(Mathiơ 18:1-3)
Having Faith like Little Children
“Trong lúc đó, môn đồ lại gần Đức Chúa Jêsus, mà hỏi rằng: Ai là lớn hơn hết trong nước thiên đàng? 2 Đức Chúa Jêsus gọi một đứa trẻ đến, để ở giữa môn đồ, 3 mà phán rằng: quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu. 4 Vậy, hễ ai trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy, sẽ là lớn hơn hết trong nước thiên đàng.” (Mathiơ 18:1-3)
(At that time the disciples came to Jesus and asked, “Who, then, is the greatest in the kingdom of heaven?” 2 He called a little child to him, and placed the child among them. 3 And he said: “Truly I tell you, unless you change and become like little children, you will never enter the kingdom of heaven. 4 Therefore, whoever takes the lowly position of this child is the greatest in the kingdom of heaven.
I. Children
> Do you like children? What are something do you like about them? (Bạn có thích trẻ em không? Tại sao c/ta thường mến những đứa trẻ?)
# They are cute, innocent, sweet, adorable, simple… They make us happy and smile a lot. (C/nó dễ thương, xinh xắn, đơn sơ… và thường làm cho c/ta vui và dễ nở nụ cười.)
> Children are also honest – they say exactly what they feel in their heart. (Trẻ em cũng thường có tâm hồn ngây thơ, trong trắng – c/nó nghĩ sao thì nói vậy.)
# Mom - Why do you have few gray hairs on your head? Because of all troubles you gave me. Every time you disobeyed me, one of my black hair turned to white! The daughter paused for a moment, then said – “Now, I know why grandma has all the white hair!” (Đứa bé gái một ngày hỏi mẹ nó – “Tại sao trên đầu mẹ có vài sợi tóc bạc vậy?” Bà mẹ trả lời: “Mỗi sợi tóc bạc của mẹ là mỗi khi con đã không vâng lời mẹ, làm mẹ nhức đầu.” Đứa bé gái suy nghĩ một chút rồi nói: “Thôi bây giờ con biết rồi, con biết tại sao đầu của “bà ngaọi” đầy tóc bạc trắng hết!”)
> Can you learn anything from a child? (C/ta học được gì… từ những đứa trẻ không?)
# Not much, because they do not have a lot of experiences liked the adults. They have not faced off with many life troubles yet. (Không chi nhiều, vì những đứa bé thường chưa có kinh nghiệm đời. C/nó chưa đối diện hay biết đối phó với những khó khăn thách thức trong cuộc sống hằng ngày.)
II. Heaven and Hell
> But surprisingly, Jesus used children to teach a very important doctrine about kingdom of heaven? (Nhưng ngạc nhiên thay, chính Chúa Giê-su lại dùng một đứa trẻ, để dạy dỗ về chân lý căn bản, làm thế nào một người được vào nước thiên đàng, và ai là kẻ lớn nhất ở trong đó?)
# In Matthew 18:3 – Jesus said: “Truly I tell you, unless you change and become like little children, you will never enter the kingdom of heaven.” (Trong Mathiơ 18:3, Chúa Giê-su phán: “quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu.”
> What good do children have that Jesus used them to teach us about heaven? (Trẻ em, con nít có gì hay ho, mà Chúa Giê-su lại dùng c/nó để dậy dỗ chân lý đạo về nước thiên đàng?)
> Before we can understand how a person can enter heaven, we need to know what does heaven like; and before we want to know about heaven, we need to know - does hell exist? (Trước khi c/ta muốn hiểu làm thế nào một người được vào nước thiên đàng, thì thiết nghĩ c/ta cần biết thiên đàng ở đâu; và trước khi mình muốn biết thiên đàng ở đâu, thì c/ta phải hiểu - có địa ngục không?)
> Perception about heaven & hell is common to everyone. (Khái niệm về “thiên đàng và địa ngục” cho cõi đời sau… thường thì ai trong đời này cũng ý thức được hết.)
