Trang Đầu | Mục Lục | CHƯƠNG 2 >> | Hướng Dẫn

CHƯƠNG 1

“KHÔNG CŨNG LÀ MỘT CÂU TRẢ LỜI

Amy Camichen sinh ra một tuần trước lễ Giáng sinh năm 1867 ở một làng nhỏ bé dọc theo bờ biển miền Bắc nước Ái Nhĩ Lan. Cô là chị của sáu đứa em. Amy rất yêu thích màu xanh. Mẹ Amy có đôi mắt màu xanh và Amy luôn mơ ước có đôi mắt màu xanh giống mẹ. Mắt của Amy long lanh sáng ngời với vẻ lanh lẹ, đầy sức sống, nhưng lại là màu nâu! Amy thường được nghe nói về tình yêu thương của Đức Chúa Trời, Ngài ban Chúa Jêsus cho cô. Mẹ của Amy thường nói đi nói lại:

“Đức Chúa Trời luôn luôn nhậm lời cầu nguyện”

Khi mới lên ba tuổi, mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, Amy quì xuống và chân thành cầu xin Đức Chúa Trời biến đổi mắt màu nâu của em trở thành mắt màu xanh. Em không bao giờ nghi ngờ về lời cầu nguyện của mình. Buổi sáng líu lo như chim con, Amy nhảy xuống khỏi giường, kéo chiếc ghế để leo lên ngắm mình trong tấm gương trên cao. Mắt xanh? Không, nó vẫn là đôi mắt màu nâu thảm thương như hồi nào đến giờ. Em đã cầu xin và tin chắc nơi Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã không nhậm lời. Đang khi đứng dựa vào bàn cố gắng cầm nước mắt. Amy cảm biết có một việc rất quan trọng xảy ra. Em nghe một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên. Có lẽ chính Đức Chúa Trời đã giúp em hiểu được điều bí ẩn đó.

“Phải chăng ‘không’ cũng là một câu trả lời?” Đúng. Đó cũng là một câu trả lòi khi cha mẹ nói “Không được”.

Khi Amy lớn lên, cô sang Ấn Độ làm giáo sĩ. Cô phải học ngôn ngữ để có thể nói chuyện với người dân bản xứ vể Đức Chúa Trời. nhưng việc học ngoại ngữ và làm quen với khí hậu nóng bức còn dễ dàng hơn là tìm hiểu đời sống của người Ấn Độ. Cô thường đi lang thang ở phố chợ hoặc những đền thờ lớn bằng đá của Ấn Độ để tìm hiểu cuộc sống tôn giáo của người Ấn Độ. Nhưng làm sao có thể đến đó được? Người Ấn Độ không bao giờ để người nước ngoài có thể vào đó được. Có gì trong những ngôi đền thờ bằng đá với những cánh cửa chạm khắc đầy dẫy hình thú kỳ quái và nặng nề? Họ thờ thần nào? Thờ phượng ra sao? Và Amy quyết định tìm hiểu những điều đó.

Cô đã thử nghiệm nhiều lần cho đến khi khám phá ra rằng cà phê có thể nhuộm cho khuôn mặt và đôi tay của cô một màu nâu đáng yêu, mềm mại giống như một người đàn bà Ấn Độ. Cô cũng mặc y phục Ấn Độ nữa, một cái áo dài trắng, tay ngắn và một chiếc khăn choàng cổ trùm qua đầu phủ một bên vai. Các bạn kiểm tra lại trang phục giúp cô. Họ bảo: “Ồ, trông chị y như một người Ấn Độ. Hóa trang thật tài tình”. Một người bạn thêm vào: “Chị sẽ không bao giờ qua mắt được những người đàn bà Ấn Độ nếu như chị có đôi mắt màu xanh”. Mắt xanh! Thình lình Amy chợt nhớ lại sự ngã lòng, chán nản khi cô còn bé. Cô nhớ dường như nó chỉ mới xảy ra tuần trước. Đức Chúa Trời đã phán “Không”. Bây giờ cô đã hiểu lý do Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của cô. Cô cần có một đôi mắt màu nâu. Đức Chúa Trời đã ban cho cô điều tốt nhất.

