Bài 4                                           Thứ Tư ngày 29 tháng 5 năm 2002

 

Các Môn Đồ Đầu Tiên

(1:35-51)

 

35 Ngày mai, Giăng lại ở đó với hai môn đồ mình;  36 nhìn Ðức Chúa Jêsus đi ngang qua, bèn nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời!  37 Hai môn đồ nghe lời đó, bèn đi theo Ðức Chúa Jêsus.  38 Ðức Chúa Jêsus vừa xây lại, thấy hai người đi theo mình, thì phán rằng: Các ngươi tìm chi? Thưa rằng: Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu?  39 Ngài phán rằng: Hãy đến xem. Vậy, hai người đi, thấy nơi Ngài ở, và ở lại cùng Ngài trong ngày đó; lúc bấy giờ độ chừng giờ thứ mười. 

40 Trong hai người đã nghe điều Giăng nói và đi theo Ðức Chúa Jêsus đó, một là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ.  41 Trước hết người gặp anh mình là Si-môn, thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ).  42 Người bèn dẫn Si-môn đến cùng Ðức Chúa Jêsus. Ngài vừa ngó thấy Si-môn, liền phán rằng: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa là Phi-e-rơ). 

43 Qua ngày sau, Ðức Chúa Jêsus muốn qua xứ Ga-li-lê, tìm Phi-líp, mà phán rằng: Hãy theo ta.  44 Vả, Phi-líp là người Bết-sai-đa, đồng thành với Anh-rê và Phi-e-rơ.  45 Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, nói với người rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng mà Môi-se có chép trong luật pháp, và các đấng tiên tri cũng có nói đến; ấy là Ðức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, con của Giô-sép.  46 Na-tha-na-ên nói rằng: Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao? Phi-líp nói: Hãy đến xem.  47 Ðức Chúa Jêsus thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, bèn phán về người rằng: Nầy, một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết.  48 Na-tha-na-ên thưa rằng: Bởi đâu thầy biết tôi? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trước khi Phi-líp gọi ngươi, ta đã thấy ngươi lúc ở dưới cây vả.  49 Na-tha-na-ên lại nói: Lạy thầy, thầy là Con Ðức Chúa Trời, thầy là Vua dân Y-sơ-ra-ên!  50 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Vì ta đã phán cùng ngươi rằng ta thấy ngươi dưới cây vả, thì ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc lớn hơn điều đó!  51 Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con người.

 

Kết tình huynh đệ, kết nghĩa tào khang, hoặc kết ước vợ chồng là những kinh nghiệm quan trọng, quí báu và đầy ý nghĩa. Ngày xưa khi Chúa Giê-xu chọn các môn đồ đầu tiên, Ngài cho họ hưởng đặc ân làm bạn hữu chân thành, chung thủy, chí thân cùng Thượng Đế hằng sống trong hình hài con người.  Ba sách Tin Lành Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca đều thuật lại hai mẫu chuyện về việc Chúa kêu gọi các môn đồ.  Ma-thi-ơ và Mác thuật lại cách ngắn gọn chuyện Chúa kêu gọi Gia-cơ và Giăng cùng Si-môn và Anh-rê.  Lu-ca cho biết nhiều chi tiết hơn.  Trong Lu-ca đọan 5, Chúa Giê-xu đi đến bên bờ Hồ Ghết-nê-sa-rết, nơi Ngài giảng giảng dạy cho đòan dân đông.  Gần đó có hai chiếc thuyền cá, một chiếc của Gia-cơ và Giăng, chiếc kia của Si-môn và Anh-rê.  Chúa bước lên thuyền của Phi-e-rơ và bảo Phi-e-rơ đưa thuyền các xa bờ để Ngài có thể từ đó giảng dạy cách dễ dàng hơn cho cả đòan dân đông đang lắng nghe.  Sau khi giảng dạy xong, Chúa bảo Phi-e-rơ chèo ra xa hơn nữa để lưới cá.  Điều này lạ lắm.  Phi-e-rơ đã từng đi lưới trong nhiều năm.  Lời Chúa phán không phù hợp với kinh nghiệm lưới cá của Phi-e-rơ.  Dầu vậy Phi-e-rơ vẫn nghe lời Chúa phán.  Ông chèo thuyền ra xa xa rồi thả lưới.  Cá nhiều đến nỗi Giăng và Gia-cơ phải đến giúp.  Cả hai thuyền đều ngập đầy cá đến nỗi gần chìm.  Đột nhiên Phi-e-rơ nhận biết Chúa là Đấng cao cả, đầy quyền năng.  Ông phủ phục xuống nơi chân Chúa, xin Chúa rời khỏi ông vì ông là người đầy tội lỗi.  Ngay sau đó, Chúa phán truyền cùng các ngư phủ:  Hãy theo ta, ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người (Lu-ca 5:10).  Sứ đồ Giăng không thuật lại mẫu chuyện này.

