Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 48 | Chương 50 >> | Hướng Dẫn
Mác
Ðức Chúa Jêsus là Ðấng Lạ lùng
Sách Mác đặc biệt nhấn mạnh
vào quyền phép siêu nhân của Ðức Chúa Jêsus, tỏ ra Ngài là Ðức Chúa Trời bởi
những phép lạ Ngài đã làm. Ông bỏ qua Bài Giảng trên Núi và phần nhiều bài
giảng dài của Ðức Chúa Jêsus. Ông tường thuật những việc Ðức Chúa Jêsus làm hơn
là những lời Ngài phán. Dường như ông đặc biệt chú ý đến những độc giả thuộc về
dân ngoại.
Ðoạn 1:1 -- Tiểu dẫn
Sách nầy mở đầu đột ngột,
không một lời tiểu dẫn, và cũng không nói đến tên tác giả. Tuy nhiên, ngay từ
lúc đầu và theo truyền thoại liên tục, sách nầy được kể là tác phẩm của Mác, và
chứa đại cương truyện tích Ðức Chúa Jêsus theo như Phi-e-rơ đã kể.
Mác
Mác (cũng gọi là Giăng), là
con trai của bà Ma-ri; nhà bà ở thành Giê-ru-sa-lem, là nơi hội họp của các môn
đồ (Công vụ các sứ đồ 12:12). Ông là em họ của Ba-na-ba (Cô-lô-se 4:10), nên có
lẽ thuộc về chi phái Lê-vi (Công vụ các sứ đồ 4:36). Người ta phỏng đoán rằng
ông là chàng thanh niên đã "ở truồng chạy trốn" trong đêm Ðức Chúa
Jêsus bị bắt (Mác 14:51-52), là lúc ông mới bắt đầu chú ý đến Ngài. Lời chép ở
I Phi-e-rơ 5:13 có thể có nghĩa là Phi-e-rơ đã dắt đem Mác trở lại tin Chúa.
14 năm sau, khoảng 44 S.C.,
Mác cùng Phao-lô và Ba-na-ba đi đến An-ti-ốt (Công- vụ các Sứ-đồ 12:25), và
theo hai ông ấy trong hành trình truyền giáo đầu tiên, nhưng lại bỏ về. Rồi
sau, khoảng năm 50 S.C., ông muốn theo Phao-lô trong hành trình thứ hai, nhưng
Phao-lô không chịu nhận ông. Do đó mà Phao-lô và Ba-na-ba phân rẽ nhau (Công vụ
các sứ đồ 13:5, 13; 15:37-39). Bấy giờ Mác đi cùng Ba-na-ba đến đảo Chíp-rơ.
Chừng 12 năm sau, khoảng 62
S.C., Mác ở tại kinh thành La-mã với Phao-lô (Cô-lô- se 4:10; Phi-lê-môn 24);
lại 4 hoặc 5 năm sau nữa, ngay trước khi chịu chết vì Danh Chúa, Phao-lô yêu
cầu đưa Mác đến với mình (II Ti-mô-thê 4:11).
Vậy, dường như lúc cao tuổi,
Mác đã trở thành một người giúp việc gần gũi và yêu dấu của Phao-lô.
Mác ở cùng Phi-e-rơ tại
Ba-by-lôn (La-mã?) Khi Phi-e-rơ viết thơ tín thứ nhứt (I Phi-e-rơ 5:13). Theo
truyền thoại của Hội Thánh đầu tiên, thì phần lớn, Mác là đồng bạn của
Phi-e-rơ, và ông viết truyện tích của Ðức Chúa Jêsus theo như ông đã nghe
Phi-e-rơ giảng. Phi-e-rơ là một người hoạt động, và sự trạng đó dường như phản
chiếu trên bút pháp của sách Tin Lành Mác, thí dụ như chữ "tức thì"
(hoặc "liền") được lặp lại luôn.
Người ta cho rằng sách Tin
Lành nầy đã viết và xuất bản tại La-mã, giữa năm 60 và 70 S.C..
Papias
đã nói gì về Mác? Papias, một
môn đệ của sứ đồ Giăng, viết trong quyển "Giải thích các bài giảng của
Chúa" rằng ông đã chuyên tâm hỏi thăm các "trưởng lão" và môn đệ
của các "trưởng lão," và "trưởng lão cũng nói điều nầy: Vì Mác
làm thông ngôn cho Phi-e-rơ, nên ông viết đúng mọi điều mình đã nhớ về lời phán
và việc làm của Ðấng Christ; tuy nhiên, ông không viết theo thứ tự. Ấy là vì
ông chẳng hề nghe Chúa phán và cũng chẳng phải là một kẻ theo Ngài, nhưng về
sau, như tôi đã nói, ông liên kết với Phi-e-rơ. Vả, Phi-e-rơ thuận ứng sự dạy
dỗ với cơ hội, chớ không dạy dỗ dường như soạn thảo một sách chép có mạch lạc
những sấm ngôn của Chúa. Cho nên Mác không lầm lẫn chút nào khi chép những sự
trạng theo như ông ghi nhớ. Vì trong ý tưởng ông có một mục tiêu, -- ấy là
không bỏ sót điều chi mình đã nghe, và không tuyên bố điều chi giả dối."
Bốn Sách Tin Lành
Viết cho ai? -- Bốn sách Tin Lành viết không phải vì mục đích
thương mại, cốt để phân phát cho đại chúng, y như sách vở xuất bản ngày nay.
Nguyên bổn sách Tin Lành Ma-thi-ơ chắc viết cho Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem. Các
chi hội khác đã sao lại nguyên bổn ấy bằng tay. Người ta cho rằng Mác định viết
sách cho Hội Thánh ở thành La-mã, và những bản sao sách nầy cũng được gởi cho
các chi hội khác. Lu-ca viết sách Tin Lành cho một người tên là Thê-ô-phi-lơ,
một nhân viên cao cấp của chánh phủ La-mã. Giăng cốt viết sách Tin Lành của
mình cho Hội Thánh Ê-phê-sô. Dầu Ðức Chúa Trời soi dẫn các ông nầy để viết đúng
điều Ngài muốn họ viết, hầu cho cả loài người thuộc mọi thế hệ sử dụng, nhưng
chắc họ cũng nghĩ tới bối cảnh, là những người trực tiếp đọc sách của mình. Bối
cảnh ấy có ảnh hưởng đến việc họ lựa chọn tài liệu, và chứng minh một phần nào
tại sao lại có những điểm khác nhau.
Cá tánh của tác giả.-- Dầu các tác giả nghĩ tới độc giả của mình, song
khi viết sách, mỗi ông cũng phản chiếu cá tánh của mình. Họ cùng kể một truyện
tích, -- không phải là giải luận một triết lý khó hiểu, mà là thuật lịch sử của
Một Người đã sống thể nào, làm gì và phán gì. Bất cứ nơi nào, họ cũng kể
cùng một truyện tích, nhưng mỗi người kể theo lối riêng, và nêu lên các điều
mình cho là hào hứng đặc biệt. Ðiều nầy cũng chứng minh tại sao họ có những
điểm khác nhau.
"Các mâu thuẫn"
trong 4 sách Tin Lành.-- Ta phải
ngạc nhiên vì trong tác phẩm của nhiều học giả ngày nay, họ tuyên bố một cách
hoàn toàn lơ đảng rằng 4 sách Tin Lành "đầy dẫy mâu thuẫn." Nhưng khi
thấy cái gọi là "mâu thuẫn" là gì, thì anh em hầu như bị cám dỗ mà
không còn quí trọng một số người tự nhận là "học giả." Có một vài chi
tiết khác nhau và có khác nhau chút ít khi mô tả cùng một chi tiết, -- sự kiện
đó làm cho lời chứng của các tác giả càng đáng tin cậy, vì nó phá tan cái khả hữu
thông đồng giữa họ với nhau.
Thời gian viết sách.-- Ngày nay, người ta có khuynh hướng kể rằng sách
Mác được biên trứ trước nhứt. Tuy nhiên, theo truyền thoại chung trong Hội
Thánh đầu tiên, thì Ma-thi-ơ viết sách trước nhứt. Trong các bản chép tay đầu
tiên, 4 sách Tin Lành thường đặt theo thứ tự hiện hữu, để tỏ ra thứ tự trứ tác
y theo truyền thoại trong Hội Thánh đầu tiên. Thỉnh thoảng, sách Giăng được đặt
ở hàng đầu, nhưng sách Mác không bao giờ được đặt ở hàng đầu.
Ðoạn 1:1-8 -- Lời giảng của Giăng Báp-tít
Việc nầy được chép trong cả 4 sách Tin Lành. Xem
lời chú giải ở dưới Lu-ca 3:1-20. Mở đầu sách, Mác trưng dẫn một câu Cựu Ước;
bỏ qua truyện tích Ðức Chúa Jêsus giáng sanh, ông lập tức ghi chép các chi tiết
dồi dào trong đời sống công khai của Ngài.
Ðoạn 1:9-11. Ðức Chúa
Jêsus chịu lễ báp-têm.-- Xem ở Ma-thi-ơ
3:13-17.
Ðoạn 1:12-13. Chúa chịu cám dỗ 40 ngày.-- Xem ở Ma-thi-ơ 4:1-10.
Thời Gian Và Niên Biểu Ðời Sống Công Khai
Của Ðức Chúa Jêsus
Nhằm năm thứ 15 đời trị vì của
Sê-sa Tibère, thì Ðức Chúa Jêsus chừng 30 tuổi (Lu-ca 3:1, 23). Khi Hê-rốt qua
đời, thì Ngài còn thơ ấu (Ma-thi-ơ 2:19-20). Ðiểm nầy ấn định vị trí của Ðức
Chúa Jêsus trong niên lịch La-mã, về sau thay thế bằng niên lịch Cơ đốc giáo
(xem ở dưới Lu-ca 2:39).
Sau khi chịu lễ báp-têm ít
lâu, Ngài đi thăm thành Giê-ru-sa-lem, nhằm kỳ lễ Vượt qua (Giăng 2:13). Lễ
Vượt qua phần nhiều nhằm tháng 4 dương lịch.
Giữa lúc Ngài chịu lễ báp-têm
và lúc Ngài đi thăm thành Giê-ru-sa-lem, có các biến cố chép ở Giăng 1:29 đến
2:12, và 40 ngày cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11).
Sự cám dỗ xảy ra ngay sau khi
Ngài chịu lễ báp-têm, và kéo dài 40 ngày (Mác 1:12-13).
Sau cơn cám dỗ, Ngài lại xuất
hiện ở bờ sông Giô-đanh, là nơi Giăng Báp-tít đang giảng,và Ngài ở đó liền 3
"ngày" (Giăng 1:29, 35, 43). "Cách 3 ngày sau," Ngài tới
Ca-na, và làm phép lạ biến nước thành rượu (Giăng 2:1).
Rồi Ngài đi Ca-bê-na-um,
"và chỉ ở tại đó ít ngày thôi" (Giăng 2:12); sau đó, Ngài lên thành
Giê-ru-sa-lem và dẹp sạch Ðền thờ.
Như vậy, 40 ngày cám dỗ, 3
"ngày," rồi "3 ngày sau," rồi "ít ngày thôi" hợp
lại thành thời gian giữa lúc Ngài chịu lễ báp-têm và lễ Vượt qua, tổng cộng chỉ
tới vài ba tháng là cùng.
Thế thì lễ báp-têm đánh dấu
khởi điểm đời sống công khai của Ngài, chắc đã xảy ra nhằm mùa thu, hoặc đầu
mùa đông.
Còn về thời gian Ngài sống
công khai, thì có ghi 3 lễ Vượt qua: khi Ngài dẹp sạch Ðền thờ (Giăng 2:13),
khi Ngài cho 5000 người ăn no nê (Giăng 6:4), và khi Ngài bị đóng đinh vào Thập
tự giá (Lu-ca 22:15).
Nếu "ngày lễ" ở
Giăng 5:1 là lễ Vượt qua, theo như người ta thường giả định, thì sẽ có 4 lễ
Vượt qua, và có 3 năm trọn giữa lễ Vượt qua thứ nhứt và lễ Vượt qua thứ tư. Nếu
là một lễ nào khác cử hành giữa hai lễ Vượt qua, thì chỉ có 3 lễ Vượt qua và 2
năm trọn giữa lễ Vượt qua thứ nhứt và lễ Vượt qua thứ ba.
Như vậy, chức vụ công khai của
Ðức Chúa Jêsus đã kéo dài hoặc chừng 3 năm rưỡi, hoặc chừng 2 năm rưỡi. Phần
nhiều ý kiến chấp nhận 3 năm rưỡi.