Một hôm, Amy trong y phục hóa trang đã vào được trong đền thờ. Không có một chút ánh sáng mặt trời ở đây, nhưng có những ngọn đuốc, ánh lửa chập chờn leo lét bao trùm một vẻ ghê rợn lên mọi vật. Trong một cái tháp lớn có một hình tượng trông đen tối, dơ bẩn và lem luốc. Có những dĩa dầu nhỏ đang cháy treo trên tường xung quanh hình tượng đó. Phía bên kia bức tường là căn phòng tối om, đầy mạng nhện, bụi bặm bẩn thỉu. Amy rùng mình. Đây là nơi thờ phượng của người Ấn Độ, và những hình thù kỳ quái xấu xí trong ngọn tháp là thần của họ. Thình lình Amy nghe trổi lên âm điệu lạ tai, nó kỳ quái và ghê rợn quá. Cô nhìn thấy tám em nhỏ Ấn Độ dễ thương. Ngay lúc đó có một người đàn ông thô lỗ xô phía sau lưng cô. Amy nhanh chóng lẻn ra ngoài. Những đứa trẻ này là ai? Chúng sẽ làm gì ở nơi tối tăm đó? Cô theo chân đoàn diễn hành đi đến một ngôi đền khác. Cô che mặt lại, và cầu xin Chúa bảo vệ mình.

Một chiếc xe lớn bằng gỗ lăn trên những bánh xe mỏng manh với một hình tượng khổng lồ đặt ở chính giữa. Có mười hai em gái nhỏ xinh xắn dễ thương tuổi từ bốn đến mười. Với vòng hoa trắng trên đầu, mái tóc đen bóng được tẩm nước hoa, các em mặc những chiếc áo dài bằng lụa đỏ tía, trên vòng tay có kết vàng. Amy cố hết sức giữ thăng bằng giữa đám đông người chen lấn để nhìn rõ khuôn mặt của các em bé. Đôi mắt chúng đầy kinh hãi khi chiếc xe chạy thẳng đến chiếc cửa chạm trổ bằng gỗ quí của ngôi đền bằng đá. Chúng nhìn ngoái lại một cách tuyệt vọng. Đôi mắt chúng dò tìm trong đám đông để nhìn cha mẹ. Một tiếng trống và chập choảng vang dậy, rồi cánh cửa bật mở ra. Thế là các em nhỏ bị nhốt vào trong đó. Những tù nhân! Bị bắt buộc phải lìa xa gia đình để cúng tế cho một hình tượng xấu xí ghê rợn. Amy thắc mắc: Các em có thể trốn được không? Các em sẽ trốn ở chỗ nào? Những người trong đền này tìm đâu ra những em bé mủm mỉm dễ thương kia? Có lẽ họ đã bắt cóc? Hay mua bán như súc vật? Cô tròn xoe đôi mắt nhìn vào những cánh cửa khép kín của ngôi đền. Chúng dường như đang cười cô, một phụ nữ da trắng yếu ớt, cô đơn!

Cô có thể chiến đấu để chống lại một lực lượng mạnh mẽ như vậy không? Bởi vì đứng phía sau tất cả những tôn giáo mê tín và dã man này là Satan, kẻ thù của Đức Chúa Trời, là kẻ muốn chiếm đoạt sự thờ phượng chỉ thuộc về Ngài. Nhưng Amy biết không có thần nào giống như Chúa. Đức Chúa Trời có quyền giải cứu các em nhỏ này thoát khỏi cuộc đời hư mất. Vâng, Đức Chúa Trời mạnh hơn Satan. Chúa Jêsus đã chết và sống lại để ai tin Ngài đều được giải cứu. Huyết Ngài đổ ra rửa sạch tội lỗi của những tội nhân xấu xa nhất. Amy cầu nguyện cho những em nhỏ, và Đức Chúa Trời, Đấng đã trả lời cầu nguyện của cô vể đôi mắt xanh trong rất nhiều năm trước, đã dần dần bày tỏ cho cô một kế hoạch.