Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 15 | Chương 17 >> | Hướng Dẫn
I Sử Ký
Các gia hệ
Ðời trị vì của Ða-vít
12 sách đầu tiên của Kinh Thánh chấm dứt ở chỗ dân
tộc Hê-bơ-rơ bị bắt làm phu tù. Hai sách Sử ký nầy kể lại truyện tích ấy và kết
thúc ở cùng một điểm ấy. Hai sách nầy tóm tắt mọi điều xảy ra từ trước, và chú
ý đặc biệt đến đời trị vì của Ða-vít, Sa-lô-môn và các vua Giu-đa kế tiếp.
Một phần sách I Sử ký giống như sách II Sa-mu-ên.
Nó chép riêng truyện tích Ða-vít, và trước đó có 9 đoạn chép gia hệ dùng làm
tiểu dẫn. Các gia hệ gồm cả thời gian từ A-đam cho tới khi dân Giu-đa hồi hương
sau cuộc lưu đày, và dường như là một bản tóm tắt cả thánh sử trước đó.
Tác giả
I Sử ký, II Sử ký, E-xơ-ra, và Nê-hê-mi nguyên thủy
là một bộ sách. Truyền thoại Do-thái luôn luôn cho rằng E-xơ-ra là tác giả của
hai sách Sử ký nầy.
Thường nhắc đến các Sử ký, biên niên sử và công
văn: "Sử ký vua Ða-vít" (I Sử ký 27:24); "sách của Sa-mu-ên,
đấng tiên kiến,... sách của Na-than, đấng tiên tri,... sách của Gát, đấng tiên
kiến" (I Sử ký 29:29); "sách truyện Na-than, là đấng tiên tri, và...
sách tiên tri của A-hi-gia, người Si-lô, cùng... sách dị tượng của Giê-đô, đấng
tiên kiến" (II Sử ký 9:29); "sách truyện của Sa-ma-gia, đấng tiên
tri,... sách Y-đô, đấng tiên kiến" (II Sử ký 12:15); "sách tuyện của
tiên tri Y-đô" (II Sử ký 13:22); "truyện Giê-hu, con trai Ha-na-ni,
và truyện ấy đã đem vào sách các vua Y-sơ-ra-ên" (I Sử ký 20:34);
"sách truyện các vua" (II Sử ký 24:27); "đấng tiên tri Ê-sai đã
biên chép các công sự khác của Ô-xia từ đầu đến cuối" (II Sử ký 26:22);
"sách dị tượng của Ê-sai, đấng tiên tri" (II Sử ký 32:32); "sách
các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên" (II Sử ký 32:32); "các lời của đấng
tiên kiến" (II Sử ký 33:18).
Vậy, ta thấy rằng tác giả đã được đọc các nhựt ký
và công văn mà ngày nay ta không biết. Ông cũng được đọc các sách trước đây của
Cựu Ước. Do Ðức Chúa Trời giúp đỡ, ông đã sao lại, bỏ bớt, hoặc thêm vào những
tài liệu phù hợp với chính tác phẩm của mình. Như vậy, trong phần nầy của Cựu
Ước, chúng ta có hai bản tường thuật.
Sự quan trọng của hai bản tường thuật
Vì tin rằng cả Kinh Thánh là Lời Ðức Chúa Trời cốt
để cho mọi người sử dụng, nên chúng tôi tự hỏi phải chăng khi lặp lại Hai
Lần phần nầy của thánh sử, Ngài còn nhắm mục đích nào khác ngoài ra nhu cầu
trực tiếp của E-xơ-ra, là tái định cư nhơn dân trên xứ sở và cải tổ quốc gia?
Thường thì sự lặp lại rất quan trọng. Ít ra, chúng
ta cũng phải cẩn thận, chớ xao lãng phần nầy của Kinh Thánh. Mặc dầu chúng ta
thường tưởng sự đọc sách Các vua và sách Sử ký là hơi khô khan, nhưng nó có
chứa truyện tích về các cách Ðức Chúa Trời đối xử với dân Ngài, và mỗi khi đọc,
ta lại tìm thấy trong đó những viên ngọc đẹp nhứt của Kinh Thánh.
Ðiểm khác nhau giữa hai sách Các vua và hai sách Sử ký
Sách Các vua tường thuật song song lịch sử của nước
phía Bắc và nước phía Nam, còn sách Sử ký chỉ chuyên chú vào nước phía Nam.
