(Are You Satisfied?)
Giăng 4:1-30
I. Những Nhu Cầu trong Đời Sống
> Cuộc sống của loài người c/ta có rất nhiều nhu cầu, không thể đếm hết được. (Human has many and countless needs)
# Cách đây hơn 50 năm, người ta liệt kê có chỉ khoãng 10 điều cần có để sống sót, nhưng ngày nay lên đến trên 50 điều; và chắc chắn hiện nay 2 thứ trong những điều này phải có trong cuộc sống hằng ngày đó là máy lạnh và cell phone. (A survey done more than 50 years ago listed about 10 things human needs to survive; but today the list has gone up to more than 50 items; and for sure, air conditioning and cell phones are the “must-have” items.)
1) Nói về những nhu cầu vật chất thì c/ta có thể tóm lại 5 điều căn bản cần thiết nhất: Không khí để thở, thực vật để ăn, nước để uống, quần áo mặc và một chỗ ở an toàn. (Basic needs of human can be summarized in 5 things: Food to eat, air to breathe, clothes to wear, house to live in, and of course water to drink.)
2) Về phương diện tình cảm, con người cũng cần các mối liên hệ để sống còn, vì thế khi đến tuổi trưởng thành thì “con trai đi tìm vợ, con gái đi lấy chồng.” (For the emotional needs, human must have relationships; and marriage is one of them when we become matured.)
3) C/ta còn có một nhu cầu vô hình nữa mà mắt khó thấy được, đó là nhu cầu tâm linh. (But there is also a hidden and spiritual need that we cannot see.)
> Nhu cầu tâm linh rất quan trọng là vì liên hệ đến cõi đời đời, còn nhu cầu thể chất chỉ giới hạn trong cuộc đời này mà thôi, rồi mọi sự sẽ tan biến. (This is a very important need because it determines our eternity; every other needs will be ended one day.)
> Nhu cầu tâm linh là gì, làm sao biết được nhu cầu này và ai có thể đáp ứng cho nó? (What is our spiritual need and Who can satify it?)
II. Chúa Giê-xu Gặp Người Phụ Nữ Samari
> Qua sự kiện Chúa Giê-xu gặp gỡ và nói chuyện với một người phụ nữ người Samari mong sẽ giúp trả lời những câu hỏi này… cho chính mình. (The conversation between Jesus and a Samaritan woman will help to answer this important question for us.)
1) Xứ Samari là ở đâu? (Where is Samari?)
# Trong Giăng 4 có chép - “Khi Chúa lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê. 4 Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri. 5 Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. (In the Gospel John said – “Jesus left Judea and went back once more to Galilee. 4 Now he had to go through Samaria. 5 So he came to a town in Samaria called Sychar, near the plot of ground Jacob had given to his son Joseph.)
> Nếu nhìn bản đồ của nước Do Thái thì c/ta sẽ thấy xứ Samari nằm ngay chính giữa miền Nam và Bắc, mà Chúa Giê-xu đã ghé khi đi từ phía Nam Guiđê lên phía Bắc Galilê. (If you look at a map, Samaria is between the Southern and Northern parts of Isreal’s country, the city that Jesus passed through when travelled from Judea up to Galilee.)
> Dân tộc người Samari là ai? (Who were the Samaritans?)
# Khoảng chừng 700 trăm năm trước thời điểm này, miền Bắc nước Do-thái bị Chúa phạt cho rớt vào tay người ngoại bang dân Asiri, và đa số dân Do Thái bị tản lản lưu đầy qua xứ Asiri. Ðồng thời, người Asiri cũng đến định cư nơi đất Samari này. (About 700 years before Jesus’ time, the Northern Isrealites was fallen into the Assyrians; Many Jews were exiled away from their land, at the same time, some of the Assyrians came and lived in Samaria.)
> Những người Do-thái còn ở lại xứ giao díu với những người từ xa lại, và trở thành một giống dân Do Thái không còn thuần túy, nhưng có thể gọi là “mất gốc, hay là con lai.” (Some of the Jews left in the land inter-married the Assyrians and became a mixed generation.)
