngài làm cho bao đau thương sẽ vơi đi
Nếu đến bên chân Ngài
Mọi lòng đói có bánh sống,
Nước suối cho hồn tàn héo
Ánh sáng soi nẻo tối tăm nơi vực sâu trong bóng đêm
2.
Nhờ lời Ngài mà cuộc đời biết
bao nhiêu tội nhân
Ðã đổi thay còn đâu chuỗi ngày buồn
Lòng nhiều người đầy tuyệt vọng đã
vui tươi
Tràn dâng hát suy tôn Jêsus Chúa Yêu Thương
Mọi giông tố hay chông gai sẽ tiêu tan
Nếu lắng nghe lời Ngài
Ðường tăm tối có ánh sáng
Nếu bước đi bằng lời sống
Chúa xót thương mỗi cánh chim đang lầm lạc nơi bến mê
Ngôi Lời Và Đức
Chúa Cha (1:1-2)
1Ban đầu có Ngôi Lời,
Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời. 2Ban
đầu Ngài ở cùng Ðức Chúa Trời.
Ma-thi-ơ và Lu-ca
tường thuật sự giáng sinh của Chúa Giê-xu cách chi
tiết. Mác lướt qua
những chi tiết này và khởi sự nói ngay về việc truyền bá Tin Lành của Giăng Báp-tít. Giăng mở đầu sách tin
lành của mình với lời dẫn nhập gồm 18 câu đầu của đọan 1.
Thọat nhìn, có người nghĩ rằng Tin Lành Giăng không đóng góp gì nhiều cho ý
nghĩa của sự giáng sinh của Chúa. Có
đúng như vậy hay không?
Thật ra, tuy Giăng
không nói nhiều về những diễn biến trong việc Chúa giáng sinh, nhưng Giăng lại nói
rất nhiều về ý nghĩa của việc Chúa giáng thế để cư ngụ giữa vòng lòai người. Trong khi Ma-thi-ơ và Mác quan tâm đến nhân tánh
của Chúa thì Giăng lại chú trọng đến thần tánh của Ngài.
Trong khi Ma-thi-ơ bắt đầu với gia
phổ kể từ thời Áp-ra-ham đến thời Đa-vít rồi đến thời Chúa
Giê-xu, Giăng bắt đầu từ thời sáng thế.
Chữ ban đầu
trong Tin Lành Giăng 1 cũng là chữ ban đầu trong
Sáng Thế Ký 1 trong nguyên bản.
Đây không phải là điều ngẫu nhiên. Tư tưởng của Môi-se
khi viết Ban đầu Đức Chúa Trời dựng
nên trời đất cũng là tư tưởng của Giăng khi viết Ban đầu có Ngôi Lời,
Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi là là Đức Chúa Trời.
Trong khi Ma-thi-ơ gọi Đấng giáng
thế là Đức Chúa Giê-xu Christ
ngay trong câu đầu tiên của sách Tin Lành của mình,
Giăng không gọi Ngài là Đức Chúa Giê-xu Christ mãi
cho đến câu 17, và sau đó trong câu 29. Danh xưng Giê-xu là danh xưng Con
Người. Còn danh xưng Ngôi Lời là danh
xưng Con Chúa, danh xưng Thiên Tử, danh xưng Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, danh
xưng của Đấng đồng đẳng với chính Đức
Chúa Trời.
Ngôi Lời là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu.
Ngài không chỉ hiện hữu từ thời sáng thế. Ngài
hiện hữu trước cả thời sáng thế. Có Ngôi Lời rồi mới có vũ trụ và
muôn lòai thọ tạo trong đó.
Ngài không phải là Đấng được dựng
nên. Chính Ngài trong thân vị Thượng Đế
đã dựng nên thế gian và lòai người. Hai câu
đầu tiên trong sách Giăng là hai câu có ý nghĩa trọng yếu:
Đức
Chúa Giê-xu Christ là chính Đức Chúa Trời. Trước khi mang hình hài con
người và sống giữa vòng lòai người, Ngài đã từng hiện hữu cùng Đức Chúa Trời.
Đây là trọng tâm của điều Giăng muốn nói. Giăng muốn tỏ cho mọi người biết
Đấng dựng
nên vũ trụ bao la kia cũng là Đấng đã giáng
sinh nơi máng cỏ nhỏ bé.
Nơi Giăng khởi sự nói về Chúa không phải là Bết-lê-hem, cũng không phải là
đầu
cùng địa cực nhưng đó là nơi khởi nguồn sử ký, khởi nguồn địa dư của vũ trụ và nhân
lọai.