> Because we all have a conscience… knowing that if there are incentives/rewards for doing good, and punishment for doing bad in this present time; then most people accept that there are heaven & hell after this life. (Vì theo lương tâm, người ta biết ở trên đời này có thưởng, thì cũng có phạt, như vậy đời sau thì cũng phải có thiên đàng, và địa ngục là chuyện đương nhiên, phải không?)
1) The Bible said hell exists because of sin. First – the rebellious sin from satan & his fallen angels… secondly – the disobedient sin of Adam & Eve, and later – our sins of rejection to worship God but idols. (Kinh Thánh cho biết địa ngục là hậu quả đời đời của tội lỗi. Thứ nhất là tội của quỉ satan chống nghịch lại Chúa, thứ hai - tội không vâng lời của Ađam & Êve, và cuối cùng tội của mỗi người c/ta đã từ chối Chúa, mà đi thờ lạy các tượng chạm. # Đi Cali, thấy hầu hết trong các cửa tiệm ăn của người Việt không thiếu những bàn thờ có những tượng chạm của thần tài?)
# Revelation 20 speaks about hell as the final judgment for satan and the devils – “When the thousand years are over, Satan will be released from his prison 8 and will go out to deceive the nations in the four corners of the earth… 9 They marched across the breadth of the earth and surrounded the camp of God’s people, the city he loves. But fire came down from heaven and devoured them. 10 And the devil, who deceived them, was thrown into the lake of burning sulfur, where the beast and the false prophet had been thrown. They will be tormented day and night for ever and ever.” (Trong Khải Huyền 20 có chép về sự phán xét cuối cùng của satan và ma quỉ thì c/nó bị quăng vào đâu? “Khi hạn ngàn năm mãn rồi, quỉ Sa-tan sẽ được thả, 8 và nó ra khỏi ngục mình đặng dỗ dành dân ở bốn phương trên đất… 9 Chúng nó lên khắp các vùng rộng trên mặt đất, vây dinh thánh đồ và thành yêu dấu. Nhưng có lửa từ trên trời rơi xuống thiêu diệt chúng nó. 10 Còn ma quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm, trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời.”)
> Hell exists because God is perfectly holy – sinners who are not repented must be forever separated from Him at the end times. (Vì Đức Chúa Trời là Đấng Thánh Khiết vẹn toàn, những tội nhân phải bị phân rẽ khỏi sự hiện diện của Chúa đời đời ở trong địa ngục trong ngày tận thế.)
# Revelation 20 – “Then I saw a great white throne and him who was seated on it. The earth and the heavens fled from his presence, and there was no place for them. 12 And I saw the dead, great and small, standing before the throne, and books were opened. Another book was opened, which is the book of life. The dead were judged according to what they had done as recorded in the books. 13 The sea gave up the dead that were in it, and death and Hades gave up the dead that were in them, and each person was judged according to what they had done. 14 Then death and Hades were thrown into the lake of fire. The lake of fire is the second death. 15 Anyone whose name was not found written in the book of life was thrown into the lake of fire.” (Trong Khải Huyền 20 có chép về sự phán xét cuối cùng của những kẻ không tin là trong hồ lửa địa ngục – “Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. 12 Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. 13 Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. 14 Đoạn, Sự Chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. 15 Kẻ nào không được biên vào sách sự sống (vì không chịu tin nhận Cứu Chúa Giê-su) đều bị ném xuống hồ lửa.”)
> Would rejecting or denying this truth help you to escape hell? No, because God is still holy. (Cho dù bạn có từ chối không chịu tin lẽ thật này đi nữa… thì mọi kẻ tội nhân cũng không thoát được hình phạt của lửa địa ngục, vì Đức Chúa Trời luôn là Đấng Thánh Khiết vẹn toàn đời đời.)
> Jesus many times clearly described hell’s conditions as: (Chính Chúa Giê-su nhiều lần đã giải thích rõ về tình trạng của địa ngục như sau:)
a) A lake of burning sulfur without quenching; (Là một hồ lửa cháy không hề tắt)
b) A dark & painful place w/ weeping & gnashing of teeth; (Một chỗ tối tắm, nghiến răng đau đớn)
c) A place that worms never die (sounds like a trash dump); (Một chỗ mà những con sâu bọ không hề chết, giống như là ở trong một thùng rác hôi hám vậy.)
d) No promise of another second chance to come out of hell in the Bible. (Kinh Thánh không có chỗ nào có lời hứa cho những ai đã vào hỏa ngục mà còn cơ hội được cứu lần thứ hai.)