Bố Cuộc Ðời Sống Công Khai Của Ðức Chúa
Jêsus
Với niên
biểu có lẽ đúng
Mùa thu năm 26 S.C.. |
Lễ báp-têm, ở hạ lưu sông Giô-đanh. Sự cám dỗ, ở đồng
vắng gần đó. Các môn đồ đầu tiên, ở hạ lưu sông Giô-đanh. Phép lạ đầu tiên
tại Ca-na. |
Năm 27 S.C.. |
Lễ Vượt qua:
Dẹp sạch Ðền thờ, tại Giê-ru-sa-lem. Phần đầu chức vụ tại xứ Giu-đê: ở hạ lưu
sông Giô-đanh (8 tháng. Xem ở Giăng 3:22-36). |
Tháng 12 dương lịch: |
Trở về, qua xứ Sa-ma-ri. Bắt đầu chức vụ tại xứ
Ga-li-lê (2 năm. Xem ở Ma-thi-ơ 4:13-25). |
Năm 28 S.C.. |
Lễ Vượt qua
(?): Thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 5:1). |
Mùa hạ: |
Lựa chọn 12 sứ
đồ. |
Năm 29 S.C.. |
Bài Giảng trên
Núi. |
Tháng 2 dương lịch (?): |
12 sứ đồ được
sai đi. Giăng Báp-tít bị chém đầu. 12 sứ đồ trở về. |
Lễ Vượt qua: |
Cho 5000 người
ăn no nê. |
Tháng 10 dương lịch: |
Thăm viếng
thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 7:2, 10). |
Tháng 11 dương lịch (?): |
Sự Hóa hình. |
Tháng 12 dương lịch (?): |
Kết liễu chức
vụ tại xứ Ga-li-lê (xem ở Lu-ca 9:51). |
Tháng 12 dương lịch: |
Lại lên thành
Giê-ru-sa-lem (Giăng 10:22). Phần cuối chức vụ tại xứ Giu-đê và chức vụ tại
xứ Pê-rê (chừng 4 tháng). |
Năm 30 S.C.. Lễ Vượt qua: |
Chúa chịu đóng đinh vào Thập tự giá. |
* *
*
Chức Vụ Tại Xứ Ga-li-lê
(1:14 đến 10:1)
Chức vụ của Chúa tại xứ
Ga-li-lê chiếm chừng một nửa sách Mác.
Về bố cuộc, xin xem mục biểu
so sánh ở dưới Ma-thi-ơ 4:12.
Về mục biểu niên đại, xin xem
ở dưới Ma-thi-ơ 4:13-25.
Ðoạn 1:14-15 -- Ðức Chúa Jêsus bắt dầu chức vụ
tại xứ Ga-li-lê
Giữa câu 13 và câu 14, nghĩa
là giữa lúc Ðức Chúa Jêsus chịu cám dỗ và lúc Ngài bắt đầu chức vụ tại xứ
Ga-li-lê, ta phải đặt các biến cố chép ở Giăng 1:19 đến 4:54, gồm thời gian
chừng 1 năm.
Các môn đồ đầu tiên, lúc Giăng
làm lễ báp-têm.
Nước biến thành rượu, tại
Ca-na.
Dẹp sạch Ðền thờ.
Nói chuyện với Ni-cô-đem.
Giảng tại hạ lưu sông
Giô-đanh, chừng 8 tháng.
Nói chuyện với người đờn bà
Sa-ma-ri.
Chữa lành con trai quan thị
vệ, từ thành Ca-na.
Bị chối bỏ tại Na-xa-rét
(Lu-ca 4:16-30).
(Xem niên biểu đời sống công
khai của Ðức Chúa Jêsus ở hai trang trước).
Ðức Chúa Jêsus đã giảng ở hạ
lưu sông Giô-đanh và được thành công lớn (Giăng 3:22-24, 4:1-3). Nhưng sự cừu
địch ngày càng gia tăng của người Pha-ri-si (Giăng 4:1-3) và việc Hê-rốt hạ
ngục Giăng Báp-tít (Ma-thi-ơ 4:12) gây nên hiểm họa cho Ðức Chúa Jêsus nếu Ngài
cứ tiếp tục giảng dạy ở miền đó. Vì Ngài phải làm một việc gì trước khi chịu
chết trên Thập tự giá, nên Ngài nghĩ rằng đi xa thành Giê-ru-sa-lem hơn nữa là
thượng sách; vậy, Ngài trở về xứ Ga-li-lê, là nơi sự can thiệp của kẻ khác ít
hơn.
Ðoạn 1:16-20 -- Kêu gọi Si-môn, Anh-rê, Gia-cơ
và Giăng
Việc nầy cũng có chép ở
Ma-thi-ơ 4:18-22 và Lu-ca 5:1-11. Trong 4 ông nầy, thì 3 ông đã tin Ðức Chúa
Jêsus một năm trước lúc Giăng làm lễ báp-têm (Giăng 1:35-42). Bây giờ họ được
kêu gọi làm bạn đồng hành của Chúa. Xem thêm ở dưới Ma-thi-ơ 10 và Mác 3:13-19.
Ðoạn 1:21-28 -- Người bị quỉ ám được chữa lành
Cũng có chép ở Lu-ca 4:21-37. Ðây
là phép lạ thứ nhứt của Ðức Chúa Jêsus làm tại Ca-bê-na-um, theo như có chép
trong Kinh Thánh, sau khi Chúa đóng trụ sở ở nơi ấy. Trước đó ít lâu, Chúa đã
chữa lành con trai quan thị vệ tại Ca-bê-na-um, chỉ bởi một hành động của ý chí
Ngài tại Ca-na, cách đó 15 dặm (Giăng 4:46-54). Về lời chú giải tánh chất quỉ
ám, xin xem ở dưới Mác 5:1-20.
Ca-bê-na-um
Khi tới xứ Ga-li-lê (sau 8
tháng vắng mặt để thi hành phần đầu chức vụ tại xứ Giu-đê), thì Chúa ghé thành
Ca-na; tại đây, gần 1 năm trước, trong nhà một người bạn hoặc bà con, Ngài đã
biến nước thành rượu. Sau khi chữa lành cho con trai quan thị vệ, Ngài bèn đến
thành Na-xa-rét, nhưng dân chúng chối bỏ Ngài (xem ở Lu-ca 4:16-30). Bấy giờ
Ngài định cư tại Ca-bê-na-um, lấy đó làm trung tâm đi ra tiếp tục chức vụ giảng
dạy và chữa bịnh. Có lẽ Ngài đã mướn một căn nhà. Hoặc có lẽ Ngài lấy nhà của
Phi-e-rơ hoặc của Giăng làm nơi cư ngụ chính. Từ Ca-bê-na-um, Ngài du hành rất
nhiều trải qua xứ Ga-li-lê, thỉnh thoảng Ngài đi lên Giê-ru-sa-lem, hoặc tới
các miền ở phía Bắc xứ Ga-li-lê. Ngài đi bộ, thường có một nhóm môn đồ theo
hầu, và thường cũng có những đoàn dân đông đúc theo sau.
Người ta cho rằng Ca-bê-na-um
chính là đống hoang tàn ngày nay gọi là Tel
Hum, cách nơi sông Giô-đanh đổ vào biển Ga-li-lê 3 dặm về phía Tây nam. Xem
thêm ở dưới Lu-ca 7:1-10, và bản đồ ở dưới Mác 6:45-52.
Ðoạn 1:29-31 -- Bà gia của Phi-e-rơ được chữa
lành
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
8:14-15 và Lu-ca 4:38-39. Như vậy, Phi-e-rơ có vợ. Phép lạ đầu tiên của Ðức
Chúa Jêsus là một phước giáng trên hôn nhân. Ðây, Ngài chữa lành bà gia vị sứ
đồ thủ lãnh của Ngài. Thật kỳ lạ, các nhà lãnh đạo Giáo hội kia tự thấy buộc
phải nhận theo một hình thức thánh khiết mà người họ tôn là "Thủ lãnh đầu
tiên" không hề buộc phải vâng giữ.
Ðoạn 1:32-34 -- Rất đông người được chữa lành
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
8:16-17 và Lu-ca 4:40-41. Việc nầy xảy ra sau lúc mặt trời lặn, vì mặt trời lặn
đánh dấu hết ngày Sa-bát. Luật ngày Sa-bát rất nghiêm nhặt (xem ở Mác 3:1-6). "Trước
cửa" (câu 33), -- dường như là cửa của nhà Phi-e-rơ. Tin Chúa chữa lành
người bị quỉ ám và bà gia Phi-e-rơ đã đồn ra khắp thành, nên rất đông người đem
kẻ đau đến, tụ tập quanh nhà. Và Ðức Chúa Jêsus chữa lành cho họ. Chính các
phép lạ của Ngài đã kéo dân chúng đến đông đúc. Ánh sáng thương xót của Ðức
Chúa Trời đối với nhân loại đau khổ đã bắt đầu chói lọi. Thật là một ngày trọng
đại tại thành Ca-bê-na-um.
Ðoạn 1:35-37 -- Ði tẻ để cầu nguyện
Cũng có chép ở Lu-ca 4:42-43. Thật
là một ngày bận rộn. Ðức Chúa Jêsus đã chữa lành có tới mấy trăm người. Ngài
được sử dụng quyền phép của Ðức Chúa Trời, và đã dùng quyền phép ấy cốt yếu để
giảm bớt sự đau đớn của loài người. Lúc nầy, Ngài đang ở cực độ của chức vụ
công khai, nhưng Ngài thường lánh khỏi dân chúng, đến nơi cô tịch để tìm cách
giữ cho con đường thông công giữa Ngài và Ðức Chúa Trời được mở rộng và sáng
sủa. Xem lời chú giải về đời sống cầu nguyện của Ngài ở dưới Lu-ca 11:1-13.
Ðoạn 1:38-39 -- Du hành quanh xứ Ga-li-lê
Ðức Chúa Jêsus du hành nhiều
lần, và thỉnh thoảng trở về Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 4:23-25; 9:35-38; Lu-ca
4:44). Xứ Ga-li-lê có nhiều đại lộ quốc tế danh tiếng chạy qua, nối liền sông
Ơ-phơ-rát với sông Ni-lơ. Cũng có nhiều đường nhánh. Xem bản đồ ở dưới Mác
3:7-12.
Ðoạn 1:40-45 -- Người phung được sạch
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 8:2-4
và Lu-ca 5:12-16. Bịnh phung là một bịnh gớm ghiếc và đáng thương. Người phung
phải ở riêng. Ðức Chúa Jêsus bảo người phung nầy đến trình diện với các thầy tế
lễ, vì luật pháp buộc người phung đã được chữa lành và sẵn sàng trở về đời sống
xã hội phải làm như vậy (Lê vi ký 13-14). Ngài bảo anh ta chớ nói chi về phép
lạ nầy, kẻo phong trào quần chúng tôn Ðức Chúa Jêsus làm Vua sẽ không sao kiềm
chế được.
Ðoạn 2:1-12 -- Người bại được chữa lành
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 9:2-6
và Lu-ca 5:18-26. Việc nầy có lẽ xảy ra trong nhà Phi-e-rơ. Chắc Phi-e-rơ đã
trực tiếp kể các chi tiết cho Mác. Chắc là nhà rộng lắm, mới chứa được đám đông
dường ấy. Nhà nầy xây chung quanh một cái sân, hoặc là một dãy nhà liền nhau,
xây chung quanh một sân vuông vức. Có lẽ Ðức Chúa Jêsus ngự nơi hiên lợp ngói ở
phía trong sân. Nhà chắc có một thang ở phía ngoài. Không thể chở người bại nằm
trên giường qua những cửa có đông người chen chúc. Ý họ quyết định đến gần Ðức
Chúa Jêsus đã đẹp lòng Ngài. Ðức Chúa Jêsus luôn luôn đẹp lòng khi thấy người
ta tin Ngài có quyền phép để chữa lành. Ngày nay đức tin dường ấy chắc cũng còn
đẹp lòng Ngài.
Danh tiếng Ðức Chúa Jêsus lan
ra khắp chốn đến nỗi người Pha-ri-si, các thầy thông giáo từ thành
Giê-ru-sa-lem và khắp xứ (Lu-ca 5:17) đã kéo đến để điều tra. Trước mắt chỉ
trích và hằn hộc của chúng, Ðức Chúa Jêsus quả quyết Ngài là Ðức Chúa Trời bằng
cách tuyên bố tha tội cho người bại, rồi Ngài làm phép lạ để chứng minh lời quả
quyết đó. Ðây là một phép lạ mà Ðức Chúa Jêsus phán rằng Ngài làm cốt để chứng
tỏ mình là Ðức Chúa Trời. Phép lạ nầy có hiệu lực lạ lùng trên dân chúng, song
chỉ càng chọc giận những người Pha-ri-si lòng đã đui mù.