Thần tánh của Chúa Giê-xu và lời chứng về thần tánh ấy là trọng tâm trong sách Tin Lành
Giăng:
Ø
Ta đã thấy nên ta làm
chứng rằng: Ấy chính Ngài là Con Ðức
Chúa Trời. (1:34)
Ø
Na-tha-na-ên lại nói:
Lạy thầy, thầy là Con Ðức Chúa Trời, thầy là Vua dân Y-sơ-ra-ên! (1:49)
Ø
Chưa hề có ai lên
trời, trừ ra Ðấng từ trời xuống, ấy là Con người vốn ở trên trời. (3:13)
Ø
Ðấng từ trên cao
đến là trên hết mọi loài. Kẻ từ đất đến là thuộc về đất,
và nói ra cũng như là thuộc về đất; còn Ðấng từ trời đến thì trên hết mọi
loài. (3:31)
Ø
Bởi cớ đó, dân
Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi,
mà lại vì Ngài gọi Ðức Chúa Trời là Thân phụ mình,
làm ra mình bằng Ðức Chúa Trời. (5:18)
Ø
31Tổ phụ chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, theo như lời chép
rằng: Ngài đã ban cho họ ăn bánh từ trên trời xuống.
32Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng
các ngươi, Môi-se chưa hề cho các ngươi bánh từ trên trời đâu; nhưng Cha ta ban cho các
ngươi bánh thật, là bánh từ trên trời xuống.
33Bởi chưng
bánh Ðức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống cho thế gian. (6:31-33)
Ø
Vì ta từ trên trời
xuống, chẳng phải để làm theo ý ta, nhưng làm theo ý Ðấng đã sai ta đến. (6:38)
Ø
47Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì
được sự sống đời đời.
Ø
48Ta là bánh của sự sống. 49Tổ phụ các ngươi đã ăn ma-na trong đồng
vắng, rồi cũng chết. 50Ðây là bánh từ
trời xuống, hầu cho ai ăn chẳng hề chết.
51Ta là bánh từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh
mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta. . . Ðây là bánh từ trên trời xuống. Bánh đó
chẳng phải như ma-na mà tổ phụ các ngươi đã ăn, rồi cũng sẽ chết; kẻ nào ăn bánh
nầy sẽ sống đời đời. (6:47-51,58)
Ø
28Bấy giờ, Ðức Chúa Jêsus đang dạy trong đền thờ, thì kêu lên
rằng: Các ngươi quen ta, các ngươi biết ta từ đâu lại! Ta đã đến chẳng phải tự
ta, nhưng Ðấng đã sai ta đến là thật, mà các ngươi không biết Ngài.
29Ta thì biết Ngài; vì ta từ Ngài đến, và Ngài là Ðấng đã sai ta đến.
(7:28-29)
Ø
Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Dẫu ta tự làm chứng về mình, nhưng
lời chứng ta là đáng tin, vì ta biết mình đã từ đâu đến và đi đâu; song các
ngươi không biết ta từ đâu mà đến, cũng chẳng hay ta đi đâu. (8:14)
Ø
Ngài phán rằng: Các ngươi bởi dưới mà có; còn ta bởi trên mà
có. Các ngươi thuộc về thế gian nầy; còn ta không thuộc về thế gian nầy. (8:23)
Ø
40Nhưng hiện nay, các ngươi tìm mưu giết ta, là người lấy lẽ
thật đã nghe nơi Ðức Chúa Trời mà nói với các ngươi; Áp-ra-ham chưa hề làm điều
đó! 41Các ngươi làm công việc của cha mình. Chúng
nói rằng: Chúng tôi chẳng phải là con ngoại tình; chúng tôi chỉ có một Cha, là
Ðức Chúa Trời. 42Ðức Chúa Jêsus phán
rằng: Ví bằng Ðức Chúa Trời là Cha các ngươi, thì các ngươi sẽ yêu ta, vì ta bởi
Ðức Chúa Trời mà ra và từ Ngài mà đến; bởi chưng ta chẳng phải đã đến tự mình
đâu, nhưng ấy chính Ngài đã sai ta đến. (8:40-42)
Ø
56Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của
ta; người đã thấy rồi, và mừng rỡ.
57Người Giu-đa nói rằng: Thầy chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã thấy Áp-ra-ham! 58Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật,
ta nói cùng các ngươi, trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta. (8:56-58)
Ø
Có mấy kẻ trong những người Pha-ra-si bèn nói rằng: Người nầy
không phải từ Ðức Chúa Trời đến đâu vì không giữ ngày Sa-bát. Nhưng kẻ khác rằng:
Một kẻ có tội làm phép lạ như vậy thể nào được? Rồi họ bèn chia phe ra. (9:16)
Ø
29Chúng ta biết Ðức Chúa Trời đã phán cùng Môi-se, nhưng
người này thì chúng ta chẳng biết bởi đâu đến.
