Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 74

Tỉnh Thức, Chuẩn Bị Và Chờ Đợi

(Mathiơ 25:1-13)

 

“Khi ấy vương quốc thiên đàng sẽ giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. 2 Trong các cô ấy, có năm cô dại và năm cô khôn. 3 Năm cô dại cầm đèn đi nhưng không đem dầu theo với mình. 4 Nhưng năm cô khôn mang bình dầu theo với đèn của mình. 5 Vì chàng rể đến trễ, nên các cô buồn ngủ và ngủ thiếp đi. 6 Ðến nửa đêm có tiếng kêu lớn, ‘Kìa, chàng rể đến kia. Hãy mau mau ra đón.’ 7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ đều thức dậy và khêu tim đèn của mình lên. 8 Các cô dại nói với các cô khôn, ‘Xin các chị cho chúng tôi ít dầu, vì đèn chúng tôi sắp tắt.’ 9 Nhưng các cô khôn đáp, ‘Không được, e không đủ dầu cho đèn của chúng tôi và đèn của các chị. Chi bằng các chị hãy đến những người bán dầu mà mua là hơn.’ 10 Ðang khi các cô ấy đi mua dầu, chàng rể đến, và những ai đã sẵn sàng đều cùng chàng rể vào dự tiệc cưới; rồi các cửa đóng lại. 11 Lát sau các trinh nữ kia cũng đến và gọi, ‘Chủ ơi, chủ ơi, xin mở cửa cho chúng tôi.’ 12 Nhưng chủ đáp, ‘Thú thật với các cô, tôi không biết các cô.’ 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày cũng không biết giờ.”

(“At that time the kingdom of heaven will be like ten virgins who took their lamps and went out to meet the bridegroom. 2 Five of them were foolish and five were wise. 3 The foolish ones took their lamps but did not take any oil with them. 4 The wise ones, however, took oil in jars along with their lamps. 5 The bridegroom was a long time in coming, and they all became drowsy and fell asleep. 6 “At midnight the cry rang out: ‘Here’s the bridegroom! Come out to meet him!’ 7 “Then all the virgins woke up and trimmed their lamps. 8 The foolish ones said to the wise, ‘Give us some of your oil; our lamps are going out.’ 9 “‘No,’ they replied, ‘there may not be enough for both us and you. Instead, go to those who sell oil and buy some for yourselves.’ 10 “But while they were on their way to buy the oil, the bridegroom arrived. The virgins who were ready went in with him to the wedding banquet. And the door was shut. 11 “Later the others also came. ‘Lord, Lord,’ they said, ‘open the door for us!’ 12 “But he replied, ‘Truly I tell you, I don’t know you.’ 13 “Therefore keep watch, because you do not know the day or the hour.)

 

 

I. Teaching in Parables

 

> Do you like to listen to stories? (Quí vị có thích nghe kể chuyện không? Những câu chuyện giúp ích cho c/ta điều gì?)

# They create interests, draw attentions, easy to understand, and the listeners can remember the message for a longtime… (Những câu chuyện thường thu hút… làm c/ta thích nghe, dễ hiểu, và giúp cho người nghe nhớ lâu được ý nghĩa của sứ điệp.)

> Jesus used a total of 48 parables recorded in the Bible, more than 1/3 of these stories are teachings about God’s kingdom of heaven… which is coming. (Chúa Giê-su đã dùng tất cả 48 ẩn dụ, được ghi chép lại trong Kinh Thánh, và khoãng 1/3 của những câu chuyện này là để dạy dỗ về nước Đức Chúa Trời sắp đến.)

> This means that - Death is not DONE; After we die - we do not just evaporate into “nothingness,” but there is judgement to follow… to determine a person’s destination in heaven… or in hell. (Như vậy có nghĩa là “Chết chưa phải là Hết;” sau khi c/ta qua đời, c/ta không có “bốc hơi” biến mất vào chỗ hư không, nhưng theo sau là sự phán xét, để định xem mỗi người sẽ vào thiên đàng… hay hồ lửa địa ngục.)

 

> So, when will the time of this judgment be? (Như vậy khi nào thì sự phán xét này sẽ xảy ra?)

# When Jesus returns one day soon… He will judge sinners, and reward the righteous. (Khi Chúa Giê-su trở lại, Ngài sẽ phán xét mọi tội nhân, và phát thưởng cho những người công bình.)

> The 10 virgin parable this morning… is meant to teach us that Jesus is coming – so, we must be ready. (Ẩn dụ 10 người nữ đồng trinh sáng nay, Chúa dùng để dạy c/ta về sự trở lại của Ngài là điều chắc chắn, mà mỗi người phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng.)

a) Sinners must not delay, but you need to repent and believe in Jesus… to be saved from hell; (Những tội nhân đừng trì hoãn nữa, nhưng bạn phải ăn năn và tin nhận Cứu Chúa Giê-su, để thoát khỏi hình phạt của lửa địa ngục;)

b) Christians must not procrastinate in serving God wholeheartedly…  because when Jesus returns, we have no more opportunities to serve. (Còn con cái Chúa đừng sống thờ ơ nữa, mà phải hầu việc Chúa hết lòng, bởi vì khi Chúa Giê-su trở lại c/ta hết cơ hội rồi.)