Ðoạn 2:13-17 -- Kêu gọi lê-vi (Ma-thi-ơ)
Ðức Chúa Jêsus vừa mới lựa
chọn 4 người đánh cá làm đồng chí của Ngài trong sự thiết lập Nước Ngài. Bây
giờ Ngài tuyển thêm một người thâu thuế. Ngài bỏ qua bọn thủ lãnh tôn giáo
trong nước như vậy, há chẳng kỳ lạ lắm sao? về lời chú giải Ma-thi-ơ, xin xem
"Tiểu dẫn sách Ma-thi-ơ" và Ma-thi-ơ đoạn 10.
Ðoạn 2:18-22 -- Câu hỏi về sự kiêng ăn
Cũng có tường thuật ở Ma-thi-ơ
9:14-17 và Lu-ca 5:33-38. Có lẽ nhơn cơ hội Ðức Chúa Jêsus dự tiệc do Ma-thi-ơ
thết; điều nầy làm cho các môn đồ của Giăng Báp-tít, người Pha-ri-si, và có lẽ
cả một vài môn đồ của Ðức Chúa Jêsus ngạc nhiên lắm. Dự tiệc thì khác hẳn cách
Giăng Báp-tít đã sống. Có thể có những lúc khủng hoảng mà sự kiêng ăn là một
cách thích hợp để tỏ ra ta hạ mình, ăn năn và sốt sắng vì đạo. Trong trường hợp
của Giăng Báp-tít, sự kiêng ăn có ý nghĩa đặc biệt (xem ở dưới Lu-ca 3:1-20). Nhưng
bọn người trong tôn giáo đương thời Ðức Chúa Jêsus đã kiêng ăn thái quá! Ðức
Chúa Jêsus không quá coi trọng sự kiêng ăn theo như họ thường thực hành
(Ma-thi-ơ 6:16-18). Môi-se, Ê-li và Ðức Chúa Jêsus đều đã kiêng ăn 40 ngày,
nhưng là trong một giai đoạn hết sức căng thẳng. Ba ẩn dụ về chàng rể, áo rách
và bầu da cũ đựng rượu dường như có ý nghĩa rằng có những cơ hội mà sự kiêng ăn
thích hợp, nhưng trong cuộc sanh hoạt thường ngày, thì nó không đúng chỗ, nhứt
là nếu họ hay làm để quảng cáo cho sự thánh khiết, đạo đức của mình (Ma-thi-ơ
6:16-18).
Ðoạn 2:23-27 -- Ăn lúa mì trong ngày Sa-bát
Truyện nầy cũng có chép ở
Ma-thi-ơ 12:1-8 và Lu-ca 6:1-5. Cựu Ước có những luật pháp khá nghiêm nhặt về
sự giữ ngày Sa-bát, nhưng truyền thuyết của người Do-thái đã thêm nhiều sự hạn
chế thái quá và phi lý đến nỗi làm mất cả ý định nguyên thủy của Ðức Chúa Trời.
Lời Ðức Chúa Jêsus quả quyết rằng Ngài là Chúa ngày Sa-bát, thì cũng tương
đương với một lời tự nhận là Ðức Chúa Trời.
Ðoạn 3:1-6 -- Chữa bịnh trong ngày Sa-bát
Việc nầy cũng có chép ở
Ma-thi-ơ 12:9-14 và Lu-ca 6:6-11. Sự chữa lành người teo tay trong ngày Sa-bát
đã chọc giận người Pha-ri-si và phe Hê-rốt đến nỗi chúng lập mưu giết Ðức Chúa
Jêsus. Ðối với bọn đạo đức nhà nghề, cứng lòng và bại hoại nầy, thì một việc
nhân đức tầm thường trong ngày Sa-bát cũng là một trọng tội kinh khiếp. Những
bọn sát nhân và bất lương có thể tàn ác hơn chăng? Hãy suy nghĩ, bọn đồng đảng
của Hê-rốt, là tên trùm sát nhân, mà cũng quá câu nệ về sự giữ ngày Sa-bát! Kinh
Thánh chép 7 lần Ðức Chúa Jêsus chữa bịnh trong ngày Sa-bát (xem ở dưới Giăng,
đoạn 5).
Ðoạn 3:7-12 -- Các đoàn dân đông và các phép
lạ
Các đoàn dân đông đến thăm Ðức
Chúa Jêsus và theo Ngài, đã được thúc đẩy bởi hai lý do: Một, để được Ngài chữa
cho kẻ bịnh, và hai, toàn dân trông mong Ngài là Ðấng Mê-si.
Ðời sống công khai của Ðức Chúa Jêsus phần lớn đã diễn ra ở xứ
Ga-li-lê. Kinh Thánh chép Ngài thăm viếng Giê-ru-sa-lem 5 lần; và chép Ngài đi
tẻ khỏi quần chúng 3 lần: tới miền Si-đôn và Ty-rơ; tới Sê-sa-rê Phi-líp; và
tới đồng vắng Ép-ra-im để chờ lúc chịu chết.
Bản đồ số 46 -- Những hàng chấm
chỉ tỏ các con đường chính
đương thời Ðức Chúa Jêsus
Ðoạn 3:13-19 -- Lựa chọn 12 Sứ đồ
tên của 12 Sứ đồ được chép ở 4 chỗ (xin xem dưới
đây). Một vài ông có hai tên, hoặc một biệt hiệu, hay là một tên đặt cách khác.
Chúng ta không biết tại sao Ðức Chúa Jêsus lựa chọn 12 Sứ đồ. Trong số 12 ông,
có 3 ông họp thành một nhóm thân cận với Chúa. Ngoài 12 Sứ đồ nầy, Chúa còn sai
70 môn đồ đi làm nhiệm vụ đặc biệt (câu 3, 12). Các số 3, 12, 70 hay dùng trong
Kinh Thánh với ý nghĩa tượng trưng. 12 chi phái Y-sơ-ra-ên là nền tảng của quốc
gia Hê-bơ-rơ. 12 Sứ đồ đã đặt nền tảng của Hội Thánh (Khải Huyền 21:12-14). Môi-se có 70 trưởng
lão. Tòa công luận gồm 70 nhân viên. Những con số nầy có thể có một ý nghĩa thần
bí mà chúng ta không biết.
Trong số 12 Sứ đồ, có 4 ông
làm nghề đánh cá. Một ông làm nghề thâu thuế. Một ông thuộc phái cuồng tín. Chúng
ta không biết mấy ông kia làm chi. Hết thảy là người Ga-li-lê, trừ Giu-đa, kẻ
phản Chúa. Trong nhóm nầy, không có một ai thuộc giới đạo đức chuyên nghiệp,
không có một ai quảng cáo sự tin kính của mình bằng cách phục sức. Phao-lô về
sau nhập đoàn Sứ đồ, là người Pha-ri-si độc nhứt.
Ma-thi-ơ 10:2-4 |
Mác 3:16-19 |
Lu-ca 6:12-16: |
Công vụ 1:13 |
1. Si-môn 2. Anh-rê 3. Gia-cơ 4. Giăng 5. Phi-líp 6. Ba-thê-lê-mi 7. Thô-ma 8. Ma-thi-ơ 9. Gia-cơ, (con của A-phê) 10. Tha-đê 11. Si-môn, (người Ca-na-an) 12. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt |
1. Si-môn 2. Gia-cơ 3. Giăng 4. Anh-rê 5. Phi-líp 6. Ba-thê-lê-mi 7. Ma-thi-ơ 8. Thô-ma 9. Gia-cơ, (con của
A-phê) 10. Tha-đê 11. Si-môn, (người Ca-na-an) 12. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt |
1. Si-môn 2. Anh-rê 3. Gia-cơ 4. Giăng 5. Phi-líp 6. Ba-thê-lê-mi 7. Ma-thi-ơ 8. Thô-ma 9. Gia-cơ, (con của
A-phê) 10. Si-môn Xê-lốt(1) 11. Giu-đe, (con của Gia-cơ) 12. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt |
1. Phi-e-rơ 2. Gia-cơ 3. Giăng 4. Anh-rê 5. Phi-líp 6. Thô-ma 7.
Ba-thê-lê-mi 8. Ma-thi-ơ 9. Gia-cơ, (con của A-phê) 10. Si-môn
Xê-lốt 11. Giu-đe, (con của Gia-cơ) 12. Ma-thia |
Phi-e-rơ. Ông được nói đến lần
đầu tiên lúc Giăng làm lễ báp-têm (Giăng 1:40-42). Lúc ông gặp Ðức Chúa Jêsus
lần đầu tiên mà Kinh Thánh chép đây, thì Ngài đổi tên cho ông, dường như Ngài
đã nhứt định chọn ông làm Sứ đồ. "Si-môn" là tên thiên nhiên của ông.
Tên mới của ông là "Phi-e-rơ" (tiếng Hi-lạp), "Sê-pha"
(tiếng Araméen), cả hai nghĩa là "Ðá." Tên nầy được tái xác nhận 3
năm sau, lúc ông xưng Ngài là Ðấng Christ (Ma-thi-ơ 16:18).
Phi-e-rơ có vợ (Mác 8:14;
Ma-thi-ơ 1:30; Lu-ca 4:38). Bà cùng đi với ông khi ông hành chức Sứ đồ (I
Cô-rinh-tô 9:5). Ông nguyên quán ở Bết-sai-đa (Giăng 1:44), và có nhà ở
Ca-bê-na-um (Mác 1:29). Hoặc ông có hai nhà, hay là đã từ Bết-sai-đa dời đến ở
Ca-bê-na-um.
Ông làm nghề đánh cá chung với
Gia-cơ và Giăng (Lu-ca 5:10). Rõ ràng lắm, ông là một nhà doanh nghiệp khá giả.
Ông có nghị lực, hăng hái, hay
xung động, và nóng nảy. Ông sanh ra để làm lãnh tụ, và có nhiều bổn chất loài
người. Ông thường là phát ngôn nhân của 12 Sứ đồ.
Tên "Ðá" Ðức Chúa
Jêsus đặt cho ông thật đã tỏ ra tâm tánh thật của ông mà Ngài hiểu rõ lắm: Ông
có sức mạnh của sự tin quyết, can đảm, dạn dĩ, mặc dầu ông đã ba lần chối Chúa
và một lần "giả dối" tại An-ti-ốt (Ga-la-ti 2:11-14). Ông tuyệt đối
không sợ hãi trong cơn bắt bớ. Ông đã đặt nền tảng cho Hội Thánh xứ Giu-đê, và
dắt dẫn Hội Thánh ấy với một sức xung kích làm cho những kẻ cầm quyền phải
khủng khiếp, thất kinh.
Ông không phải là Giáo hoàng. Ðấng
Christ không hề ban cho ông địa vị cao cả; chính ông cũng không đòi địa vị ấy,
và người khác cũng không nhìn nhận ông có địa vị ấy. Ông tự xưng là
"trưởng lão như họ" (I Phi-e-rơ 5:1), chớ không phải là "Chúa
của các Giám mục." Xem thêm ở dưới "Tiểu dẫn thơ I Phi-e-rơ."
Giăng. Xem lời chú giải tiểu dẫn sách Tin Lành Giăng.
Ma-thi-ơ. Xem lời chú giải tiểu dẫn sách Tin Lành Ma-thi-ơ.
Gia-cơ. Anh của Giăng. Ðức Chúa Jêsus đặt tên cho hai anh
em là "Bô-a-nẹt," -- con trai của sấm sét. Ðiều nầy há chẳng tỏ ra
rằng có lẽ Ðức Chúa Jêsus có óc hài hước vui vẻ, sao? Chúng ta không biết nhiều
về Gia-cơ. Trong 12 Sứ đồ, ông là người chết đầu tiên, vì bị Hê-rốt giết (năm
44 S.C.). Tuy khác nhau và không chắc đúng, nhưng các truyền thoại đều cho là
cả 12 Sứ đồ đã tuận đạo.
Có hai gia đình chung nhau làm nghề đánh cá: hai
anh em Gia-cơ, Giăng, cùng Xê- bê-đê, là cha họ, và hai anh em Si-môn, Anh-rê.
Họ có nuôi tôi tớ. Chắc sự làm ăn của họ khá lớn lao. Cả 4 ông đã trở thành Sứ
đồ. Trong số 4 ông nầy, thì 3 ông thân cận với Ðức Chúa Jêsus hơn hết. Về toàn
thể, chắc 12 Sứ đồ ở bậc cao nhứt, vì Ðức Chúa Jêsus biết người ta, và Ngài kén
những tay ưu tú trong xứ. 3 ông nầy chắc là xuất sắc biết bao!
Anh-rê. Nguyên quán ở Bết-sai-đa. Ông và Giăng là môn đồ
đầu tiên của Ðức Chúa Jêsus. Ông dẫn anh mình, là Phi-e-rơ, đến cùng Ðấng
Christ. Theo truyền thoại, ông đã giảng ở Tiểu-Á-tế-á, Hi-lạp và xứ Sy-the
(Nga).
