1 Timôthê 5:8
(Men of God)
“Ví bằng có ai không săn sóc đến bà con mình, nhất là không săn sóc đến người nhà mình, ấy là người chối bỏ đức tin, lại xấu hơn người không tin nữa.”
(Anyone who does not provide for their relatives, and especially for their own household, has denied the faith and is worse than an unbeliever.)
> Một trong những phong tục hay của người Hoakỳ, đó là mỗi năm họ thường để dành riêng ra hai ngày lễ… để nhớ đến công ơn cha mẹ. Vào Chúa Nhật của tuần lễ thứ hai trong tháng Năm, lúc nào chúng ta cũng có ngày lễ Từ Mẫu (Lễ Mẹ), còn vào Chúa Nhật của tuần lễ thứ ba trong tháng Sáu thì có ngày lễ Từ Phụ (lễ Cha). (One of the honorable traditions we have in America is about the Mother Day on the second Sunday of May, and Father Day on the third Sunday of June.)
# Lễ Mẹ thì lúc nào cũng là một ngày tưng bừng, nhộn nhịp, con cái ở khắp nơi xa thường trở về xum họp với gia đình, đem theo quà cáp/bông hoa tặng mẹ; Nhưng khi đến ngày lễ Cha thì thường rất là đơn sơ, có thể chỉ có một bữa cơm ngon miệng trong gia đình hay trong Hội Thánh là xong ngay. (On Mother Day, it seems to always be a big celebration, when children coming home with gifts and flowers to give to their moms, but there is not much going on the Father day – may be just a simple meal in the family or at church.)
> Dù sao đi nữa, c/ta cũng nên có ngày lễ Father day, là để dành sự vinh dự cho những người cha, đã cùng với những người mẹ bỏ công sức, nuôi nấng c/ta được nên người cho đến ngày hôm nay; Còn cho những ai có cha đã qua đời, ngày lễ này cũng là cơ hội tốt, để c/ta tưởng nhớ đến cha mình, những tấm gương đẹp, những kỷ niệm hay của người, để chúng ta sống bắt chước làm theo. (Even though, we should celebrate Father’s day… to give honor to dads - who sacrifice their life… in rearing and caring for us.)
> Sáng nay, nhân ngày lễ của các người cha, tôi muốn nhắc đến 3 đặc tánh tốt, không chỉ cho những người cha cơ đốc mà thôi, nhưng cho những người nam của Đức Chúa Trời nói chung, dù là chưa có con hay đã được làm cha rồi. (This morning, I want to share with you 3 special charaters, not just for fathers, but also for all the men of God.)
> Đương nhiên đây không có nghĩa là hết thảy những người nam nào cũng toàn hảo trong 3 điều này rồi, nhưng đây là những mục tiêu tốt, để c/ta là những người nam của Đức Chúa Trời có thể đeo đuổi, gặt hái, mà đem đến ích lợi và hạnh phúc cho những người khác. (Of course, no man has achieved all the perfect scores on these characters, but they are good goals for us to pursue after.)
1) Thứ nhất, người cha, hay người nam của Đức Chúa Trời phải là người có trách nhiệm cao. (The first important character of the men of God is being a responsible person.)
> Bạn có thể nào tưởng tượng một quốc gia, một xã hội mà toàn là những người nam vô trách nhiệm hay làm biếng, chỉ biết say sưa, chè chén, vui chơi, cờ bạc mỗi ngày mà thôi, bỏ bê công việc nhà… thì những chuyện gì sẽ xảy ra? (Can you image a society full of ir-resposible men, then what would happen to the families in that society?)
a) Chắc chắn sẽ là một xã hội rất là nghèo đói; (For sure, that society will be poor, and poverty rules many families in that society.)
# Sách Truyền Đạo 10:18 dạy - “Do lười biếng, tay buông xuôi, mà nhà dột, cột xiêu.” (Proverbs 10:18 said – “Through laziness, the rafters sag; because of idle hands, the house (roof) leaks.”)
# Châm-ngôn 28:19 – “Kẻ nào cày ruộng mình sẽ (được) ăn bánh no nê; Còn ai theo kẻ biếng nhác sẽ (bị) đầy sự nghèo khổ.” (Also, in Proverbs 28:19 said – “Those who work, their land will have abundant food, but those who chase fantasies will have their fill of poverty.”)
b) Một xã hội có nhiều người nam vô trách nhiệm là một chỗ phóng túng, hư hỏng và đầy tội ác; bởi vì thì giờ rảnh rỗi thì dễ là cơ hội cho nhiều người hay làm những chuyện bậy bạ, vì bản tánh con người xác thịt của c/ta là xấu xa. (A society full of lazy men will easily yield depravity & crimes; because too much spared time can become opportunities for many people to commit wrongdoings.)
