Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 2 | Chương 4 >> | Hướng Dẫn

Chương 3

CHƯƠNG 3

Cái chân đau của bé Danh phải mất lâu lắm mới lành lại được. Đã nhiều lần ông bác sĩ băng qua núi để tới thăm bệnh cho nó. Đã nhiều lần ông cũng lộ vẻ trầm ngâm bối rối. Thế rồi, khi hoa dại bắt đầu trổ bông đầy đồng và nhà nông bàn đến chuyện đưa bò lên núi cao ăn cỏ, bé Danh trở lại bệnh viện để tháo gỡ cái chân băng bột. Đến lúc ấy, ông bác sĩ mới báo cho ba nó biết cái tin chẳng lành là từ nay trở đi, bé Danh không thể đi lại như người thường được nữa. Cái chân đau của nó ngắn hơn chân bên kia nên nó sẽ phải đi khập khiễng.

Ông Bình cảm thấy buồn rã rượi trong lòng. Ông tới nhà người thợ mộc để nhờ làm cho bé Danh một cặp nặng bé nhỏ xinh xinh. Rồi ông lại mang theo một đôi giầy của bé Danh tới nhà người thợ giầy để nhờ làm lại một đế giầy cao hơn đế bên kia chừng bốn phân tây.

Cả người thợ mộc lẫn người thợ giầy đều rất buồn khi hay tin chẳng lành ấy. Để làm cho bé Danh tươi lên, người thợ mộc chạm trổ những đầu con gấu nhỏ trên cái tay cầm của cặp nạng, còn người thợ giầy thì nhét đầy kẹo chô-cô-la vào trong đôi giầy đã sửa xong trước khi giao chúng về cố chủ, và cả hai trường hợp những cố gắng của họ đã có kết quả tốt đẹp.

Trái ngược với cảnh dân làng xúm xít quanh bé Danh và làm đủ mọi thứ để an ủi vỗ về nó, mọi người trong làng lẫn tránh Duyên và tìm đủ mọi cách để phô bài lòng họ khinh miệt nó.

Mấy ngày đầu, Duyên bị hành hạ đủ điều. Thầy giáo công khai nói trước cả lớp về việc nó làm, coi như mội thí dụ điển hình về hạng người khiếp nhược mà lại hay hống hách bắt nạt kẻ yếu thế hơn mình. Các học sinh khác sua đuổi không cho nó chơi trong sân trường và ném bùn vào nó. Nhưng chẳng bao lâu, chúng nó bỏ cái trò hình phạt ấy, chỉ thản nhiên chơi với nhau mà không thèm để ý tới nó.

Duyên xưa nay không được mọi người ưa thích, vì tính nó dễ cáu kỉnh, lại vụng về, xấu xí, nhưng nó vẫn được tham dự các trò chơi với các bạn khác. Nay thì nó phải sống lẻ loi trơ trọi một mình, vì không ai muốn chơi với nó nữa. Khi các học sinh chọn người để chơi, luôn luôn nó bị chọn sau cùng. Trong lớp có một cái bàn thừa, có một chỗ ngồi; tự nhiên Duyên phải ngồi một mình ở đó, vì chẳng ai muốn ngồi chung với nó cả.

Ngay cả đám con nít cũng xa lánh nó, vì má chúng đã căn dặn chúng không được lôi thôi gì với nó. "ấy nó hung ác dữ tợn lắm. Coi chừng kẻo nó làm hại các con như nó đã từng làm hại bé Danh con ông Bình vậy," và các bà mẹ dặn đám con nít can thận như vậy nên mỗi khi ai gặp nó tới gần là đám con nít bỏ chạy. Chúng coi Duyên chẳng khác gì một thứ ngáo ộp, một ông ba bị vậy.

Ở các tiệm trong làng, người bán hàng giao hàng cho nó qua quay hàng mà chẳng nói một lời; người bán sữa chẳng bao giờ trò chuyện với nó; còn bà chủ tiệm bán thực phẩm thì chẳng bao giờ dúi kẹo vào tay nó như bà vẫn thường làm với mọi đứa trẻ khác. Mọi người trong làng chẳng ai nặng lời với nó bao giờ, họ chỉ làm ngơ không thèm chú ý đến nó thôi.