> Người Do-thái vì thế khinh bỉ người Sa-ma-ri, đến nỗi không thèm tiếp xúc với họ. (As a result, the Jews looked down on the Samaritans and did not want anything to do with them.)
# Có những người Do Thái nhất là các thầy tế lễ, khi họ muốn đi từ miền Nam Guiđê trở lên miền Bắc Galilê, mà xứ Samari ở chính giữa thì họ sẽ tránh đi qua đó; họ chẳng thà băng qua sông Giô-đanh, để đi bên ngoài xứ Sa-ma-ri, rồi lại băng qua lại sông trở vào Galilê. (Some priests if travelling up and down the country, they would avoid going through Samaria, by crossing the Jordan river, bypassing Samari and crossing the river back into the land.)
> Nhưng Chúa Giê-xu thì không như vậy, Ngài phá đổ mọi bức tường ngăn cách của màu da, sắc tộc, giới cấp, phong tục, tập quán, Chúa đi thẳng ngang qua xứ Samari, vì Chúa biết ở đó đang có vô số người cần được nghe đến Tin Lành Cứu Rỗi. (But Jesus did not avoid Samaria; He removed all separations of races, traditions, ranks, because He knew there were people who needed to hear the Gospel in this city.)
# Chữ "phải" trong c. 4 diễn tả một điều bắt buộc. Chúa Giê-xu "phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri." Ai đã bắt buộc được Ðức Chúa Giê-xu? Chẳng có ai hết, nhưng “chính vì tình yêu của Ngài cho tội nhân" bắt buộc Ngài. (No one can force Jesus where to go, but He must travel through Samaria because of His love for sinners, knowing that someone there need to be saved on that day.)
> Khoãng giữa trưa thì Chúa đến ngồi tại một cái giếng nước có chép trong c. 6 – “Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhân đi đường mỏi mệt, Đức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu.” (About noon time, Jesus came and sat next to a well because He tired from the journey; It was about noon.”)
2) Ở giếng đó Chúa đã gặp ai? (At the well - Whom did Jesus meet?)
> Đọc tiếp c/ta thấy ở tại cái giếng đó thì có “một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống. 9 Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (At the well Jesus met a Samaritan woman came out to draw water – “When a Samaritan woman came to draw water, Jesus said to her, “Will you give me a drink?” 9 The Samaritan woman said to him, “You are a Jew and I am a Samaritan woman. How can you ask me for a drink?”)
> Tại sao Chúa xin người phụ nữ nước giếng uống? Vì Ngài đi đường xa mệt mỏi và khát. (Why did Jesus ask the woman for a drink? Because Jesus was wearied and thirsty.)
# Vì Chúa là ĐCT mang lấy bản tánh của loài người, cho nên Ngài biết khát, và cần nước để uống. (Jesus is God in a human form, so He was thirsty and needed water to drink just liked us.)
> Tại sao c/ta cần uống nước? (Why does human need to drink water?) Thân thể của c/ta chứa bao nhiêu nước? 50-75% (How much water do we have in our body? 50-75%) Nhưng c/ta luôn bị mất lượng nước trong cơ thể qua sự tiểu tiện, đổ mồ hôi, và thở. (But we constantly loose water in our body through peeing, sweating, and breathing.) Đấng Sáng Tạo dựng nên thân thể loài người có nhu cầu tự nhiên khát nước để c/ta uống nước hầu cho thân thể mới hoạt đông được bình thường. (God creates in our body a natural thirst of water when it gets low; Water is needed in order for the body to survive and function normally.)
> Trong c. 9 - tại sao điều Chúa Giê-xu xin bà uống nước lại làm người phụ nữ Samari này ngạc nhiên? (In v. 9 – Why did the Samaritan woman surprise when Jesus asked for a drink of water?)
