Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 83 | Chương 85 >> | Hướng Dẫn
Sử Ký Hội Thánh 5
Các Hội Nghị Toàn Thể Tư Giáo
(Conciles oecuméniques)
Nicée (325 S.C.). Lên án Phản tam vị nhất thần luận (arianisme).
Constantinople (381). Ðược triệu tập để giải quyết tà thuyết Cơ đốc vô
nhân tánh luận.
Ê-phê-sô (431). Ðược triệu tập để giải quyết tà thuyết Cảnh giáo (nestorianisme).
Chacédoine (451). Ðược triệu tập để giải quyết tà thuyết Nhị tánh hợp nhứt luận (eutychianisme).
Constantinople (553). Giải quyết tà thuyết Duy nhứt tánh luận (monophysisme).
Constantinople (680). Giải quyết tà thuyết về Ðấng Christ có hai ý chí.
Nicée (787). Phê chuẩn sự thờ lạy hình tượng.
Constantinople (869). Ðông phương và Tây phương đoạn tuyệt với nhau. Ðây
là Hội nghị toàn thể tư giáo sau chót. Những Hội nghị sau đây chỉ riêng của
Giáo hội La-mã.
La-mã (1123). Quyết định rằng các Giám mục phải do Giáo hoàng đề cử.
La-mã (1139). Cố gắng chấm dứt sự đoạn tuyệt giữa Ðông phương và Tây phương.
La-mã (1179). Thi hành kỷ luật trong Giáo hội và trong hàng giáo phẩm.
La-mã (1215). Ðể thi hành mạng lịnh của Giáo hoàng Innocent III.
Lyon (1245). Ðể giàn xếp cuộc tranh chấp giữa Giáo hoàng và hoàng đế.
Lyon (1274). Lại cố gắng liên hiệp Ðông phương với Tây phương.
Vienne (1311). Diệt trừ các đoàn viên của phòng vệ giáo đường (Templiers).
Constance (1414-1418). Ðể cứu vãn sự ly khai do Giáo hoàng gây nên. Lên án thiêu
chết ông Huss.
Bâle (1431-1449). Ðể cải cách Giáo hội.
La-mã (1512-1518). Lại cố gắng cải cách.
Trente (1545-1563). Ðể chống lại cuộc cải chánh Tin Lành.
Vatican (1869-1870). Tuyên bố rằng Giáo hoàng vô ngộ (infaillibilité).
Khổ Tu Chủ Nghĩa
Ðây là một phản ứng chống lại
tinh thần ham mến thế gian ở trong Hội Thánh, và có lẽ một phần là "phó
sản" của duy tri chủ nghĩa (gnosticisme)
vốn dạy rằng vật chất là tội ác. Phong trào nầy do Antoine (250-350 S.C.) phát khởi ở Ai-cập; ông đã bán hết sản
nghiệp, lui vào đồng vắng và ở cô độc. Rất đông người theo gương ông. Họ được
gọi là tu sĩ (ermite). Quan niệm của
họ là phải đạt tới sự sống đời đời bằng cách tránh khỏi thế gian và hành hạ xác
thịt theo lối khổ hạnh. Phong trào nầy lan tới xứ Pa-lét-tin, Sy-ri,
Tiểu-Á-tế-á và Âu-châu. Ở Ðông phương, mỗi người ở trong hang đá, hoặc túp lều,
hoặc trên cây trụ riêng của mình. Ở Âu-châu, họ sống trong những cộng đồng, gọi
là tu viện, chia thì giờ ra để làm công việc và hành đạo. Họ tăng số rất đông
đúc, và có nhiều dòng tu sĩ cùng nữ tu sĩ dấy lên. Các tu viện Âu-châu đã làm
công việc tốt nhứt của Giáo hội đương thời Trung cổ trong ngành bác ái theo
tinh thần Ðấng Christ, ngành văn chương, giáo dục và canh nông. Nhưng khi các
tu viện trở nên giàu có, thì đổi ra hủ hoại, vô đạo một cách thô lỗ. Ðương thời
Cải chánh, tại các nước theo đạo Tin Lành, chẳng bao lâu các tu viện biến mất;
còn trong các nước theo Công giáo, thì nó cũng giảm sút lần lần.
Các Cuộc Viễn Chinh Của Thập Tự Quân
Ðây là giới tín đồ Ðấng Christ
cố gắng chiếm lại Xứ Thánh nơi tay người Hồi giáo. Có bảy cuộc viễn chinh của
Thập-tự-quân:
Thứ nhứt (1095-1099).-- Chiếm Giê-ru-sa-lem.
Thứ hai (1147-1149).-- Trì hoãn sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem.
Thứ ba (1189-1191).-- Ðạo quân không tiến đến Giê-ru-sa-lem được.
Thứ tư (1201-1204).-- Chiếm và cướp phá thành Constantinople.
Thứ năm (1228-1229).-- Chiếm Giê-ru-sa-lem, nhưng chẳng bao lâu lại bị chiếm mất.
Thứ sáu (1248-1254).-- Thất bại.
Thứ bảy (1270-1272).-- Tất cả là công dã tràng.
Các cuộc viễn chinh của
Thập-tự-quân cùng sự thất bại không đạt tới mục đích đã có ảnh hưởng cứu được
Âu-châu khỏi tay người Thổ-nhỉ-kỳ, cùng mở đường liên lạc thương mại, trí thức
giữa Âu-châu và Ðông phương. Như vậy, mở đường cho cuộc Phục hưng Văn nghệ.