Mẫu chuyện thứ nhì về việc Chúa kêu gọi các môn đồ diễn ra khi Chúa bổ nhiệm và sai phái 12 sứ đồ ra đi truyền đạo.  Cả ba sách Tin Lành Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca đều thuật lại mẫu chuyện thứ nhì này.  Cũng như lần trước, sứ đồ Giăng không viết về việc Chúa kêu gọi các môn đồ ngọai trừ trường hợp Chúa kêu gọi Phi-líp.  Giăng không liệt kê tên 12 sứ đồ.  Ông chỉ nói về họ có bốn lần mà thôi; ba lần trong Giăng đọan 6 (câu 67, 70 và 71) và một lần trong đọan 20 câu 24.  Giăng nói nhiều hơn cả về các sứ đồ trong Giăng 21:1-2 khi Chúa xuất hiện cùng họ bên bờ Hồ Ti-bê-ri-át:

1 Rồi đó, Ðức Chúa Jêsus lại hiện ra cùng môn đồ nơi gần biển Ti-bê-ri-át. Việc Ngài hiện ra như vầy: 2 Si-môn Phi-e-rơ, Thô-ma gọi là Ði-đim, Na-tha-na-ên nguyên ở thành Ca-na trong xứ Ga-li-lê các con trai của Xê-bê-đê và hai người môn đồ khác nữa nhóm lại cùng nhau.

Khi nói về chính mình và em mình, Giăng dùng từ "hai con trai của Xê-bê-đê."  Giăng không viết tên em mình trong sách Tin Lành Giăng, cũng không đề cập đến tên ba môn đồ thân tín (Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng) như trong các sách Tin Lành khác.

 

Chúa Giê-xu Và Hai Môn Đồ Của Giăng Báp-tít (1:35-39)

35 Ngày mai, Giăng lại ở đó với hai môn đồ mình;  36 nhìn Ðức Chúa Jêsus đi ngang qua, bèn nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời!  37 Hai môn đồ nghe lời đó, bèn đi theo Ðức Chúa Jêsus.  38 Ðức Chúa Jêsus vừa xây lại, thấy hai người đi theo mình, thì phán rằng: Các ngươi tìm chi? Thưa rằng: Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu?  39 Ngài phán rằng: Hãy đến xem. Vậy, hai người đi, thấy nơi Ngài ở, và ở lại cùng Ngài trong ngày đó; lúc bấy giờ độ chừng giờ thứ mười. 

Một ngày kia, khi Giăng Báp-tít đang đứng với hai môn đồ của mình thì thấy Chúa Giê-xu đi ngang qua.  Giăng nói:  Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời.  Hai môn đồ liền theo Chúa Giê-xu.  Khi thấy họ đến gần, Chúa Giê-xu hỏi:  Các ngươi tìm chi?  Chúa không hỏi:  Các ngươi tìm ai? nhưng Chúa hỏi:  Các ngươi tìm chi?  Chúa muốn họ xác định điều họ thật sự đang trông mong tìm kiếm.  Họ trả lời:  Thưa Thầy, Thầy ở đâu?  Lạ lùng thật.  Phải chăng họ đang chểnh mảng, lo ra, hoặc sơ ý khi Chúa hỏi nên đã trả lời như vậy?  Có thể có người muốn hiểu như thế nhưng kỳ thật câu trả lời của hai môn đồ của Giăng Báp-tít là lời thỉnh cầu được đi theo Chúa để đến nơi cư ngụ của Ngài.  Bởi vậy nên ngay sau đó Chúa phán:  Hãy đến và xem.