Vì quá rụt rè e lệ, Duyên chẳng bao giờ tìm cách thu phục cảm tình của mọi người. Nó tự để buông trôi vào trong cái thế giới cô đơn của riêng nó. Nó đi học cũng như đi về, lúc nào cũng thui thủi một mình. Nó một mình đi đến mua hàng ở căn tiệm, và thui thủi chơi một mình trong sân chơi ồn ào náo nhiệt. Không phải vì bọn trẻ kia không muốn có nó chơi chung, vì trẻ con mau quên và dễ tha thứ; đó là chỉ vì lòng hổ thẹn khiến nó không dám nhập cuộc mà thôi. Nó cứ tưởng chừng như nhìn thấy vẻ oán ghét nó trên mặt bọn trẻ, và nó cho rằng chúng đang nghĩ tới bé Danh với cái chân què phải đi phập khiễng. Dần dần nó đâm ra sợ tất cả mọi người, sợ từ ông lão đưa sữa già nua cho tới đứa bé ít tuổi nhất trong trường. Nó sợ sệt cái vẻ khinh bỉ và oán ghét mà nó đọc thấy trên mặt mọi người.

Vì chính nó, nó không thể nào quên nghĩ tới bé Danh què. Hình ảnh bé Danh luôn luôn ám ảnh trí óc nó. Nó tha thiết muốn hỏi con An xem ông bác sĩ đã nói gì. Nhưng con An có bao giờ thèm ngó tới nó hay nói chuyện với nó kể từ khi tai nạn xảy đến cho bé Danh. Còn nó thì nó đâu có dám ngỏ lời trước với con An.

Ở nhà má nó thấy nó lầm lì hơn trước, nhưng cũng làm việc chăm hơn trước, vì nó chợt nhận thấy rằng chỉ có chúi đầu vào công việc nó, mới có thể quên được cuộc sống trơ trọi mà thôi. Từ khi khám phá được ra điều ấy, nó thôi bỏ cái lười biếng cũ và tối ngày vùi đầu vào công việc trong trại. Má nó thật tình khen ngợi nó, còn chị nó đối xử với nó cũng tử tế hơn, vì chị Mai vốn cũng là một cô gái chăm làm. Cái tính lười biếng của nó đã từng làm chị nó phải hết sức bực mình và nó.

Tuy nhiên, Duyên chỉ tìm thấy sự vui thỏa hoàn toàn ở có một chổ mà thôi: ấy là ở trong rừng.

Ở đây cây cối vây kín nó, cách biệt nó với cái thế giới mà nó biết chẳng có ai ưa thích nó. Mỗi khi nó có thì giờ rỗi rãnh, nó lại tìm đến trốn tránh nơi này, ngồi tựa lưng vào một thân cây hay một phiến đá, nó khắc những hình nho nhỏ trên gỗ và trong khi mải mê làm việc nó tạm quên đi hết mọi phiền muộn trên đời.

Cảnh vật đẹp đẽ và không khí êm ả của rừng thông trong lúc mùa hạ mới trở về đã đem lại phấn khởi cho nó. Trên cành thông, những nhánh non như được đánh bóng láng, và lá giẻ gai mềm dịu mang một màu xanh biếc như tơ. Ngồi dưới tàn cây, Duyên có cảm giác ánh mặt trời lọt qua lá cây đang hôn trên mái tóc và làn da tay của nó đang khi nó làm việc.

Cao tít trên bìa rừng, có một căn nhà gỗ nhỏ, chủ nhân là một ông già sống cô độc một mình. Ông ta về ẩn dật ở đó từ lâu, và làm bạn với ông chỉ có một con dê, một con mèo và một đàn gà. Ông quả là một ông già kỳ dị. Ở trong làng ai nấy đều sợ hãi ông, và mỗi khi ông xuống núi mua sắm, trẻ con đều chạy vào nhà đóng kín cửa lại. Mọi người kêu ông là Ông Già Trên Núi. Có người bảo ông ta keo kiệt lắm, nhưng người khác lại bảo ông trốn tránh luật pháp, và có người còn nói ông ta điên khùng và nham hiểm lắm. Ai muốn nói gì thì nói, nhưng có điều chắc chắn là chưa ai bước vào trong nhà ông ở cả, và cũng chưa hề ai đi qua con đường ấy vào lúc tối trời.