30Người trả lời rằng: Người đã mở mắt tôi, mà các ông chẳng biết người ở
đâu đến, ấy là sự lạ lùng lắm! (9:29-30)
Ø
Nếu người này chẳng phải đến từ Ðức Chúa Trời, thì không làm
gì được hết. (9:33)
Ø
1Trước ngày lễ Vượt Qua, Ðức Chúa Jêsus biết giờ mình phải
lìa thế gian đặng trở về cùng Ðức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình
trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng. 2Ðương bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài
vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con trai Si-môn), 3Ðức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình,
và mình sẽ về với Ðức Chúa Trời, (13:1-3)
Ø
Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Ðức Chúa Trời, cũng
hãy tin ta nữa. (14:1)
Ø
Bây giờ chúng tôi biết thầy thông biết mọi điều, không cần
phải có ai hỏi thầy; bởi đó nên chúng tôi tin thầy ra từ Ðức Chúa Trời. (16:30)
Ø
7Hiện nay họ đã biết rằng mọi sự Cha đã giao cho Con đều là
từ Cha mà đến. 8Vì Con đã truyền cho họ
những lời Cha đã truyền cho Con, và họ đã nhận lấy; nhìn biết quả thật rằng Con
đến từ nơi Cha, và tin rằng ấy là Cha sai Con đến. (17:7-8)
Ø
Dân Giu-đa lại nói rằng: Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn
phải chết; vì hớn tự xưng là Con Ðức Chúa Trời. (19:7)
Ø
Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Chớ rờ đến ta; vì ta chưa lên cùng
Cha! Nhưng hãy đi đến cùng anh em ta, nói rằng ta lên cùng Cha ta và Cha các
ngươi, cùng Ðức Chúa Trời ta và Ðức Chúa Trời các ngươi. (20:17)
Ø
Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa tôi và Ðức Chúa Trời tôi! (20:28)
Ø
Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Ðức
Chúa Jêsus là Ðấng Christ, tức là Con Ðức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin,
thì nhờ danh Ngài mà được sự sống. (20:31)
Điều Giăng dạy về thần tánh của Đức Chúa Giê-xu Christ tương tự như
điều Cựu Ước dạy về Đấng Mê-si. Các tiên
tri trong Cựu Ước cho biết Đấng Cứu Chuộc sẽ là người thuộc giòng dõi Áp-ra-ham,
Gia-cốp, Giu-đa và Đa-vít (Sáng Thế Ký 49:8-10; 2 Sa-mu-ên 7:12-14). Họ cũng cho biết Đấng Cứu Chuộc ấy sẽ là Đức
Chúa Trời đời đời:
Ø
6Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta,
tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài
sẽ được xưng là Ðấng Lạ lùng, là Ðấng Mưu luận, là Ðức Chúa Trời Quyền năng, là
Cha Ðời đời, là Chúa Bình an. 7Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi
không thôi, ở trên ngôi Ða-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và
lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt
sắng của Ðức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy!
(Ê-sai 9:6-7)
Ø
Hỡi
Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, song từ nơi
ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng cai trị trong Y-sơ-ra-ên; gốc tích của Ngài bởi từ
đời xưa, từ trước vô cùng. (Mi-chê 5:2)
Các tác giả Tân Ước cũng đồng ý với Giăng rằng Đấng được nói
đến trong các sách Tin Lành, Đấng được hội thánh tôn thờ, không phải chỉ
là một người tòan vẹn nhưng còn là Đấng Thánh:
Ø
15Ấy chính Ngài là
hình ảnh của Ðức Chúa Trời không thấy được, và Ðấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật
dựng nên. 16Vì muôn vật đã được dựng nên
trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được,
hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi
Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả. 17Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng
vững trong Ngài.
Ø
18Ấy cũng chính
Ngài là đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh. Ngài là ban đầu sanh trước nhứt
từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng.
19Vì chưng Ðức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong
Ngài, 20và bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình,
khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Ðức
Chúa Trời.
(Cô-lô-se 1:15-20)
Ø
1Ðời xưa, Ðức Chúa
Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách,
2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà
Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian;
3Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Ðức Chúa Trời và hình bóng của bổn thể
Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch
tội, bèn ngồi bên hữu Ðấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao, (Hê-bơ-rơ 1:1-3)
Ø
8Nhưng nói về Con
thì lại phán rằng: Hỡi Ðức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia,
Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng.
9Chúa ưa điều công bình, ghét điều gian ác; Cho nên, hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời của
Chúa lấy dầu vui mừng xức cho, Khiến Chúa trổi hơn kẻ đồng bạn mình.
10Lại có phán: Hỡi Chúa, ban đầu trước hết Chúa đã dựng nền đất, Và các từng
trời cũng là công việc của tay Chúa. (Hê-bơ-rơ 1:8-10)
Ø
9Tôi là Giăng, là
anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước, về sự nhịn nhục trong Ðức
Chúa Jêsus, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Ðức Chúa Trời và chứng
của Ðức Chúa Jêsus.
Ø
10Nhằm ngày của Chúa, tôi được Ðức Thánh Linh cảm hóa, nghe
đằng sau có tiếng kêu vang, như tiếng loa,
11rằng: Ðiều ngươi thấy, hãy chép vào một quyển sách mà gởi cho bảy Hội Thánh
tại Ê-phê-sô, Si-miệc-nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi và
Lao-đi-xê. 12Bấy giờ tôi xây lại đặng
xem tiếng nói với tôi đó là gì; 13vừa
xây lại thấy bảy chơn đèn bằng vàng, và ở giữa những chơn đèn có ai giống như
con người, mặc áo dài, thắt đai vàng ngang trên ngực.
14Ðầu và tóc người trong như lông chiên trắng, như tuyết; mắt như ngọn lửa;
15chơn như đồng sáng đã luyện trong lò lửa, và tiếng như tiếng nước lớn.