Phi-líp. Nguyên quán ở Bết-sai-đa. Người đồng hương của
Anh-rê và Phi-e-rơ. Ông đã dẫn Na-tha-na-ên đến cùng Ðấng Christ. Ðó là một sự
tích cực thay đổi ý kiến. Theo truyền thoại, ông đã giảng ở xứ Phi-ri-gi và qua
đời tại thành Hiérapolis.
Ba-thê-lê-my. Người ta cho rằng đây là biệt hiệu của
Na-tha-na-ên, nguyên quán ở Ca-na, cách Na-xa-rét 3 dặm. Có lẽ do Ba-thê-lê-my
giới thiệu mà Ðức Chúa Jêsus đã đến dự tiệc cưới. Theo truyền thoại, thì ông đã
giảng Tin Lành ở xứ Parthie.
Thô-ma. Một con sanh đôi ("Ði-đim" nghĩa là sanh
đôi). Cẩn thận, hay suy nghĩ, hoài nghi, và hay buồn rầu. Theo truyền thoại,
thì ông đã hầu việc Chúa ở các xứ Sy-ri, Parthie,
Ba-tư và Ấn-độ.
Gia-cơ. Con của A-phê. Cũng gọi là "nhỏ" (Mác
15:40), có lẽ vì vóc giạc ông thấp nhỏ. Theo truyền thoại, thì ông đã giảng ở
xứ Pa-lét-tin và Ai-cập.
Tha-đê. Người ta cho rằng Tha-đê chính là Giu-đe, con của
Gia-cơ, một vài bản cảo lại gọi ông là Lê-ba-út. Theo một truyền thoại, ông đã
được cử đi thăm Abgarus, vua thành Edesse, rồi đi tới các xứ Sy-ri, Ả-rập
và Mê-sô-bô-ta-mi.
Si-môn, thuộc phái "Xê-lốt" (theo tiếng Hi-lạp),
hoặc "người Ca-na-an (theo tiếng Araméen). Chúng ta chẳng biết chi hết về
ông nầy. Phái "Xê-lốt" là một phe quốc gia nhiệt cuồng, trực tiếp đối
lập với bọn thâu thuế. Ðức Chúa Jêsus chọn một người thâu thuế và một người
Xê-lốt, thuộc hai phái cừu địch chí tử, khiến họ trở nên anh em trong Ngài và
trong công việc Ngài.
Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Kẻ phản Chúa. Nguyên quán ở Kê-ri-giốt, một thành
thuộc xứ Giu-đê (Giê-rê-mi 48:24). Ðây là Sứ đồ duy nhứt không phải là người xứ
Ga-li-lê. Tánh nết hà tiện và gian trá. Trông mong được phần thưởng lớn khi
Chúa ngự trên ngôi Ða-vít. Thất vọng khi thấy giấc mộng trần gian của mình tiêu
tan. Sau khi phạm trọng tội đáng gớm ghét, hắn thắt cổ tự tử, rồi té xuống, nứt
bụng, ruột đổ ra hết. Tại sao Ðức Chúa Jêsus chọn hắn, -- đó là một sự bí mật
của thiên cơ mà ta không sao cắt nghĩa được.
Ðoạn 3:20-30. Tội lỗi
không thể tha thứ.-- Xem ở Ma-thi-ơ
12:24-37.
Ðoạn 3:31-35. Mẹ và anh em Ngài.-- Xem ở Ma-thi-ơ 12:46-50.
Ðoạn 4:1-25. Thí dụ về người gieo giống.-- Xem ở Ma-thi-ơ 13:1-23.
Ðoạn 4:30-34. Hột cải.-- Xem ở Ma-thi-ơ 13:31-32.
Ðoạn 4:26-29 -- Thí dụ về hột giống lớn lên
Người ta thường trông mong
rằng Nước của Ðấng Mê-si sẽ được thành lập, có vinh quang và hùng cường làm cho
thế giới rúng động. Thí dụ nầy có nghĩa rằng Nước ấy ban đầu sẽ rất nhỏ, và mở
mang rất chậm chạp, lâu lắc, êm lặng, kín giấu không ai ngờ, song cũng không ai
chống cự được, và cứ tấn tới cho đến kỳ gặt hái.
Ðoạn 4:35-41 -- Dẹp yên cơn bão
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
8:23-27; Lu-ca 8:22-25. Trong chiếc thuyền chòng chành, nghiêng ngửa, các môn
đồ băn khoăn và khủng khiếp, nhưng Ðức Chúa Jêsus ngủ yên. Ngài cần chi phải sợ
hãi? Ngài đã dự phần tạo nên sóng, gió. Chúng ta hết sức muốn biết những phương
thức và quyền năng mầu nhiệm kèm theo lời Ngài phán để dẹp yên các luồng nước
đang cuồng loạn! Chúa đã quở trách các môn đồ nặng nề biết bao! "Tại sao
các ngươi sợ hãi? Ðức tin các ngươi đâu? Trong lúc Ta ở đây, có tai họa nào xảy
đến cho các ngươi được chăng?"
Ðoạn 5:1-20 -- Người Giê-ra-sê bị quỉ ám
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
8:28-34; Lu-ca 8:26-37. Ma-thi-ơ nói là hai người Ga-đa-ra. Mác và Lu-ca nói là
người Giê-ra-sê. Người ta bảo rằng miền Giê-ra-sê chính là khu hoang tàn ngày
nay gọi là "Kerza" (Kersa,
Gergesa). Xem bản đồ ở dưới Mác 6:45-52. Người ta cho rằng Ga-đa-ra ở quá
về phía Nam, gần góc Ðông nam của biển, và là một thành phố lớn hơn lấy tên đặt
cho cả miền phụ cận. Giê-ra-sê là một làng đặc biệt, và biến cố nầy đã xảy ra
gần đó. Nó cách cửa sông Giô-đanh chừng 5 dặm. Ngay phía Nam làng nầy có chỗ
duy nhứt mà các ngọn đồi dốc gần sát mặt nước (Ma-thi-ơ 8:32).
Ma-thi-ơ nói rằng có hai người
bị quỉ ám. Mác và Lu-ca chỉ chép có 1 người, có lẽ vì người nầy điên cuồng và
hung hăng hơn người kia và là phát ngôn nhân. Anh ta là một người điên nguy
hiểm, dữ tợn, có sức mạnh vô biên, ở lõa lồ giữa các mồ mả và trong đồng vắng,
tự đánh bầm mình và kêu la đau đớn.
Có rất nhiều quỉ ở trong 2
người nầy, cả một "quân đội," có lẽ phần nhiều chúng ở trong người
hung hăng hơn. Có 2000 con heo, và có lẽ rất ít là có chừng ấy quỉ.
Chúng lập tức nhìn nhận quyền
hành của Ðức Chúa Jêsus.
Hãy chú ý: Bọn quỉ thích ở
trong bầy heo hơn là về nơi ở của chúng. Nhưng chẳng bao lâu, chúng cũng phải
về đó.
Chúng có thể cai trị 2 người
kia, nhưng không thể cai trị bầy heo. Chúng không đùa bầy heo xuống biển. Hoặc
heo, hoặc quỉ, đều chẳng muốn xuống biển; nhưng bầy heo bị quỉ nhập, đã hoảng
hốt, và không tự chế được trên sườn đồi dốc. Một khi đã cất bước rồi, chúng
không dừng lại được nữa.
Cũng hãy chú ý điều nầy: Thổ
dân muốn Ðức Chúa Jêsus dời khỏi xứ họ, dầu Ngài chữa lành người điên cho họ,
nhưng trong hành động ấy, Ngài đã diệt mất bầy heo của họ. Họ nghĩ đến bầy heo
hơn là nghĩ đến đồng bào mình. Bọn người nầy chưa chết hết đâu.
Ðức Chúa Jêsus bảo người nầy
hãy đi ra nói về mình đã được chữa lành (câu 19). Ngài đã truyền lịnh cho người
phung chớ nói gì về việc mình được chữa lành (Ma-thi-ơ 8:4). Ngài cũng truyền
lịnh ấy cho 2 người mù (Ma-thi-ơ 9:29) và cho nhiều người khác mà Ngài đã chữa
lành tại xứ Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 12:16).
Lý do khác nhau như vậy là vì
ở Giê-ra-sê, người ta chưa biết Ngài bao nhiêu, còn ở xứ Ga-li-lê, thì sự quảng
cáo cho Ngài đã quá mức, và đã có những phong trào quần chúng toan tôn Ngài làm
một Vua chánh trị.
Các quỉ
Kinh Thánh chép rằng một số
rất đông người mà Ðức Chúa Jêsus chữa lành đã "bị quỉ ám" (có bản
dịch là: "bị các ma quỉ ám"). Xem Ma-thi-ơ 4:24, 8:16, 9:32, 12:24,
26, 43; Mác 1:24, 32, 34, 3:11, 12; Lu-ca 4:41, 6:18; v.v...
Quỉ là gì? Thật có quỉ chăng? Hay
là Ðức Chúa Jêsus cùng các tác giả Tân Ước nói như vậy vì người ta thường tin
rằng những kẻ bị đau ốm, hoạn nạn đều ở dưới quyền kiểm soát của tà linh, và
Chúa cùng các tác giả ấy không chút cố gắng sữa chữa sự sai lầm của dân chúng
đó?
Trong 4 sách Tin Lành có mô tả
rằng các quỉ biết Ðức Chúa Jêsus là Con Ðức Chúa Trời; rằng chúng thuộc về nước
của Sa-tan, trải qua những chỗ không có nước, chờ đợi sự đau đớn nơi vực sâu,
và thích ở trong bầy heo hơn là đi đến chỗ dành cho chúng. Nhiều quỉ có thể ở
trong một người. Chúng nói và nhìn nhận rằng chúng có cá tánh và tri giác đặc
biệt, phân cách hiển nhiên với người bị chúng ám. Chúng run rẩy chờ đợi ngày
phán xét. Ðức Chúa Jêsus không chú ý đến chúng, song chỉ chú ý đến những người
bị chúng khuấy khỏa và làm cho đau đớn.
Chỉ có một vài trường hợp tật
bịnh bị gán cho quỉ ám. Trong một trường hợp, chúng làm cho một người hóa điên;
một người khác bị chúng làm cho câm; một người khác bị chúng làm cho đui và
câm; một người khác bị chúng làm cho nổi kinh phong. Ðó là hiệu quả do quỉ ám.
Dường như có các "quỉ
dữ" (Lu-ca 7:21), "tà ma" (Mác 1:27), "thần lừa dối"
(I Ti-mô-thê 4:1), "thiên sứ đã phạm tội" (II Phi-e-rơ 2:4),
"quỉ sứ của ma quỉ" (Ma-thi-ơ 25:41). Chúng được tổ chức thành
"chủ quyền," "thế lực," và là "vua chúa của thế gian
mờ tối nầy," là "thần dữ ở các miền trên trời," và người ta phải
giao chiến với chúng luôn luôn (Ma-thi-ơ 12:43, 45, 25:41; II Phi-e-rơ 2:4;
Ê-phê-sô 6:12).
Kinh Thánh ngụ ý khá rõ ràng
rằng "người bị quỉ ám" không phải chỉ điên mà thôi, song còn ở vào
trường hợp "cá tánh bị xâm lăng," và bất cứ phát xuất từ đâu và có
bổn chất nào, quỉ cũng là những thần dữ thật nhập vào và làm khổ một số người
bằng cách nầy hoặc cách khác.
Người ta tưởng rằng đang khi
Ðức Chúa Jêsus ở trên mặt đất, Ðức Chúa Trời đã cho phép ma quỉ đặc biệt ra tay
nghịch cùng Ðức Chúa Jêsus, để chứng tỏ rằng quyền phép của Ngài lan đến tận
thế giới vô hình. Ðức Chúa Jêsus đang hủy diệt đế quốc của Bê-ên-xê-bun và các
quỉ sứ nó. Chúng nghe đến Danh Ngài, hoặc ở trước mặt Ngài, thì chịu không nổi.
Nếu tin Ngài, thì ta được che chở khỏi bất cứ tai họa nào mà chúng có thể gây
nên.
Căn cứ vào những việc thỉnh
thoảng xảy ra trên thế gian nầy, ta hầu như có thể nghĩ rằng cả đến ngày nay,
người ta cũng vẫn bị quỉ ám.
Ðoạn 5:21-43 -- Con gái Giai-ru được sống lại
Các Phép Lạ Của Ðức Chúa Jêsus
Không kể những sự phát hiện
siêu nhiên, tỉ như thiên sứ báo tin, sự giáng sanh bởi nữ đồng trinh, ngôi sao
dẫn đường các bác sĩ, Ðức Chúa Jêsus đi qua các đám dân cừu địch, dẹp sạch Ðền
thờ, hóa hình, bọn lính té sấp, màn tối tăm khi Ngài bị đóng đinh vào Thập tự
giá, bức màn bị xé hai, mồ mả mở ra, cơn động đất, Ðức Chúa Jêsus sống lại, các
thiên sứ hiện ra, v.v., -- Kinh Thánh còn chép 35 phép lạ mà Ðức Chúa Jêsus đã
làm.
