Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 35 | Chương 37 >> | Hướng Dẫn
Na-hum
Sự phán xét Ni-ni-ve
Có hai tiên tri liên quan với
Ni-ni-ve: Giô-na, khoảng năm 785 T.C.; và Na-hum khoảng năm 630 T.C.. Hai ông
cách xa nhau chừng 150 năm. Giô-na truyền một sứ điệp thương xót, còn Na-hum
truyền một sứ điệp phán xét. Hai ông cùng chứng minh cách Ðức Chúa Trời đối xử
với các nước; Ngài kéo dài ngày ân điển, nhưng đến cuối cùng, Ngài sẽ thăm phạt
tội lỗi họ.
Con người Na-hum
Ta ít biết về Na-hum. Ông được
gọi là người "Ên-cốt" (1:1). Tên ông ở trong chữ
"Ca-bê-na-um," nghĩa là: "Làng của Na-hum." Chữ nầy có lẽ
tỏ ra rằng ông là một cư dân, hoặc người sáng lập Ca-bê-na-um, là thành về sau
được nổi danh là trung tâm của chức vụ Ðức Chúa Jêsus. Ên-cốt, nơi ông sanh ra,
có lẽ ở gần đó. Người ta nói rằng có một thành Ên-cốt trên sông Ti-gơ-rơ, cách
Ni-ni-ve 20 dặm về phía Bắc, và có lẽ Na-hum đã ở giữa đoàn phu tù Y-sơ-ra-ên. Cũng
có một thành Ên-cốt ở phía Nam Giê-ru-sa-lem. Nếu Ca-bê-na-um là quê hương của
Na-hum, thì ông ở cùng một địa phương với Giô-na và Ðức Chúa Jêsus.
Niên hiệu của Na-hum.-- Chính sách nầy tỏ ra nó thuộc về thời kỳ nào.
Thành Thèbes (Nô-A-môn) đã sụp đổ năm
663 T.C.. (3:8-10). Còn thành Ni-ni-ve thì nói là sắp sụp đổ. Sự sụp đổ nầy đã xảy ra
năm 607 T.C.. Như vậy, Na-hum ở giữa khoảng 663 và 607 T.C.. Vì Ni-ni-ve được
diễn tả là ở tuyệt điểm vinh quang, và vì hoạn nạn của nó bắt đầu khi bị quân
Sy-the xâm lăng (năm 626 T.C.), nên ta có thể đoán đúng nếu đặt lời tiên tri
nầy sau cuộc xâm lăng của quân Sy-the ít lâu, nghĩa là chừng năm 630 T.C.. Như
vậy, Na-hum đồng thời với Sô-phô-ni, là tiên tri cũng dự ngôn về sự hủy diệt
Ni-ni-ve bằng những lời lẽ linh động lạ lùng (Sô-phô-ni 2:13-15).
Ðoạn 1, 2, 3 -- Sự hoàn toàn hủy diệt Ni-ni-ve
Suốt cả ba đoạn nầy, phần thì
nói về Ni-ni-ve, phần thì nói với Ni-ni-ve, sự hủy diệt Ni-ni-ve đã được dự
ngôn với những chi tiết lạ lùng và linh động.
Có lẽ sự "chậm giận"
của Ðức Chúa Trời (1:3) đã được ghi chép để nhắc lại lúc Giô- na đến thăm
Ni-ni-ve lâu năm về trước. Suốt cả Kinh Thánh, cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời
đối đầu với lòng thương xót của Ngài.
Thành đổ máu sụp đổ (3:1), --
đó là một tin vui khôn xiết cho thế giới mà nó đã chà đạp, không chút thương
xót, nhứt là cho nước Giu-đa.
"Như ao chứa nước"
(2:8): Số lớn kinh đào bảo vệ dọc theo bờ chiến lũy khiến Ni-ni-ve thật có vẻ
như vậy.
Sô-phô-ni cũng dự ngôn sự suy
vong của Ni-ni-ve như thế nầy: "Kìa, thành vui vẻ nầy đã ở yên không lo
lắng và nói trong lòng mình rằng: Ta đây, ngoài ta không còn ai hết! Nó đã trở
nên hoang vu, làm chỗ nằm cho loài thú vật là dường nào! Phàm kẻ đi qua sẽ khoa
tay mà nhạo cười! (Sô-phô-ni 2:15).
Ni-ni-ve
Ni-ni-ve là thủ đô của đế quốc
A-si-ri, là đế quốc đã hủy diệt Y-sơ-ra-ên. Ni-ni-ve do Nim-rốt sáng lập sau
nạn nước lụt ít lâu (Sáng thế ký 10:11-12). Ngay từ lúc đầu, nó đã là đối thủ
của Ba-by-lôn. Ba-by-lôn ở phía Nam của thung lũng Ơ-phơ-rát, còn Ni-ni-ve ở
phía Bắc của thung lũng ấy. Hai thành nầy cách nhau chừng 300 dặm. Ni-ni-ve dấy
lên địa vị cường quốc bá chủ thế giới khoảng năm 900 T.C.. Sau đó ít lâu. nó
bắt đầu tiêu diệt nước Y-sơ-ra-ên. Khoảng năm 785 T.C., Ðức Chúa Trời đã sai
Giô-na đến Ni-ni-ve để cố gắng khiến nó xây bỏ con đường chinh phục tàn bạo. Trong
vòng 60 năm sau, khoảng năm 721 T.C., đạo quân A-si-ri đã hoàn toàn tiêu diệt
nước Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc. Suốt 100 năm nữa, Ni-ni-ve ngày càng hùng mạnh và
kiêu căng.