> Nhưng c/ta là những người nam thuộc của Chúa thì không sống giống như vậy được, nhưng phải có trách nhiệm. Như vậy một người nam có trách nhiệm nghĩa là sao? (But we are men belong to God; we cannot behave liked that – so how does a real and responsible man live?)
a) Trong Ga-la-ti 6:5 Phaolô dạy yếu tố căn bản thứ nhất của một người có trách nhiệm là – “Vì ai sẽ gánh lấy riêng phần nấy.” (Paul taught in Galatians 6:5 about the basic principle of a responsible man should “carry his own load.”)
> Người có trách nhiệm cá nhân thì tự biết lo cho mình, mang những gánh nặng riêng của mình, chứ không có lợi dụng mà đổ thừa ách của mình cho người khác gánh. (A responsible man knows how to take care himself, and not takes others for granted by passing his burdens to them.)
# Ăn xong thì tự rửa chén dĩa của mình đi, ngồi xong đứng dậy thì tự xếp ghế mình lại, mà không phải nhờ vả một ai hết. (After eating he washes his own dishes, put up his own chair. If he makes a mess, he cleans his own mess up.)
# Không có xả rác dơ dáy như ở bên Việt Nam, vì biết sẽ phải có một người khác lượm cái rác của mình, chứ nó đâu có tự biến mất đâu. (A responsible man would not throw trash everywhere, knowing that someone has to pick them up.)
# Mình là người cuối cùng ra khỏi phòng là tự động tắt đèn, tắt máy lạnh, đóng cửa, vì hiểu nếu là nhà của mình mà để đèn sáng như vậy, sẽ tốn điện và phải trả tiền điện mỗi tháng nhiều hơn. (If he is the last person leaving the room, he will turn the light off, turn off the A/C; because if this is his house, he knows he has to pay a high electric bill.)
> If he borrows a tool from a neighbor, he would return it the same shape and not with broken parts. (Nếu có mượn đồ đạc của ai thứ gì thì trả lại còn tốt y nguyên như cũ, chứ không có làm hư hại mà rồi chẳng nói tiếng nào.)
# Người sống có trách nhiệm cũng là một người quản lý thì giờ và tài chánh giỏi, tiêu xài kỹ càng, để khỏi vay mượn một ai, mà làm kẻ tôi tớ cho người khác; để rồi người ta bắt buộc mình phải làm Chúa Nhật để trả nợ thì phải làm thôi, mà bỏ sự nhóm lại. (A responsible man should manage his time and financial well, so that he doesn’t have to borrow anyone; so that he can be free to worship God on Sunday, instead of being forced to skip church, working extra to pay off his loan.)
> Một người cơ đốc sống phải có trách nhiệm; còn hơn nữa, một người nam cơ đốc sống phải có trách nhiệm cao hơn, từ những việc nhỏ cho đến những trách nhiệm, chức vụ riêng của mình có.
b) Không phải chỉ lo cho chính mình mà thôi, người nam của Đức Chúa Trời có trách nhiệm cao… còn lo cho nhu cầu của những người khác nữa, bắt đầu từ trong gia đình của mình, đến Hội Thánh, và tới xã hội. (Not just being responsible for himself, a man of God is thoughtful in meeting other people needs.)
# Trong Ga-la-ti 6:2 Phaolô dậy dỗ thêm yếu tố của người có trách nhiệm cao là – “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau...” (Paul taught more in Galatians 6:2 about a responsible men would “carry each other’s burdens, and in this way he will fulfill the law of Christ.”)
> Hồi xưa chưa tin Chúa thì c/ta chỉ biết sống ích kỷ, cho “cái tôi” của mình mà thôi, nhưng bây giờ “sống trong đời mới,” mà vài anh chị em của c/ta sẽ nhận lễ Báptêm để làm chứng điều này… thì bây giờ sống cho những người khác. (His old life used to live for himself only, but now he is living a new life in Christ, demonstrated through baptism - focusing on others and their needs.)
> Và “người khác” gần nhất chính là những người trong gia đình của mình. (And the closest “others” are his family.)
# Là người nam, người cha trong gia đình thì c/ta phải chu toàn trách nhiệm “chịu khó nhọc... sẵn sàng làm việc đổ mồ hôi trán mới có mà ăn,” thức khuya dậy sớm, để lo cho gia đình mình được đầy đủ, không thiếu thốn gì. (As a man in the family, he should be willing to work hard through painful toils, by the sweat of his brow… to provide all basic needs for his family.)