16Tay hữu người cầm bảy ngôi sao; miệng thò ra thanh gươm nhọn hai lưỡi và mặt
như mặt trời khi soi sáng hết sức. 17Vừa thấy người, tôi ngã xuống chơn người
như chết; nhưng người đặt tay hữu lên trên tôi, mà rằng: Ðừng sợ chi, ta là Ðấng
trước hết và là Ðấng sau cùng, 18là Ðấng
Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ. (Khải Huyền 1:9-18)
Ngôi Lời Và Thế Gian (1:3-5)
3Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không
bởi Ngài. 4Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng
của loài người. 5Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề
nhận lấy sự sáng.
Câu 1
và câu 2 đặt Chúa vào thời điểm ban đầu, đúng ra là trước cả thời điểm ban đầu.
Ngài đã hiện hữu cùng Đức Chúa Cha trước cả thời sáng thế.
Giờ đây, trong câu 3, Giăng cho biết Chúa là nguồn cội của mọi lòai thọ tạo.
Ngài không chỉ dựng nên thể gian và mọi sự trong đó cho Đức Chúa Trời.
Ngài dựng nên vì chính Ngài là Đấng Sáng Tạo. Ngài là nguồn cội của sự sống.
Giăng
nói về sự sáng như sách Sáng Thế Ký cũng nói về sự sáng.
Trong Sáng Thề Ký, Đức Chúa Trời tách biệt sáng và tối (câu 4).
Đức Chúa Trời gọi sáng là ban ngày và tối là ban đêm. Sau khi dựng nên sự sáng rồi, Đức Chúa Trời
dựng nên sự sống (Sáng Thế Ký 1:11- - -).
Khi Đấng Christ vào trần gian, Ngài là ánh sáng thiên thượng chiếu soi vào trần
gian tăm tối. Chúa đến để bày tỏ sự công bình, sự thánh
khiết của chính Đức Chúa Trời.
Các bản
dịch Anh Ngữ dùng những ý sau đây để dịch câu 5:
q Ánh sáng soi trong tối tăm, nhưng tối tăm chưa hiểu ánh sáng
ấy (The light shines in the darkness, but the darkness has
not understood it) - NIV.
q Ánh sáng soi trong tối tăm, nhưng tối tăm chẳng thắng ánh
sáng ấy (The light shines in the darkness, but the darkness has
not overcome it) - NRS.
q
Ánh sáng cứ soi trong tối tăm, nhưng
tối tăm chưa từng dập tắt ánh sáng ấy (The
light shines on in the darkness, but the darkness has never quenched it) -
NEB.
Bản dịch Việt Ngữ rất sát nghĩa
với nguyên bản: Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng
hề nhận lấy sự sáng. Ánh sáng tiếp
tục soi rọi nhưng trần gian vẫn cứ sống trong tăm tối.
Ánh sáng tỏ cho con người thấy tội, nhưng thế gian vẫn không sẵn sàng ăn năn,
hối lỗi. Ánh sáng kêu gọi, nài mời, nhưng thế gian lại
từ chối. Động từ painei trong thì hiện tại chủ
động liên tiến (linear present active indicative of painw) có ý diễn tả
việc chiếu soi liên tục, một việc đã diễn ra từ trước và hiện còn đang diễn
tiến. Thành ngữ auto ou
katelaben (second aorist active indicative of katalambanw) có
gnhĩa là không hiểu hoặc không nhận.
Giăng nói về ánh sáng trong những câu sau đây: 3:18-21; 5:35; 8:12; 9:5;
12:35-36; 12:46. Trong các thư tín,
Phao-lô cũng có nói về việc ánh sáng soi rọi trong thế gian và lời khuyên tiếp nhận ánh sáng thiên
thượng:
q
3Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất
cho những kẻ hư mất, 4cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã
làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành
Ðấng Christ, là ảnh tượng của Ðức Chúa Trời.
5Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Ðức Chúa
Jêsus Christ, tức là Chúa; và vì tình yêu mến Ðức Chúa Jêsus mà chúng tôi xưng
mình là tôi tớ của anh em. 6Vì Ðức Chúa
Trời, là Ðấng có phán: Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm! đã làm cho sự sáng
Ngài chói lòa trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Ðức Chúa
Trời soi sáng nơi mặt Ðức Chúa Jêsus Christ. (2 Cô-rinh-tô 4:3-6)
q
7Vậy, chớ có thông đồng điều chi với họ hết. 8Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên
người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhơn
từ, công bình và thành thật. 10Hãy xét
điều chi vừa lòng Chúa,
11và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó
thì hơn; 12vì dầu nói đến điều mà những người đó làm
cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều
được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy.
14Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong
đám người chết, thì Ðấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi. (Ê-phê-sô 5:7-14)
q
14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự,
15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái
của Ðức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dữ dội
đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian; 16cho đến nỗi tới
ngày của Ðấng Christ, tôi có thể khoe mình rằng chẳng đã chạy vô ích và khó nhọc
luống công.