> Người đàn bà Sa-ma-ri lấy làm ngạc nhiên và trả lời một cách mỉa mai “Ủa kìa?” vì Chúa là người Do Thái, mà lại hỏi han một người Samari, và nhất là với một người đàn bà chỗ vắng vẻ nữa; Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri. (The reason was because Jesus was a Jewish man, talking to a Samaritan, for the Jews did not associate with Samaritans, and also Jesus was talking to a woman privately at the public place and that was a “taboo” as the custom at that time.)
3) Trong lúc xin nước uống thì Chúa Giê-xu giới thiệu và hứa ban cho bà điều gì? (In asking for water to drink, what did Jesus offer the Samaritan woman?)
# “10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: "Hãy cho ta uống" là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước hằng sống.” (“Jesus answered her, “If you knew the gift of God and who it is that asks you for a drink, you would have asked him and he would have given you living water.”)
> Chúa thay đổi từ nước thể chất là nước giếng, nhưng nói đến nước hằng sống, là loại nước sẽ làm thỏa mãn tâm linh của bà trọn vẹn cho đến cõi đời đời. (Jesus changed from the physical water for the body to the living water for the soul, that will completely satisfy all her needs.)
> Chúa Giê-xu không màng đến sự hạch hỏi của bà, nhưng lại bắt lấy cơ hội tốt, lấy điều cụ thể của nước giếng, để giới thiệu đến nước hằng sống, là điều thuộc linh sẽ làm thỏa mãn phần tâm linh bên trong của bà trọn vẹn.
# Nhưng người đàn bà này nói: “Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy? 12 Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao?” (But the woman answered and said - “Sir,” the woman said, “you have nothing to draw with and the well is deep. Where can you get this living water? 12 Are you greater than our father Jacob, who gave us the well and drank from it himself, as did also his sons and his livestock?”)
> Người phụ nữ này có hiểu về nước hằng sống Chúa hứa ban cho không? (Did the woman understand the living water that Jesus offered?)
# Giống như bao nhiêu người khác, người phụ nữ này chỉ suy luận theo những điều vật chất thôi, và không hiểu được ý nghĩa thuộc linh của chữ “nước hằng sống.” (Just liked everyone else, this woman could only reason in the physical senses, and did not understand the spiritual meaning of the living water.)
> Vả lại theo sự suy luận tự nhiên thì bà nghĩ người đàn ông này nói cho mình nước uống nhưng lại không có gáo chi hết để múc, thì làm sao người này có nước sống ở đâu để cho bà? (She reasoned with Jesus that He offered her the living water, but He himself did not have anything to draw the water from the deep well – how was it possible?)
> Mà có nước sống cho bà đi nữa thì bà thắc mắc, không biết nước ấy có tốt hơn là nước giếng này mà tổ phụ của bà là Giacốp đã ban cho con cháu của mình qua biết bao nhiêu đời rồi? (Even if He could, she continued questioning if that living water would be better than this well water that was given by her ancestor Jacob through many generations?)
# Cũng giống như là một người homeless nghèo rớt mùng tơi đến nói với bạn là người đó sẽ cho bạn một đời sống xung túc giàu có thì bạn nghĩ sao? (Would you believe a homeless person comes and offers you prosperity?)
# Chúa Giêsu cố gắng giải thích thêm để người phụ nữ này hiểu, nên Ngài phán: “Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; 14 nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời.” (Jesus again tried to explain to her that this kind of water is different from the well water; it would eventually produce in her the eternal life, and she would never thirst again.)
> Chúa Giê-xu giải thích nước hằng sống này không phải cho sự sống thuộc thể, nhưng sự sống thuộc linh đời đời, không phải cho thân thể này, nhưng cho phần linh hồn; Loại nước còn có tác dụng lạ lùng hơn nữa, vì ai uống chỉ một lần thôi thì sẽ thỏa mãn hoàn toàn và không còn khát nữa; còn hơn nữa nước ấy sẽ dẫn bà đến sự sống vĩnh cửu. (Jesus explained to her this is a different kind of water, not for this temporary and physical life, but the eternal life; not for the body, but for the soul.)