# Trong 1 Timôthê 5:8 Phaolô dạy dỗ vị Mục sư trẻ Timôthê yếu tố này – “Ví bằng có ai không săn sóc đến bà con mình, nhất là không săn sóc đến người nhà mình, ấy là người chối bỏ đức tin, lại xấu hơn người không tin nữa.” (Paul taught in 1 Timothy 5:8 – “Anyone who does not provide for their relatives, and especially for their own household, has denied the faith and is worse than an unbeliever.”)
> Hình như câu Kinh thánh này nếu nghĩ ngược lại, còn dậy c/ta là người cơ đốc thì còn phải biết chăm sóc gia đình mình tốt hơn những người ngoại nữa, để làm chứng niềm tin mình có trong Chúa? (In reversed sense, this Scripture seems to teach that as Christians and men of God - we should strive to care for our relatives, our families, our loved ones even more than the people in the world, because it is the proof of our faith in God?)
> Là người nam khỏe mạnh, “đô con” trong gia đình, c/ta phải hy sinh chuyên lo việc “trám những ổ gà, lỗ trống,” nghĩa là đáp ứng mọi nhu cầu, nhất là những công việc nặng nhọc, từ việc cắt cỏ, rửa xe, sửa máy lạnh hư, nhà bị dột, ống cống nghẹt… để mọi người trong gia đình được sống bình an, vui vẻ, thoả lòng, và hạnh phúc. (A man in the family should not hesitate to take care all heavy labor works… from cutting grass, fixing broken things, so that everyone in the family can enjoy a comfortable life.)
# Cái ghế salon và máy HDTV là 2 thứ mà người nam có trách nhiệm phải sử dụng ít nhất, cho đến khi nào mọi công việc trong gia đình mình được chu toàn tốt đẹp? (The sofa and HDTV should be the last two things men of God use the least, until all works in the family get done first... adding the boat?)
# Mỗi người nam c/ta phải tự hỏi, tinh thần trách nhiệm của tôi đối với mọi người cao đến mức nào rồi? Chúa Giê-su có đang thỏa lòng không? Có khu vực nào mình cần điều chỉnh và chu toàn trách nhiệm của mình tốt hơn không cho Chúa? (So, how do men of God in VHBC – how is our attitude about responsibility? Is there an area that we need to improve?)
2) Đặc tánh thứ hai, người cha, hay người nam của Đức Chúa Trời phải là một người lãnh đạo giỏi. (The second character about men of God is that they must be good leaders.)
> Ngày xưa, từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời trước tiên dựng nên người nam là Ađam, và sau đó thì dựng nên người nữ là Êva, với vai trò làm kẻ “giúp đỡ” cho Ađam, có chép trong Sáng Thế Ký 2:18 – (Lúc ban đầu, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.” Đó là bà Êva. (In the beginning, the Lord God said, “It is not good for the man to be alone. I will make a helper suitable for him.” That was Eve)
> Nếu Êva là kẻ giúp đỡ, như vậy vai trò của Ađam phải là người lãnh đạo. (If Eve was a helper then that makes Adam should be the leader in his home.)
> Vì Ađam đã không làm trọn vai trò này mà dòng dõi loài người đã mang lấy ách tội lỗi; Thử hỏi khi con rắn là quỉ satan trong vườn cám dỗ Êva thì Ađam ở đâu? Tại sao ông không đứng bên cạnh lãnh đạo, bảo vệ, hướng dẫn Êva chống cự lại với con rắn, mà lại đi nghe theo lời vợ ăn trái cấm? (Because Adam didn’t do his leadership job to protect, to rebuke Eve, but allowing satan to tempt them, and now we are all ended up here on this fallen world.)
> Cuộc sống ngày hôm nay vẫn còn nhiều những thiếu xót, những lỗ hổng, ổ gà, nhiều nan đề… và một trong những lý do là bởi vì những người nam, những người chồng, những người cha cơ đốc chưa chịu đứng ra làm trọn vai trò lãnh đạo của mình; Chúng ta hay đổ thừa cho hoàn cảnh, c/ta hay “passé” qua cho ban phụ nữ, chúng ta giống như Ađam ngày xưa đổ thừa là vì “người nữ” mà Chúa ban cho tôi, chứ đâu phải lỗi của tôi? (Life is still full of “pot holes” & troubles… and I believe that one of the reasons is because godly men, godly fathers, godly husbands haven’t taken serious about their godly leadership role.)
a) Người lãnh đạo giỏi thì phải biết rõ mình, gia đình và Hội Thánh sẽ phải làm gì, hướng đi về đâu. (A leader must know where his family and his church is heading, what road must we take to be prosper, enjoy peace, and safety.)
> Nếu là lành đạo mà không biết mình đi đâu, không có một khải tượng nào hết, thì những người theo sau mình sẽ ra sao đây? Như vậy làm sao người lãnh đạo biết hướng đi đúng của mình, có khải tượng gì cho gia đình hay Hội Thánh mình? (How can a leader know where to go? What to do?)
