Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 93 | Chương 95 >> | Hướng Dẫn
Sử Ký Hội Thánh 15
Cuộc Cải Chánh
Martin Luther (1483-1546) đứng đầu
hàng vĩ nhân của mọi thời đại, sau Ðức Chúa Jêsus và Phao-lô. Ông lãnh đạo thế
giới trong cuộc nổi dậy giành tự do, thoát khỏi chế độ chuyên chế hơn hết trong
lịch sử. "Ông là nhà sáng lập nền văn minh Tin Lành." Ông sanh năm
1483, tại thành Eisleben, trong một
gia đình nghèo. Năm 1501, ông vào trường Ðại học Erfurt để học luật khoa. Ông là "một sanh viên xuất sắc, hay
nói chuyện và tranh luận, rất có tài xã giao và âm nhạc." Ông tốt nghiệp
sau một thời gian hết sức ngắn ngủi. Năm 1506, ông thình lình quyết định vào tu
viện. Là một tu sĩ gương mẫu và rất sùng đạo, ông đã kiêng ăn và tự khảo đả đủ
cách; ông cũng tự đặt ra nhiều cách khảo đả mới mẻ. Theo lời ông nói, suốt hai
năm ông chịu "nỗi thống khổ không bút nào tả xiết." Một ngày kia
trong năm 1508, đang khi đọc thơ Rô-ma, ông thình lình được soi sáng và được
bình an: "Người công bình sẽ sống bởi đức tin " (Rô-ma 1:17). Rốt
lại, ông thấy rằng phải được cứu rỗi bởi tin cậy Ðức Chúa Trời qua Ðấng Christ,
chớ chẳng phải bởi nghi lễ, phép bí tích và phép khổ hạnh của Giáo hội. Sự thấy
nầy đã thay đổi cả cuộc đời ông và Cả Dòng Lịch Sử." Dầu sự phát
minh của ông làm cho một Giáo hội dưới quyền thầy cả không cần thiết nữa, nhưng
ông không lập tức nhìn biết như vậy." Ông vẫn còn chịu nhận mọi tục lệ của
Giáo hội, lễ Mi-sa, thánh tích, phiếu ân xá, sự hành hương (pèlerinage) và quyền hành của Giáo
hoàng. Năm 1508, ông làm giáo sư tại trường Ðại học Wittenberg, và cứ giữ địa vị ấy cho đến khi qua đời, năm 1546. Năm
1511, ông tới thành La-mã, và dầu thất kinh trước sự bại hoại, hư xấu của triều
đình Giáo hoàng, ông cũng vẫn nhìn nhận quyền hành của Giáo hội. Ông trở về Wittenberg, và các bài ông giảng về Kinh
Thánh bắt đầu hấp dẫn các sanh viên từ mọi phương nước Ðức.
Phiếu ân xá.-- Việc Tetzel
bán phiếu ân xá là cơ hội cho Luther
ly khai với Giáo hội La-mã. Phiếu ân xá là bản giảm nhẹ sự đau đớn ở nơi luyện
tội, tức là tha cho khỏi bị hình phạt vì tội lỗi. Theo giáo lý của Giáo hội
La-mã, thì nơi luyện tội gần giống như địa ngục, duy nó không kéo lâu dài như
vậy; mọi người phải trải qua nơi luyện tội. Nhưng Giáo hoàng tự nhận có quyền
giảm bớt hoặc miễn hết sự đau đớn ấy, và đặc quyền ấy thuộc riêng về Giáo
hoàng. Phiếu ân xá bắt đầu đương thời các Giáo hoàng Pascal I (817-824) và Jean
VIII (872-882). Người ta thấy phiếu ân xá của Giáo hoàng có lợi bội phần,
và chẳng bao lâu, nó được sử dụng cùng khắp. Họ cấp phiếu ân xá để xui giục
người ta dự cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân, dự cuộc chiến tranh chống kẻ theo
tà giáo, hoặc chống một vua nào mà Giáo hoàng muốn trừng phạt; cũng cấp cho các
chánh thẩm Tôn giáo Pháp đình, hoặc kẻ vác củi để thiêu một người theo tà giáo,
hoặc kẻ hành hương tại La-mã, hoặc kẻ đã dự vào một công cuộc công, tư của Giáo
hoàng; hoặc cũng ÐEM BÁN LẤY TIỀN.
Năm 1476, Giáo hoàng Sixte VI là người thứ nhứt áp dụng
phiếu ân xá cho những linh hồn đã ở nơi luyện tội. Các phiếu ân xá đã được bao
thầu và đem bán lẻ. Như vậy, "bán đặc quyền phạm tội" trở thành một
nguồn lợi tức chánh yếu của Giáo hoàng. Năm 1517, Jean Tetzel trải qua nước Ðức, bán những chứng chỉ có Giáo hoàng ký
tên, hiến sự tha thứ hết tội lỗi cho kẻ mua và bạn bè họ, không cần phải xưng
tội, ăn năn, khổ hạnh, hoặc được thầy cả xá miễn cho. Hắn nói với dân chúng
rằng: "Ngay khi đồng tiền của các ngươi kêu keng trong thùng nầy, thì linh
hồn của bạn hữu các ngươi được từ nơi luyện tội thẳng tới Thiên đàng." Luther lấy thế làm kinh tởm.