Một hôm nhân ngày nghỉ, Duyên đi lang thang xa hơn thường lệ, và cũng như thường lệ nó ngồi xuống một chỗ để hết tâm trí vào công việc chạm khắc gỗ. Lần này đề tài của nó là một con sóc đang dùng hai chân ôm giữ một trái hồ đào. Đang mải mê làm, nó bỗng linh cảm thấy có hơi thở đằng sau lưng nó. Nó liền quay phắt lại và nhìn thấy ông già trên núi đang đứng nhìn qua bờ vai nó.

Nom ông ta, quả là đáng kinh hãi thật. Chòm râu rậm rạp và xoắn tít vào nhau của ông, che kín một khoảng ngực rộng. Chiếc mũi quặm khoẳm của ông khiến người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một con chim ó dữ tợn. Nhưng trong khi Duyên giật mình nhìn thẳng vào mắt ông, nó nhận thấy trong đôi mắt sáng láng có chứa đựng vẻ hiền từ và khoan dung, nên nó quyết định thôi không chạy trốn nữa. Vả lại, nỗi cô đơn mà nó đã phải chịu đựng từ bấy lâu nay đã khiến nó bớt sợ hãi đi nhiều. Ông già này có vẻ kỳ dị, và không chừng ông ta độc ác nữa, nhưng dù sao, ông ta cũng không biết gì về việc làm quá khứ của nó.

Mạnh dạn, Duyên nói: "Chào ông," rồi đứng yên lặng chờ đợi xem ông ta hành động ra sao.

Ông già chìa một bàn tay xương xẩu ra để nhặt con sóc bằng gỗ lên. Ông xoay đi xoay lại ngắm nghía chán chê rồi mới cất giọng ồ ồ nói.

"Cháu còn nhỏ tuổi mà đã khắc được như vậy là khá lắm. Ai dạy cháu vậy?"

"Thưa ông, chẳng có ai dạy cháu cả. Cháu tự khắc lấy đấy."

"Như vậy thì cháu là một thiên tài rồi. Cháu đáng được hưởng những dụng cụ điêu khắc lắm. Chỉ cần học thêm ít nhiều nữa là cháu có thể kiếm sống được rồi. Con sóc cháu khắc đây nom sống động lắm."

"Thưa ông, cháu chẳng có đồ nghề nào, mà cũng chẳng có tiền để mua sắm đồ nghề nữa."

Không nói ra lời, ông già chỉ ngoắc tay ra hiệu, và Duyên giống như một người đang sống trong mộng, từ từ đứng lên đi theo ông già qua khỏi khu rừng âm u. Hai người, một già một trẻ, lẳng lặng đi ngược lên ven núi cho tới khi đến căn nhà gỗ nhỏ là nơi ông già đang sống.

Căn nhà thật nhỏ bé, chật hẹp. Ngoài cái chuồng gỗ để nuôi gà, không còn một căn nào khác nữa. Con dê thì ở ngay trong bếp cùng với ông già, kể cả con mèo vàng đang ngồi liếm lông sưởi ấm ngoài ánh nắng. Phòng ngủ cũng dùng luôn làm phòng chứa cỏ khô, và ông già ngủ ngay trên những chiếc bao bố đặt trên đám cỏ khô dùng làm thức ăn cho con dê vào mùa đông.

Nhà bếp và phòng khách thật tồi tàn, nhưng bầy biện hết sức kỳ cục. Duyên nhận thấy có cái lò, cái thùng đựng sữa vắt và cái ghế đẩu, cái máng đựng cỏ cho súc vật ăn, cái bàn, một cái ghế dựa và một cái máy ép phó-mát. Nhưng khắp bốn phía chung quanh tường, cao khỏi tầm với của con dê, có những chiếc kệ trên bầy lủng củng những hình điêu khắc bằng gỗ, có hình nom rất đẹp, có hình thật thô, nhưng tất cả đều chứng tỏ là công trình của một nghệ sĩ có thiên tài.