> Trong lúc Chúa muốn đưa bà lên cao, để có thể thấy nhu cầu thuộc linh cho linh hồn, bà vẫn trì Chúa xuống những điều vật chất, trước mặt. Bà vẫn không hiểu được ý nghĩa thuộc linh mà Ngài muốn nói đến, và “Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa.” (Did the woman understand even at this point? No. She still understood only of the physical water, so she asked Jesus – “Sir, give me this water so that I won’t get thirsty and have to keep coming here to draw water.”)
4) Vì bà không hiểu, Chúa Giê-xu phải trở về với một vấn đề của nguồn gốc/cội rễ gây ra sự khát thuộc linh cho bà hiểu, thì bà mới thấy cần nước hằng sống. (Jesus then had to go back to the root cause of the spiritual thirst to help the woman saw the need for the living water.)
> Nên Chúa mới hỏi bà – “Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. 17 Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; 18 vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.” (Because she did not understand, Jesus patiently asked her – “Go, call your husband and come back.” 17 “I have no husband,” she replied. Jesus said to her, “You are right when you say you have no husband. 18 The fact is, you have had five husbands, and the man you now have is not your husband. What you have just said is quite true.”)
> Tại sao Chúa lại nhắc đến đời tư tồi tệ của bà để làm gì, vì bà đã “thay chồng đổi vợ” đến 5 lần rồi, và người đàn ông đang sống vời bà chỉ là một kẻ tình nhân? (Why did Jesus have to expose her present and immoral life of already 5 different husbands and her current lover?)
> Đây là một nếp sống xấu xa, tội lỗi, trái luật pháp, một sự thèm khát của tư dục mà bà không thỏa mãn được, cứ phải giao du hết người này đến người kia. (Jesus helped her to see herself that she was living an unsatisfied lifestyle, an inner thirst that nothing could quench, a life without true peace.)
> Có lẽ vì sự xấu hổ này mà người đàn bà Samari đã muốn tránh xa dư luận, vì vậy trong câu 6 cho biết, bà đến múc nước một mình giữa trưa hè nóng bức, là lúc ít người làm việc này? Thông thường, người ta chỉ đi múc nước vào buổi sáng hay chiều khi trời mát; Chỉ có những người bị xã hội khinh bỉ, chê bai, ruồng bỏ mới phải đi múc nước giữa trưa nắng để tránh người khác. (Because of this inner guilt, the spiritual thirst of un-satisfactory, she tried to avoid the crowd, the accusations, that was why she came out to draw water at noon time.)
> Một người sẽ không thể hiểu được nhu cầu của nước hằng sống để được rỗi linh hồn dẫn đến sự sống đời đời, cho đến khi người đó trước hết nhận biết vấn đề tội lỗi là cội rễ làm c/ta có sự khao khát thuộc linh. (No one will ever understand the need of living water that leads to the eternal life, without first recognize the sin problem that causes the spiritual thirst hidden in all of us.)
> Một người phải ý thức tội lỗi gây nên sự khao khát thuộc linh trong lòng mình, mà không có gì làm thỏa mãn được, thì mới bắt đầu hiểu sự ban cho nước hằng sống của Chúa. (A person must recognize the problem of sins that cause a spiritual thirst that nothing can satisfy, in order to see the need of living water that Jesus offers.)
# Nếu một người nói mình được cứu rỗi, nhưng người đó chẳng biết tội lỗi là gì thì người đó thật sự chưa được cứu. (If a person says he is saved, but do not understand what sin is, then that person is not really saved.)
# Biết bao nhiêu người đi nhà thờ thường xuyên, nhưng vẫn chưa được cứu, vì còn kiêu ngạo, chưa bao giờ ăn năn tội của mình và xin Chúa ban cho mình nước hằng sống. (Many people often go to churches in America, but they are not truly saved, because they never first repent of their sins.)