Sách Sử ký dường như trước nhứt chuyên chú vào nước của Ða-vít, và cứ mô tả
triều đại của ông cho tới lúc đương thời tác giả.
Ðoạn 1 đến 9 -- Các gia hệ
Dường như mục đích trực tiếp của các gia hệ nầy là
để tái định cư nhơn dân trong xứ tùy những văn kiện của nhà nước. Những người
từ chốn lưu đày trở về được phép nhận đất đai mà gia tộc xưa kia đã chiếm giữ.
Trong đời Cựu Ước, đất đai được cấp phát cho các gia tộc, và không thể đem bán
vĩnh viễn đến nỗi gia tộc mất hẳn quyền sở hữu. Nếu bán đi, thì đến năm hân hỉ,
phải trả về gia tộc vốn là sở hữu chủ (xem dưới Lê-vi ký 25).
Chức thầy tế lễ cũng truyền tử lưu tôn. Thầy tế lễ
vẫn có con trai mình kế chức. Ðó là luật pháp trong xứ.
Về dòng vua Ða-vít cũng vậy. Lời
hứa quan trọng và quí báu hơn hết: Ðấng Cứu thế sẽ phát xuất từ gia tộc Ða-vít.
Các gia hệ nầy cốt ý theo dõi sự lưu truyền dòng dõi Ða-vít.
Hầu hết các gia hệ không đầy
đủ, và các bản liệt kê có lắm chỗ gián đoạn. Chắc tác giả đã dựa vào nhiều tài
liệu ghi trên tấm bảng, chỉ thảo và giấy da bò non, mà lập các gia hệ nầy; còn
một phần thì chép ở các sách trước của Cựu Ước.
9 đoạn chép gia hệ nầy là dây
ràng buộc cả lịch sử Kinh Thánh từ trước tới đây, từ thế hệ nầy tới thế hệ
khác. Ta không cần đọc để tài bồi đời tin kính, như những phần khác của Kinh
Thánh. Nhưng thật ra, các gia hệ nầy và các gia hệ tương tự rải rác khắp Cựu
Ước, chính là "bộ xương" của Cựu Ước, là phần liên kết cả Kinh Thánh
làm một, khiến cho Kinh Thánh được thống nhứt và có vẻ là LịCH SỬ thật, chớ
không phải là thần thoại.
Ðoạn 10, 11, 12 -- Ða-vít được tôn làm vua
Nếu không kể các gia hệ, thì
sách II Sa-mu-ên và sách I Sử ký chỉ chuyên chép về đời trị vì của Ða-vít. Cả
hai sách gần như kể lại những việc giống nhau. Nhưng sách I Sử ký đặc biệt chú
ý đến sự tổ chức cuộc thờ phượng ở Ðền thờ. Vì sách I Sử ký được chép sau khi
nhơn dân từ chốn lưu đày trở về, nên tưởng nói điều nầy cũng chẳng phải là sai
lạc: Sách I Sử ký ví như một bài giảng lịch sử, căn cứ vào sách II Sa-mu-ên,
cốt để khuyến khích những phu tù mới hồi hương hãy khôi phục địa vị xứng đáng
cho sự thờ phượng nơi Ðền thờ trong cuộc sanh hoạt quốc gia của họ.
Trong sách II Sa-mu-ên 2-4 có
chép thể nào Ða-vít được tôn làm vua xứ Giu-đa (sau khi Sau-lơ băng hà), đóng
đô tại Hếp-rôn, là thành của Áp-ra-ham, và trị vì tại đó 7 năm rưỡi. Trong thời
gian ấy ông phải giao chiến với Ích-bô-sết, con trai của Sau-lơ. Rồi sau khi
Ích-bô-sết qua đời, Ða-vít được tôn làm vua cả nước Y-sơ-ra-ên.
Khi làm vua cả nước Y-sơ-ra-ên
rồi, hành động thứ nhứt của Ða-vít là chiếm lấy Giê-ru-sa-lem và chọn nó làm
thủ đô toàn quốc. Việc nầy được thuật đầy đủ hơn ở II Sa-mu-ên 5. Giê-ru-sa-lem
ở gần trung tâm của xứ hơn mọi thành khác, và khó chiếm vì ở trên ngọn núi, các
phía Ðông, Tây, và Nam có thung lũng bao quanh. Trong khoảng 400 năm từ Giô-suê
đến Ða-vít, dân Y-sơ-ra-ên đã không chiếm được thành nầy, và người Giê-bu-sít
vẫn còn ở đó (Giô-suê 15:63; II Sa-mu-ên 5:6-10; I Sử ký 11:4, 5).