95 luận đề.-- Ngày 31-10-1517, tại cửa nhà thờ Wittenberg, Luther niêm
yết 95 luận đề, hầu hết liên quan đến phiếu ân xá, nhưng cốt là đả kích quyền
hành của Giáo hoàng. Ðó chỉ là lời rao rằng ông sẵn lòng tranh luận các vấn đề
ấy tại trường Ðại học. Nhưng khắp nước Ðức, người ta hăm hở tìm kiếm bản in các
luận đề ấy. Nó tự chứng tỏ là "cái tàn lửa làm cho cả Âu-châu bùng
cháy." Truyền đơn nầy theo sau truyền đơn kia, bằng tiếng La-tinh cho bậc
trí thức, và bằng tiếng Ðức cho thường dân. Khoảng năm 1520, Luther đã trở nên người được dân chúng hoan
nghinh nhứt nước Ðức.
Luther bị dứt phép thông công.-- Năm 1520, Giáo hoàng ra sắc lịnh dứt phép thông
công Luther, và tuyên bố rằng nếu
trong vòng 60 ngày, ông không chịu rút lời, thì sẽ phải chịu "sự hình phạt
dành cho kẻ theo tà giáo" (tức là tử hình). Khi Luther nhận được sắc lịnh ấy, ông đã công khai đốt nó đi
(10-12-1520). Ông Nichols nói rằng:
"Ngày ấy, một thời đại mới trong lịch sử đã mở đầu."
Nghị nội Worms (1521). Luther
bị Charles V, hoàng đế của đế quốc
La-mã thánh (đương thời ấy gồm Ðức, Tây-ban-nha, Hòa-lan và Áo), đòi phải ứng
hầu trước nghị hội Worms. Trước mặt
các người quyền cao chức trọng của đế quốc và Giáo hội họp lại, ông được lịnh
phải rút lời. Ông đáp rằng mình không thể rút lời chi hết, trừ ra đối với những
cái gì Kinh Thánh hoặc lý trí chứng rõ là sai. Ông nói: "Tôi đứng đây; tôi
không thể làm chi khác; nguyện Ðức Chúa Trời giúp đỡ tôi!" Ông bị lên án;
nhưng rất nhiều vị vương hầu Ðức là bạn hữu ông, nên sắc lịnh lên án ông không
thể thi hành. Một người bạn giấu ông đi chừng một năm; rồi ông trở về Wittenberg để tiếp tục công việc giảng
thuyết và viết sách. Ngoài nhiều việc khác, ông còn dịch Kinh Thánh ra tiếng
Ðức; bản dịch nầy đã "thiêng liêng hóa nước Ðức và tạo nên tiếng
Ðức."
Giáo hoàng khai chiến với
tín đồ Tin Lành nước Ðức. Nước Ðức
gồm rất nhiều tiểu quốc, mỗi tiểu quốc do một vị vương hầu cai trị. Nhiều vị
vương hầu ấy và cả nước họ đã theo chánh nghĩa của Luther. Khỏang năm 1540, cả miền Bắc nước Ðức đã theo giáo phái Luthérien. Họ được lịnh trở lại
"ràn chiên" La-mã. Nhưng họ lập khối liên minh Smalcald để tự vệ. Giáo hoàng Paul
III bèn thúc giục hoàng đế Charles V
tiến đánh họ, và cũng hiến cho hoàng đế một đạo quân. Giáo hoàng tuyên bố cuộc
chiến tranh nầy là một cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân (croisade), và hứa ban phiếu ân xá cho mọi người dự vào đó. Chiến
tranh kép dài từ 1546 đến 1555, và kết liễu bằng hòa ước Augsbourg, do đó giáo phái Luthérien
được thừa nhận là hợp pháp. Giáo hoàng gây cuộc chiến tranh nầy với mục đích
đánh cho giáo phái Luthérien phải đầu
phục mình. Ông là người xâm lược, còn giáo phái Luthérien tự vệ.
Danh hiệu "Protestant." Nghị hội Spire
(năm 1529), tại đó người Công giáo La-mã chiếm đa số, qui định rằng người Công
giáo được phép giảng dạy đạo của họ ở các tiểu quốc thuộc Ðức theo giáo phái Luthérien, nhưng cấm giáo phái Luthérien giảng dạy ở các tiểu quốc
thuộc Ðức theo Công giáo. Các vương hầu theo giáo phái Luthérien chánh thức phản đối quyết nghị ấy, và từ đó được gọi là
"Protestant" (Kẻ phản đối).
Danh hiệu nầy nguyên thủy áp dụng cho giáo phái Luthérien, nhưng nay quen áp dụng cho những người phản đối sự tiếm
vị của Giáo hoàng,-- tức là gồm hết thảy đoàn thể tín đồ Tin Lành.