> Nếu c/ta chỉ giảng dạy những điều ngọt ngào, mà chưa gỉai thích rõ nan đề tội lỗi, để cần Chúa Giê-xu cứu thì c/ta chưa là trọn trách nhiệm của người giảng đạo Tin-lành, vì Chúa Giê-xu đến thế gian không phải để cứu những người hoàn hảo, luôn ăn hiền ở lành, làm bao nhiêu việc thiện, nhưng để cứu mọi kẻ tội nhân. (If we preach and teach the words to bring only the sweetness to the ears, and not to mention of sin and its judgment, then we are not doing our jobs, because Jesus did not come to this world to call the righteous, but to save sinners.)
> Tội lỗi là gì? (What is the definition of sin?)
# Tội lỗi là sự phạm nghịch điều răn của Chúa và hậu quả là sự cắt đứt, phân rẽ khỏi mối liên hệ với ĐCT. (One of the definitions of sin is breaking the laws of God, resulting in a separation from Himself.)
# Trong STK 3, câu chuyện Ađam & Êva phạm tội ăn trái cấm trong vườn sự sống, thì ngay sau đó họ bị đuổi ra khỏi vườn và từ đó kinh nghiệm sự khao khát thuộc linh, vì đã đánh mất mối liên hệ với Đấng Sáng Tạo nên mình. (In Genesis 3, after Adam & Eve sinned, they were banished from the garden; Human race begun to experience the spiritual thirst, because they lost the relationship with their Creator.)
> Ban đầu ĐCT dựng loài người nên không ngoài mục đích để con người có mối thông công với Chúa mãi mãi, nhưng mối liên hệ này đã bị tội lỗi cắt đứt, mà không có điều gì trên đời này có thể hàn gắn lại được, cho đến khi Chúa Giê-xu đến và Ngài hứa ban cho nước hằng sống. (In the beginning, God created human race with an eternal purpose that we can relate and enjoy God forever; but sin broke this relationship that nothing can fix it, until Jesus came and offered the living water.)
# Biết bao nhiêu người đang sống giống như người phụ nữ Samari này tìm cách để lấp đầy những khoãng trống, bằng những điều như là tình dục, thuốc phiện, những lạc thú, rượu mạnh, kể cả việc làm tu thân tĩnh tâm, nhưng cũng không được đã khát, mà hình như còn thèm khát nhiều hơn nữa, đến 5 đời chồng rồi mà vẫn chưa thỏa lòng, nhưng chỉ có nước hằng sống mà thôi. (So many people today are living a lifestyle just as the Samaritan woman; they tried all kinds of stuffs: drugs, illicit sex, pleasures, strong drinks, even self meditations, but nothing can satify the deep and spiritual thrist, a heart with a big hole of emptiness, only the living water that Jesus offers.)
> Chúa Giê-xu muốn giúp cho người phụ nữ Samari này nhận biết sự thèm khát thuộc linh gây ra bởi tội lỗi xấu xa, mà nước giếng không thể làm bà đã khát được; Chúa Giê-xu muốn giúp bà hiểu con người có những nhu cầu thầm kín mà những điều vật chất, như phương tiện sẽ không thể nào làm thỏa mãn được, nhưng bà cần có nước hằng sống. (Jesus tried to help this woman to recognize her spiritual thrist causing by her sins that nothing can quench, until she received the living water.)
# Linh hồn chúng ta có một sự trống rỗng, một hố sâu thẳm. Trong trái tim của mỗi c/ta có một lỗ hổng lớn mà không có gì lấp đầy, làm thỏa khát được, ngoại trừ nước hằng sống Chúa Giê-xu hứa ban cho. (Inside our heart, there is a big empty hole that nothing can fill, a thirst that nothing can satisy until we meet Jesus Who promises to give us the living water.)
# C/ta đã được dựng nên giống hình ảnh của Chúa từ lúc ban đầu, không có gì có thể thỏa mãn tâm linh của c/ta; chỉ chính Chúa mà thôi. (We are all wired with God because we were created in His own image. Only God can satisfy our soul!)