(Phi-líp 2:14-16)
Ngôi Lời Và Lời Chứng Của Giăng
(1:6-8)
6Có một người Ðức
Chúa Trời sai đến, tên là Giăng. 7Người
đến để làm chứng về sự sáng, hầu cho bởi người ai nấy đều tin. 8Chính người chẳng phải là sự sáng, song
người phải làm chứng về sự sáng.
Giăng là người đầy uy tín. Ông
được nhiều người kính nể. Trong số đó có những người tuy không quí mến
ông nhưng họ lại khiếp sợ ông tình tánh tình cương trực và lời rao giảng thẳng
thắn.
Nhiều người đến nghe ông rao giảng về sự ăn năn để được tha tội.
Họ vui lòng làm môn đồ của ông và thậm chí có người lầm tưởng ông là Đấng Mê-si:
q
Cả xứ Giu-đê và hết thảy dân sự thành Giê-ru-sa-lem đều đến
cùng người, xưng tội mình và chịu người làm phép báp-têm dưới sông Giô-đanh. (Mác 1:5)
q Bởi dân chúng vẫn
trông đợi, và ai nấy đều tự hỏi trong lòng nếu Giăng phải là Ðấng Christ chăng, (Lu-ca 3:15)
q
33Họ thưa Ngài rằng: môn đồ của Giăng thường kiêng ăn cầu
nguyện, cũng như môn đồ của người Pha-ra-si, chẳng như môn đồ của thầy ăn và
uống. 34Ngài đáp rằng: Trong khi chàng
rể còn ở cùng bạn mừng cưới mình, các ngươi dễ bắt họ phải kiêng ăn được sao?
35Song đến ngày nào chàng rể phải đem đi khỏi họ, thì trong những ngày ấy họ mới
kiêng ăn vậy. (Lu-ca 5:33-35)
q
33Các ngươi có sai sứ đến cùng Giăng, thì người đã làm chứng
cho lẽ thật. 34Còn ta, lời chứng mà ta nhận lấy chẳng phải bởi người ta; nhưng
ta nói vậy, đặng các ngươi được cứu. 35Giăng là đuốc đã thắp và sáng, các ngươi
bằng lòng vui tạm nơi ánh sáng của người. (Giăng 5:33-35)
Trong suốt cả chức vụ, Giăng chẳng
hề làm phép lạ nào. Ông chỉ rao giảng về
sự ăn năn để được tha tội và làm báp têm cho những người có lòng thống hối.
Nhiệm vụ của ông là chỉ cho người ta thấy Chúa, Đấng có quyền tha tội và ban cho sự sống đời
đời. Sau chức vụ của Giăng, người tiền phong sửa
sọan đường cho Chúa, dân chúng bắt đầu tin Chúa:
q
40Ðoạn, Ngài lại sang bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã
làm phép báp tem trước hết, và trú tại đó. 41Có nhiều kẻ đến cùng Ngài, mà nói rằng: Giăng chưa làm một phép
lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy là thật. 42Tại
đó có nhiều người tin Ngài. (Giăng 10:40-42)
Ngôi Lời Và Những Người Hư Mất (1:9-13)
9Sự sáng nầy là sự
sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người.
10Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng
từng nhìn biết Ngài. 11Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình
chẳng hề nhận lấy. 12Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho
quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, 13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc
bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy.
Chính Giăng Báp-tít không phải là Sự Sáng. Người chỉ đến để làm chứng về Sự Sáng. Sự Sáng nà là Sự Sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người. Ngôi Lời là nguồn cội của sự sáng.
Ngài là Đấng khiến ánh sáng hiện hữu (Sáng Thế Ký 1:3). Cựu Ước có nói thật nhiều về sự sáng trong
mối liên hệ với việc Chúa đến trần gian:
q
3Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán, Hòn Ðá lớn của
Y-sơ-ra-ên đã phán cùng ta rằng: Người nào cai trị loài người cách công bình,
Cách kính sợ Ðức Chúa Trời, 4Thì sẽ giống như sự chói lòa buổi sáng, khi mặt trời mọc, Khác
nào một buổi sớm mai chẳng có mây; Các ánh sáng nó làm cho cây cỏ bởi đất nảy ra
sau khi mưa. (2 Sa-mu-ên 23:3-4)
q
Chúa thắp ngọn đèn tôi: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi, soi sáng
nơi sự tối tăm tôi. (Thi Thiên 18:28)
q
Ðức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai?
