Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 7 | Chương 9 >> | Hướng Dẫn

Chương 8

CHƯƠNG 8

Ngày Lễ Giáng Sinh đã qua. Bé Danh đang ngủ say; nó nằm nghiêng, đầu gối lên cánh tay. Ba nó ở đằng chuồng bò. Chị An và Nội ngồi ở hai bên cạnh lò. Nội đang đan vớ len màu trắng cho hai chị em nó, còn An thì tưởng chừng như đang vá lại cái tạp dề. Thực ra cái tạp dề đã tuột xuống đất từ lúc nào An cũng chẳng biết, vì lúc ấy nó đang hai tay chống cằm nhìn vào khoảng trống không trước mặt.

“An à”, Nội đột nhiên gọi, mắt vẫn không rời khỏi món đồ đan, “Lễ Giáng Sinh năm nay có vui không cháu?”

“Vui lắm Nội à”, An đáp một cách gượng gạo, vì nó biết nó không trả lời khác hơn. Rồi đột nhiên nó tiếp, “câu nói Đấng Christ gõ cửa lòng chúng ta có nghĩa là gì vậy, Nội?”

Nội đặt món đồ đan xuống, rồi chú mục vào An, Nội giảng, “câu ấy có nghĩa rằng Cứu Chúa nhìn thấy cuộc đời của cháu đầy những việc sai lầm và những tư tưởng đen tối. Ngài xuống thế gian, chịu đóng đinh trên Thập Tự giá để có thể gánh thay cho cháu những hình phạt do việc làm lỗi lầm và những tư tưởng đen tối của cháu gây nên. Rồi Ngài sống lại để có thể ngự vào cuộc đời cháu và sống ở trong cháu, để xua đuổi tất cả những tư tưởng sai lầm kia và chính Ngài suy nghĩ trong cháu những tư tưởng tốt, đầy tình yêu thương. Như thể một người gõ cửa một căn nhà bẩn thỉu, tối tăm, đầy bụi bặm mà nói: “Nếu ngươi để Ta vào Ta sẽ cất hết bụi bặm và bóng tối đi và sẽ làm căn nhà sáng sủa đẹp đẽ.” Nhưng cháu nên nhớ, Ngài không bao giờ tư đẩy cửa vào – Ngài chỉ hỏi xem cháu có để cho Ngài vào không. Chữ gõ cửa có nghĩa là như vậy. Cháu phải đáp, “Vâng, lạy Chúa Giê-xu, con cần có Ngài và con xin mời Ngài ngự vào trong con” – việc mở cửa có nghĩa là như vậy đó”.

An chăm chú nghe Nội nói, mắt không rời nhìn Nội. Sau một thời gian khá dài thật yên lặng, nó mới cất tiếng:

“Nhưng thưa Nội”, vừa nói nó vừa kéo ghế lại gần hơn rồi ngã mình vào lòng Nội, “Khi mình hận thù ai có phải mình không mời được Đấng Christ ngự vào trong mình không?”

“Nếu cháu hận thù ai”, Nội đáp. “Cháu lại càng phải mời Ngài ngự vào trong cháu. Gian phòng càng tối tăm lại càng cần đến ánh sáng, cháu ạ!”

“Nhưng cháu không thể thôi thù hận Duyên”, An khẽ nói, mấy ngón tay vân vê mớ tóc dài ra chiều suy nghĩ.

“Cháu nói đúng lắm”, Nội đáp. Không một ai trong chúng ta có thể thôi không có những ý nghĩ bậy trong đầu, dù chúng ta có cố gắng cũng chẳng được bao nhiêu. Cháu An này – khi cháu ở trên lầu bước xuống dưới nhà vào buổi sáng và thấy gian phòng nầy tối tăm, cửa đóng kín mít, cháu có nghĩ rằng “Ta phải xua đuổi bóng tối đi trước, rồi sau đấy ta sẽ mở các cửa ra để ánh sáng chiếu vào?” Liệu cháu có phí thì giờ tìm cách xua đuổi bóng tối đi không?”

“Lẽ dĩ nhiên là không!” An đáp.

“Vậy làm thế nào để xua đuổi bóng tối đi?”

“Thì cháu chỉ việc mở toang các cứa ra là ánh sáng lọt vào”.

“Lúc bấy giờ bóng tối ra sao?”

“Cháu không biết; nhưng sẽ không còn bóng tối nữa, vì khi ánh sáng lọt vào là bóng tối biến mất.”

“Vậy khi cháu mời Chúa Giê-xu ngự vào cũng như vậy đấy”, Nội nói. “Ngài là Tình Thương, và khi Tình Thương vào đâu là hận thù, ích kỷ, ác độc phải nhường chỗ, cũng như bóng tối phải nhường chỗ cho ánh sáng mặt trời khi cháu mở cánh cửa ra. Còn tự mình đơn độc tìm cách xua đuổi hận thù, tư kỷ đi, thật chẳng khác nào mình tìm cách xua đuổi bóng tối đi ra khỏi một gian phòng cửa đóng tối om. Chỉ mất thì giờ vô ích mà thôi.”