5) Có thể nhưng tôn giáo thỏa mãn và dẫn người phụ nữ này đến mối liên hệ với Chúa được không? (Would any religion satisfy her soul?)
> Sau khi Chúa cho bà nhận biết tội lỗi của mình là nguyên cớ dẫn đến sự thèm khát mà những thứ vật chất, kể cả nước giếng cũng không thể đáp ứng được thì bà liền làm gì? (After further explanation, the woman appeared to recognize Jesus was a prophet, knowing the details of her sinful life, but she still distracted with her excuse about her own religion.)
> Bà đổi đề tài, đánh trống lảng, và nói đến tôn giáo: “Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem.” (She changed the subject to the matter of her religion that would cover up her thirst and not needing the living water? “Our ancestors worshiped on this mountain, but you Jews claim that the place where we must worship is in Jerusalem.”)
# Ðây cũng là thái độ của rất nhiều người khi được làm chứng đạo, họ bắt đầu đưa ra vấn đề tôn giáo – “Đạo nào cũng tốt?” để gían tiếp từ chối nước hằng sống là Cứu Chúa Giê-xu. (This is a common thinking of many saying that all religions are good, to indirectly reject Jesus?)
> Nhưng Chúa không trả lời, không để bà đưa vào sự cãi cọ vô ích của tôn giáo. Chúa khẳng định với bà hãy tin vào chính Ngài, và nhắc bà chương trình cứu rỗi của Chúa phải đến bởi người Guiđa, và rồi bà sẽ được đến tương giao trực tiếp với Chúa qua sự thờ lạy, bằng tâm thần là con người thật bên trong của mình, và lẽ thật là con đường cứu chuộc duy nhất Chúa ban cho qua người Do Thái, chứ không còn tôn giáo nữa – “Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin Ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. 22 Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. 23 Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24 Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.” (But Jesus did not get distracted; He clarified for her that the relationship with God through worship cannot be limited by man-made religions, by geographic locations, but by her inner being that has no boundaries, and by the absolute truth of God’s way of salvation through the Jewish nation – “Woman,” Jesus replied, “believe me, a time is coming when you will worship the Father neither on this mountain nor in Jerusalem. 22 You Samaritans worship what you do not know; we worship what we do know, for salvation is from the Jews. 23 Yet a time is coming and has now come when the true worshipers will worship the Father in the Spirit and in truth, for they are the kind of worshipers the Father seeks. 24 God is spirit, and his worshipers must worship in the Spirit and in truth.”)
> Thờ phượng Chúa bằng tâm thần và lẽ thật tức là thờ phượng bằng cả trái tim chân thành, không bề ngoài, và bằng trí óc, nghĩa là sự hiểu biết chân lý, không phải bạ ai cũng thờ, bạ ai cũng lạy một cách mù quáng, nhưng nhận biết Đấng Chân Thần. Thờ phượng bằng tâm thần nhưng thiếu lẽ thật là cuồng tín, cuối cùng chỉ làm hại cho chính mình và người khác. Thờ phượng bằng lẽ thật nhưng thiếu tâm thần chỉ là bề ngoài che đậy mà thôi.
> Nói đến đây người đàn bà Samari nhận biết sự cứu rỗi đến từ Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ, Đấng được xức dầu, được chọn); khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.” (At least a good thing was that she recognized a Messiah will come one day to satisfy all of these – “The woman said, “I know that Messiah” (called Christ) “is coming. When he comes, he will explain everything to us.”)
> Đức Chúa Jêsus bèn khẳng định cho bà biết: “Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó.” (Jesus proclaimed that He was the Messaih that will meet all her needs – “Then Jesus declared, “I, the one speaking to you—I am He.”)
> Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành, nói với những người tại đó rằng: “Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Đấng Christ sao? 30 Chúng bèn từ trong thành ra và đến cùng Đức Chúa Jêsus.” (The Samaritan woman finally understood Jesus was the Messiah, the One has the living water that can satisfy her soul, and will make her thirst no more; with this excitement she could not wait to go back to her town and told everyone about the “God anointed One,” so others can know Him too.)
------------------------
> Bạn uống nước hằng sống chưa? (Have you drunk the Living Water?)
> Linh hồn bạn đang có sự thỏa mãn trọn vẹn chưa? (Is your soul satisfied?)
> Bạn còn khao khát gì không, mà bạn đã thử mọi điều, kể cả tôn giáo và tu tỉnh, nhưng không điều gì có thể làm tâm hồn bạn thỏa mãn được? (Are you still thirsty that there is nothing can satisfy your soul thrist?)
> Mong bạn nghe tiếng Chúa Giê-xu mời gọi và muốn ban cho bạn nước hằng sống. (May you hear Jesus’ offer of the living water and be willing to come to Him!)
> Chúa Giê-xu sẽ làm bạn thỏa mãn mọi sự mà bạn sẽ không còn khát nữa. (Jesus will satisfy your soul and you will never be thirsty again.)
> Chúa Giê-xu sẽ rửa sạch mọi tội lỗi của bạn và ban cho bạn sự bình an, vui mừng và hy vọng của sự sống đời đời, y như Ngài đã hứa ban cho người phụ nữ Samari cô đơn. (Jesus will wash all your sins and give you the true peace, joy, and the hope of the eternal life, just as He gave it to the lonely Samaritan woman.)
> Bạn chỉ cần đến và tiếp nhận Chúa vào lòng ngay hôm nay. (You just need to come and receive Christ as your Lord and Savior today.)
-------------- Lời Mời Gọi
> Con người không phải là những con vật; c/ta có phần linh hồn.
> Cũng như các phần khác, linh hồn cũng có nhu cầu tâm linh của nó; đó là những khoãng trống rỗng, bất an, lo sợ mà không có gì có thể lấp đầy nhu cầu này được.
> Biết bao nhiêu đã dùng mọi cách khác nhau để xoa dịu lấp đầy những lỗ hổng tâm linh này, nhưng mọi sự đều chỉ là tạm thời và vô ích.
# Sau cơn say thì sự bất an lại tràn đầy.
# Sau những thú vui chóng qua, thì phần tâm linh lại càng thấy trống vắng, ưu phiền lại.
> Con người chỉ có thể tìm được sự thỏa lòng, bình an ở chính nơi Đấng Sáng Tạo nên nó.
> Nhưng Đấng Tạo Hóa quá vĩ đại thì thể nào con người tìm đến hay đụng đến được để có sự bình an của tâm hồn đây?
> Chúa là Đấng Quyền Năng, Ngài biết sự giới hạn của con người nên đã sai Đấng Mêsi, Con một của ĐCT, đến thế gian để ban cho c/ta lại sự bình an của tâm hồn.
> Đấng Mêsi ấy chính là Cứu Chúa Giê-xu sanh ra từ dân tộc người Do Thái mà đã được sửa soạn từ trước biết bao nhiêu đời.
> Ngài đã đến chết trên cây thập tự và dùng chính huyết của mình để chuộc mọi tội của những kẻ tin, và rồi còn ban lại cho c/ta mối liên hệ đời đời với Đấng Sáng Tạo, mà tôn giáo không thể làm được.
> Chính Chúa Giê-xu là nước hằng sống, mà ai chịu uống, nghĩa là tiếp nhận vào trong lòng mình bởi đức tin thì người đó sẽ không hề khát nữa.
> Bạn có muốn đã khát không? Hãy uống lấy nước hằng sống ngay hôm nay, bằng cách ăn năn tội và mở lòng mình tiếp nhận Cứu Chúa Giê-xu.
> Cũng như thân thể, nếu không uống nước thì sẽ chết một ngày; cũng vậy, linh hồn nào không uống nước hằng sống cũng sẽ chết một ngày trong hồ lửa địa ngục; nhưng ai chịu uống nước hằng sống thì Chúa Giê-xu hứa trong người đó sẽ có sự sống đời đời.