Hồi Giáo
Mahomet.-- Sanh tại thành La
Mecque, năm 570 S.C., là cháu nội của
quan Tổng đốc. Chức vụ nầy chắc sẽ về tay ông, nhưng bị một người khác chiếm
mất. Lúc thanh niên, ông đi viếng xứ Sy-ri, tiếp xúc với tín đồ Ðấng Christ và
người Do-thái, nên đầy lòng kinh tởm sự thờ lạy hình tượng. Năm 610, ông tự
tuyên bố là tiên tri; bị chối bỏ tại La
Mecque; năm 622, chạy tới thành Médine,
và được dân chúng tiếp nhận. Ông trở thành một chiến sĩ, và bắt đầu dùng gươm
để truyền bá đạo lý. Năm 630, ông cầm đầu một đạo quân, trở về thành La Mecque, hủy diệt 360 hình tượng, và
đầy lòng hăng hái muốn tiêu diệt sự thờ lạy hình tượng. Qua đời năm 632. Các người kế
tiếp ông gọi là "Calife."
Bành trướng mau lẹ.-- Khoảng năm 634, xứ Sy-ri bị chinh phục; năm 637, thành
Giê-ru-sa-lem; năm 638, xứ Ai-cập; năm 640, xứ Ba-tư; năm 689, Bắc-phi; năm
711, Tây-ban-nha. Như vậy, trong một thời gian ngắn, cả Tây bộ Á châu và Bắc
phi, là nơi phát sanh đạo Ðấng Christ, trở theo Hồi giáo. Mohamet xuất hiện nhằm lúc Hội Thánh đã ngẫu tượng hóa vì có sự thờ
lạy ảnh tượng, thờ lạy thánh vật, các thánh tử đạo, các thánh và thiên sứ. Các
thần Hy-lạp đã bị thay thế bởi hình tượng của Ma-ri và của các thánh. Theo một
phương diện, Hồi giáo là cuộc khởi nghĩa chống sự thờ lạy hình tượng của
"thế giới Cơ-đốc-giáo," và là sự hình phạt giáng trên một Giáo hội hư
hoại, thoái hóa. Tuy nhiên, đối với các quốc gia bị nó chinh phục, nó đã tự tỏ
ra là một tai họa tệ hại hơn. Nó là tôn giáo nêu cao sự thù ghét, được truyền
bá bằng cây gươm, khuyến khích chế độ tôi mọi, chủ nghĩa đa thê và sự bại hoại
của phụ nữ.
Trận Tours, trên đất Pháp (năm 732), là một trong những trận quyết
liệt của thế giới. Charles Martel đánh bại đạo quân Hồi giáo đang
quét sạch thế giới như một ngọn thủy triều. Nếu chẳng có trận thắng ấy, thì có
lẽ đạo Ðấng Christ đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Người Ả-rập cầm quyền trên thế giới Hồi giáo từ 622-1058. Thủ đô được dời qua Ða-mách
(661), rồi qua Bagdad (750), và cứ ở
đó cho tới năm 1258. Thời đại hoàng kim của Hồi giáo đã thực hiện dưới đời Haroun-Al-Rashchild (786-809), là người đồng thời với Charlemagne ở Tây phương.
Người Thổ-nhĩ-kỳ cai trị thế giới Hồi giáo từ năm 1058 cho tới đầu thế kỷ
nầy. Họ kỳ thị tôn giáo và tàn ác còn hơn người Ả-rập bội phần. Họ đối xử tín
đồ Ðấng Christ ở xứ Pa-lét-tin một cách rất dã man, nên đã gây ra các cuộc viễn
chinh của Thập-tự-quân.
Người Mông cổ ở Trung bộ Á-châu, dưới sự lãnh đạo của Thành cát Tư hãn
(1206-1227), đã chận đứng quyền thống trị của người Thổ-nhĩ-kỳ. Chỉ huy những
đạo quân đông đúc, Thành cát Tư hãn đã cầm gươm và bó đuốc mà dong ruổi trên
một phần lớn Á-châu; 50.000 đô thị và thị trấn đã bị thiêu đốt; 5 triệu dân đã
bị tàn sát; ở Tiểu-Á-tế-á, 630.000 tín đồ Ðấng Christ đã bị "làm
thịt." Á-châu không bao giờ phục hồi lên được nữa. Ðó là "tai họa
khủng khiếp hơn hết từng giáng trên loài người"." Dưới đời Tamerlan (1336-1402), một luồng gió lốc
tàn diệt tương tự quét sạch khắp nơi, kết quả đồng ruộng bị tàn phá, làng mạc
bị đốt cháy, và huyết chảy thành sông. Hắn có thói quen chất đống hàng chục
ngàn đầu người ở cổng mỗi đô thị; tại Bagdad,
hắn đã chất đống 90 ngàn đầu lâu.
Thành Constatinople sụp đổ (1453), sa vào tay người Thổ-nhĩ-kỳ, do đó Ðông đế quốc
La-mã suy vong, khiến Âu-châu một lần nữa lại bị Hồi giáo đe dọa đô hộ; tuy
nhiên, nền đô hộ ấy bị Jean Sobieski, vua Ba-lan, chận đứng tại trận
Viene, năm 1683.