Ðức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai? (Thi Thiên 27:1)
q
Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng khác nào bằng cái áo, Giương
các từng trời ra như cái trại. (Thi Thiên 104:2)
q
Dân đi trong nơi tối tăm đã thấy sự sáng lớn; và sự sáng đã
chiếu trên những kẻ ở xứ thuộc về bóng của sự chết. (Ê-sai 9:2)
q
Sự sáng của Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên lửa, Ðấng Thánh nó sẽ trở
nên ngọn đèn, chỉ trong một ngày, đốt tiêu gai gốc và chà chuôm nó; (Ê-sai 10:17)
q
Ta sẽ khiến kẻ mù đi trên con đường mình không thuộc, dắt họ
bởi các nẻo chẳng quen; ta sẽ đổi bóng tối trước mặt họ ra ánh sáng, nơi cong
quẹo ra ngay thẳng. Thật, ta sẽ làm các sự đó, và không lìa bỏ chúng nó đâu. (Ê-sai 42:16)
q
Ngài có phán cùng ta rằng: Ngươi làm tôi tớ ta đặng lập lại
các chi phái Gia-cốp, và làm cho những kẻ được gìn giữ của Y-sơ-ra-ên lại được
trở về, còn là việc nhỏ; ta sẽ khiến ngươi làm sự sáng cho các dân ngoại, hầu
cho ngươi làm sự cứu rỗi của ta đến nơi đầu cùng đất. (Ê-sai 49:6)
q
Bấy giờ sự sáng ngươi sẽ hừng lên như sự sáng ban mai, ngươi
sẽ được chữa lành lập tức; sự công bình ngươi đi trước mặt ngươi, sự vinh hiển
của Ðức Giê-hô-va sẽ gìn giữ sau ngươi. (Ê-sai 58:8)
q
1Hãy dấy lên, và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến, và
vinh quang Ðức Giê-hô-va vã mọc lên trên ngươi.
2Nầy, sự tối tăm vây phủ đất, sự u ám bao bọc các dân; song Ðức Giê-hô-va dấy
lên trên ngươi, vinh quang Ngài tỏ rạng trên ngươi. 3Các dân tộc sẽ được nơi sự sáng ngươi, các
vua sẽ đến nơi sự chói sáng đã mọc lên trên ngươi. (Ê-sai 60:1-3)
q
19Ngươi sẽ chẳng nhờ mặt trời soi sáng ban ngày nữa, và cũng
chẳng còn nhờ mặt trăng chiếu sáng ban đêm; nhưng Ðức Giê-hô-va sẽ làm sự sáng
đời đời cho ngươi, Ðức Chúa Trời ngươi sẽ làm vinh quang cho ngươi.
20Mặt trời của ngươi không lặn nữa; mặt trăng chẳng còn khuyết, vì Ðức Giê-hô-va sẽ là sự sáng đời đời
cho ngươi, những ngày sầu thảm của ngươi đã hết rồi. (Ê-sai 60:19-20)
q
Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết những
sự ở trong tối tăm và sự sáng ở với Ngài. (Đa-ni-ên 2:22)
q
8Hỡi kẻ thù ta, chớ vui mừng vì cớ ta. Ta dầu bị ngã, sẽ lại
dậy; dầu ngồi trong nơi tối tăm, Ðức Giê-hô-va sẽ làm sự sáng cho ta.
9Ta chịu lấy sự thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va vì ta đã phạm tội nghịch cùng Ngài,
cho đến chừng Ngài đã binh vực lẽ ta và phán xét cho ta, thì Ngài sẽ dắt ta đến
sự sáng và ta sẽ thấy sự công bình của Ngài.
(Mi-chê 7:8-9)
Khi Giăng nói Chúa
Giê-xu là Ánh Sáng, Giăng cho biết Chúa là sự ứng nghiệm lời hứa dành cho dân
Y-sơ-ra-ên như đã được dự ngôn trong Cựu Ước.
Ánh Sáng này là Ánh Sáng thật, vượt trổi hơn bất kỳ ánh sáng nào khác.
Sự ứng nghiệm này là sự ứng nghiệm sau cùng, có giá trị hơn mọi sự ứng nghiệm
nào khác. Khi Ánh Sáng đến thế gian do chính Ngài dựng
nên, thế gian lại không nhận biết Ngài, không tiếp rước Ngài. Vì đã quen sống trong tối tăm, thế gian chẳng
muốn chào đón Ánh Sáng rạng lòa.
Ma-thi-ơ diễn tả ý này cách rõ ràng qua mẫu chuyện về người làm công trong vườn
nho trong Ma-thi-ơ 21:33-46. Về sau,
Phao-lô cắt nghĩa rõ ràng hơn nữa trong Rô-ma 1:18-32.
18Vả, cơn giận của
Ðức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự
không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. 19Vì điều chi có thể biết được về Ðức Chúa
Trời thì đã trình bày ra cho họ, Ðức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, 20bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là
quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem
thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình
được, 21vì họ dẫu biết Ðức Chúa Trời, mà không làm
sáng danh Ngài là Ðức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong
lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm.
22Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; 23họ đã đổi vinh
hiển của Ðức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát,
hoặc của điểu, thú, côn trùng.