17 phép lạ
chữa lành thân thể:
·
Con quan thị vệ được chữa lành tại Ca-bê-na-um (Giăng 4:46-54).
·
Người bịnh được chữa lành tại Giê-ru-sa-lem (Giăng 5:1-19).
·
Bà gia của Phi-e-rơ được chữa lành tại Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 8:14-17; Mác
1:29-31; Lu-ca 4:38, 39).
·
Một người phung (Ma-thi-ơ 8:2-4; Mác 1:40-45; Lu-ca 5:12-15).
·
Một người bại (Ma-thi-ơ 9:2-8; Mác 2:3-12; Lu-ca 5:17-26).
·
Người teo tay (Ma-thi-ơ 12:9-14; Mác 3:1-6; Lu-ca 6:6-11).
·
Ðầy tớ của viên bách nhân đội trưởng (Ma-thi-ơ 8:5-13; Lu-ca 7:1-10).
·
Hai người mù (Ma-thi-ơ 9:27-31).
·
Người câm và điếc được chữa lành (Mác 7:31-37).
·
Người mù ở Bết-sai-đa (Mác 8:22-26).
·
Người mù ở thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 9).
·
Người đờn bà mang bịnh 18 năm (Lu-ca 13:10-17).
·
Người đờn bà mất huyết (Ma-thi-ơ 9:20-22; Mác 5:25-34; Lu-ca 8:43-48).
·
Người mắc bịnh thủy thũng (Lu-ca 14:1-6).
·
Mười người phung
(Lu-ca 17:11-19).
·
Người mù tên là
Ba-ti-mê (Ma-thi-ơ 20:29-34; Mác 10:46-52; Lu-ca 18:35-43).
·
Tai của Man-chu
(Lu-ca 22:50-51).
9 phép lạ trên các sức mạnh thiên nhiên:
·
Nước biến thành rượu
tại Ca-na (Giăng 2:1-11).
·
Ðánh cá gần
Ca-bê-na-um (Lu-ca 5:11).
·
Dẹp yên cơn bão
(Ma-thi-ơ 8:23-27; Mác 4:35-41; Lu-ca 8:22-25).
·
Cho 5000 người ăn no
nê (Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:34-44; Lu-ca 9:11-17; Giăng 6:1-14).
·
Ðức Chúa Jêsus đi
trên mặt nước (Ma-thi-ơ 14:22-23; Mác 6:45-52; Giăng 6:19).
·
Cho 4000 người ăn no
nê (Ma-thi-ơ 15:32-39; Mác 8:1-9).
·
Tiền đóng thuế
(Ma-thi-ơ 17:24-27).
·
Cây vả bị khô héo
(Ma-thi-ơ 21:18-22; Mác 11:12-14, 20-26).
·
6 lần chữa người bị
quỉ ám (xem ở dưới Mác 5:1-20):
·
Một người bị quỉ ám ở
trong nhà hội, tại Ca-bê-na-um (Mác 1:21-28; Lu-ca 4:31-37).
·
Một người bị quỉ ám hóa
câm và điếc (Ma-thi-ơ 12:22; Lu-ca 11:14).
·
Những người Giê-ra-sê
bị quỉ ám (Ma-thi-ơ 8:28-34; Mác 5:1-20; Lu-ca 8:26-39).
·
Một người bị quỉ ám,
hóa câm (Ma-thi-ơ 9:32-34).
·
Con gái của người đờn
bà Sy-rô-phê-ni-xi (Ma-thi-ơ 15:21-28; Mác 7:24-30).
·
Ðứa con trai bị kinh phong (Ma-thi-ơ 17:14-21; Mác 9:14-29; Lu-ca 9:37-43).
3 người
được sống lại từ trong kẻ chết:
·
Con gái Giai-ru, tại Ca-bê-na-um (Ma-thi-ơ 9:18-26; Mác 5:22-43; Lu-ca
8:41-56).
·
Con trai bà góa ở Na-in (Lu-ca 7:11-15).
·
La-xa-rơ, tại Bê-tha-ni (Giăng 11:1-44).
Những phép lạ khác.-- Ngoài 35 phép lạ kể rõ trên đây, Ðức Chúa Jêsus còn làm
vô số phép lạ khác, thuật lại như dưới đây:
·
Tại Giê-ru-sa-lem, "có nhiều người thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Danh
Ngài" (Giăng 2:23).
·
"Ðức Chúa Jêsus đi khắp xứ..., chữa lành mọi thứ tật bịnh trong
dân" (Ma-thi-ơ 4:23; 9:35).
·
Từ các xứ Sy-ri, Ga-li-lê, và Ðê-ca-bô-lơ, "người ta bèn đem cho Ngài
mọi người đau ốm, hay là mắc bịnh nọ tật kia, những kẻ bị quỉ ám, điên cuồng,
bại xuội, thì Ngài chữa cho họ được lành cả" (Ma-thi-ơ 4:24).
·
Ma-ri Ma-đơ-len được Ngài trừ cho 7 quỉ (Lu-ca 8:2).
·
Tại Ca-bê-na-um, "ai nấy có người đau, bất kỳ bịnh gì, đều đem đến
cùng Ngài; Ngài đặt tay lên từng người mà chữa cho họ" (Lu-ca 4:40).
·
Gần bờ biển Ga-li-lê, "có đoàn dân rất đông đến gần Ngài, đem theo
những kẻ què, đui, câm, tàn tật và nhiều kẻ đau khác, để dưới chơn Ðức Chúa
Jêsus, thì Ngài chữa cho họ được lành. Vậy, chúng thấy kẻ câm được nói, kẻ tàn
tật được khỏi, kẻ què được đi, kẻ đui được sáng, thì lấy làm lạ lắm, đều ngợi
khen Ðức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên (Ma-thi-ơ 15:30, 31).
·
"Khi Ngài... đến xứ Ghê-nê-xa-rết, dân chúng... chạy khắp cả miền đó,
khiêng những kẻ đau nằm trên giường, hễ nghe Ngài ở đâu, thì đem đến đó. Ngài
đến nơi nào, hoặc làng, thành, hay là chốn nhà quê, người ta đem người đau để
tại các chợ, và xin Ngài cho phép mình ít nữa, được rờ đến trôn áo Ngài: những
kẻ đã rờ đều được lành bịnh cả" (Mác 6:53-56).
·
"Ðức Chúa Jêsus... đi đến bờ cõi xứ Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh. Có
nhiều đoàn dân đông theo Ngài, và Ngài chữa lành các kẻ bịnh ở đó"
(Ma-thi-ơ 19:1-2).
·
"Ðoàn dân rất đông từ khắp xứ Giu-đê, thành Giê-ru-sa-lem, và miền
biển Ty-rơ, Si-đôn mà đến, để nghe Ngài dạy và cho được chữa lành bịnh mình. Những
kẻ mắc tà ma khuấy hại cũng đều được lành. Cả đoàn dân đến kiếm cách rờ Ngài,
vì từ Ngài có quyền phép ra, chữa lành hết mọi người" (Lu-ca 6:17-19).
·
"Cả thành nhóm lại trước cửa, Ngài chữa lành nhiều kẻ đau các thứ
bịnh, và đuổi nhiều quỉ" (Mác 1:32-34).
·
"Lại còn nhiều việc nữa mà Ðức Chúa Jêsus đã làm; ví bằng người ta cứ
từng việc mà chép hết, thì ta tưởng rằng cả thế gian không thể chứa hết các
sách người ta chép vậy" (Giăng 21:25).
Phương pháp làm phép lạ.-- Những phép thường thực hiện bởi hành động ý chí của Ðức
Chúa Jêsus, hoặc bởi lời Ngài phán; thỉnh thoảng bởi Ngài rờ tới bịnh nhân,
hoặc đặt tay trên họ. Một đôi lần Ngài đã dùng nước miếng.
Mục đích của các phép lạ.-- Các phép lạ của Ðức Chúa Jêsus ngụ ý thi hành
quyền Tạo-hóa." Nó thích hợp với căn nguyên lạ lùng, bổn tánh vô tội, và
đạo đức trọn vẹn của Ngài." Ðó là một cách Ðức Chúa Trời chánh thức hóa sứ
mạng của Ðức Chúa Jêsus. Ngài phán rằng nếu Ngài không làm những việc mà chưa
ai từng làm, thì họ chẳng có tội chi hết (Giăng 15:24). Như vậy, tỏ ra rằng
Ngài kể các phép lạ của Ngài là bằng cớ chứng quyết Ngài từ Ðức Chúa Trời mà
đến. Lại nữa, các phép lạ của Ngài là cách tự nhiên biểu thị lòng Ngài thương
xót loài người đau khổ.
Ðoạn 6:1-6 -- Thăm viếng thành Na-xa-rét
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
13:54-58. Ðây dường như Ngài ghé thăm thành Na-xa-rét lần thứ hai sau khi bắt
đầu chức vụ công khai, chừng một năm sau cuộc ghé thăm chép ở Lu-ca 4:16-30. Hãy
chú ý rằng Ðức Chúa Jêsus có 4 em trai và một vài "em gái." Lúc đó,
họ chưa tin Ngài (Giăng 7:5). Sau đó, họ tin Ngài, và theo ý kiến thông thường,
thì hai em trai Ngài, là Gia-cơ và Giu-đe, đã trứ tác hai thư tín mang tên của
họ. Con hai em trai khác là Giô-sép và Si-môn.
Ðoạn 6:7-13. 12 Sứ đồ được sai đi.-- Xem ở Ma-thi-ơ, đoạn 10.
Ðoạn 6:14-29. Giăng Báp-tít bị chém đầu.-- Xem ở Lu-ca 3:1-20.
Ðoạn 6:30-44. Chúa cho
5000 người ăn no nê.-- Xem ở Giăng
6:1-14.
Ðoạn 6:45-52. Ðức Chúa
Jêsus đi trên đi mặt nước.-- Xem
Giăng 6:15-21.
Biển Ga-li-lê.-- Dài 13 dặm, rộng 7 dặm. Thấp hơn mặt biển 680 bộ.
Chung quanh có những đồi cao chừng 100 thước tây. Bờ biển rộng đổ đồng chừng
nửa dặm, trừ ra ở phía Tây bắc (tại đây đồng bằng Ghê-nê-xa-rết rộng chừng 4
dặm), ở phía Bắc (tại đây sông Giô-đanh chảy vào biển), và ở phía Nam (tại đây
sông Giô-danh lìa khỏi biển). Ngày nay, các ngọn đồi nầy trơ trụi, nhưng đương
thời Ðức Chúa Jêsus, có rừng rậm, ấy là theo lời của sử gia Josèphe. Bờ biển có người ở rất đông
đúc. Có 10 thành, mỗi thành không dưới 15.000 dân. Chung quanh biển có một dãy
nhà cửa hầu như không hề đứt quãng. Bờ biển phía Tây phì nhiêu cực điểm. Khí
hậu về mùa đông ôn hòa. Có trồng trọt đủ thứ cây cối của nhiệt đới. Tháng nào
cũng có thổ sản. Ngoài nghề nông và trồng cây trái, còn có kỹ nghệ nhuộm vải,
thuộc da, đóng thuyền, đánh cá và phơi cá cho khô. Biển có nhiều cá, xuất cảng
đi khắp đế quốc La-mã. Miền Bắc biển Ga-li-lê là "sân khấu" chính cho
chức vụ của Ðức Chúa Jêsus trên mặt đất. Ðây là đất thánh đời đời, vì tại đây,
Ðức Chúa Trời mặc hình Người đã sống giữa người ta. Truyện tích nầy là tài liệu
kỳ diệu hơn hết trong sử ký nhân loại.
Bản đồ số 47
Thời Gian Từ Lúc Chúa Cho 5000 Người
Ăn No Nê Tới Lúc Ngài Hóa Hình
(Mác 6:53 đến 8:26; Ma-thi-ơ
14:34 đến 16:12)
Trong đời Ðức Chúa Jêsus, đây
là một thời gian (từ 6 đến 8 tháng) mà ta ít biết các chi tiết. Chỉ có Ma-thi-ơ
và Mác chép về thời gian nầy; Mác chép đầy đủ hơn ít nhiều. Lu-ca đi thẳng từ
việc Chúa cho 5000 người ăn no nê tới sự Hóa Hình (9:17, 18). Giăng đi thẳng từ
lúc Chúa cho 5000 người ăn no nê tới lúc Ngài viếng thăm thành Giê-ru-sa-lem
trong dịp lễ Lều tạm, 6 tháng sau (Giăng 6:71; 7:1).