Hai môn đồ của Giăng Báp-tít đi theo Chúa đến nơi Ngài ở và ở lại cùng Ngài trong ngày hôm đó.  Việc này xảy ra vào khỏang giờ thứ mười trong ngày tức là khỏang 4 giờ chiều.  Theo cách tính giờ của người Do Thái, giờ thứ nhứt là 7 giờ sáng; giờ thứ nhì là 8 giờ sáng, giờ thứ ba là 9 giờ sáng, giờ thứ tư là 10 giờ sáng, giờ thứ năm là 11 giờ sáng, giờ thứ sáu là 12 giờ trưa, giờ thứ bảy là 1 giờ chiều, giờ thứ tám là 2 giờ chiều, giờ thứ chín là 3 giờ chiều, giờ thứ mười là 4 giờ chiều, giờ thứ mười một là 5 giờ chiều, giờ thứ mười hai là 6 giờ chiều.

Thấy Chúa, tin Chúa, theo Chúa là phước hạnh lớn trong đời.  Người đã có kinh nghiệm thấy Chúa, tin Chúa, theo Chúa chắc chắn sẽ muốn ở với Chúa để tương giao với Chúa luôn và tùng phục Chúa trọn đời.  Đó là điều tự nhiên.

 

Anh-rê Đưa Si-môn Đến Cùng Chúa Giê-xu (1:40-42)

40 Trong hai người đã nghe điều Giăng nói và đi theo Ðức Chúa Jêsus đó, một là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ.  41 Trước hết người gặp anh mình là Si-môn, thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ).  42 Người bèn dẫn Si-môn đến cùng Ðức Chúa Jêsus. Ngài vừa ngó thấy Si-môn, liền phán rằng: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa là Phi-e-rơ).

Theo câu 40 chúng ta biết trong số hai môn đồ đã theo Chúa Giê-xu về nhà chiều hôm đó có Anh-rê.  Việc đầu tiên Anh-rê làm là đến gặp anh mình là Si-môn để đưa dẫn Si-môn đến cùng Chúa.  Anh-rê nói cùng Si-môn:  Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si.  Danh xưng Mê-si được phiên âm từ tiếng Do Thái và có nghĩa là Được Xức Dầu.  Đấng Mê-si hoặc Đấng Christ có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu.  Những thầy tế lễ (Xuất Ai-cập Ký 28:41; 40:15), những nhà tiên tri (1 Các Vua 19:16), và các vị vua (1 Sa-mu-ên 19:16; 16:3; 2 Sa-mu-ên 12:7) được xức dầu khi họ nhậm chức.  Họ được xức dầu để thi hành sứ mạng đã được trao phó.  Trong Tân Ước chỉ có hai lần danh xưng Mê-si được nói đến.  Cả hai lần này đều trong Tin Lành Giăng.  Lần đầu trong đọan kinh văn chúng ta đang suy gẫm (1:41).  Lần thứ nhì là trong đoạn 4 câu 25 trong câu chuyện người nữ bên giếng nước:

23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy.  24Ðức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.  25Người đờn bà thưa: Tôi biết rằng Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.

Danh xưng Đấng Christ được nói đến 56 lần trong Tân Ước; riêng trong Tin Lành Giăng 17 lần, trong đó có câu:  Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Ðức Chúa Jêsus là Ðấng Christ, tức là Con Ðức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống (20:31).

Khi Phi-e-rơ đến cùng Chúa, ông được Chúa ban cho một tên mới là Sê-pha, một tên trong tiếng Aramaic có nghĩa là Petros trong tiếng Lạp, Peter trong tiếng Anh, hoặc Đá trong tiếng Việt.  Đối với người Do Thái, việc đặt tên có ngụ ý sâu xa và quan trọng.  Ngày xưa A-đam đặt tên cho những lòai thú ông được quyền quản trị.  Khi Đức Chúa Trời đặt tên mới cho Áp-ram (Áp-ra-ham), Sa-rai (Sa-ra), Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên), Ngài bắt đầu ngự trị, cai quản đời sống họ và xử dụng đời sống họ trong mục đích mới, dẫn đưa họ đến vận mệnh mới.  Ba sách Tin Lành Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca gọi tên Si-môn, hoặc Phi-e-rơ, hoặc Si-môn Phi-e-rơ nhưng không thuật lại chuyện Chúa đặt tên mới cho Si-môn.  Riêng Tin Lành Giăng nói rõ chuyện này.