# Người đó phải gần gũi, có mối liên hệ và thường xuyên hỏi ý Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện. (The man must be near to God and often inquire Him through prayer for a clear direction.)
> Một trong những người lãnh đạo giỏi trong Kinh Thánh vì hay làm điều này đó là Đavít. (One of that great leaders in the Bible was David… who often did this.)
> Chuyện nhỏ, chuyện lớn, chuyện gì đi nữa… Đavít luôn hỏi ý Chúa trước, vì biết Ngài là Đấng nắm giữ tương lai mình. (In every life issues, David brought to God first… for a direction.)
# Một thí dụ cho thấy trong 2 Samuên 5 có chép khi dân Philítin đến gây chiến với dân sự Chúa thì Đavít làm gì? “Ða-vít cầu hỏi ý Chúa, “Con có nên đi lên đương đầu với quân Phi-li-tin không? Ngài sẽ phó quân Phi-li-tin vào tay con không?” Chúa trả lời ông, “Ngươi hãy đi lên. Ta chắc chắn sẽ trao quân Phi-li-tin vào tay ngươi.” 20 Vậy Ða-vít đến một nơi gọi là Ba-anh Pê-ra-xim, và Ða-vít đánh chúng đại bại tại đó… 22 Sau đó quân Phi-li-tin tái phối trí và kéo lên một lần nữa. Chúng bủa ra khắp thung lũng Rê-pha-im. 23 Ða-vít cầu hỏi ý Chúa và Ngài phán, “Ngươi chớ đi lên đối đầu với chúng, nhưng hãy đi vòng ra phía sau và đánh bọc hậu chúng… 25 Ða-vít làm y như lời Chúa đã truyền cho ông. Ông đánh đuổi quân Phi-li-tin chạy về xứ của họ, từ Ghê-ba cho đến Ghê-xe.” (One example was in 2 Samuên 5, when the Philistines tried to attack God’s people – what did David do first? “When the Philistines heard that David had been anointed king over Israel, they went up in full force to search for him… 19 so David inquired of the Lord, “Shall I go and attack the Philistines? Will you deliver them into my hands?” The Lord answered him, “Go, for I will surely deliver the Philistines into your hands.” 20 So David went to Baal Perazim, and there he defeated them… 22 Once more the Philistines came up and spread out in the Valley of Rephaim; 23 so David inquired of the Lord, and he answered, “Do not go straight up, but circle around behind them and attack them in front of the poplar trees… 25 So David did as the Lord commanded him, and he struck down the Philistines all the way from Gibeon to Gezer.”)
> Đavít là người thiếu kém kinh nghiệm lãnh đạo quân sự, vì ông chỉ biết chăn chiên; Nhưng Đavít tin cậy vào quyền năng của Đức Giêhôva và hay đi cầu hỏi ý Chúa trước tiên, để biết mình phải làm chi, mà dẫn dắt dân sự Chúa cách an toàn. (David didn’t have any military skills; He was just a shepherd, but trusting fully in the Almighty God… by inquiring God’s will on what to do.)
> Là những người nam của Đức Chúa Trời - c/ta có thường xuyên cầu nguyện không? (So, men of God – are you praying often in everything, do you have an intimate relationship with Jesus?)
> Không phải sứ đồ Phaolô dạy phải “cầu nguyện không thôi” trong 1 Têsalônica 5:17 sao? (Didn’t Paul teach “Pray without ceasing.”)
> Người lãnh đạo giỏi thường có 2 đầu gối cứng; Nghĩa là những người tin cậy Chúa hoàn toàn trong mọi sự, tìm kiếm Ngài qua lời cầu nguyện không thôi. (A great leader usually has strong knees, this means he often kneels, prays and seeks God first… in all his life matters.)
# Chúa là người Cha nhơn từ, không bao giờ phiền lòng, cằn nhằn khi chúng ta đến than thở với Ngài trong lời cầu nguyện, vì Ngài không bao giờ ngủ, không bao giờ bận rộn, không bao giờ mệt mỏi… nhưng giàu lòng thương xót, luôn sẵn sàng giúp đỡ, hướng dẫn chúng ta. (God is a merciful Father - He is never too busy to hear us, He is never sleepy, not listening to our pleas, He is never too tired to help His children who are in troubles.)
# Kinh nghiệm được làm “ông nội,” khi cháu Audrey nắm ngón tay kéo tôi xuống sàn nhà chơi game hay tô màu, thì tôi luôn bỏ tất cả để tương giao với cháu nội của mình; Còn Chúa thì sao? (As a grandfather when my granddaughter Audrey pulls my hand and asks to play with, I would not say no. Would God do less?)