> I am sure if a person truly believes this – he would quickly run to Jesus to espace Hell! (Nếu một người hiểu rõ thực trạng kinh khủng của địa ngục là có thật, thì thiết nghĩ người đó phải chạy ngay đến với Cứu Chúa Giê-su để được cứu.)
2) On the other side is the Kingdom of Heaven – which is a place that God is present and Jesus, the King of all kings reigns forever. (Phía bên kia là nước thiên đàng, nơi có sự tể trị của Đức Chúa Trời đời đời.)
> In the Bible, Jesus told at least 48 parables; 1/3 of these parables were about the kingdom of heaven, started out with the phrase liked: “The kingdom of heaven is like …” (Trong Kinh Thánh, Chúa Giê-su đã dùng ~48 thí dụ ngụ ngôn để giảng dạy… thì khoảng 1/3 số những ẩn dụ này Chúa Giê-su đã bắt đầu bằng câu nói như sau: "Nước thiên đàng giống như...")
> So, this must be the answer for what we need in eternity that we must pay attention and pursue. (Như vậy nước thiên đàng phải là điều rất quan trọng… nên Chúa Giê-su mới nói đến nhiều như vậy? Và đây là chân lý đáng cho c/ta để thì giờ ra… lắng nghe, tìm kiếm và nhận lấy.)
a) The apostle John had a vision of heaven as a holy city, called the new Jerusalem. (Sự khải tưởng của sứ đồ Giăng chép lại trong Kinh Thánh… cho thấy một phần nào của thiên đàng qua hình ảnh của một thành Thánh rực rỡ... có tên là Giêrusalem mới.)
# Revelation 21:1-2 – “Then I saw “a new heaven and a new earth,” for the first heaven and the first earth had passed away, and there was no longer any sea. 2 I saw the Holy City, the new Jerusalem, coming down out of heaven from God, prepared as a bride beautifully dressed for her husband.” (Khải Huyền 21:1-2 - "Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình.")
> A city with walls having all kinds of precious jewels and the streets are paved with pure gold as described in Revelation 21. (Một thành thánh rất vĩ đại, và vinh hiển... tường thành ở đó có đủ thứ các loại ngọc châu quí báu, còn đường trên đó thì lót bằng vàng ròng theo Khải Huyền 21.)
# Câu chuyện huyền thoại về một người cơ đốc rất giàu có - muốn xin Chúa được đem gia tài của mình vào nước thiên đàng khi mình qua đời này. Chúa nói không được; nhưng cuối cùng năn nỉ quá sức cho nên Ngài cho phép ông đem một món thôi.
> Ông về nhà lấy tất cả gia tài của cải mình có - đổi thành vàng... bỏ vào một cái vali rất lớn. Khi qua đời & đến cửa thiên đàng... thì bị một thiên sứ xét hỏi và không cho đem vali đó vào... Nhưng ông nói là mình đã xin phép Chúa rồi. Thiên sứ thắc mắc hỏi: "hãy mở vali ra cho xem" Khi thấy vàng trong vali thì thiên sứ thốt lên: "Anh đem những thứ "lót đường" này vào thiên đàng làm chi vậy?"
b) In heaven, there will be no more suffering, mourning or death, because Jesus will wipe every tear from our eyes; (Nước thiên đàng là nơi không còn sự chết chóc, nước mắt, đau khổ nữa… Cho nên sẽ không còn thấy những nhà xác hay thăm viếng nghĩa trang nữa, không còn cần thẻ medicare, mua bảo hiểm nhân thọ, hay cần những nhà thương hay tiệm thuốc nữa... vì Khải Huyền 21:4 chép rõ: "Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.”)
c) Those who enter heaven will experience a perfect peace with God, and complete joy through singing and praising to God days and nights. (Thiên đàng là nơi có sự vui mừng bình an trọn vẹn và đời đời.)