Duyên nhận thấy có những hình con gấu, con bò, con Sơn-dương, con dê, con chó xù và con sóc. Có cả hình người, đàn ông và đàn bà, hình mấy chú lùn và hình trẻ em đang nhảy múa. Có những chiếc hộp, nắp hộp chạm khắc hình những bông hoa núi; và những cái đĩa ăn, vành đĩa chạm trổ những vòng hoa, nhưng dẹp hơn hết thảy là chiếc tàu Nô-ê với những hình thú vật xinh xinh đang tranh nhau nhảy xuống tàu. Mắt Duyên như dán vào chiếc tàu này; nó nhìn ngắm mãi, nhình ngắm mãi không thôi.

"Đấy chỉ là một thú tiêu khiển của ta," ông già nói. "Chúng bầu bạn với ta trong những chiều đông tháng giá. Này, cậu bé, nếu cậu chịu khó thỉnh thoảng đến thăm ta, ta sẽ dạy cho cậu cách sử dụng những đồ nghề điêu khắc."

Duyên háo hức ngẩng đầu nhìn lên. Cặp mắt sáng ngời, khuôn mặt rạng rỡ, nom nó không còn có vẻ gì xấu xí nữa.

"Thưa ông", nó ngập ngừng hỏi, "có phải ông bảo rồi đây con có thể tự kiếm ăn được không?"

"Phải" ông già đáp. "Ta có một người bạn chuyên bán những đồ điêu khắc bằng gổ với giá khá lắm. Ông ta đã bán hộ ta nhiều hình bằng gỗ nhưng có một số hình ta ưa thích nên giữ lại. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi ông ta sẽ bán hộ con những hình đẹp đẽ nhất con làm ra vì chẳng bao lâu nữa, con sẽ khắc chạm đẹp hơn nhiều với những đồ nghề của ta thay vì con dao của con."

Duyên vẫn còn ngẩng đầu lên chăm chú nhìn ông già. Lòng nó hát lên điệu nhạc biết ơn, vì nó thấy ông già hình như lo cho nó và quan tâm đến nó. Ít ra cũng phải có một người nào không làm nó sợ hãi và nghĩ tốt về nó chứ. Nó tự nhiên giơ tay nắm chặt lấy bàn tay ông già.

"Ô, cảm ơn ông," nó tha thiết nói. "Ông đối với con tốt quá!"

"Suỵt" ông già đáp. "Ta sống trơ trọi nơi nay, chẳng có ai làm bạn bè. Chúng ta có thể cùng nhau khắc gỗ."

"Cháu cũng vậy", Duyên đáp. "Cháu cũng trơ trọi chẳng có ai làm bạn bè."

Trong khi Duyên lội bộ băng rừng để về nhà, óc nó nẩy ra bao ý nghĩ, những chỉ có một ý nghĩ quan trọng hơn hết thảy. Nó sẽ làm cho bé Danh một chiếc tàu Nô-ê giống như chiếc tàu ông già đã làm, với hàng chục giống thú vật nhỏ-sư tử nầy, thỏ nầy, voi nầy, lạc đà và bò sữa nầy, và cả hình ông bà Nô-ê nữa. Khi nào nó làm xong, nó sẽ đi đến tận nhà ông Bình để tặng cho bé Danh kỷ vật ấy hầu chuộc lại lỗi xưa. Nhất định không ai có thể tặng bé Danh một vật đẹp hơn thế! Sau đó, có lẽ - có lẽ mọi người sẽ để cho nó được làm bạn lại với bé Danh như cũ.

Chỉ mới nghĩ đến đây, tim nó đã đập rộn ràng trong lồng ngực. Trong suốt hai tiếng đồng hồ vừa qua, nó đã hoàn toàn vui thỏa, và niềm vui thỏa ấy tồn tại mãi trong suốt tháng đường nó băng qua rừng, cho tới lúc nó không còn nhìn thấy cây cối, và xóm làng hiện ra bên dưới. Ngày mai nó sẽ phải trở lại trường học. Ngày mai nó sẽ lại cảm thấy cô độc và hãi hùng. Nhưng hôm nay nó đã kiếm được một người bạn tốt.

Sau đây, cứ mỗi tuần ba lần, sau khi tan học, Duyên lại phóng qua rừng thông tới ngồi trên bực cửa nhà ông già trên núi để cặm cụi gọt đẽo chiếc tàu Nô-ê. Được sử dụng những đồ nghề chuyên nghiệp có lưỡi sắc bén, Duyên thấy hứng thú vô cùng. Thật khác hẳn con dao lưỡi cùn của nó một trời một vực.