24Cho nên Ðức Chúa
Trời đã phó họ sa vào sự ô uế theo lòng ham muốn mình, đến nỗi tự làm nhục thân
thể mình nữa, 25vì họ đã đổi lẽ thật Ðức Chúa Trời lấy sự dối trá, kính thờ và
hầu việc loài chịu dựng nên thế cho Ðấng dựng nên, là Ðấng đáng khen ngợi đời
đời! A-men. 26Ấy vì cớ đó mà Ðức Chúa
Trời đã phó họ cho sự tình dục xấu hổ; vì trong vòng họ, những người đờn bà đã
đổi cách dùng tự nhiên ra cách khác nghịch với tánh tự nhiên. 27Những người đờn ông cũng vậy, bỏ cách dùng
tự nhiên của người đờn bà mà un đốt tình dục người nầy với kẻ kia, đờn ông cùng
đờn ông phạm sự xấu hổ, và chính mình họ phải chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi
của mình. 28Tại họ không lo nhìn biết Ðức Chúa Trời, nên Ðức Chúa Trời đã
phó họ theo lòng hư xấu, đặng phạm những sự chẳng xứng đáng. 29Họ đầy dẫy mọi sự
không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ; chan chứa những điều ghen ghét, giết
người, cãi lẫy, dối trá, giận dữ; 30hay mách, gièm chê, chẳng tin kính, xấc
xược, kiêu ngạo, khoe khoang, khôn khéo về sự làm dữ, không vâng lời cha mẹ;
31dại dột, trái lời giao ước, không có tình nghĩa tự nhiên, không có lòng thương
xót. 32Dầu họ biết mạng lịnh Ðức Chúa
Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ
tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa.
Dầu thế gian chống nghịch Chúa đến như vậy, Chúa cũng không thay đồi
ý định tốt lành và lòng nhân từ rộng lớn vô biên của Ngài.
Đối với những ai tiếp nhận Ngài, Ngài cho phép họ trở thành con cái Đức Chúa
Trời. Họ không còn thuộc về trần gian nhưng thuộc
về Chúa. Về phương diện tâm linh họ được sanh ra theo thánh ý Thiên Chúa
chí cao.
Ngày nay, bất cứ người nào bởi đức tin thấy Chúa, tin Chúa, theo Chúa,
tùng phục Chúa đều được dự phần trong lời hứa ấy.
Sự cứu rỗi Chúa ban cho không do ý người nhưng do ý Chúa và được bảo đảm bởi
tình thương và năng lực của Chúa.
Vấn đề ở đây chẳng phải là con người chọn Chúa, nhưng Chúa chọn con
người.
Ngôi Lời Trong
Hình Hài Con Người (1:14-18)
14 Ngôi Lời đã trở
nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh
hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng:
Ấy là về Ngài mà ta đã nói: Ðấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta.
16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn.
17Vì luật pháp đã ban cho Môi-se, còn ơn và lẽ thật bởi Ðức Chúa Jêsus Christ mà
đến. 18Chẳng hề ai thấy Ðức Chúa Trời;
chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.
Từ câu 1 đến câu 13 chúng ta nghe Giăng trình bày về Ngôi Lời, Đấng
hiện hữu cùng Đức Chúa Trời từ trước thời sáng thế, Đấng khởi nguồn ánh sáng và
sự sống, Đấng được Giăng Báp-tít làm chứng nhưng không được thế gian tiếp nhận,
Đấng luôn luôn sẵn sàng bày tỏ lòng nhân.
Tựa như mặt trời từ nơi xa thẳm trên không trung chiếu đến trái đất,
Ngôi Lời từ ngàn đời xa xưa đó nay đã tỏa soi ngay giữa vòng nhân thế. Ánh sáng rạng lòa không ở nơi xa nhưng đến sát cạnh bên.
Từ cõi vô thủy vô chung, Chúa đã bước vào cảnh giới hạn của con người,
mặc lấy hình hài con người, sống cuộc sống của con người, cư ngụ với con người,
dựng trại, dừng chân bên cạnh con người, giao tiếp với mọi người thuộc mọi lớp
tuổi, mọi giai cấp.
Từ ngữ dựng trại được Môi-se xử dụng trong Xuất Ai-cập Ký 29:42-43 có ý
bày tỏ sự hiện diện của Chúa cùng tuyển dân của Ngài.
Ý này tỏ cho thấy Chúa không ở xa nhưng Ngài ở gần những người được Ngài yêu
thương , dẫn dắt.
Xuất Ai-cập Ký 40:34-35 thuật lại cảnh Môi-se không vào cửa hội mạc
được vì bên trên có mây bao phủ và vinh quang của Chúa đầy dẫy Lều Tạm:
Áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Ðức Giê-hô-va đầy
dẫy đền tạm, cho đến nỗi Môi-se vào chẳng đặng, vì áng mây bao phủ ở trên và sự
vinh hiển của Ðức Giê-hô-va đầy dẫy đền tạm.
Ngày xưa chỉ có một mình Môi-se được phép đại diện tuyển dân đến ra
mắt Chúa.
Giăng cho biết ngày nay chúng ta có thể ngắm xem Chúa tận tường, không
phải chỉ một người, nhưng bất cứ ai muốn chiêm ngưỡng Chúa đều được phép. Ngày xưa, qua Môi-se Đức Chúa Trời viết luật
pháp của Ngài vào bảng đá. Ngày nay, qua
Đấng Christ, Đức Chúa Trời khải thị chính Ngài trong hình hài con người, đầy ơn
và lẽ thật. Ngày xưa Chúa phán truyền
chân lý. Ngày nay, ngòai chân lý Ngài
biểu lộ ơn thiêng dư dật.