Do một vài chi tiết mà ta được
biết, thì phần lớn 6 hoặc 8 tháng nầy, Chúa ở ngoài xứ Ga-li-lê, nghĩa là Ngài
tới các miền Ty-rơ, Si-đôn, Ðê-ca-bô-lơ và Sê-sa-rê Phi-líp, phần nhiều là dân
ngoại. Ðê-ca-bô-lơ là miền ở phía đông biển Ga-li-lê, chạy về phía Bắc tới
thành Ða-mách. Nó ở dưới quyền cai trị của Phi-líp, là một vua nhơn đức, công
bình, không có lý do đặc biệt nào để chống đối Ðức Chúa Jêsus. Hê-rốt là vua xứ
Ga-li-lê. Ông vừa mới giết Giăng Báp-tít, và bắt đầu nhìn Ðức Chúa Jêsus bằng
con mắt nghi ngờ, nhứt là sau khi nhân dân đã xây bỏ Ngài vì cớ phép lạ cho
5000 người ăn no nê (xem ở Giăng 6).
Ðoạn 6:53-56 -- Các đoàn dân đông ở miền
Ghê-nê-xa-rết
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
14:34-36. Ghê-nê-xa-rết là đồng bằng dọc theo bờ biển phía Nam thành Ca-bê-na-um.
Dường như khi Ðức Chúa Jêsus đã cho 5000 người ăn no nê, thì ngày hôm sau, Ngài
giải thích cho dân chúng thành Ca-bê-na-um biết tánh chất của sứ mạng Ngài, và
có nhiều người đã lìa bỏ Ngài (Giăng 6:66). Bấy giờ, Ngài đi về phía Nam, tới
Ghê-nê-xa-rết, tại đó có rất đông người tụ tập, và Ngài chữa lành cho họ.
Ðoạn 7:1-23 -- Người Pha-ri-si và sự bị ô uế
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
15:1-20. Bọn cầm quyền tại thành Giê-ru-sa-lem đã quyết định giết Ðức Chúa
Jêsus. Chắc hẳn họ đã nghe về Ngài không được nhân dân xứ Ga-li-lê kính mộ như
trước; họ bèn cử một phái đoàn Pha-ri-si đi thúc đẩy chiến dịch tuyên truyền,
hy vọng làm cho Ngài càng bị môn đồ duồng bỏ, vì có lẽ nhiều môn đồ Ngài cũng
giữ cổ phong giống như người Pha-ri-si. Sự rửa tay nói đến ở đây không phải vì
mục đích vệ sinh, nhưng hoàn toàn là một nghi lễ tôn giáo không do Luật pháp
truyền dạy, nhưng do các thầy thông giáo bày đặt ra. Ðức Chúa Jêsus phán bảo họ
rằng các nghi lễ như vậy chẳng có giá trị gì, và sự ô uế thật ở trong lòng; rồi
Ngài thẳng thắn tố cáo họ dùng cổ phong phát xuất từ loài người mà làm cho Lời
Ðức Chúa Trời hóa ra trống rỗng. Lời Ngài phán áp dụng trực tiếp cho nhiều thói
tục đã xen vào trong Hội Thánh trải qua các thế kỷ. Kỳ lạ thay, nhiều thủ lãnh
Hội Thánh đã dùng mưu mẹo và tài khéo, cố làm cho các nghi thức và thói tục của
họ giống như Lời Ðức Chúa Trời, mặc dầu ta biết nó hoàn toàn do loài người mà
ra! Họ làm tôi mọi cho cổ phong và coi nhẹ Lời Ðức Chúa Trời là dường nào!
Ðoạn 7:24-30 -- Người đờn bà Sy-rô-phê-ni-xi
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
15:21-28. Sách Ma-thi-ơ chép bà là "người đờn bà xứ Ca- na-an." Người
Phê-ni-xi vốn là dòng giống Ca-na-an. Xứ Phê-ni-xi cách thành Ca-bê-na-um chừng
50 dặm về phía Bắc, ở ngoài lãnh thổ Do-thái, trong một miền dân ngoại; đây
cũng là khu vực mà Ê-li đã được sai đến cùng người đờn bà ở thành Sa-rép-ta (I
Các Vua 17:9). Ðức Chúa Jêsus thật không có ý gọi bà là "chó" (câu
27), nhưng Ngài chỉ phát biểu cái điều ở trong trí óc của môn đồ. Bà bền đỗ,
khiêm cung và có đức tin, nên đã được như lời mình cầu xin. Xem ở dưới Lu-ca
18:1-8.
Ðoạn 7:31-37 -- Chữa lành một người câm và
điếc
Ðức Chúa Jêsus từ miền Ty-rơ
và Si-đôn trở về; Ngài đã đi tẻ ra đó ít lâu để tránh sự quảng cáo. Ngài đi về
phía Ðông và phía Nam, qua miền Ðê-ca-bô-lơ, tới phía Ðông biển Ga-li-lê. Trong
trường hợp chữa bịnh nầy, Ðức Chúa Jêsus đã dùng nước miếng. Người ta thường
cho rằng nước miếng có hiệu lực chữa bịnh. Thường thì Ngài làm phép lạ chỉ bởi
phán một lời. Lúc nầy Ngài trở lại miền mà trước đây mấy tuần lễ, họ toan tôn
Ngài làm Vua. Vậy, Ngài bảo người nầy hãy làm thinh để tránh sự quảng cáo.
Ðoạn 8:1-9 -- Cho 4000 người ăn no nê
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 15:19-39. Chỗ Chúa làm phép
lạ nầy cũng gần nơi Ngài đã cho 5000 người ăn no nê mấy tuần lễ trước. Ma-thi-ơ
thêm rằng đây là nhằm lúc Ngài đã chữa lành các đoàn dân đông. Dân xứ Ga-li-lê
chắc đã hay tin Ðức Chúa Jêsus đã trở về địa phận họ.
Ðoạn 8:10-21 -- "Men của người
Pha-ri-si"
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
16:1-12. Việc nầy xảy ra ở Ða-ma-nu-tha (câu 10). Ma-thi-ơ 15:39 chép là
Ma-ga-đan, quê hương của Ma-ri-Ma-đơ-len, tức là một thành ở trong xứ
Ða-ma-nu-tha, trên bờ trung tây của biển Ga-li-lê (xem bản đồ 47 ở dưới Mác
6:45-52). Ðức Chúa Jêsus vừa mới trở về xứ Ga-li-lê, thì bọn thù nghịch Ngài đã
dùng mọi mưu chước có thể nghĩ ra để làm cho Ngài mất giá trị trước mặt dân
chúng.
Họ "xin một dấu lạ."
Trải qua 2 năm, Ðức Chúa Jêsus đã liên tiếp chữa lành hàng bao nhiêu người mắc
đủ thứ tật bịnh. Ngài cũng đã cho 5000 người, rồi 4000 người ăn no nê. Vậy mà
họ vẫn còn xin một "dấu lạ" (xem ở Ma-thi-ơ 12:38-45). Ðức Chúa Jêsus
bảo họ rằng họ muốn thấy một dấu lạ ngoài mọi việc Ngài đã làm, thì chứng tỏ họ
là "dòng dõi hung ác, gian dâm" (Ma-thi-ơ 12:39), nghĩa là lòng họ đã
được tạo nên cho Ðức Chúa Trời; nhưng lại liên hiệp với thói tục đời nầy. Ngài
cũng phiền vì môn đồ chậm hiểu ý nghĩa thiêng liêng của các phép lạ Ngài đã
làm, và vì họ rõ ràng có cơ chịu ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật của người
Pha-ri-si (câu 7-12).
Ðoạn 8:22-26 -- Người mù được chữa lành
Việc nầy xảy ra ở Bết-sai-đa,
quê hương của Phi-e-rơ, là nơi Ðức Chúa Jêsus đã làm nhiều phép lạ (Ma-thi-ơ
11:21), và gần đó Ngài đã cho 5000 người ăn no nê. vậy nên Ngài bảo người nầy
hãy tránh sự quảng cáo không cần thiết.
Ðoạn 8:27-30. Lời xưng nhận của Phi-e-rơ.-- Xem ở Ma-thi-ơ 16:13-20.
Ðoạn 8:31-33. Chúa phán trước về Ngài chịu thương khó.-- Xem ở Mác 9:30-32.
Ðoạn 8:34-9:1. Giá phải trả để làm môn đồ Chúa.-- Xem ở Lu-ca 14:25-35.
Mác 9:2-13 -- Ðức Chúa Jêsus hóa hình
Việc nầy cũng có chép ở
Ma-thi-ơ 17:1-13 và Lu-ca 9:26-36. Người ta cho rằng Ðức Chúa Jêsus đã hóa hình
trên núi Hẹt-môn, ít ngày trước khi Ngài dời khỏi xứ Ga-li-lê lần chót, tức là
chừng 4 hoặc 6 tháng trước khi Ngài chịu chết (xem ở Lu-ca 9:31). Một trong
những mục đích của sự Hóa hình là để làm vững đức tin của ba môn đồ thủ lãnh
nơi thần tánh của Ðấng Christ, ngõ hầu họ có thể đối phó với những ngày hoạn
nạn gần xảy đến. Phi-e-rơ không bao giờ quên cảnh trạng đó. Nó khiến ông cảm
thấy vững chắc khi ông phải hiến thân tuận đạo mấy chục năm sau (II Phi-e-rơ
1:14-18). Nó cũng là một lời chứng vĩ đại, tuyệt vời, trực tiếp từ Thiên đàng,
rằng Ðức Chúa Jêsus là ÐẤNG mà mọi lời tiên tri Cựu Ước qui tụ và được ứng
nghiệm trong Ngài.
Ðoạn 9:14-29 -- Ðứa con trai bị kinh phong
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
17:14-19 và Lu-ca 9:37-42. Ðây là một trường hợp bị quỉ ám nặng nề, làm cho các
môn đồ không lối trở tay. Xem ở Mác 5:1-20.
Ðoạn 9:30-32 -- Chúa lại dự ngôn về Ngài chịu
thương khó
Cho tới lúc Phi-e-rơ xưng nhận
Ngài là Ðấng Christ, thì Ðức Chúa Jêsus vẫn tránh không nói đến vấn đề Ngài sắp
phải chịu chết. Lúc bắt đầu chức vụ, Ngài đã ngụ ý phán với Ni-cô-đem điều ấy
(Giăng 3:14). Bây giờ, gần tới lúc Ngài bị đóng đinh trên Thập tự giá, thì Ngài
bắt đầu phán rõ điều ấy với họ. Họ không thể tin như vậy. Họ chắc rằng đó chỉ
là một thí dụ có ý nghĩa mầu nhiệm. Hãy xem lời chú giải Ma-thi-ơ, đoạn 10. Giữa
lúc Phi-e-rơ xưng nhận Ðức Chúa Jêsus là Ðấng Christ và lúc Ngài tới thành
Giê-ru-sa-lem, thì Ngài dường như đã phán với họ 5 lần về Ngài phải chịu thương
khó, theo như Kinh Thánh đã chép dưới đây: --
Lần thứ nhứt, sau khi Phi-e-rơ
xưng nhận (Ma-thi-ơ 16:21; Mác 8:31; Lu-ca 9:22).
Lần thứ hai, sau khi Ngài hóa
hình (Ma-thi-ơ 17:9, 12; Mác 9:9, 12).
lần thứ ba, sau khi Ngài chữa
lành đứa con trai bị kinh phong (Lu-ca 9:44).
Lần thứ tư, khi Ngài đi qua xứ
Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 17:22-23; Mác 9:31)
Lần thứ năm, lúc Ngài gần tới
thành Giê-ru-sa-lem (Ma-thi-ơ 20:17-19; Mác 10:32- 34; Lu-ca 18:31-34).
Ðoạn 9:33-37. "Ai là lớn hơn?".-- Xem ở Lu-ca 9:46-48.
Ðoạn 9:38-41. Người vô danh làm việc lạ lùng.-- Xem ở Lu-ca 9:49-50.
Ðoạn 9:42-50. Những cớ làm cho vấp phạm.-- Một trong những cớ tích cao
cả của tín đồ Ðấng Christ là chúng ta phải cư xử làm sao hầu cho không một ai
vì gương xấu của ta mà bị hư mất. Ðức Chúa Jêsus phán điều nầy nhiều lần, trong
những trường hợp khác nhau (Ma-thi-ơ 18:7-14; Lu-ca 17:1-10), và Ngài nhấn mạnh
rằng địa ngục là một nơi khủng khiếp biết bao!
Chức Vụ Của Chúa Tại Xứ Pê-rê
(Ðoạn 10;
xem ở Lu-ca 9:51)
Ðoạn 10:1. Dời khỏi xứ Ga-li-lê.-- Xem ở Lu-ca 9:51.
Bản đồ số 48
Ðoạn 10:2-12. Câu hỏi về
sự ly hôn.-- Xem ở Ma-thi-ơ 19:3-12.
