Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 45 | Chương 47 >> | Hướng Dẫn
Giữa Cựu Ước Và Tân Ước 3
Các ngụy kinh
Ðây là tên thường đặt cho 14 quyển sách có trong
một vài bản Kinh Thánh, giữa Cựu Ước và Tân Ước. Những sách nầy có từ thế kỷ
thứ 1 đến thế kỷ thứ 3 T.C., phần nhiều không biết chắc tác giả là ai, và đã
thêm vào bản Septante, là bản dịch
Cựu Ước ra tiếng Hy-lạp vào thời kỳ đó. Trong bản Cựu Ước Hê-bơ-rơ không có
những sách nầy. Chúng được viết ra sau khi lời tiên tri, sấm ngôn (oracles) và sự khải thị trực tiếp của
Cựu Ước đã chấm dứt. Josèphe chối
không thừa nhận toàn thể chúng. Người Do-thái chẳng bao giờ nhìn nhận chúng là
một phần của Kinh Thánh Hê-bơ-rơ. Ðức Chúa Jêsus và các tác giả Tân Ước không
hề trưng dẫn một câu nào của chúng. Hội Thánh đầu tiên không hề nhìn nhận chúng
là có thẩm quyền như Kinh điển, hoặc do Ðức Chúa Trời soi dẫn, khi Kinh Thánh được
dịch ra tiếng La-tinh nhằm thế kỷ thứ 2 S.C., thì Cựu Ước không dịch từ Cựu Ước
tiếng Hê-bơ-rơ, nhưng dịch từ bản Septante,
tức là Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp. Từ bản Septante,
các Ngụy kinh nầy được chuyển qua bản dịch tiếng La-tinh, rồi lại từ đó chuyển
qua bản Vulgate bằng tiếng La-tinh,
là bản thông dụng ở Tây-âu cho tới thời kỳ Cải chánh. Các tín đồ Tin Lành căn
cứ phong trào của mình trên thẩm quyền thiên thượng của Lời Ðức Chúa Trời, lập
tức bác bỏ những Ngụy kinh đó, không kể chúng là một phần của Lời Ðức Chúa
Trời, cũng như Hội Thánh đầu tiên và dân Hê-bơ-rơ thời xưa đã bác bỏ vậy. Rồi
năm 1546 S.C., tại Giáo-nghị-hội nhóm ở Trente
(nước Ý), cốt để chận đứng phong trào Cải chánh (Tin Lành), Giáo hội kia tuyên
bố rằng những sách nầy thuộc trong Kinh điển; và ngày nay chúng còn ở trong bản
Douay (Kinh Thánh của Giáo hội kia).
Những Ngụy kinh nầy kể ra dưới đây:
I Esdras
Esdras là "E-xơ-ra" trong tiếng Hy-lạp. Sách
nầy là bản sưu tập nhiều khúc sách E-xơ-ra, II Sử ký, Nê-hê-mi, và có thêm
những truyện hoang đường về Xô-rô-ba-bên. Mục đích của nó là mô tả sự khoan
hồng của Si-ru và Ða-ri-út đối với dân Do-thái, cốt để làm gương mẫu cho các Ptolémée (vua Hy-lạp cai trị Ai-cập).
II Esdras
Có khi gọi là "IV
E-xơ-ra." Sách nầy ra vẻ chứa các sự hiện thấy của E-xơ-ra liên quan đến
việc Ðức Chúa Trời tể trị thế giới, một thời đại mới mẻ hầu đến, và sự
"khôi phục" một vài phần Kinh Thánh đã thất lạc.
Tobit
Tiểu thuyết hoàn toàn không có
giá trị lịch sử, mô tả một thanh niên giàu có làm phu tù ở Ni-ni-ve, và một
thiên sứ đã dẫn chàng đi cưới một "trinh nữ quả phụ" đã chết 7 đời
chồng.