1Ðời xưa, Ðức Chúa
Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách,
2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà
Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; 3Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Ðức
Chúa Trời và hình bóng của bổn thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn
vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Ðấng tôn nghiêm ở trong
nơi rất cao, (Hê-bơ-rơ 1:1-3)
Chúa Giê-xu cao trọng hơn luật pháp vì
Ngài là sự khải thị sau cùng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa, ân điển mà Ngài ban cho thì lớn hơn ân điển luật pháp
bày tỏ. Qua Đấng Christ nhân lọai có thể nhận được
"ơn càng thêm ơn". Ân điển ngày xưa có
giới hạn. Ân điển ngày nay trải rộng
muôn phần.
17Ðức Giê-hô-va
phán cùng Môi-se rằng: Ta sẽ làm điều ngươi cầu xin ta, vì ngươi được ơn trước
mặt ta, và ta biết ngươi bởi danh ngươi vậy.
18Môi-se thưa rằng: Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài!
19Ðức Giê-hô-va phán ràng: Ta sẽ làm cho các sự nhân từ ta phát ra trước mặt
ngươi; ta hô danh Giê-hô-va trước mặt ngươi; làm ơn cho ai ta muốn làm ơn, và
thương xót ai ta muốn thương xót. 20Ngài
lại phán rằng: Ngươi sẽ chẳng thấy được mặt ta, vì không ai thấy mặt ta mà còn
sống. 21Ðức Giê-hô-va lại phán: Ðây có một chỗ gần
ta, ngươi hãy đứng trên hòn đá; 22khi sự
vinh hiển ta đi ngang qua, ta sẽ để ngươi trong bộng đá, lấy tay ta che ngươi,
cho đến chừng nào ta đi qua rồi.
23Ta sẽ rút tay
lại, và ngươi thấy phía sau ta; nhưng thấy mặt ta chẳng được.
1Ðức Giê-hô-va
phán cùng Môi-se rằng: Hãy đục hai bảng đá như hai bảng trước; rồi ta sẽ viết
trên hai bảng nầy các lời đã ở nơi hai bảng kia, mà ngươi đã làm bể. 2Ngày mai, hãy chực cho sẵn, vừa sáng lên
trên đỉnh núi Si-na-i, đứng trước mặt ta tại đó. 3Không ai nên lên theo cùng ngươi hết, khắp núi không nên thấy có
người, và chiên, bò cũng chẳng nên ăn cỏ nơi núi nầy nữa. 4Môi-se bèn đục hai bảng đá, y như hai bảng
trước; dậy sớm, cầm theo tay hai bảng đó lên trên núi Si-na-i, y như lời Ðức
Giê-hô-va đã phán dặn. 5Ðức Giê-hô-va ngự xuống trong đám mây, đứng gần bên Môi-se và hô
danh Giê-hô-va.
6Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! là Ðức Chúa
Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực,
7ban ơn đến ngàn đời, xá điều gian ác, tội trọng, và tội lỗi; nhưng chẳng kể kẻ
có tội là vô tội, và nhơn tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời. (Xuất Ai-cập Ký
33:17-34:7)
Kết Luận:
Chúng ta học được điều gì từ phần dẫn nhập của Sách Tin Lành Giăng?
Thứ nhất, phần này giới thiệu những chân lý và những chủ đề lớn để
được khai triển trong những đọan kế tiếp.
Thứ nhì, những chân lý trên đây là trọng tâm của Tin Lành.
Trong khi các sách Tin Lành khác quan tâm đến Chúa Giê-xu thành Na-xa-rét, Giăng
chú trọng đến Ngôi Lời, Đấng đồng hiện hữu cùng Đức Chúa Cha trước cả thời sáng
thế. Vào những thế kỷ ban đầu trường
phái Arianism tấn công thần quyền của Chúa. Theo trường phái này Chúa Giê-xu chỉ là con
người mà thôi.
Ngược lại, theo trường phái Docetism, Chúa Giê-xu không có thân thể thật
mà chỉ là thần linh.
Sứ đồ Giăng đánh đổ quan niệm của hai trường phái trên đây qua phần dẫn
nhập của Sách Tin Lành Giăng.
Thứ ba, Giăng nhấn mạnh giáo lý về sự nhập thể của Chúa Giê-xu. Hài nhi giáng sinh ở Bết-lê-hem chính là Thượng Đế giáng thế trong
hình hài con người. Ngài đến theo lơi
dự ngôn trong Cựu Ước. Ngài ra đời trong giòng tộc của tuyển dân (2
Sa-mu-ên 712-14).
Ngài còn là Đấng Thánh (Ê-sai 9:6; Mi-chê 5:2).
Thứ tư,
Đức CHúa Giê-xu Christ là sự khải thị sau cùng và trọn vẹn của Đức Chúa
Trời (Hê-bơ-rơ 2:1-4).
Thứ năm, Giăng giúp chúng ta hiểu thêm lẽ mầu nhiệm của sự giáng
sinh của Chúa Giê-xu. Đấng vô hạn tự đặt
mình trong thân phận giới hạn của con người.
Đấng Sáng Tạo sống như một con người, như một lòai thọ tạo. Nhờ đó lòai người có thể chiêm ngưỡng cách
tường tận sự vinh hiển của chính Thượng Đế.