Ðoạn 10:13-16. Con trẻ.-- Xem ở Lu-ca 18:15-17.
Ðoạn 10:17-31. Vị quan trẻ tuổi, giàu có.-- Xem ở Lu-ca 18:18-30.
Ðoạn 10: 32-34. Chúa lại dự ngôn về sự thương khó của Ngài.-- Xem ở Mác 9:30-32.
Ðoạn 10:35-45. Lời yêu cầu của Gia-cơ và Giăng.-- Xem ở Ma-thi-ơ 20:20-28.
Ðoạn 10:46-52. Người mù tên là Ba-ti-mê.-- Xem ở Lu-ca 18:35-43.
Tuần Lễ Cuối Cùng Của Ðức Chúa Jêsus
(Ðoạn 11
đến 16)
Ðoạn 11:1-11. Chúa ngự vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn.-- Xem ở Ma-thi-ơ
21:1-11.
Ðoạn 11:15-18. Dẹp sạch Ðền thờ.-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:12-17.
Ðoạn 11:12-14, 19-26. Cây vả.-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:23-27.
Ðoạn 11:27-33. "Lấy quyền phép nào?".-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:23-27.
Ðoạn 12:1-12. Thí dụ về vườn nho.-- Xem ở Ma-thi-ơ 21:33-46.
Ðoạn 12:13-17 -- Nộp thuế cho Sê-sa
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
22:15-22 và Lu-ca 20:20-26. Ðây là chúng cố gài bãy cho Ðức Chúa Jêsus tuyên bố
một lời để chúng có thể căn cứ vào đó mà tố cáo Ngài không trung thành với
chánh phủ La-mã và nộp Ngài cho Phi-lát. Ðảng Hê-rốt theo gia tộc vua Hê-rốt. Ðảng
Hê-rốt và người Pha-ri-si đồng mưu nêu lên một vấn đề mà chúng mâu thuẫn nhau. Với
một đòn tuyệt diệu, Ðức Chúa Jêsus tuyên bố phân rẽ Hội Thánh với nhà nước. Tín
đồ Ðấng Christ phải vâng phục chánh phủ của mình. Nhưng chánh phủ không có
quyền truyền cho công dân phải theo tôn giáo nào.
Ðoạn 12:18-27 -- Câu hỏi về sự sống lại
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ
22:23-33 và Lu-ca 20:27-40. Ðương thời ấy, người Sa-đu-sê thuộc phái duy vật. Họ
không đông, nhưng có học thức, tiền của và thế lực. Họ không tin sự sống lại. Câu họ hỏi cốt để làm cho
Ðức Chúa Jêsus bị thất thế và là trường hợp buộc phải có chủ nghĩa đa phu trên
Thiên đàng. Ðức Chúa Jêsus lập tức giải quyết vấn đề: Ngài phán rằng trên Thiên
đàng không có cưới gả. Rồi Ngài trưng dẫn Kinh Thánh để tỏ ra rằng có sự sống
lại.
Ðoạn 12: 28:34 -- Ðiều răn lớn
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 22:34-40. Ðiều răn thứ nhứt
mà Ðức Chúa Jêsus ban bố ở đây, thì Ngài trưng dẫn ở Phục truyền luật lệ ký
6:4-5, còn điều răn thứ hai, thì Ngài trưng dẫn ở Lê vi ký 19:18. Hãy chú ý
rằng Ðức Chúa Jêsus đặt Ðức Chúa Trời ở hàng nhứt và người ta ở hàng nhì. Ðiều
quan trọng hơn hết ở đời là thái độ của chúng ta đối với Ðức Chúa Trời. Mọi sự
tùy thuộc điều đó. Ðức Chúa Jêsus là Ðức Chúa Trời thành nhục thể. Ngài chỉ
muốn một điều, là chúng ta yêu mến Ngài hơn cả chính sự sống của mình. Ðiều
cuối mà Ðức Chúa Jêsus muốn biết nơi Phi-e-rơ là: "Ngươi yêu TA
chăng?", và Ngài đã hỏi ông câu đó 3 lần (Giăng 21:15, 16, 17).
Ðoạn 12:35-37 -- "Con Ða-vít"
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 22:41-46 và Lu-ca 20:41-44.
Câu hỏi cốt nêu lên điểm nầy: Một người làm thế nào mà gọi con trai mình là
Chúa được? Dầu đối với chúng ta, câu trả lời rất giản dị, nhưng lại đã khiến họ
làm thinh (Ma-thi-ơ 22:46). Ðức Chúa Jêsus là một Nhà Biện chứng đại tài, có
thể đối phó với sự ngụy biện của kẻ thù nghịch Ngài.
Ðoạn 12:38-40. Tố cáo các
thầy thông giáo.-- Xem ở Ma-thi-ơ,
đoạn 23.
Ðoạn 12:41-44 -- Những đồng tiền của bà góa
Cũng có chép ở Lu-ca 21:1-4. Việc nầy xảy ra ngay
sau khi Ðức Chúa Jêsus tố cáo các thầy thông giáo và người Pha-ri-si một cách
khủng khiếp. Ðây là hành động cuối cùng của Ngài ở trong Ðền thờ, sau một ngày
bận rộn tranh luận kịch liệt. Ngài để thì giờ nức tiếng khen ngợi bà già góa
bụa đáng yêu quí nầy đã dâng hết của cải mình có. Rồi Ngài lìa khỏi Ðền thờ,
không bao giờ bước vào đó nữa.
Ðoạn 13. Diễn giảng về
ngày tái lâm của Ngài.-- Xem ở
Ma-thi-ơ, đoạn 24.
Ðoạn 14:1-2 -- Mưu giết Ðức Chúa Jêsus
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 21:1-5 và Lu-ca 22:1-2.
Việc nầy xảy ra buổi tối thứ ba. Chừng 1 tháng trước đó, sau khi Ðức Chúa Jêsus
kêu La-xa-rơ từ kẻ chết sống lại, thì tòa Công luận đã quyết định dứt khoát
rằng phải xử tử Ðức Chúa Jêsus (Giăng 11:53). Nhưng vì Ðức Chúa Jêsus được dân
chúng kính mộ, nên khó mà giết Ngài (Lu-ca 22:2). Ngay ở thành Giê-ru-sa-lem,
các đoàn dân đông đúc cũng đeo theo Ngài (Mác 12:37; Lu-ca 19:48). Ðêm thứ hai
sau đó, cơ hội đã đến, do sự phản bội của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Trong một hành
động đột ngột, hắn đã nộp Ðức Chúa Jêsus cho chúng lúc đêm khuya, trong khi cả
thành an giấc. Chúng vội vàng xin lên án Ngài trước khi trời sáng; và đến sáng,
trước khi nhân dân thức dậy, chúng đã treo Ngài trên cây Thập tự (theo ý kiến
của một vài giáo sư thần học).
Ðoạn 14:3-9 -- Chúa được xức dầu tại Bê-tha-ni
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 26:6-13 và Giăng 12:1-8.
Việc nầy dường như thật đã xảy ra buổi tối thứ bảy, trước khi Ðức Chúa Jêsus
ngự vào thành Giê-ru-sa-lem một cách khải hoàn (Giăng 12:2, 12). Nhưng Ma-thi-ơ
và Mác thuật lại việc nầy chung với âm mưu của các thầy tế lễ để làm khung cảnh
cho sự đòi giá của Giu-đa . Lúc Ðức Chúa Jêsus quở trách Giu-đa (Giăng 12:7)
dường như là lúc nó dứt khoát quyết định phản nộp Ngài. Xem thêm ở dưới Giăng
12:1-8.
Ðoạn 14:10-11 -- Giu-đa đòi giá
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 26:14-16; và Lu-ca 22:3-6.
Vai trò của nó là nộp Ðức Chúa Jêsus cho chúng trong lúc không có mặt các đoàn
dân đông đảo. Chúng không dám bắt Ngài tỏ tường, kẻo bị nhân dân ném đá. Giu-đa
dẫn chúng đến bắt Ngài tại một nơi Ngài ẩn dật kín đáo, sau khi cả thành đã đi
ngủ.
Ðức Chúa Jêsus "biết từ lúc đầu" rằng
Giu-đa sẽ phản nộp Ngài. Tại sao nó được lựa chọn, đó là một đường lối mầu
nhiệm của Ðức Chúa Trời. 30 miếng bạc đáng giá chừng 1460 đồng Việt-nam, là giá
bán một kẻ tôi mọi (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:32). Có lẽ Giu-đa nghĩ rằng Ðức Chúa
Jêsus sẽ dùng quyền phép lạ lùng của Ngài mà tự cứu thoát; hoặc có lẽ nó đã
toan ép buộc Ngài phải tự tôn làm Vua. Nhưng trong con mắt Ðức Chúa Trời, hành
động của nó là hèn nhát, vì Ðức Chúa Jêsus phán rằng thà nó chẳng hề sanh ra
thì hơn (Ma-thi-ơ 26:24). Tất cả hành động của nó đã được dự ngôn một cách lạ
lùng (Xa-cha-ri 11:12-13). "Giê-rê-mi" (Ma-thi-ơ 27:9-10) là lầm lỗi
của người sao lại, hoặc vì cả bộ sách Tiên tri thường được gọi theo tên Giê-rê-mi.
Ðoạn 14:12-25. Bữa tối
cuối cùng.-- Xem ở Ma-thi-ơ 26:17-29.
Ðoạn 14:26-31, 66-72. Phi-e-rơ chối Chúa.-- Xem ở Giăng 18:15-27.
Ðoạn 14:32-42. Chúa hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-nê.-- Xem ở Lu-ca 22:39-46.
Ðoạn 14:43-52. Chúa bị phản và bị bắt.-- Xem ở Giăng 18:1-12.
Mác 14:53-15:20 -- Ðức Chúa Jêsus chịu xét xử
Cũng có chép ở Ma-thi-ơ 26:57
đến 27:31; Lu-ca 22:54 đến 23:25; Giăng 18:12 đến 19:16. Có hai cuộc xét xử:
Trước tòa Công luận và trước mặt Phi-lát, quan Thống đốc La-mã. Xứ Giu-đê là
chư hầu của đế quốc La-mã. Tòa Công luận không thể thi hành một bản án tử hình
nếu không được quan Thống đốc La-mã ưng thuận. Trong mỗi cuộc xét xử có 3 giai
đoạn, tức là 6 giai đoạn tất cả.
1. Trước mặt An-ne (Giăng
18:12-24). Khoảng nửa đêm. Cai-phe là thầy tế lễ thượng phẩm. Nhưng ông gia
hắn, là An-ne, đã bị cất chức năm 16 T.C. , mà còn giữ được ảnh hưởng và quyền
hành của chức vụ qua các con trai mình. Gia đình nầy đã trở nên giàu có quá mức
nhờ những chòi mua bán trong Ðền thờ. Trách nhiệm về sự chết của Ðức Chúa Jêsus
trước hết đổ trên đầu thầy tế lễ thượng phẩm của dân Hê-bơ-rơ .
2. Trước tòa Công luận, trong
nhà Cai-phe (Ma-thi-ơ 26:57; Mác 14:53; Lu-ca 22:54; Giăng 18:24). Giữa lúc nửa
đêm và lúc hừng đông. Ðó là cuộc xét xử chánh yếu của chánh quyền Do-thái. Chúng
không thể viện ai làm chứng để cáo tội Ngài, bèn lên án Ngài đã lộng ngôn, vì
Ngài đã tự nhận là Con Ðức Chúa Trời (Mác 14:61-62). Rồi đang khi chờ trời
sáng, chúng chế nhạo Ngài (xem ở Ma-thi-ơ 27:27-31). Việc nầy xảy ra khi
Phi-e-rơ chối Ngài. Cuộc xét xử nầy khai diễn ban đêm, nên theo luật của họ,
thì là bất hợp pháp.
3. Lúc trời sáng, thì tòa Công
luận chánh thức phê chuẩn quyết nghị của họ lúc nửa đêm (Ma-thi-ơ 27:1; Mác
15:1; Lu-ca 22:26-71), để cho nó có một hình thức hợp pháp. Ngài bị kết tội
"lộng ngôn." Nhưng đối với Phi-lát, sự kết tội đó chẳng nặng nề chi. Vậy,
trước mặt Phi-lát, chúng âm mưu cáo Ngài dấy loạn chống chánh phủ La-mã. Lý do
thật của chúng là chúng ganh tị Ðức Chúa Jêsus được nhân dân kính mộ (Ma-thi-ơ
27:18).