Bí Chú Khảo Cổ: Khe nước
Năm 1866, ông Warren, nhơn viên "Quỹ Thám hiểm xứ
Pa-lét-tin," đã tìm thấy khe nước (II Sa-mu-ên 5:8) do đó các chiến sĩ của
Ða-vít vào được thành Giê-ru-sa-lem. Ðây là một đường hầm thoai thoải, có tam
cấp, đục trong đá, từ đỉnh đồi chạy xuống khe Ghi-hôn ở chơn đồi phía Ðông; như
vậy, từ phía trong vách thành, người ta có thể đi tới một nguồn nước. Ðồi có
một vách thành bao quanh, dày gần 8 thước tây. Không ai chiếm được nó cho tới
ngày Ða-vít khám phá ra lối bí hiểm nầy đi từ khe nước vào trong thành.
Bí Chú Khảo Cổ: Tường thành do Ða-vít xây cất
I Sử ký 11:8 chép rằng Ða-vít
"xây tường thành bốn phía." Người ta đã tìm thấy di tích của tường
thành nầy, dài 130 thước. Ở nhiều chỗ, còn trông thấy nền cũ của người
Giê-bu-sít ở dưới tường thành do Ða-vít xây cất.
Ðoạn 13, 14, 15, 16 -- Chở hòm giao ước lên thành Giê-ru-sa-lem
Hòm giao ước đã bị quân
Phi-li-tin chiếm mất (I Sa-mu-ên 4:11). Nó ở nơi chúng 7 tháng (I Sa-mu-ên
6:1). Rồi nó được gởi trả dân Y-sơ-ra-ên, và đặt ở Ki-ri-át-Giê-a-rim 20 năm (I
Sa-mu-ên 7:2). Ki-ri-át-Giê-a-rim cách thành Giê-ru-sa-lem chừng 10 dặm về phía
Tây-bắc. Ða-vít đã chọn Giê-ru-sa-lem làm thủ đô toàn quốc, bèn nhóm họp toàn
dân Y-sơ-ra-ên để thỉnh hòm giao ước lên Giê-ru-sa-lem trong một cuộc lễ rước
hết sức long trọng.
Nhưng việc U-xa chẳng may xảy
ra (13:10), đã làm gián đoạn cuộc lễ rước. U-xa chết vì cử chỉ xung động toan
cứu hòm giao ước (13:9), thì ta tưởng như là nghiêm khắc quá. Tuy nhiên, chỉ
người Lê-vi được phép khiêng hòm giao ước (15:2, 13). Lại nữa, hành động của
U-xa là trực tiếp vi phạm luật pháp (Dân số ký 4:15), nên sự chết của ông là
lời cảnh cáo mọi người phải cẩn thận.
Sau 3 tháng đặt tại nhà
Ô-bết-Ê-đôm (3:14), là người Lê-vi (15:17, 18, 21, 24), hòm giao ước được rước
về Giê-ru-sa-lem giữa sự vui mừng cả thể, và được đặt vào nhà trại mà Ða-vít đã
dựng cho nó (15:1). Còn nhà trại nguyên thủy thì ở Ga-ba-ôn (21:29).
Ða-vít cưới nhiều vợ (14:3)
thì trái với luật pháp của Ðức Chúa Trời. Nhưng đó là thói tục của các vua thời
xưa, và là một dấu hiệu của uy tín và vương quyền mà nhơn dân dường như mong
thấy nơi người cai trị họ. Ðương thời Cựu Ước, Ðức Chúa Trời dường như khoan
dung sự đa thê đó. Tuy nhiên, trong những lúc gia đình lục đục, Ða-vít thật đã
gặt trái của sự đa thê (xem thêm II Sa-mu-ên 13).
Ðoạn 17 -- Ða-vít định xây cất Ðền thờ
Ðó là ý của Ða-vít, Ðức Chúa
Trời thỏa lòng với một nhà trại (câu 4-6). Tuy nhiên, Ngài cũng chiều theo
Ða-vít. Nhưng Ngài chẳng để ông xây cất Ðền thờ, vì ông "là một tay chiến
sĩ" (28:3) và "đã đổ huyết ra nhiều" (22:8). Rồi Ngài giao nhiệm
vụ ấy cho Sa-lô-môn (17:11-14; 28:6).