> Quí vị có biết những lý do tại sao thường cản trở c/ta tìm cầu ý Chúa trước không? (Do you know some of reasons that often prevent us seeking God in prayer?)
# Tự suy diễn - Chuyện nhỏ không muốn làm phiền Chúa? (Just a small thing – don’t bother God.)
# Chắc Chúa sẽ nói “NO?” thôi mình có thể tự làm được? (I know God will say “NO,” so why come to Him? Just wasting my time.)
# Nghi ngờ quyền năng Chúa có biết không? Ý Ngài có hay hơn không? (Could God understand my situation and help? I doubt it!)
# Cầu hỏi ý Chúa nhiều khi phải đợi mất thì giờ lắm? (I don’t want to wait; I want the answer now!)
> Nhưng nếu “Chúa là Đấng Quyền Năng” thì có gì khó cho Ngài không? Có nhu cầu gì Ngài không biết chăng? Nếu Chúa là Đấng chăn giữ tôi thì Chúa có giải đáp tốt nhất cho đời sống tôi? (But if God is Almighty and powerful, meaning there is nothing impossible for Him, and He is our Shepherd then why we don’t call on Him for help?)
> Tập một vài phút tìm cầu Chúa trước, sẽ giúp c/ta tránh biết bao nhiêu tai họa, thất bại & đau thương sau này, nhưng còn thành công trong sự việc của mình nữa. (Practice to seek God first in everything, wait for His answer and His timing, then we will not have to deal with headaches and pains, but gain prosperity.)
b) Đừng quên cách lãnh đạo hữu hiệu nhất là qua chính đời sống, cách ăn nết ở của mình; bởi vì người khác phải thấy thì họ mới bắt chước theo được. (The best way to lead is through our own life examples, because people must see to follow.)
> Trẻ em thích bắt chước, thấy sao thì làm giống vậy, nhất là bắt chước những người mẫu phái nam. (Children tend to imitate adults in what they see, not much in what they hear, especially copying men.)
# Thống kê cho thấy khi một người mẹ trong gia đình đến biết Chúa thì ảnh hưởng ~17% cơ hội cho những người trong gia đình còn lại cũng tin Chúa; nhưng khi người cha đến tin Chúa thì tỉ số là 93% cả gia đình sau này sẽ đến tin Chúa. (A survey shows – if a mother came to believe Christ, the % she affects her children is about 17% to make the same decision; but for a father came to know Christ, he makes about 93% impacts to his children to follow and do the same.)
# Con em của chúng ta có thấy những tấm gương cơ đốc (godly examples) trong chính đời sống của những người cha của c/nó không để bắt chước làm theo? Có thấy cha nó luôn thành thật, lương thiện không? (Do our children see godly examples in the men of God to imitate their words & conducts?)
# C/nó có thấy người cha rộng lượng hay giúp đỡ những người khác không? Có là “model” của “người Samari nhơn lành” không? Có yêu thương chìu mến mẹ của chúng nó không, hay là cứ khen bà này thì đẹp, cô kia thì xinh? Có làm gương của một đời sống trung tín trong sự thờ phượng, học Kinh Thánh và cầu nguyện không? (Do they see a “good Samaritan model” in the men of God, in loving their moms, caring for others’ needs, being faithful in worship & serving God?)
# C/nó thấy ba nó dạy sớm đi câu, nhưng cũng không bao giờ ngại dạy sớm đi nhà thờ đúng giờ không? (Do they see their fathers have no trouble of waking up early on Saturday to go fishing, and also have no trouble waking up on Sunday coming to church to worship God on time?)
> Chính Chúa Giê-su là người lãnh đạo hữu hiệu vì Ngài làm gương qua chính đời sống mình. (Jesus was an effective leader… because He led through His own sacrificial life.)
# Trong Giăng 13:15 – Chúa Giê-xu là Thầy mà rửa chân cho các môn đồ của mình để chi vậy? “Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm (cho nhau) như ta đã làm cho các ngươi.” (In John 13:15 – He washed His disciples’ feet and said – “I have set you an example that you should do as I have done for you.”)
> Những người nam, người chồng và người cha cơ đốc hãy tập bắt chước Chúa Giê-xu, đứng lên để nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo gia đình và Hội Thánh của mình, bằng chính những tấm gương sống qua sự chăm sóc, hầu hạ những người khác. (Men of God, fathers, and husbands – we must imitate Jesus to lead by examples, by being servants caring for the needs of others.)
3) Điều thứ 3, người cha, hay người nam của Đức Chúa Trời phải là người, mà ai cũng có thể đến gần để tìm được sự cố vấn khôn ngoan, sự khích lệ, và nương tựa. (Thirdly, men of God must be the “refuge” that anyone can approach, seeking for wise counsel & encouragement.)