# Revelation 19:7 describes heaven is liked a wedding feast – “Let us rejoice and be glad and give him glory! For the wedding of the Lamb has come, and his bride has made herself ready.” (Khải Huyền 19:7 - cho thấy hình ảnh thiên đàng là một đám cưới vui... "Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới, và vợ Ngài đã sửa soạn..." chứ không phải là một lễ tang buồn; Cuộc vui sẽ không bao giờ tàn, không bao giờ kết thúc.)
> For that reason, God promises to give each believer a glorified body so we can enjoy Him forever. (Vì vậy mà Đức Chúa Trời hứa ban cho c/ta một thân thể mới, mà sẽ không bị mệt mỏi... đòi đi ngủ, vì sẽ không còn có ban đêm nữa… để c/ta vui hưởng Chúa của thiên đàng đời đời.)
d) Up there, we will enjoy perfect safety, because there will be no more wicked things, sins no longer reign.” (Ở trên thiên đàng đó, cũng sẽ không còn những kẻ ác, và tội lỗi không còn thống trị c/ta nữa, như bảo đảm trong Khải Huyền 21:8: "Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng, và phàm kẻ nào nói dối, phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng..." chứ không ở trong thiên đàng.)
e) The saints will reign the world with Christ forever, as said in Revelation 22:5 – “There will be no more night. They will not need the light of a lamp or the light of the sun, for the Lord God will give them light. And they will reign for ever and ever.” (Các thánh đồ sẽ cùng tể trị với Chúa Giê-su, như có chép trong Khải Huyền 22:5 – “và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời.”)
> I am sure if a person truly believes this about heaven, he would run quickly to Jesus. (Theo lẽ tự nhiên, ai thật sự tin chân lý này về thiên đàng thì người đó chắc phải chạy đến Chúa Giê-su ngay.)
III. Enter Heaven – How?
> A more important question is not if you have the knowledge about heaven, but How can you be sure to enter the kingdom of heaven and escaping hell? (Vấn đề quan trọng không phải là bạn biết gì về thiên đàng, nhưng là bạn có biết làm thế nào để bạn có thể vào được nơi đó không?)
a) The Bible said – it would NOT be by doing good works for 100 years – because just one sin… is enough to spoil/corrupt our perfection in order to be accepted by God into His kingdom. (Kinh Thánh chép c/ta không thể vào nước thiên đàng, cho dù có sống làm lành hơn 100 năm đi nữa, bởi vì chỉ một tội thôi cũng làm ô uế phẩm chất của con người c/ta, mà không còn đủ điều kiện để được vào nước thiên đàng.)
b) NOT by man-made religions – which are NOT perfect, because they all are rooted from sinners. (Cũng không nhờ các tôn giáo của con người, Báptít, Công Giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo… bất toàn mà vào được nước thiên đàng.)
c) NOT even by gaining all the knowledge in this world; (Cũng không bởi sự khôn ngoan mà một người được vào thiên đàng, cho dù có khôn ngoan như Albert Einstein với IQ 160, hay Kim Ung-Yong với IQ 210.)
> All human efforts cannot help anyone to enter heaven. (Mọi công đức hay cố gắng của loài người không giúp một ai vào được nước thiên đàng.)
> But Jesus said - you can only enter heaven by just becoming liked a child? (Nhưng Chúa Giê-su dậy làm thế nào để một người vào được nước thiên đàng... đó là bạn hãy bắt chước, đổi lại như một đứa trẻ.)
> This does not make sense because children typically imitate adults, and not the other way. (“Bắt chước trẻ con” mới nghe… thấy có vẻ “ngược đời,” vì thường trẻ con phải tập bắt trước tánh của những người lớn… chứ có khi nào c/ta là những người lớn lại đi học hỏi từ những đứa trẻ sao?)
> So, why did Jesus say we must become liked children to enter heaven? What does this mean? (Đây có nghĩa là sao? Tại sao Chúa Giê-su lại dùng một con trẻ, để dạy điều kiện làm thế nào một người được vào nước thiên đàng?)
a) First, children have simple faith. (Thứ nhất, con trẻ có tánh ngây thơ, dễ tin và có niềm tin đơn sơ và thành thật.)