 

Lời Chúa Kêu Gọi Phi-líp và Lời Tuyên Xưng Của Na-tha-na-ên (1:43-51)

43Qua ngày sau, Ðức Chúa Jêsus muốn qua xứ Ga-li-lê, tìm Phi-líp, mà phán rằng: Hãy theo ta.  44Vả, Phi-líp là người Bết-sai-đa, đồng thành với Anh-rê và Phi-e-rơ.  45Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, nói với người rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng mà Môi-se có chép trong luật pháp, và các đấng tiên tri cũng có nói đến; ấy là Ðức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, con của Giô-sép.  46Na-tha-na-ên nói rằng: Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao? Phi-líp nói: Hãy đến xem.  47Ðức Chúa Jêsus thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, bèn phán về người rằng: Nầy, một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết.  48Na-tha-na-ên thưa rằng: Bởi đâu thầy biết tôi? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trước khi Phi-líp gọi ngươi, ta đã thấy ngươi lúc ở dưới cây vả.  49Na-tha-na-ên lại nói: Lạy thầy, thầy là Con Ðức Chúa Trời, thầy là Vua dân Y-sơ-ra-ên!  50Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Vì ta đã phán cùng ngươi rằng ta thấy ngươi dưới cây vả, thì ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc lớn hơn điều đó!  51Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con người.

Khi Chúa Giê-xu đến Ga-li-lê, Ngài gặp Phi-líp và kêu gọi Phi-líp theo Ngài.  Chúa phán: Hãy theo ta.  Phi-líp là người duy nhất trong sách Tin Lành Giăng nhận được lời kêu gọi này.  Các sách Tin Lành khác không nói gì nhiều về Phi-líp nhưng trong Tin Lành Giăng, Phi-líp là một môn đồ đặc biệt.  Về sau, sứ đồ Giăng cho chúng ta biết nhiều hơn về ông:

4Vả, lễ Vượt Qua, là lễ của đến Giu-đa gần tới.  5Ðức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy một đoàn dân đông đến cùng mình, bèn phán với Phi-líp rằng: Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn?  6Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp, chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi.  7Phi-líp thưa rằng: Hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít (6:4-7).

20Và, trong đám đã lên đặng thờ lạy trong kỳ lễ, có mấy người Gờ-réc,  21đến tìm Phi-líp, là người ở thành Bết-sai-đa, thuộc xứ Ga-li-lê, mà xin rằng: Thưa chúa chúng tôi muốn ra mắt Ðức Chúa Jêsus.  22Phi-líp đi nói với Anh-rê; rồi Anh-rê với Phi-líp đến thưa cùng Ðức Chúa Jêsus.  23Ðức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Giờ đã đến, khi Con người sẽ được vinh hiển (12:20-23).

6Vậy Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.  7Ví bằng các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta; và từ bây giờ các ngươi biết và đã thấy Ngài.  8Phi-líp thưa rằng: Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi, thì đủ rồi.  9Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-líp, ta ở cùng các ngươi đã lâu thay, mà ngươi chưa biết ta! Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi?  10Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, hay sao? Những lời ta nói với các ngươi, chẳng phải ta từ nói; ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài.  11Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta; bằng chẳng, hãy tin bởi công việc ta (14:6-11).

Một người có vẻ kém đức tin, ngập ngừng, chậm hiểu như Phi-líp mà lại được Chúa đãi ngộ cách đặc biệt như vậy.  Kể cũng lạ thật.  Tuy nhiên, lời Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô có thể giúp chúng ta hiểu dễ hơn: 

26Hỡi Anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng.  27Nhưng Ðức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh;  28Ðức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có,  29để chẳng ai khoe mình trước một Ðức Chúa Trời.   30Vả, ấy là nhờ Ngài mà anh em ở trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Ðấng mà Ðức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình, sự nên thánh, và sự cứu chuộc cho chúng ta;  31hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa.