> Trong cuộc sống này không thiếu những nan đề và những quyết định khó khăn, mà c/ta phải giải quyết, từ nhu cầu thuộc thể, tâm linh đến tình cảm, mà tìm đâu cho ra câu trả lời đây? (Life is full of troubles, so who will have the answers and solutions for all these dilemmas?)
# Ở Mỹ này có nan đề của nhiều trẻ em bỏ học đi theo băng đảng. (Many kids quit school to follow gangs.)
# Ước lượng có đến khoãng 15 triệu trẻ em (1 out of 3) đang sống không có cha ở cùng, và số đông những em này hay phạm những tội ác, bị vào tù ra khám, và máng vào những tệ trạng của xã hội, như dùng và buôn bán thuốc phiện. (Many fatherless children commit crimes, i/o jail, selling drugs.)
# Nan đề người ta lấy súng bắn nhau, coi xem như là những trò chơi trong video. (The problem of gun control for young people to act out… just as in a video game. A 9 years old had gun in his bag.)
# Nan đề của hôn nhân mà biết bao nhiêu gia đình đang đối diện với sự đổ vỡ, nước mắt và đau thương. (So many broken homes that cause much pains and suffering.)
> Ai sẽ là người sẽ bằng lòng đứng ra để “trám hết những lỗ hổng,” giúp cố vấn, khuyên lơn, khích lệ, dạy dỗ, hầu đem đến cho đời sống của mọi người sự bình an, và hạnh phúc đây? (So, who will fix these life “pot holes,” fill those empty hearts, repair those emotion brokeness?)
> Làm sao c/ta tìm được sự cố vấn khôn ngoan để giải quyết mọi nan đề, đem đến ích lợi cho đời sống mình và làm vinh hiển Chúa? (How can people find wise solutions in all these life troubles?)
# Người đời thì thường dùng máy “google - Alexa” ngay, có người thì đi coi bói, xem tử vi, hay tìm những người có kinh nghiệm trong cùng hoàn cảnh đó. (Many people search through “google” engine, others seek horoscope…) Nhưng là con cái Chúa, c/ta nên ưu tiên tìm kiếm gì trước? Ý Chúa. (But as Christians, we must pursue God first and His will.)
a) Muốn như vậy, thì người nam của Đức Chúa Trời phải tìm học sự khôn ngoan từ nơi Chúa, và đem ra xử dụng, để hướng dẫn những người khác. (Men of God must learn wisdom from God to help others in their walks.)
> C/ta không thể cố vấn khôn ngoan, nếu c/ta chưa có sự khôn sáng từ Thiên Thượng, và sự khôn ngoan đó đến từ những lẽ thật trong lời của Ngài. (True wisdom comes from God above and His words.)
# Thi-thiên 119:9 – “Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa.” (Psalm 119:9 – “How can a young person stay on the path of purity? By living according to Your word.”) Lời Chúa giúp mình sống thánh sạch và thỏa lòng, tránh được biết bao nhiêu những sự đau thương và khổ sở.
# Thi-thiên 119:50 – “Lời Chúa làm cho tôi được sống lại, Ấy là sự an ủi tôi trong cơn hoạn nạn.” (v. 50 – “My comfort in my suffering is this: Your promise (words) preserves my life.”) Lời Chúa an ủi tôi trong họan nạn, mà không một ai tránh khỏi.
> Có ai tránh hoạn nạn ở đời này không? Rồi khi gặp nó, c/ta sẽ có sự an ủi không? Hay là xử sự như nhà nấu ăn nổi tiếng Anthony Bourdain, đã thắt cổ tự vận trong một Hotel ở bên Pháp.
# Thi-thiên 119:105 – “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, Ánh sáng (soi) cho đường lối tôi.” (v. 105 – “Your word is a lamp for my feet, a light on my path.”) Lời Chúa hướng dẫn mình đi vào những con đường công bình để gặt hái sự bình an, vui thỏa mà thế gian không ban cho được.
> Chúa ban ơn cho vua Salômôn sự khôn ngoan mà vua đã có lần nói trong Châm Ngôn 4 – “Lòng con khá ghi nhớ các lời ta; Hãy gìn giữ mạng lịnh ta, thì con sẽ được sống. 5 Khá cầu lấy sự khôn ngoan, khá cầu lấy sự thông sáng, Chớ quên, chớ xây bỏ các lời của miệng ta; 6 Đừng lìa bỏ sự khôn ngoan, ắt người sẽ gìn giữ con; Hãy yêu mến người, thì người sẽ phù hộ con.” (God gave king Salomon great wisdom for he said in Proverbs 4 – “Take hold of my words with all your heart; keep my commands, and you will live. 5 Get wisdom, get understanding; do not forget my words or turn away from them. 6 Do not forsake wisdom, and she will protect you; love her, and she will watch over you.”)