Ông già sửng sốt trước tài khéo của Duyên. Nhân số trong gia đình Nô-ê mỗi lúc một nhiều thêm. Mỗi lần lên núi với ông già, Duyên lại nghĩ ra một con vật mới để chạm khắc, và đoàn thú vật cứ mỗi lúc một dài thườn-thược.

Vào khoảng thời gian nầy còn có một hứng khởi khác cho Duyên. Có một vị thanh tra đến trường và mở ra một cuộc thi thủ công cho các học sinh. Về phía nữ, các cô tranh nhau đoạt các giải về chạm khắc gỗ. Nhiều cậu đã quen đẽo gọt gỗ trong những giờ rỗi rảnh, và có mấy cậu tỏ ra có khả năng sẽ trở thành khéo tay.

"Nhưng chẳng ai khéo được hơn ta", Duyên tự nhủ thầm trong lúc nó lủi thủi lê bước vào nhà. "Ta sẽ đoạt giải, rồi đây họ sẽ thấy rằng ta không phải hoàn toàn bất tài vô dụng, dù cho ta có học hành kém cỏi và dù chẳng ai thèm chơi với ta."

"Ngày hôm ấy Duyên hứng khởi cất tiếng ca vang trên đường trở về nhà. Nó thấy nó đang bước lên lãnh giải trước sự ngạc nhiên sửng sốt của cử tọa và toàn thể học sinh trong trường. Có lẽ sau đấy mọi người sẽ có cảm tình với nó hơn.

Nó sẽ tạc một con ngựa đang phi, lông bờm phất phơ trước gió, lông đuôi vẩy dài và hai lỗ mũi phập phòng. Duyên vốn yêu thích ngựa, ông già trên núi đã tạc một con ngựa như vậy và Duyên đã ngắm nghía tác phẩm ấy mãi không chán mắt. Chiếc tàu Nô-ê đã chẳng còn bao lâu nữa sẽ xong, và sau đấy nó có thể bắt đầu tạc con ngựa được rồi.

Nó chạy thẳng một mạch lên nhà ông già trên núi để báo cho ông biết tin mừng. Ông rất hài lòng, và ông cũng tin chắc thế nào nó cũng đoạt giải.

"Nhưng tai sao cháu lại định tạc con ngựa?" ông già hỏi. "Cháu có thể đem dự thi chiếc tàu Nô-ê của cháu. Ta thấy chiếc tàu ấy cũng đẹp lắm rồi đối với một đứa trẻ vào tuổi cháu."

Duyên lắc đầu. Giọng cương quyết, nó nói, "cháu làm chiếc tàu ấy là để tặng người khác."

"Một tặng phẩm ư? Cho ai vậy cháu? Cho một đứa em của cháu ư?"

"Vâng, cho một đứa bé bị tật giơ chân không đi được."

"Thế ư? Tại sao em ấy bị tật vậy?"

"Nó té xuống dưới khe."

"Thật tội nghiệp! Nhưng sao nó bị té vậy?"

Duyên nín thinh một lúc không đáp. Óc nó bắt đầu nghĩ ngợi. Nó thấy ông già là bạn tốt của nó, và đối với nó tử tế qua nên nó nghĩ không nên che dấu sự thật nữa. Nó ngẫng nhìn lên và mạnh dạn nói:

"Vì lỗi tại cháu mà nó té. Cháu ném con mèo của nó xuống dưới khe. Nó leo xuống để cứu con mèo và bị té."

Vừa nói dứt lời nó hối ngay. Đáng lẽ nó không nên nói rõ chuyện ấy ra. Giờ ông già sẽ ghét bỏ nó và sẽ xua đuổi nó như nó đã từng bị mọi người khác xua đuổi.

Nhưng ông già không làm vậy, ông chỉ dịu dàng nói:

"Có phải vì vậy mà cháu bảo rằng cháu không có bạn không?"

"Vâng, đúng vậy!"

"Và cháu đang tính tặng chiếc tàu kia để chuộc lỗi với đứa nhỏ?"

"Vâng ạ."

"Cháu làm như vậy là tốt lắm! Muốn lấy lại tình yêu thương của ai không phải là một công việc làm dễ dàng. Nhưng cháu đừng nên nản chí. Những người kiên tâm trì chí trong việc thâu hái tình yêu thương, tìm thấy nhiều hạnh phúc hơn là khi đã thâu hái được rồi."