Ðoạn 18, 19, 20 -- Những cuộc chiến thắng của Ða-vít (xem thêm II Sa-mu-ên 8)
Ðoạn 21 -- Kiểm tra dân số (xem thêm II Sa-mu-ên 24)
Ðoạn 22 -- Ða-vít dự bị cho Ðền thờ
Dầu Ðức Chúa Trời cấm Ða-vít
xây cất Ðền thờ, nhưng ông đã đặt kiểu Ðền thờ, và để một phần lớn đời trị vì
của mình mà thâu góp rất nhiều vàng, bạc, và đủ thứ vật liệu xây cất; theo
nhiều người ước lượng khác nhau, thì tổng số vật liệu xây cất đáng giá từ 2 đến
5 tỷ Mỹ kim. Ðền thờ nầy "phải rất nguy nga, có danh tiếng rực rỡ trong
các nước" (22:5). Ðền thờ phải là vinh quang tột bậc của nước Y-sơ-ra-ên. Lời
Ða-vít khuyên bảo Sa-lô-môn ở đây lại được giải rộng hơn ở đoạn 28.
Ðoạn 23 -- Chỉ định phận sự của người Lê-vi
Không cần khiêng Ðền tạm nữa
(câu 26), vì bây giờ Ðền thờ sẽ đặt luôn ở Giê-ru-sa-lem; vậy, công việc của
người Lê-vi được xác định lại. Một số người Lê-vi sẽ cai quản công việc của Ðền
thờ (câu 4); một số giữ cửa (câu 5); một số làm nhạc công (câu 5); có một ban
hát gồm 4000 người Lê-vi (câu 5; 15:16). Một số làm "quan đốc lý và quan
xét" (23:4); một số "cai quản các việc ngoài của Y-sơ-ra-ên"
(26:29); một số "cai trị các việc của Ðức Chúa Trời và việc của vua"
(26:32). Khoản chót nầy dường như tỏ ra người Lê-vi dự phần công việc hành
chánh cũng như dự phần công việc tôn giáo.
Ðoạn 24 -- Tổ chức các thầy tế lễ
Họ được tổ chức thành 24 ban
để hầu việc trong Nơi Thánh. Họ được gọi là "các trưởng của Nơi
Thánh" và "các trưởng của Ðức Chúa Trời" (câu 5). Họ phụ trách
dâng các của lễ. Công vụ của họ chấm dứt khi Ðấng Christ ngự đến! Khá hài hước
thay, chính "các thầy tế lễ" đã âm mưu đóng đinh Ðấng Christ vào Thập
tự giá (Ma-thi-ơ 27:1, 6, 20, 41)! Không có chỗ nào trong Tân Ước gọi các chức
dịch Tin Lành là "thầy tế lễ." Thơ Hê-bơ-rơ đã được chép để tỏ ra
rằng không cần "các thầy tế lễ" nữa. Chỉ có Khải Huyền 1:6; 5:10 và
20:6 dùng chữ "thầy tế lễ" theo một ý nghĩa của đạo Ðấng Christ, và
trong trường hợp nầy, nó ứng dụng cho Hết Thảy tín đồ của Ngài, chớ
không ứng dụng cho một hạng tín đồ đặc biệt muốn đè đầu những tín đồ khác.
Ðoạn 25, 26, 27 -- Thêm sự tổ chức
Ðể có hiệu lực trong sự thờ
phượng ở Ðền thờ và trong sự cai trị quốc gia; nhứt là tổ chức các nhạc công mà
nhiệm vụ không chấm dứt khi Ðấng Christ ngự đến, nhưng lại có ý nghĩa mới mẻ. Ða-vít
là một đại nhạc sĩ. Tất cả linh hồn ông vui thỏa vì làm cho các từng trời vang
lừng những bài ca khen ngợi Ðức Chúa Trời (15:27, 28; 16:41, 42).
Ðoạn 28, 29 -- Lời nói và lời cầu nguyện sau chót của Ða-vít
Liên quan đến Ðền thờ. Ðó là
điều lòng ông chăm chú vào trong lúc linh hồn ông bay lên "nhà đời đời...
không phải bởi tay người làm ra" (II Cô-rinh-tô 5:1). "Người theo
lòng Ngài" (I Sa-mu-ên 13:14) đã "phụng sự thế hệ mình" một cách
cao thượng. Chắc ông vui mừng biết bao vì được gặp Ðấng sau nầy mang danh hiệu
"Con vua Ða-vít" (Ma-thi-ơ 22:42).