Dù Phi-líp có đức tin non nớt và khả năng kém cỏi nhưng ông lại có thể làm được điều rất tốt.  Đó là đưa dẫn người khác đến cùng Chúa, trong đó có Na-tha-ni-ên.

Na-tha-ni-ên là nhân vật khá đặc biệt.  Chỉ có Giăng nói đến tên ông năm lần trong đọan 1 và một lần nữa trong đọan 21.  Ngòai ra, các sách khác trong Tân Ước không nói đến tên ông.  Rất có thể Na-tha-na-ên trong Tin Lành Giăng chính là Ba-tê-lê-mi trong các sách Tin Lành khác.  Theo lời mô tả của Giăng, thọat đầu Na-tha-na-ên tỏ vẻ hòai nghi khi ông nói:  Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao?  Nghe Na-tha-na-ên nói như vậy rồi, Chúa lại phán:  Nầy, một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết.  Chúa đã không giận mà Ngài lại còn khen Na-tha-na-ên.  Ngài hiểu Na-tha-na-ên hơn Na-tha-na-ên hiểu chính mình.  Chúa biết người bộc trực như Na-tha-na-ên sẽ thay đổi.  Quan niệm của ông về Chúa thay đổi ngay khi ông nhận biết Chúa là Đấng tòan tri.  Trước khi Phi-líp gọi Na-tha-na-ên, Chúa đã biết.  Chúa biết tư tưởng, Chúa biết đời sống hiện tại, Chúa biết đời sống tương lai của Na-tha-na-ên.  Chúa biết con người Na-tha-ni-ên sẽ trở thành.  Trước ngày tin Chúa, theo Chúa, những môn đồ ngày xưa là những người tầm thường trong số những người tầm thường.  Khi đã thất rõ Chúa, tin cậy Chúa, đi theo Chúa, tùng phục Chúa, họ trở nên những con người phi thường.

Chúa Giê-xu phán cùng Na-tha-na-ên: Vì ta đã phán cùng ngươi rằng ta thấy ngươi dưới cây vả, thì ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc lớn hơn điều đó!  Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con người.  Trong Sáng Thế Ký có thuật lại chuyện Gia-cốp từ Bê-e-Sê-ba đến Cha-ran và trong khi an nghỉ trong đêm tối đã có dịp gặp được thiên sứ của Chúa lên xuống trên thang như sau:

10Gia-cốp từ Bê-e-Sê-ba đi đến Cha-ran, 11tới một chỗ kia, mặt trời đã khuất, thì qua đêm tại đó. Người lấy một hòn đá làm gối đầu, và nằm ngủ tại đó;  12bèn chiêm bao thấy một cái thang bắc từ dưới đất, đầu đến tận trời, các thiên sứ của Ðức Chúa Trời đi lên xuống trên thang đó.  13Nầy, Ðức Giê-hô-va ngự trên đầu thang mà phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cùng là Ðức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi đương nằm ngủ đây.  14Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát bụi trên mặt đất, tràn ra đến đông tây nam bắc, và các chi họ thế gian sẽ nhờ ngươi và dòng dõi ngươi mà được phước.  15Nầy, ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và đem ngươi về xứ nầy; vì ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi ta làm xong những điều ta đã hứa cùng ngươi.  16Gia-cốp thức giấc, nói rằng: Thật Ðức Giê-hô-va hiện có trong nơi đây mà tôi không biết!  17Người bắt sợ và nói rằng: Chốn nầy đáng kinh khủng thay thật là đền Ðức Chúa Trời, thật là cửa của trời!  (Sáng Thế Ký 28:10-17)