> Trong Châm Ngôn 2:12 vua Salômôn chép ích lợi của sự khôn ngoan thánh là gì? “cứu con khỏi đường dữ, khỏi kẻ nói việc gian tà:” còn Châm Ngôn 2:16 chép “khôn ngoan sẽ cứu con khỏi dâm phụ, Là người đàn bà lạ nói lời dua nịnh” (In Proverbs 2:12 - God’s wisdom help us to “save you from the ways of wicked men; In Proverbs 2:16 – God’s wisdom “will save you also from the adulterous woman, from the wayward woman with her seductive words.”)
> Do you believe in God and walk in His wisdom or you just hear them from “one ear to the other?”
b) Để cố vấn khôn ngoan, khích lệ và làm chỗ nương tựa cho người khác, người nam của Đức Chúa Trời phải lúc nào cũng “có mặt, có thời gian” cho mọi người tìm đến được. (Men of God should always be available to help, to counsel, and to give others godly directions.)
# Cửa phòng của người Đức Chúa Trời không hề đóng; Miệng người không hề nói: “tôi bận lắm, để khi khác đi.” (His door should never close, his mouth would never say “I am busy today.”)
# Người sẽ không thường dùng máy I-pad đưa cho con mình, để mình được rảnh rỗi? (He does not give an I-pad to his kids to play all day, so he can be free doing his own things.)
# Thống kê cho biết 30 năm trước đây trung bình mỗi đứa trẻ trong nhà có đến 30 phút liên hệ với cha của mình mỗi ngày, ngày nay dưới 7 phút. (Nếu các người cha không tin thì hãy thử tự “check” chính mình coi xem có đúng không?)
> Hạy học tấm gương của Chúa Giê-su – Ngài luôn có thì giờ cho mọi người, kể cả những đứa trẻ nhỏ đến cùng Ngài. (Learn from Jesus – Who set a good example while He was still on earth – He was always available to all the needy, even children.)
# Mathiơ 19 – Khi người ta đem các con trẻ đến, đặng Ngài đặt tay trên mình và cầu nguyện cho chúng nó; môn đồ quở trách những người đem đến, thì Đức Chúa Jêsus phán gì? “Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy. 15 Ngài bèn đặt tay trên chúng nó…” (In Matthew 19 – when His disciples stopped the parents who wanted to bring their children to Jesus to bless – what did He rebuked them – “Let the little children come to me, and do not hinder them, for the kingdom of heaven belongs to such as these.” 15 When he had placed his hands on them…”)
--------------------
> Ai là người nam Chúa đang tìm, và ai là người nam sẽ đáp ứng lại lời thách thức của Ngài, tiếng gọi của Chúa? (Who are the men that God is looking, and whose men will response to His challenges?)
# Xã hội, gia đình và Hội Thánh Chúa đang ở trong tình trạng khủng hoảng, nhiều nan đề và khó khăn - Ai sẽ là người đứng lên lãnh trách nhiệm dẫn lòng của mọi người trở lại với Chúa để tìm được sự bình an và phước hạnh? (Men of God – do you hear God’s callings to stand up and fill the gaps?)
# Quân đội Navy có câu nói hay: C/tôi đang tìm kiếm chỉ vài những “người đàn ông tốt.” (Navy has a great slogan – We are looking for a “few good men?”
> C/ta có sẵn sàng làm những người nam của Đức Chúa Trời không? Chúa không tìm những người hoàn toàn vì không có ai hết, nhưng Ngài tìm những người nam tốt, những người cha tốt, những người chồng tốt… có tấm lòng tốt, hy sinh muốn gánh những ách của người khác. (Do you hear God’s callings? He does not look for perfect men, just those who have good heart, willing to be His servants to carry others’ burdens, to build happiness, and to save the world for Christ?)
> MOG - Do not put off any longer, do not pass on the responsibility to someone else. Take your responsibility, seek God, be available always to build a happy family, a strong church, and a healthy society for Christ. (Đừng trì hoãn, đừng đổ thừa nữa, nhưng nhận trách nhiệm, tìm kiếm Chúa, và luôn sẵn sàng để xây dựng hạnh phúc gia đình, Hội Thánh vững mạnh và một xã hội an lành.)
# Story of a guest visiting a new place & looking for church to visit. So, he searched the web, and called a pastor, got the church address. On Sunday morning he came to the place very early.
> He was surprised about the conditions of the church because he saw wild grass growing on the roof, broken fences, cracked walls, pot holes on parking lots. He recalled the pastor – “yes, it’s the correct address!”
> Why? Because church members did not take responsibility to care for the temple of God.