Judith
Tiểu thuyết mô tả một quả phụ
Do-thái giàu có, xinh đẹp và mộ đạo. Ðương thời quân Ba-by-lôn xâm lăng nước
Do-thái, nàng đã khéo léo đến trại của đại tướng Ba-by-lôn, giả bộ hiến thân
cho hắn, rồi cắt đầu hắn, nhờ đó cứu được thành của nàng.
Sự yên nghỉ của Ê-xơ-tê
Những khúc xen vào sách
Ê-xơ-tê trong bản Septante của Cựu
Ước, cốt để tỏ ra có bàn tay Ðức Chúa Trời trong truyện tích nầy. Những khúc
sách nầy do Jérôme thâu thập và thêm
vào.
Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn
Rất giống một vài phần của các
sách Gióp, Châm Ngôn, và Truyền đạo. Ðây là tư tưởng Hê-bơ-rơ hòa lẫn với triết
lý Hy-lạp. Do một người Do-thái ở thành phố Alexandrie
biên soạn; người nầy tự nhận là Sa-lô-môn.
Ecclesiasticus
Cũng gọi là: "Sự khôn
ngoan của Giê-su, con trai của Si-rách." Giống như sách Châm Ngôn. Do cây
viết của một triết gia Do-thái đã du lịch rất nhiều. Sách nầy nêu lên các qui
tắc hành vi trong mọi chi tiết của đời sống công dân, tôn giáo và gia đình. Tán
dương một số đông anh hùng Cựu Ước.
Ba-rúc
Sách nầy tự tỏ ra là do
Ba-rúc, thơ ký của Giê-rê-mi, trứ tác. Theo sách nầy, thì Ba-rúc đã sống phần
chót của đời mình ở Ba-by-lôn. Sách nầy gởi cho các phu tù. Phần nhiều là chú
giải sách Giê-rê-mi, sách Ða-ni-ên và nhiều sách tiên tri khác.
Bài ca của ba con thánh
Ðây là phần không chánh thức, thêm vào sách
Ða-ni-ên, đặt sau đoạn 3:23, có ý chép lại lời ba bạn Hê-bơ-rơ cầu nguyện đang
khi ở trong lò lửa hực và bài ca khải hoàn của họ ngợi khen Ðức Chúa Trời đã
giải cứu mình.
Tiểu sử của bà Su-dan-nơ
Một phần không chánh thức khác
thêm vào sách Ða-ni-ên, thuật lại thể nào vợ tin kính của một người Do-thái ở
Ba-by-lôn bị cáo gian phạm tội ngoại tình và được Ða-ni-ên minh oan cho.
Bên và con rồng
Một phần không chánh thức thêm
vào sách Ða-ni-ên. Hai truyện tích trong đó Ða-ni-ên chứng tỏ rằng hình tượng
của Bên và hình tượng con rồng chẳng phải là thần. Một trong hai truyện tích
nầy dựa vào truyện tích Ða-ni-ên ở trong hang sư tử.
Lời cầu nguyện của Ma-na-se
Sách nầy có ý chép lại lời cầu
nguyện của Ma-na-se, vua Giu-đa, khi ông bị giữ làm phu tù ở Ba-by-lôn, như có
chép ở II Sử ký 33:12-13. Không biết tác giả là ai; niên hiệu có lẽ là thế kỷ
thứ nhứt T.C..
I Macchabées
Một tác phẩm lịch sử rất có giá
trị, chép về thời kỳ các Macchabées,
thuật lại những biến cố trong cuộc chiến đấu anh dũng của dân Do-thái để giành
tự do (175-135 T.C.). Do một người Do-thái ở xứ Pa-lét-tin viết vào khoảng 100
năm T.C..
II Macchabées
Ðây cũng là bản tường thuật
cuộc tranh đấu của phái Macchabées,
nhưng thu hẹp vào khoảng 175-161 T.C.. Nó tự nhận là bản tóm tắt tác phẩm của
một người tên là Gia-sôn, ở Sy-ren. Ta chẳng biết chút chi về người nầy. Nó bổ
túc sách I Macchabées, nhưng kém về phẩm.