Na-tha-ni-ên đứng dưới cây vả.  Cây vả biểu hiệu cho nơi cư ngụ:  “Ai nấy sẽ ngồi dưới cây nho mình và dưới cây vả mình, không ai làm cho lo sợ; vì miệng Ðức Giê-hô-va vạn quân đã phán (Mi-chê 4:4)”, “Ðức Giê-hô-va vạn quân phán: Trong ngày đó, các ngươi ai nấy sẽ mời kẻ lân cận mình dưới cây nho và dưới cây vả (Xa-cha-ri 3:10).”    Khi cần tịnh tâm, tĩnh nguyện người ta thường ngồi dưới cây vả gần nhà là nơi có bóng mát.  Rất có thể Na-tha-ni-ên đang tương giao với Đức Chúa Trời trong sự tĩnh nguyện khi Chúa Giê-xu nhìn thấy ông.  Rất có thể Na-tha-ni-ên đang đọc chuyện của Gia-cốp trong đọan kinh văn trên đây khi Chúa Giê-xu nói chuyện với ông.  Điều Chúa muốn Na-tha-na-ên kinh nghiệm không phải là chỗ mình đang đứng, nơi mình đang ngồi hoặc điều mình đang suy nghĩ.  Chúa muốn Na-tha-ni-ên thấy được điều quan trọng hơn.  Chúa muốn ông chú ý đến Đấng đang lên xuống trên thang, chiếc thang dẫn đưa lòai người đến cùng Đức Chúa Trời.  Điều đáng lưu tâm không phải là chân thang mà là đầu thang.  Quanh quẩn dưới chân thang không đi đến đâu.  Nắm chắc từng nấc thang để ngày càng bước lên cao, đó mới là điều cần yếu.

 

Kết Luận:

Chúng ta học được điều gì từ việc Chúa kêu gọi những môn đồ đầu tiên?

Thứ nhất, Chúa có thể khiến nhu thành cương, nhược thành cường.  Chúa là nguồn cội của của những thành quả tốt trong cuộc đời của người theo Chúa như lời cắt nghĩa của Phao-lô sau này (1 Cô-rinh-tô 1:26-31), cũng như trong kinh nghiệm của Phi-e-rơ và Giăng:  Khi chúng thấy sự dạn dĩ của Phi-e-rơ và Giăng, biết rõ rằng ấy là người dốt nát không học, thì đều lấy làm lạ; lại nhận biết hai người từng ở với Ðức Chúa Giê-xu. (Công Vụ 4:13).

Thứ nhì, Chúa có thể kiện tòan đời sống của những người theo Ngài.  Đây là việc Chúa làm.  Nếu bởi sức lực của con người thì có thể thất bại.  Nhưng nhờ ơn Chúa, bởi sức Chúa thì có thể thành công như lời Phao-lô viết trong Phi-líp 1:6 tôi tin chắc rằng Ðấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Ðức Chúa Jêsus Christ.

Thứ ba, người đang được Chúa kiện tòan cần có lòng quan tâm đến người khác và sẵn sàng cọng tác với người khác.  Mục đích của sự chứng đạo, giảng đạo để cứu người, dạy đạo để nuôi người lớn lên trong đời sống tin kính là để mở rộng vương quốc của Đức Chúa Trời hầu cho danh Chúa được cả sáng, đạo Chúa được hiển vinh.  Phi-líp quan tâm đến Na-tha-ni-ên và đưa Na-tha-ni-ên đến cùng Chúa.  Cả hai đều được Chúa đại dụng trong công việc nhà Chúa.

Thứ tư, sự kêu gọi của Chúa bao hàm ơn thương xót.  Chúa kêu gọi các môn đồ theo Ngài không phải vì họ xứng đáng hoặc vì những gì họ có sẵn để hiến dâng cho Chúa.  Chúa kêu gọi họ để luyện lọc, nhào nặn, uốn nắn, nung đúc họ như một người thợ gốm luyện lọc, nhào nặn, uốn nắn, nung đúc đất sét trong tay mình.

Thứ năm, sự kêu gọi của Chúa bao hàm phần thưởng.  Phần thưởng lớn nhất con cái Chúa có thể có không phải là những gì thuộc về trần thế tức là những gì có thể mất.  Phần thưởng lớn nhất bao gồm đặc ân hội diện với Chúa mỗi ngày, tương giao với Chúa mỗi ngày trong đời tạm này và trong suốt cả tương lai trong đời sau.  Lời Chúa phán cùng Na-tha-ni-ên cũng là lời Chúa phán với mỗi chúng ta ngày nay.