> Children do not often have doubts. (Trẻ con thường ít có sự hoài nghi, nhưng dễ tin, nghe sao thì tin vậy.)
> Children don’t doubt their parents, but naturally trusting them - because they learn to recognize that their parents always love them; (Bản tánh tự nhiên của trẻ con là luôn tin cậy hòan toàn vào cha mẹ c/nó, vì nó cảm nhận được sự yêu thương không điều kiện của 2 người.)
# Khi Liđa còn nhỏ, tôi cầm 2 chân của cháu quay xung quanh phòng khách… như chong chóng trực thăng; Nó thích được làm như vậy, chẳng sợ nguy hiểm chút nào. Nó hoàn toàn tin cậy nơi cha của nó… là người sẽ không bao giờ buông tay ra với bất cứ gía nào. (please don’t try it at home!)
> When children sense dangers, they always run to their parents for protection – why? Trust! (Khi gặp khó khăn, c/nó tự động chạy núp đến cha mẹ để tìm sự sự bảo vệ.)
# Vì vậy mà thống kê cho biết… trên 80% những người đến tin nhận Chúa… thường ở thành phần dưới 17 tuổi - trẻ con dễ đến tin nhận Chúa hơn là khi đến tuổi trưởng thành.
> We must have simple faith liked little children - believing in Jesus words, nothing more and nothing less. (C/ta chỉ hãy bắt chước như những đứa trẻ - tin cậy vào lời hứa của Chúa Giê-su, không thêm, không bớt, để được vào nước thiên đàng.)
b) Children recognize that they cannot help themselves; So, they do not hesitate calling out their parents for help; (Trẻ em nhận biết mình yếu đuối, không thể tự lo cho mình được, vì vậy không bao giờ ngại chạy đến cầu cứu cha mẹ mình.)
# How many times do you hear the word “mommy” calling out in your home? But when our children become matured, you don’t hear this much anymore?
> Children are weak; they do not brag; They must humbly depend on their parents for protection. (Trẻ con thì yếu đuối, nên phải hạ mình, khiêm nhường, để nhờ cậy lệ thuộc vào người khác, và đó là cánh cửa để dẫn một người đến đức tin nơi Chúa mà vào được nước thiên đàng, chứ không tự nghĩ rằng mình dư sức “mua” được sự cứu chuộc bằng những công đức cá nhân của mình.)
> So, “becoming a child” is a picture of a simple faith, humbly trusting Jesus and His words to enter the kingdom of heaven. (Như vậy, khi Chúa Giê-su nói một người muốn vào được nước thiên đàng… thì phải trở nên như một đứa trẻ, có nghĩa là phải biết hạ mình ý thức sự bất toàn – không tự cứu mình khỏi lửa địa ngục được, và phải thành thật biết nhờ cậy trọn vẹn hoàn toàn ở chính Chúa Giê-su cứu mình… như một đứa trẻ lệ thuộc vào cha mẹ của nó vậy.)
# In Psalm 131:1-2 David confessed his faith as a little child – “My heart is not proud, Lord, my eyes are not haughty; I do not concern myself with great matters or things too wonderful for me. 2 But I have calmed and quieted myself, I am like a weaned child with its mother; like a weaned child I am content. (Thi Thiên 131 - diễn tả tấm lòng của Đavít hay nương cậy nơi Chúa hòan toàn… “Hỡi Đức Giê-hô-va, lòng tôi không kiêu ngạo, Mắt tôi không tự cao, Tôi cũng không tìm tòi những việc lớn, Hoặc những việc cao kỳ quá cho tôi. Tôi đã làm cho linh hồn tôi êm dịu an tịnh, Như con trẻ dứt sữa bên mẹ mình; Linh hồn ở trong mình tôi cũng như con trẻ dứt sữa vậy.” Diễn tả sự nương cậy của mình trong Chúa… như là một đứa bé thỏa mãn trọn vẹn khi được nằm yên trong vòng tay của mẹ nó… là người cung cấp cho nó được đầy đủ thức ăn, bảo vệ nó khỏi những nguy hiểm và kể cả đáp ứng nhu cầu tình cảm yêu thương cho nó… và đó là điều c/ta cần phải có sự tin cậy Chúa Giê-su giống như trẻ con… để nhận được nước thiên đàng.)