An không trả lời. Nó đăm đăm nhìn vào khoảng không một lát, đoạn thở dài cúi xuống nhặt cái tạp dề lên tiếp tục khâu vá. Được một lát, nó đứng dậy hôn Nội, đoạn lặng lẽ lên lầu.

Nhưng nó không thể nào ngủ được ngay. Nó nằm trằn trọc trong bóng tối, chốc chốc lại xoay mình đổi chiều, suy nghĩ.

“Thật đúng vậy”, nó tự nhủ. “Nếu ta mời Chúa ngự vào trong ta, ta sẽ phải thân mật lại với Duyên, và đó là điều ta không muốn. Chắc ta cũng còn phải kể lại câu chuyện ta đã làm gẫy con ngựa gỗ của nó, và điều này ta lại càng không thể nào, không bao giờ làm được. Vậy, chỉ có cách là ta phải cố quên đừng nghĩ đến gõ cửa nữa—nhưng ôi, sao lòng ta khổ sở thế này.”

Nó đâu biết rằng đứa trẻ nào nghe thấy tiếng gõ cửa của Chúa Giê-xu mà cứ để Ngài ở ngoài thì chẳng còn tìm thấy yên vui trong lòng nữa. Khi người ta đóng cửa đối với Đấng Cứu Chuộc là người cũng đóng cửa không cho Nguồn Hạnh Phúc vào lòng mình. An tưởng nó có thể quên được hết mọi chuyện ấy và tìm được một cách khác để làm cho lòng nó yên vui. Nghĩ vậy, nó lật lại cái gối đầu, đổi lại dáng nằm, rồi lẩm nhẩm đếm thầm trong miệng những con dê chạy ra đồng cỏ cho đến khi nó ngủ thiếp đi.

Nhưng trong giấc ngủ nó mơ thấy một ngôi nhà tối om, cửa đóng then gài kỹ lưỡng. Trong đêm tối có bóng một người đi trên mặt tuyết và tiến về phía ngôi nhà. Vết chân người ấy in rõ trên lớp tuyết mềm. Người khách lạ gõ cửa nhà, từ tốn, thong thả, nhẫn nại, nhưng không một ai ra mở cửa. Sau, ông ta lần mò tìm cái nắm cửa, nhưng cửa không có nắm. Gió thổi mạnh, mặt trăng bị mây che khuất, nhưng ông vẫn không chịu bỏ đi. Ong tiếp tục gõ cửa, gõ hoài, gõ mãi, gõ cho đến khi An tỉnh giấc dậy mà vẫn không có tiếng người đáp và trong nhà vẫn tối om không một ánh đèn lửa.

“Không chừng nhà không có người ở”, An thầm nghĩ trong lúc ngái ngủ. Tuy nhiên, trong thâm tâm có một cái gì khiến nó biết rõ trong nhà vẫn có người ở – có điều họ không muốn ra mở cửa mà thôi.

Giấc mơ sầu thảm đeo đuổi nó mãi. Cho tới lúc nó ăn vận xong và xuống dưới nhà để ăn điểm tâm, lòng nó vẫn còn nặng chĩu. Dưới nhà đang náo loạn vì chuyện bé Danh không tìm thấy con Mướp. Danh nhất định không chịu ăn điểm tâm, và bảo đợi tới khi nó tìm thấy con Mướp nó mới ăn.

Bé Danh không ngớt miệng giải thích, “Sáng nào nó cũng đánh thức con dậy. NÓ mò đến rút vào người con để con tỉnh dậy – nhưng sáng nay con không thấy nó. Tối qua, trước khi đi ngủ, nó đã bỏ đi đâu mất rồi. Đến giờ vẫn chưa thấy nó trở về.”

Nom nét mặt bồn chồn thiểu não của bé Danh, cả nhà ai cũng phải tội nghiệp. Ong Bình lập tức đi ra ngoài làm một vòng quanh các kho chứa và các chuồng súc vật; Nội thì vào lục lạo trong nhà bếp; còn bé Danh thì đi tìm khắp mọi xó xỉnh. An thì lên lầu tìm kiếm trong các phòng ngủ. Nhưng chẳng một ai tìm thấy con Mướp ở đâu. Ong Bình cho biết lần chót ông nhìn thấy con Mướp là lúc nó chạy băng qua sân tuyết đi về phía nhà kho, cái đuôi vểnh lên trời. Rồi từ lúc ấy chẳng ai nhìn thấy nó nữa.

Hôm ấy thật là một ngày trời u đất thảm. Bé Danh xuống tinh thần trông thấy. Lúc ăn cơm nó bật lên khóc và nói rằng nó không thể ăn gì được vì con Mướp đang bị đói. Nó khóc mãi giọt cả nước mắt vô tô súp và chẳng ai đủ tài dỗ nó nín. Tuy nhiên, Nội nó và ba nó tỏ ra không lo lắng lắm về chuyện con Mướp. Ba nó điềm tĩnh bão nó “Nín đi con! Thế nào con Mướp cũng trở về. Nó chỉ ẩn quanh quẩn đâu đây nội ngày hôm nay thôi.”