4. Trước mặt Phi-lát (Ma-thi-ơ
27:2, 11-14; Mác 15:1-5; Lu-ca 23:1-5; Giăng 8:28-38), một lúc sau khi trời
sáng. Ðức Chúa Jêsus không đáp lại những lời tố cáo của chúng. Phi-lát ngạc
nhiên. Rồi Phi-lát đưa Ngài vào phía trong dinh để hội đàm riêng, do đó ông
càng tin quyết Ngài vô tội. Ðược biết Ðức Chúa Jêsus là người Ga-li-lê, Phi-lát
bèn cho đưa Ngài tới Hê-rốt, là vua có quyền tài phán trên xứ Ga-li-lê (xem ở
Ma-thi-ơ 27:11-25).
5. Trước mặt Hê-rốt (Lu-ca
23:6-12). Ðây là Hê-rốt đã giết Giăng Báp-tít , và cha của hắn đã giết các con
trẻ thành Bết-lê-hem (xem lời chú giải ở Ma-thi-ơ 2:19). Ðức Chúa Jêsus hoàn
toàn không đếm xỉa đến hắn, và tuyệt đối không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào
của hắn. Hê-rốt chế nhạo Ðức Chúa Jêsus, bận áo hoa hòe cho Ngài, rồi cho điệu
trả lại.
6. Trước mặt Phi-lát lần nữa
(Ma-thi-ơ 27:15-26; Mác 15:6-15; Lu-ca 23:13-25; Giăng 18:39 đến 19:16). Phi-lát
toan qua mặt các nhà cầm quyền mà nói với nhân dân. Nhưng đoàn người đứng chật
ních công đường đã lựa chọn Ba-ra-ba. Bấy giờ Phi-lát truyền lịnh đánh đòn Ðức
Chúa Jêsus (xem ở Ma-thi-ơ 27:26), và hy vọng rằng hình phạt ấy sẽ làm thỏa mãn
đoàn dân đông đúc. Ông biết Ðức Chúa Jêsus tự nhận là Con Ðức Chúa Trời, nên
càng thêm sợ hãi. Ông lại hội đàm với Ngài một lần nữa, và lại cố muốn tha
Ngài. Vợ ông sai người thuật rõ chiêm bao của bà cho ông biết. Phi-lát ngạc
nhiên trước sự oai nghiêm bình tĩnh của Ðức Chúa Jêsus đang đội mũ triều thiên
bằng gai. Nhưng trong đám đông náo loạn có tiếng cằn nhằn và hăm dọa phúc trình
lên Sê-sa. Vậy, Sê-sa lên án Ngài lúc 6 giờ (Giăng 19:14).
Ðoạn 15:21-41 -- Chúa bị đóng đinh vào Thập tự
giá
Cũng xem ở Ma-thi-ơ 27:32-60;
Lu-ca 23:26-49 và Giăng 19:17-30.
Nơi Chúa bị đóng đinh vào Thập tự giá
Ðức Chúa Jêsus bị đóng đinh
vào Thập tự giá "ngoài thành" (Giăng 19:17-20; Hê-bơ-rơ 13:17), tại
một nơi gọi là "chỗ Cái Sọ" (Ma-thi-ơ 27:33; Mác 15:22; Lu-ca 23:33;
Giăng 19:17). "Cái Sọ" theo tiếng La-tinh là "Calvaire," và
theo tiếng Hê-bơ-rơ là "Gô-gô-tha." Chỉ có một chỗ ở ngoài thành
Giê-ru-sa-lem đã mang và còn mang danh "Ðồi Sọ." Nó ở ngay ngoài vách
thành phía Bắc, gần cổng Ða-mách (xem bản đồ số 49). Ðây là một núi đá thấp và
bằng phẳng, cao chừng 10 thước tây, ở ngay trên "động của Giê-rê-mi,"
và đặc biệt giống cái sọ người.
Theo truyền thoại, thì nơi
Chúa bị đóng đinh vào Thập tự giá chính là "Nhà thờ Thánh mộ" ngày
nay. Nơi nầy ở phía trong vách thành.
Theo ý kiến được nhiều nhà khảo cổ công nhận, thì ngày nay vách thành vẫn ở
đúng chỗ đương thời Ðức Chúa Jêsus, và nơi Ngài bị đóng đinh vào Thập tự giá
rất có thể là "Ðồi Sọ".
Bản đồ số 49
Ðoạn 15:42-47. An táng Ðức
Chúa Jêsus.-- Xem ở Giăng
19:38-42.
Ðoạn 16:1-8 -- Các bà đi thăm phần mộ Chúa
Xem lời chú giải ở Ma-thi-ơ 28:1-8. "Và cho
Phi-e-rơ" (câu 7). Phi-e-rơ xấu hổ, đắng cay vì chối Chúa, chắc cảm thấy
rằng mình bị Chúa từ bỏ; vậy nên ông có cần được điệp văn (message) đặc biệt
nầy. Ðức Chúa Jêsus tỏ lòng từ ái biết bao khi Ngài gởi điệp văn ấy cho ông! Vài
giờ sau, Ngài đã hiện ra với Phi-e-rơ (Lu-ca 24:34). Chúng ta chỉ có thể tưởng
tượng đã có gì xảy ra trong cuộc gặp gỡ đó. Nước mắt nóng hổi, đỏ mặt vì hổ
thẹn, và sự tha thứ từ ái. Cuộc gặp gỡ nầy đóng ấn cho sự tận tụy không bao giờ
gián đoạn nữa. Thậm chí Phi-e-rơ đã chịu chết vì Danh Chúa. Xem thêm ở Giăng
21:15-19.
Các bà vội chạy báo tin cho
các môn đồ. Phi-e-rơ và Giăng chạy tới phần mộ (Giăng 20:3-10).
Ðoạn 16:9-20 -- 12 câu sau chót của sách Mác
Trong các bản thảo Si-na-i và
Vatican không có những câu nầy, nhưng Hội Thánh đầu tiên đã công nhận nó là một
phần chân chánh của sách Tin Lành Mác. Người ta cho rằng có lẽ trang cuối cùng
của nguyên bổn đã thất lạc, rồi sau mới thêm vào. Sách Mác dường như không thể
chấm dứt ở câu 8.
Ðoạn 16:9-11 -- Chúa hiện ra với Ma-ri
Ma-đơ-len
Xem Giăng 20:11-18. Và với
những bà khác (Ma-thi-ơ 28:9-10). Và với 2 môn đồ (Mác 16:12-13; xem ở Lu-ca
24:13-32).
Ðoạn 16:14-18 -- Ðức Chúa Jêsus hiện ra với 11
Sứ đồ
Cũng có chép ở Lu-ca 24:33-43
và Giăng 20:19-25. Xem các khúc sách nầy. Dường như trong sự hiện ra nầy, Chúa
đã truyền lịnh cuối cùng phải đi khắp thế gian (câu 15-16). Tuy nhiên, cũng có
lẽ đó là tóm tắt những chỉ thị cuối cùng mà Ðức Chúa Jêsus lặp đi lặp lại trong
40 ngày thi hành chức vụ sau khi Ngài sống lại. Tính ra, lịnh nầy đã được ghi
chép 4 lần:
Ở đây, trong dịp Chúa hiện ra
lần đầu tiên với 11 Sứ đồ.
Lần nữa, khi Ngài hiện ra ở xứ
Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 28:18-20).
Lần nữa, khi Ngài hiện ra lần
cuối cùng tại Giê-ru-sa-lem (Lu-ca 24:47).
Và trước khi Ngài ngự lên trời
(Công vụ các sứ đồ 1:8). Xem ở các khúc sách nầy.
Quyền năng để làm các phép lạ
(câu 17-18) là chứng minh thư thiên thượng về họ được giao cho sứ mạng thành
lập Hội Thánh. Xem ở Công vụ các sứ đồ, đoạn 3.
Giữa câu 18 và câu 19 có 40
ngày, trong thời gian đó Ðức Chúa Jêsus hiện ra:
Với 11 Sứ đồ, 1 tuần lễ sau
(Giăng 20:26-31). Với 7 Sứ đồ, trên bờ biển Ga-li-lê (Giăng 21).
Với 11 Sứ đồ, trong xứ
Ga-li-lê, có 500 môn đồ hiện diện (?) (Ma-thi-ơ 28:16-20).
Và với Gia-cơ (I Cô-rinh-tô 15:7). Không biết lúc
nào và ở đâu. Cũng không biết là Gia-cơ nào, nhưng người ta thường đoán là
Gia-cơ, em trai của Chúa; sau ông nầy trở thành thủ lãnh chánh yếu của Hội
Thánh xứ Giu-đê và đã viết thơ Gia-cơ. Xem lời tiểu dẫn thơ Gia-cơ.
Rồi tới sự hiện ra cuối cùng ở thành Giê-ru-sa-lem
(Lu-ca 24:44-49; Công vụ các sứ đồ 1:3-8).
Ðoạn 16:16-20. Ðức Chúa
Jêsus ngự trên trời.-- Xem ở
Lu-ca 24:44-53.
Thứ Tự Các Biến Cố Trong Buổi Sáng Phục Sanh
Không dễ dung hợp các biến cố
ghi chép rải rác trong 4 sách Tin Lành về sự sống lại của Ðức Chúa Jêsus thành
một truyện tích liên tục, có mạch lạc. Nhiều chi tiết đã được chép tổng quát trong
một vài câu. Kinh Thánh không thuật cho chúng ta mọi chi tiết theo thứ tự rõ
ràng xảy ra trước sau.
Hãy nhớ rằng có nhiều nhóm môn
đồ khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau, đến thăm phần mộ Chúa từng đoàn khác nhau,
và họ đều không trông mong Ðức Chúa Jêsus sống lại (xem ở dưới Giăng, đoạn 20),
nhưng đã đi thăm phần mộ để hoàn tất sự xức thuốc thơm cho xác Ngài và an táng
vĩnh viễn.
Vừa khi thấy phần mộ trống
không và nghe thiên sứ báo tin Ðức Chúa Jêsus đã sống lại, thì họ kinh hồn,
thất vía.
Họ chạy đi báo tin cho các môn
đồ khác, vội vàng chạy đi, chạy lại, lúc vui, lúc sợ. lúc lo, lúc kinh ngạc,
lúc luống cuống.
Có nhiều điều xảy ra mà không
được ghi chép trong Kinh Thánh. Còn những điều được ghi chép, thì tác giả nầy
chép điều nọ, tác giả kia chép điều khác. Ông nầy dùng một câu kể lại điều ông
khác mô tả tỉ mỉ. Có ông kể lại những biến cố khác nhau bằng một lời tổng
quát... Không một ông nào tường thuật đầy đủ.
Có rất nhiều cách dung hợp
những chi tiết đã được tường thuật. Cách dưới đây dầu chỉ là tạm thời, cũng
được mọi người chấp nhận:
1.-- Lúc mới hừng đông, có hai
nhóm phụ nữ, hoặc hơn nữa, từ nhà riêng ở Bê-tha-ni hoặc Giê-ru-sa-lem, có lẽ
cách xa 1 hoặc 2 dặm, đã lần bước đi về phía phần mộ Chúa.
2.-- Có lẽ vào khoảng thì giờ
đó, Ðức Chúa Jêsus ra khỏi phần mộ, theo hầu Ngài có các thiên sứ đã lăn vầng
đá và xếp vải liệm rất có thứ tự.
3.-- Ðồng thời, bọn lính gác
kinh khiếp và sửng sốt, chạy đi báo cho các thầy tế lễ, là kẻ đã cắt đặt chúng
ở đó.
4.-- Khoảng lúc mặt trời mọc,
trong khi các bà tới gần phần mộ Chúa, thì Ma-ri Ma-đơ-len chạy trước nhứt,
thấy phần mộ trống rỗng, nhưng cũng chẳng thấy thiên sứ, và cũng chẳng nghe
thiên sứ báo tin rằng Ðức Chúa Jêsus đã sống lại (Giăng 20:13, 15). Bà bèn quay
ra, chạy đi báo tin cho Phi-e-rơ và Giăng.
5.-- Các bà khác tới gần. Họ
thấy và nghe các thiên sứ. Họ vội vàng do đường khác ra đi để báo tin cho nhóm
môn đồ đông đúc nhứt.
6.-- Vào khoảng thì giờ đó,
Phi-e-rơ và Giăng tới mồ mả, bước vào, thấy vải liệm bỏ không, rồi ra về. Giăng
tin, còn Phi-e-rơ thì ngạc nhiên.
7.-- Ðồng thời, Ma-ri
Ma-đơ-len theo Phi-e-rơ và Giăng bén gót, trở lại phần mộ, đứng một mình mà
khóc. Ðoạn, bà thấy các thiên sứ, và Ðức Chúa Jêsus hiện ra với bà.
8.-- Sau đó ít lâu, Ðức Chúa
Jêsus hiện ra với những bà khác trong lúc họ đi báo tin cho các môn đồ, hoặc
trong lúc họ trở lại phần mộ sau khi đã báo tin cho các môn đồ.
Mọi việc trên đây đã xảy ra
trong vòng gần một giờ.