> What are some reasons many people, mostly adults today still reject trusting Jesus to enter heaven? (Có những suy nghĩ nào mà làm nhiều người lớn ngày nay vẫn khó tin “đạo?”)
a) So many people still depend on their own scientific knowledge of “evolution” to refuse the existence of God and indirectly reject His gift of heavenly kingdom just by faith. (Ngày nay còn biết bao nhiêu người dùng những suy luận khôn ngoan, học thức riêng của mình… như là thuyết “tiến hóa,” mà chưa thèm tiếp nhận Chúa Giê-su để được vào thiên đàng.)
b) Others still doubt God’s gift, thinking that “it cannot be that’s easy.” (Có vô số những người ngày nay chưa được cứu, không phải vì chưa nghe đến Tin Lành… nhưng còn hoài nghi, chưa chịu lấy đức tin mà tiếp nhận món qùa cứu chuộc… Họ tự nghĩ: “Tin Chúa Giê-su để được rỗi linh hồn sao dễ vậy… không phải làm gì hết sao? Thấy vô lý quá… ở đời đâu có gì là của chùa đâu?”)
c) Many still do not trust Jesus, because of their self-pride. (Vô số những người trên thế giới này chưa được cứu… không phải vì chưa được nghe đến Tin Lành… nhưng vì còn kiêu ngạo, còn dựa trên sự giàu sang, địa vị, học thức, công đức của mình đang có… cho nên đâu cần đến Chúa làm gì.)
# If I can do it myself with all my good works; If I can trade my bads with good things I did, then why do I need Jesus? (Tại sao tôi cần đến Chúa Giê-su làm chi, khi tôi có thể “tự lo cho chính mình,” bằng cách “đền bù” những lỗi lầm qua nhiều việc lành mình đã làm?)
# They trust on their own self-righteouness of good works that become stumble blocks for them to enter heaven, denying the “way & truth” from Jesus that lead to the eternal life. (Sự trông cậy của họ là của cải vật chất, ~công đức làm lành bố thì… nên từ chối con đường của Chúa Giê-su ban cho. Sự tự kiêu đã trở những “hòn đá, ~núi đồi” cản trở, chặn lối mình vào nước thiên đàng.)
# God blesses America, but many Americans today become prideful and said: “I don’t need prayer in school; I don’t need the Holy Bible to tell me what wrong and right; I don’t need the 10 commandments; I don’t want the word “GOD” in the phrase “In God We trust” on the money coins.
# Story of a CEO walking on one of the famous New York boulevards; suddenly he stopped, stooped down and picked up a penny. Other CEO’s asked why – a penny has no value? He answered, not its value, but on each of the pennies, it engraved a great foundation of faith in this country – in the phrase “In God We Trust.”)
d) Others don’t even care; they say - I cannot believe what I cannot see. (Người khác thì chẳng cần biết, chỉ biết ăn uống, hưởng thụ rồi “chết là hết,” Họ tự suy luận – “phải thấy thì mới tin được.”)
> But whoever a person is, no matter what a person did, just accept Jesus’ words as a little child that “I am a sinner, I cannot save myself from hell, please save me as I call upon Your name, Jesus…” then that person can enter heaven and enjoy the gift of eternal life. (Nhưng bất cứ ai là gì đi nữa, đã làm chi đi nữa… mà bằng lòng nhận biết mình yếu đuối, chẳng có thể tự cứu mình được khỏi lửa địa ngục, và sẵn lòng tin cậy Chúa Giê-su… như một đứa trẻ thì người đó được vào nước thiên đàng, hưởng sự sống đời đời.)
> Jesus used the innocence of a child as an example of a simple faith of taking God at His Word. As children trust their earthly fathers, we should trust that our “Father in heaven [will] give good gifts to those who ask him.” (Chúa Giê-su dạy một thái độ khiêm tốn, niềm tin đơn sơ, tâm tình ngây thơ của một đứa trẻ tin cậy nơi cha mẹ c/nó, thì c/ta cũng chỉ nhờ cậy “Cha c/ta trên trời là Đấng hay chúc phước cho con cái Ngài,” để được vào và ở trong nước thiên đàng... như là một món quà không đòi gía, mà chỉ mở lòng tiếp nhận lấy thôi.)