> Tôi không có nói đến nhà thờ này, nhưng còn con người thuộc linh (đền thờ của Chúa bên trong) của mỗi c/ta thì sao, c/ta có để ra trách nhiệm giữ gìn nó khỏe mạnh không? Còn gia đình mình thì sao, Hội Thánh mình thì sao – c/ta đã chu toàn trách nhiệm phần của mình để xây dựng đúng mục đích của Chúa chưa? (I am not talking about our church buildinh – but what’s about our spiritual life, what’s about our families, what’s about our church? Are you building them up to God’s purposes?)
> Chúa cần những người nam, những người chồng, những người cha dám “sắn tay áo,” đứng lên để “trám lỗ,” lấp đầy những nỗi chán chường, những cô đơn, làm những người lính canh giữ những điều đang gây nên sự chết dần thuộc linh đến gia đình, đến Hội Thánh Chúa. (God needs Christians men to stand up, speak up, look up, roll up, and hold up, filling the gaps for Him.)
> Chúng ta cần đáp ứng lại tiếng gọi của Chúa mà cùng đứng lên, nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo, sống làm gương tốt cho mọi người, gánh ách của nhau, bảo vệ gia đạo, xây dựng Hội Thánh Chúa, và cùng thay đổi thế giới cho Chúa. (We need to hear God’s callings to carry each others’ burdens, protect our family, building up God’s church and change the world for Christ.)
> Chỉ có một điều kiện mà thôi… đó là mỗi người chúng ta có chịu đầu phục, tận hiến hết cả cuộc đời mình tin cậy hoàn toàn bước đi theo Chúa không? Tương lai tốt đẹp của thế giới ở trong bàn tay của mỗi người chúng ta ngày hôm nay, nhất là cho những người phái nam của Đức Chúa Trời, những người chồng, và những người cha cơ đốc. (Men of God – we need to surrender our lives to Jesus. A bright future of our families, our church is in our hands; so, live and pursue God’s purpose for men!)
------------------- Lời Mời Gọi
> Có nhận biết và ý thức đạo đức đang bị suy đồi nhanh chóng không?
# Những điều ác từ các thần dữ ở trên trời đang len lỏi vào đất nước, xã hội, gia đình và Hội Thánh Chúa ngày hôm nay không? Thay đổi đạo đức, sự suy nghĩ, và từ từ dẫn đến một lối sống chống nghịch lại Chúa.
> Chúng ta có sẽ ngồi yên, thờ ơ, lười biếng để thấy một thế hệ tương lai con em của chúng ta đi vào chỗ hư mất, đau thương không? Chúng ta có nghe tiếng Chúa gọi mình, nhất là cho những người nam, những người chồng, và những người cha cơ đốc mà đứng lên lãnh trách nhiệm hướng dẫn mọi người đến với Chúa và đi trong đường lối của Ngài mà gặt hái sự bình an, và hạnh phúc không?
> Chúng ta phải làm chi đây?
1) Phải xây dựng một mối liên hệ mật thiết với Chúa Giê-su trong sự cầu nguyện luôn;
2) Phải biết lẽ thật, đứng vững trong lẽ thật và vâng giữ lời của Ngài;
3) Phải biết kính sợ Chúa, tìm kiếm sự khôn ngoan trong lời của Ngài để biết cư xử đúng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh;
4) Phải tự lo cho chính mình, gánh ách riêng của mình;
5) Phải nhận lãnh trách nhiệm gánh ách cho những người khác, bắt chước Chúa Giê-xu sống làm gương tốt cho mọi người;
6) Phải luôn có mặt, có thì giờ để cố vấn khôn ngoan, khích kệ mọi người đi theo đường lối tốt lành của Chúa, tránh tai họa, nhưng gặt hái sự thịnh vượng.
> Phải luôn cầu nguyện Chúa giúp mình trở nên những “ống” dẫn nguồn phước của Ngài đến với mọi người xung quanh, từ trong gia đình, Hội Thánh, đến xã hội bên ngoài; Hầu cho danh Chúa được vinh hiển và lời làm chứng đức tin của mình có hiệu quả.
> MOG - Có sẽ bằng lòng tận hiến và cam kết đời sống của mình cho Chúa ngay hôm nay không?
# Những tà thần nào cần từ bỏ, những gì cần điều chỉnh, những lo lắng, sợ hãi nào cần trao cho Chúa trọn vẹn? Hãy làm ngay trong giây phút này!
> Nếu hỏi con cái mình nhớ gì về những người cha, thì c/nó sẽ nói gì?
> Nếu hỏi con cái muốn gì về người cha của mình thì c/ta nghĩ c/nó sẽ nói gì?
> C/ta có sẵn sàng điều chỉnh chưa để sống trong mục đích của Chúa là những người cha theo ý Chúa, và những người nam của Đức Chúa Trời?