Hôm ấy trời không có nắng. Mây xám buông rủ che kín núi rừng. Tuyết lại bắt đầu lả tả rơi. Đến đêm, tuyết đong lại thành một lớp vỏ cứng và ngày hôm sau sẽ ít ai dám đi bộ vì sợ nguy hiểm. Ong Bình khoát áo ấm, lấy cái xe trượt tuyết lớn để ra chở gỗ về nhà. Nội ngồi trong ghế bành bên cạnh lò, ngủ gà ngủ gật. Bé Danh tìm đến ngồi vào lòng An, ngửa mặt lên nhìn chị.

“Chị An à!” nó rầu rĩ nói, Danh muốn đi ngủ.”

“Sau vậy, cưng?” An sửng sốt hỏi. “Còn sớm quá mà – trời đã tối hẳn đâu! Vả, em cũng chưa ăn cơm nữa!”

“Nhưng em muốn đi ngủ”, bé Danh năn nỉ. “Em muốn đến giờ để em cầu nguyện”.

An cười rộ:

“Cưng cần gì phải đợi đến giờ đi ngủ mới cầu nguyện được. Cưng có thể cầu nguyện được ngay bây giờ, đoạn rồi ăn cơm và đi ngủ như thường lệ”

Nhưng bé Danh lắc đầu.

“Không”, bé Danh nói, “Em muốn cầu nguyện đàng hoàng như mọi ngày cơ, lúc em đã mặc áo ngủ rồi đấy. Chị đưa em đi ngủ đi chị”.

“Thôi cũng được”, An vừa nói vừa bắt đầu cởi cúc áo cho em nó. “Nhưng cưng phải nhớ điều này nhé”, An tiếp, “dù cưng cầu nguyện lúc mặc áo ngủ hay chưa mặc áo ngủ cũng vậy thôi, không khác gì đâu!”

Đoạn nó cúi xuống hôn em mó, vì mặt bé Danh lúc ấy nom rầu rĩ, tội nghiệp quá.

Sau khi mặc áo ngủ xong, cúc áo cài lại cẩn thận rồi, bé Danh mới quỳ xuống khoanh tay cầu nguyện cho con Mướp.

“Lạy Chúa”, nó cầu nguyện, “Xin Chúa ban phước cho con Mướp. Xin Chúa hãy tìm ra nó và đem nó về đây cho con ngay. Xin Chúa đừng để nó bị lạnh, bị đói, bị hãi hùng. Xin Chúa hãy chỉ đường cho nó về nhà đêm nay. Chúa yêu dấu, xin Chúa hãy làm mọi việc ấy cho con. Amen.”

“Thế em tính không cầu nguyện cho ai khác nữa ư?” An hơi gay gắt với em nó.

“Không”, bé Danh đáp. Nhỏm dậy một cách vội vàng và tiếp: “Tối nay em không cầu nguyện cho ai cả. Tối nay em không muốn Chúa nghĩ tới ai khác ngoài ra con Mướp.” Nói đến đây, có lẽ nó nghĩ làm như vậy hơi xấu, nó mới tiếp, “Chị có thể cầu nguyện cho mọi người lát nữa đây.”

Sau khi đã giao con Mướp vào trong tay của Cha trên trời, bé Danh mới yên lòng trèo lên giường đi ngủ úp mặt trên bàn tay. Nhưng nó chưa ngủ ngay. Nó còn mở mắt ra, giọng nói buồn ngủ, “Chị An nè…”

“Gì vậy?” An hỏi.

“Khi nào nó về, chị đánh thức em dậy nhé?”

“Ai về kia chứ?”

“Con Mướp chứ còn ai nữa!” Vừa dứt câu, Danh đã ngủ rồi.

Còn lại một mình, An đi vớ vẩn trong phòng, lòng bồn chồn khắc khoải không yên. Nó thấy hai má nóng bừng, và vì suốt ngày nó đã ở trong nhà, nó mới mở cửa bước ra ngoài bao lơn.

Tuyết đã ngừng rơi. Một làn gió tây thổi tới làm tung bay những bông tuyết nõn trên mặt lớp tuyết cũ, tiếng nghe rào rạt như sóng biển. Gặp bức tường ở ngôi nhà, tuyết đọng lại chồng chất lên nhau thành đống. Gió không đến nỗi lạnh buốt – An cảm thấy mát mẻ dễ chịu trên đôi má nóng hổi nên nó quyết định đi dạo một vòng tới bên bờ suối. May ra nó gặp thấy con Mướp chăng?

An khoác áo choàng lên người rồi đi ra. Trời sáng trăng vằng vặc có thể đọc sách cũng được. Đi tới đầu cánh đồng, An quay đầu nhìn trở về lối cũ và thấy vết chân nó in trên tuyết giống hệt vết chân của người khách lạ trải dài ra xa tít như thể người ấy đã ở tận đâu đâu tìm đến ngôi nhà tối om nọ – tìm đến để rồi chẳng được gì cả.