"Cháu thật tình không hiểu ông muốn nói gì," Duyên suy tư đáp.

"Ý ta muốn nói rằng nếu cháu đem đặt hết tình yêu thương vào việc làm của mình để dành cho kẻ không phải là bạn cháu, thường khi cháu sẽ bị thất vọng và nản chí, nhưng nếu cháu bền gan tiếp tục cháu sẽ tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu thương kẻ khác, dù cho cháu có được yêu lại hay không. Có lẽ cháu cho là kỳ lạ khi thấy ta là một kẻ sống cô độc nơi đây, không yêu thương ai, mà lại đi nói về chuyện yêu thương, nhưng ta vững tin những điều ấy."

Tối hôm ấy Duyên làm xong chiếc tàu Nô-ê; mặt đỏ bừng, tim đập mạnh, nó tiến về hướng nhà ông Bình để trao tặng chiếc tàu trên đường đi trở về nhà.

Khi tới gần nhà ông Bình, nó tự nhiên đâm rụt rè hoảng sợ núp sau một thân cây. Không biết nó sẽ phải bắt đầu câu nói như thế nào? Làm sao phá tan được bầu không khí yên lặng? Nếu nó gặp được bé Danh một mình thì dễ dàng quá, nhưng con An có bao giờ xa lìa em nó ngoài những giờ học ở nhà trường đâu.

Chắc chắn mọi người sẽ tha lỗi cho nó khi họ nhìn thấy chiếc tàu Nô-ê! Nếu mọi người chịu vui lòng tha thứ lỗi cho nó và ban cho nó một cơ hội, nó sẽ tình nguyện đem dâng hiến phần còn lại của đời nó vào việc chuộc lỗi. Vừa hy vọng, vừa hồi hộp sợ hãi, nó bước ra khỏi chỗ nấp sau thân cây và tiến về phía nhà ông Bình.

Giường bé Danh đã được mang vào nhà, còn con An ngồi một mình ngoài hiên đang vá lại khuy áo cho ba nó. Duyên thu hết can đảm bước lên bực thềm chìa chiếc tàu Nô-ê ra.

"Tôi có cái này để tặng bé Danh," nó chỉ nói được đến đây rồi thôi, tiếng nói như mắc nghẹn trong cổ họng. Hai mắt chăm chăm nhìn xuống đất, nó đứng lặng chờ đợi.

Con An giật lấy chiếc tàu Nô-ê khỏi tay Duyên. Mặt nó tái nhạt vì tức giận.

"Mày dám vác mặt lại đây hả!" con An quát lớn. "Mày dám tặng quà cho bé Danh nữa hả! Cút ngay, đừng có bao giờ vác mặt lại đây nữa!"

Vừa nói, nó vừa thẳng cánh quăng chiếc tàu Nô-ê vào đống củi ở phía dưới. Tất cả những con vật nhỏ bé xinh xinh bắn tung ra khắp phía, trên đóng củi.

Duyên đứng trân trân nhìn con An. Một lúc sau, nó quay đi, lảo đảo bước xuống bực thềm. Thế là bao công trình, bao cố gắng của nó tan thành mây khói. Nó sẽ không bao giờ được tha thứ cả, thật là cả một thời gian dài phí phạm vô ích.

Lúc ấy lời nói của ông già trên núi chợt vang lên trong óc nó giống như một tia nắng nhỏ dọi chiếu vào trái tim đang đau xót giận hờn của nó.

"Những người kiên tâm trì chí trong việc thâu hái tình yêu thương thường tìm thấy nhiều hạnh phúc hơn là khi đã thâu hái được rồi."

Phải, có lẽ ông già nói đúng. Nó đã chẳng thâu hái được gì cả, nhưng ít ra nó đã được hưởng niềm vui sướng trong khi làm chiếc tàu Nô-ê và trong khi nghĩ đến nỗi vui của bé Danh. Có lẽ, nếu nó cứ kiên tâm và tiếp tục đặt tình yêu thương của nó vào công việc làm, một ngày kia sẽ có người vui lòng chấp nhận quà tặng của nó và yêu thương nó nữa.

Nó không biết chắc… nhưng nhất định nó sẽ không thất vọng vội.