> Mong bạn bằng lòng uống nước hằng sống ngay giờ phút này, khi bạn còn có cơ hội của ngày hôm nay. Ngày mai chưa chắc bạn còn có cơ hội nữa.
Are You Satisfied?
(John 4:1-30)
Human has many and countless needs. Five basic needs are: Food to eat, air to breathe, clothes to wear, house to live in, and of course water to drink. But there is a hidden and spiritual need that we cannot see. This need is very important because it determines our eternity. What is it and Who can satisfy it? The conversation between Jesus and a Samaritan woman will help to answer this important question for us.
About 700 years before Jesus’ time, the Northern Israel was fallen into the hands of Assyrians; Many Jews were exiled away from their land; at the same time, some of the Assyrians came and lived in Samaria. Some of the Jews left in the land inter-married with the Assyrians and became a mixed generation. As a result, the Jews looked down on the Samaritans and did not want anything to do with them. But Jesus did not avoid Samaria; He removed all separations of races, traditions, and ranks, because He knew there were people who needed to hear the Gospel in this city. About noon time, Jesus came and sat next to a well and met a Samaritan woman there. Why did Jesus ask the woman for a drink of water? Because Jesus was wearied and thirsty. Jesus is God in a human form, so He was thirsty and needed water to drink water just liked us. Why did the woman surprise when Jesus asked for a drink of water? The reason was because Jesus was a Jewish man, talking to a Samaritan, for the Jews did not associate with Samaritans, and also Jesus was talking with a woman privately at the public place for that was a “taboo” during the custom of that time.
In asking for water to drink, what did Jesus offer the Samaritan woman? Jesus changed from the physical water for the body to the living water for the soul that will completely satisfy all her needs. But the woman questioned about the living water when Jesus had nothing to draw the water and if that living water would be better than this well water that was given by her ancestor Jacob through many generations? Jesus again tried to explain to her that this kind of water is different from the well water; it would eventually produce in her the eternal life and she would never thirst again. Did the woman understand at this point? No. Jesus then had to go back to the root cause of the spiritual thirst to help the woman saw the need for the living water. Jesus patiently asked the woman about her husband and turned out that she already had five husbands, and the man she now lived with was not her husband. Why did Jesus have to expose her immoral life? Jesus helped her to see herself that she was living an unsatisfied lifestyle, an inner thirst that nothing could quench, a life without true peace. No one will ever understand the need of living water that leads to the eternal life, without first recognize his sin problem that causes the spiritual thirst hidden in all of us. Jesus tried to help this woman to recognize her spiritual thirst causing by her sins that nothing can quench, until she received the living water. We are all wired with God because we were created in His own image. Only God can satisfy our soul! After further explanation, the woman appeared to recognize Jesus was a prophet, knowing the details of her sinful life, but she was still distracted with an excuse about her own religion and not needing the living water. But Jesus did not get distracted; He clarified for her that the relationship with God through worship cannot be limited by man-made religions, by geographic locations, but by her inner being that has no boundaries, and by the absolute truth of God’s way of salvation through the Jewish nation. At least a good thing was that she recognized a Messiah will come one day to satisfy all of these. Jesus proclaimed that He was the Messiah Who will meet all her needs. The Samaritan woman finally understood Jesus was the Messiah; the One has the living water that can satisfy her soul, and will make her thirst no more. With this excitement she could not wait to go back to her town and told everyone about the “God anointed One,” so others can know Him too.
Is your soul satisfied? Are you still thirsty because there is nothing can satisfy this thirst? May you hear Jesus’ offer of the living water and be willing to come to Him! Jesus will satisfy your soul and you will never be thirsty again. Jesus will wash all your sins and give you the true peace, joy, and the hope of the eternal life, just as He gave it to the lonely Samaritan woman. You just need to come and receive Christ as your Lord and Savior today.