> To enter heaven, a sinner just simply believes in God’s words as promised in Romans 10:13 – “for, Everyone who calls on the name of the Lord (Jesus) will be saved.” (Một người nào muốn vào thiên đàng thì chỉ… “kêu cầu danh Chúa Giê-su thì sẽ được cứu.”)
> What does it mean to call upon His name? How do you come to a point of calling His name? (Kêu cầu danh Chúa Giê-su có nghĩa là sao?)
i) First, you have a chance to hear the Goodnews that God sent His Son Jesus into the world to become a “payment” for all your sins; (Khi đã có cơ hội nghe Tin Lành, đó là Đức Chúa Trời yêu thương và sai Con một xuống thế gian làm của lễ chuộc tội cho chính mình.)
ii) Secondly, you agree that Jesus died on the cross to redeem/buy “you” out of the judgment (the verdict) and the punishment (the sentence) of sins. (Bằng lòng nhận sự chết của Chúa trên cây thập tự để trả mọi món nợ và bản án tội lỗi của mình đã vi phạm.)
iii) Then Romans 10:9 said – “If you declare with your mouth, “Jesus is Lord,” and believe in your heart that God raised him from the dead, you will be saved.” (Vâng lời Chúa có chép trong Rôma 10:9 – “Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; 10 vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi.”)
> You cannot be saved without first be humble before God, recognizing that there is nothing good-enough in you that can save yourself. (Bạn không thể nào được cứu rỗi khỏi lửa địa ngục, cho đến khi nào bạn hạ mình nhận biết bạn không thể tự cứu mình được.)
> Jesus’ disciples misunderstood that by being the best, full of good works and even sacrifices for God, that they automatically enter and become the greatest in heaven? (Các môn đồ đã hiểu lầm, cứ tưởng mình đầy dẫy những việc lành, công đức, kể cả hy sinh cuộc đời “đi tu” theo Chúa Giê-su là chắc chắn được vào thiên đàng, và được trở nên người lớn nhất?)
> But by trusting, depending, being humble before God and seeking Jesus is the faith that brings you into heaven, and not good works. (Nhưng chỉ bởi niềm tin cậy Chúa Giê-su và lời Ngài - Chúa nói sao tin vậy, và một tâm tình khiêm tốn, đầu phục Ngài, thì đó mới là con đường được vào nước thiên đàng và trở nên kẻ lớn nhất.)
IV. Not Childish Faith
> Of course, we should not misunderstand that Jesus wants our child-like faith just stays the same? (Như vậy Chúa có muốn c/ta cứ có đức tin trong thể “con nít” hoài không?)
> This teaching of Jesus does not mean, as Christians we just stay as “spiritual babies.” (Bắt chước con trẻ ở đây Chúa Giê-su dạy không có nghĩa là con cái Chúa cứ ở trong tình trạng con nít thuộc linh hoài.)
# 1 Corinthians 13:11 – Paul reminded us our spiritual growth after we are saved – “When I was a child, I talked like a child, I thought like a child, I reasoned like a child. When I became a man, I put the ways of childhood behind me.” (Trong 1 Côr. 13:11 Phaolô khích lệ con cái Chúa phải tăng trưởng thuộc linh, chứ không cứ ở trong tình trạng “con nít” mãi – “Khi tôi còn trẻ, tôi nói như con trẻ, tư tưởng như con trẻ, suy xét như con trẻ; khi tôi đã thành nhơn bèn bỏ những điều thuộc về con trẻ.”)
> We must have faith in Jesus liked a little child, but not remaining “childish” with jealousy, selfish, lack of self-control, indifference, laziness… because children are easily fooled and led astray into many myths and fantasies. (C/ta phải có đức tin như trẻ con, nhưng không thể cứ ở trong trạng thái “con nít” thuộc linh mãi, để khỏi bị dẫn dụ vào những tà thuyết và chuyện huyễn.)