Lúc Na-hum nói lời tiên tri
nầy, thì Ni-ni-ve là "nữ hoàng" của trái đất, hùng mạnh và hung bạo
ngoài trí tưởng tượng; nó là thủ đô của một quốc gia hiếu chiến, xây dựng trên
vật cướp được của các nước. Của cải vô tận từ đầu cùng trái đất đổ vào các kho
tàng của nó. Na-hum ví sánh nó với hang sư tử cắn xé, hang thú dữ săn mồi, nuôi
mình bằng huyết của các nước (2:11-13).
Thành Ni-ni-ve lớn bề dài
chừng 30 dặm, bề rộng chừng 10 dặm. Nó được bảo vệ bởi 5 chiến lũy và 3 hố nước
(kinh đào), do không biết bao nhiêu ngàn phu tù ngoại quốc xây cất vì buộc phải
khổ sai. Giô-na nói đến 12 vạn con đỏ (Giô-na 4:11), khiến ta nghĩ rằng dân số
nó gần tới 1 triệu. Chính thành Ni-ni-ve ở bên trong dài chừng 3 dặm và rộng
chừng 1 dặm rưỡi, xây dựng ở nơi sông Ti-gơ-rơ và sông Khoser gặp nhau, được
che chở bởi những chiến lũy cao chừng 33 thước tây, và trên mặt rộng đủ cho 4
chiến xa chạy song song. Châu vi của chiến lũy là 8 dặm.
Chính lúc Ni-ni-ve hùng mạnh
tuyệt điểm và cũng là lúc nó sắp sửa thình lình bị lật đổ, thì Na-hum xuất
hiện, nói lời tiên tri nầy, mà có người gọi là: "Bài ca ai điếu
Ni-ni-ve," hoặc: "Loài người kêu đòi công lý."
Bản đồ số 44 -- Di tích thành
Ni-ni-ve
Ni-ni-ve 2
Ni-ni-ve sụp đổ, 607 T.C. (hay là
612?). Chừng 20 năm sau khi Na-hum dự ngôn, thì một đạo quân gồm người
Ba-by-lôn và người Mê-đi, vây chặt Ni-ni-ve. Sau 2 năm vây hãm, thình lình nước
sông lên, làm lở một phần chiến lũy. Na-hum đã dự ngôn rằng: "Các cửa sông
mở ra" cho đạo quân hủy diệt (2:6). Do chỗ trống tự nhiên đó, quân
Ba-by-lôn và quân Mê-đi đang tấn công bèn ào vô và ra tay hủy diệt. Nào ngựa
dậm chơn, nào roi kêu vút, nào bánh xe lọc xọc, nào chiến xa chồm lên hung
hăng, nào gươm sáng loáng, nào thây chất thành núi (2:3-4; 3:1-7). Mọi sự xảy
ra đúng như Na-hum đã mô tả; và kinh thành đổ máu, hư xấu kia đã chìm trong
lãng quên.
Nó bị hủy diệt hoàn toàn đến
nỗi người ta quên cả vị trí của nó. 200 năm sau, khi Xénophon kéo 10 ngàn quân
qua đó, thì ông tưởng những gò nỗng ấy là di tích một thành của xứ Parthie. Khi
A-lịch-sơn đại đế đánh trận Arbelles lừng lẫy (năm 331 T.C.), gần vị trí Ni-ni-ve,
thì ông chẳng biết là đã từng có một đô thị ở đó.
Phát giác di tích thành Ni-ni-ve.-- Mọi dấu tích về vinh quang
của đế quốc A-si-ri đã biến mất trơn trọi, đến nỗi nhiều học giả bắt nghĩ rằng
những đoạn Kinh Thánh và cổ sử khác nói đến nó chỉ là truyện thần tiên; rằng
thật ra một kinh thành và một đế quốc dường ấy không hề có. Năm 1820, một người
Anh, tên là Claude James Rich, để 4 tháng vẽ phát các gò nỗng chạy từ Mosul qua
sông Ti-gơ-rơ, và ông nghi rằng đó là di tích của Ni-ni-ve. Năm 1845, ông
Layard minh định được vị trí; ông và những người kế tiếp đã phát giác di tích
cung điện nguy nga của các vua A-si-ri (ngày nay, tên các vua nầy đã thành ra
quen thuộc) và hàng trăm ngàn bi văn trên đó ta có thể đọc lịch sử đế quốc
A-si-ri đã chép. Tới một mực đ lạ lùng, những bi văn nầy bổ khuyết và minh xác
Kinh Thánh.
Koyunjik là tên của gò nỗng
quan trọng nhứt. Nó ở phía Ðông sông Ti-gơ-rơ, đối ngang với đô thị Mosul tân tiến ở phía tây sông ấy. Diện
tích nó chừng 40 mẫu tây, và bề cao trung bình chừng 30 thước tây. Nó chứa cung
điện của San-chê-ríp và Assur-banipal.
San-chê-ríp là vua đã xâm lăng nước Giu-đa. Cung điện của ông vĩ đại hơn hết. Nó do ông Layard
phát giác năm 1849-50. Nó rộng bằng ba khu phố lớn của một đô thị.
Thư viện của Assur-banipal.-- Có lẽ đây là sự phát giác quan trọng nhứt mà
khảo cổ học từng thực hiện được. Nó do các ông Layard, Rawlinson và Rassam tìm
thấy trong cung điện của San-chê-ríp. Nguyên thủy nó chứa 100 ngàn quyển sách. Chừng
một phần ba đã tìm được và hiện để trong Anh quốc Bảo tàng viện. Assur-banipal
có óc khảo cổ; ông đã truyền cho các ký lục tìm kiếm và sao lại sách vở của thư
viện nước Ba-by-lôn thuở xưa, cỡ 2000 năm trước đời ông. Vậy, chúng ta nhờ ông
mới được biết văn chương Ba-by-lôn thời cổ.