> We must be matured in understanding Jesus’ teachings: the way “up” is “down.” Greatness requires first “meekness” to submit to God and serve others. Those who are willingly take the lowest position on earth are the greatest in heaven. (C/ta phải trưởng thành, hiểu lời Chúa dậy - để trở nên lớn nhất trong nước thiên đàng, c/ta phải biết hạ mình làm kẻ nhỏ nhất trên đất, qui phục Chúa & hầu hạ những người khác.)
-----------------------
> God loves you so much (you must believe this). (Chúa yêu bạn và tôi.)
> He gave and showered us the best thing that is the sacrifice of His Son. (Ngài ban cho c/ta điều tốt nhất, ấy chính là sự hy sinh của Con một mình.)
> He gives us the easiest way to be saved, just by faith in Jesus. (Chúa ban cho c/ta con đường được vào nước thiên đàng dễ nhất, đó là chỉ tin nhận Con Ngài mà thôi.)
> If you reject Him, not believing Jesus like a little child – you will not enter heaven one day. (Nếu bạn từ chối Con Ngài, không tin cậy Chúa Giê-su và lời Ngài như một đứa trẻ thì bạn không thể vào nước thiên đàng được.)
# Have you weighted – what consequence if you don’t believe in Jesus? (Bạn có bao giờ suy nghĩ đắn đo kỹ hậu quả sẽ là gì, nếu bạn từ chối tin nhận Cưú Chúa Giê-su không?)
> Just be humble & admit that you are a sinner, believe in Jesus Christ, and confess Jesus as your Lord & Savior with your mouth today… then you will have peace – knowing surely where you will spend eternity! (Bạn chỉ hãy hạ mình tìm kiếm Chúa, bởi miệng xưng danh Chúa Giê-su hôm nay… thì bạn sẽ được cứu, và bạn sẽ kinh nghiệm sự bình an trọn vẹn, vì biết chắc mình sẽ ở đâu với Chúa đời đời.)
------------------ Invitation
> The trip to Daihoi, I had a chance to visit my mom’s graveyard, exactly one year after she died.
> It is a beautiful cemetery, but it reminds me a reality about human life, that no one can escape, and that is death.
# At the cemetery I reminded all my relatives a simple truth: “It’s not important of how long you live on this earth, but do you have an answer where will you spend eternity after this life?”
> Life beyond the curtain of death is always a mystery that no one has the answer.
> Until Jesus, God’s Son came into the world, died on the cross, ressurected after 3 days in the tomb, and declared “I am the resurrection and the life. Those who believe in me will have life even if they die.”
> Jesus promises Whoever believes in Him, will escape hell, but have the eternal life in the kingdom of God… with no string attached.
> This is very simple, and the only way to heaven, just by trusting Jesus and His words… liked a little child trusts his parents.
> That is all God requires – a simple faith liked a little child, because “without faith, it is impossible to please God.” (Hebrews 11:6).
> You know - there are at least 3 kinds of people cannot enter heaven:
# Some rich people - because they don’t recognize the need for God; they think that if heaven exists - they could even buy a place there with their money;
# Most religious people cannot enter heaven. because they think that they are not too bad; In fact, they think they are pretty good, compared to others and deserve to be in heaven, first in-line.
# Some smart people, because they think what Jesus’ offer for them on the cross is foolish;
> But whoever is humble, admitting that you are a hopeless sinner, and places a simple trust in Jesus – will be saved!
> Some of us need to change, by no longer trusting in our IQs, good works, religions, knowledge, worldly philosophies, horoscopes… but to trust in Jesus – so you can enter heaven and enjoy the everlasting relationship with God.
> Heaven is so close to you, just a step of faith… liked a little child.
> Are you willing to trust Jesus and His words today?
> Are you willing to call upon His name to be saved forver?
> Do not delay anymore; do not reason liked “adults” anymore; do not doubt, just trust Jesus’ words today.
# Remember we don’t know about tomorrow – the offer of heaven is today; because this offer may expire tomorrow. Today is the day of salvation.
> You must make the decision to trust Jesus today.