 

> Note that in Chapter 24 – Jesus’ disciples asked Him when (what time) will be the end of the world? (Chú ý là trong đoạn 24, các môn đồ đã hỏi Chúa – khi nào thì là ngày tận thế sẽ đến?)

> They wanted to know the time of Jesus’ second coming, the time of the establishing of His Kingdom, and His rule on the earth. (Họ muốn biết khi nào thì Chúa Giê-su sẽ trở lại để thiết lập vương quốc của Ngài đời đời trên đất?)

> Jesus’ answer is in v.36, “But about that day or hour no one knows, not even the angels in heaven, nor the Son, but only the Father.” He repeated it in v. 42, “Therefore keep watch, because you do not know on what day your Lord will come.” He repeated it again in v. 44, “So you also must be ready, because the Son of Man will come at an hour when you do not expect him.” He repeated it again in v. 50 where He says, “The master of that servant will come on a day when he does not expect him and at an hour he is not aware of.” (Chúa Giê-su đã trả lời trong c. 36 – “Nhưng về ngày nào và giờ nào thì không ai biết. Ngay cả các thiên sứ trên trời cũng không biết, nhưng chỉ Cha biết mà thôi…” Ngài lập lại trong c. 42 – “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến…” Chúa lập lại nữa trong c. 44 – “Vậy các ngươi phải sẵn sàng, vì Con Người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ...” và rồi trong c. 50, Chúa nói nữa – “Chủ của đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết;”)

> Now in chapter 25 - Jesus taught the parable of 10 virgins to make the point about the suddenness and the un-expectedness of His return; Therefore, ALL people, sinners and Christians must be prepared… so that we are not caught in that unexpected moment, or unprepared for His coming.” (Bây giờ đến đoạn 25, Chúa dạy về ẩn dụ 10 người nữ đồng trinh để giải thích rõ về sự trở lại của Chúa sẽ là thời điểm bất ngờ, mà mọi người phải chuẩn bị, để khỏi bị mất cơ hội được cứu rỗi, hay mất phần thưởng sao?)

 

 

II. The Timeline

 

> Let’s first review the big picture – so we can understand how important His parable is. (Hãy trước hết xem hình ảnh tổng quát, để thấy sự quan trọng về ẩn dụ của Chúa Giê-su.)

> In the beginning, God created the world… and us. (Lúc ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời, đất, và loài người c/ta.)

# But Adam & Eve sinned in the garden; And the consequence - they were separated from His presence and destined to perish. (Tổ phụ c/ta là Ađam và Êva đã phạm tội, và hậu quả là họ bị phân rẽ khỏi sự hiện diện của Chúa, và bị định đoán hư mất đời đời.)

> But the loving God promised a Savior, a Messiah… Who would come to die on the cross, making an atonement (payback) for our sins, so we can be “re-connected” with the perfect & holy God. (Nhưng vì lòng yêu thương của Chúa, Ngài đã hứa ban cho một Đấng Cứu Thế, đã đến chịu chết trên cây thập tự chuộc mọi tội lỗi của c/ta, và làm c/ta được hòa thuận lại với Đức Chúa Trời.)

1) Every Christmas is a proof of the Savior’s first coming, when Jesus was born into this world. (Mỗi mùa Giáng Sinh là dấu chứng… đã một lần Đấng Cứu Thế giáng thế vào đời cứu nhân loại.)

 

2) The picture of a cross everywhere… is the undenied proof of His death for our sins. (Hình ảnh của thập tự gía ở khắp nơi… là chứng cớ sự chết của Chúa chuộc tội lỗi cho c/ta là có thật.)

 

3) Every living Christians are the proof of Jesus’ resurrection power with His Spirit is NOW living in them. (Mỗi người cơ đốc là bằng cớ của quyền năng sống lại của Chúa, qua Thần Linh Ngài sống trong và luôn biến đổi c/ta mỗi ngày.)

 

> But there is one more event to complete God’s salvation for us… is Jesus’ return to give all believers the eternal life in God’s heavenly kingdom. (Nhưng còn một sự kiện mầu nhiệm nữa phải xảy ra để làm trọn sự cứu rỗi… đó là sự trở lại của Chúa, để ban sự sống đời đời cho mọi kẻ tin.)

> There is one catch – His second coming will be a sudden and unexpected moment that everyone of us must be prepared. (Nhưng sự trở lại của Chúa sẽ là một sự kiện bất ngờ.)

# When Jesus came to the world first time – many people did not prepare for it, only some shepherds in the fields, and few wise men – would the same thing happen at His second coming, that the world is not ready and His church goes to sleep? (Khi Cứu Chúa Giê-su đến thế gian lần đầu, không có mấy người biết và chuẩn bị, chỉ có những mục đồng và vài người thiên văn học đón Chúa, chẳng lẽ việc này sẽ xảy ra giống như vậy sao… khi Ngài trở lại lần thứ hai?)

> For this reason – Jesus taught His disciples the parable of the 10 virgins. (Vì đó mà Chúa Giê-su dạy về ẩn dụ của 10 người nũa đồng trinh, để mỗi người nghe phải chuẩn bị.)

 

 

III. The 10 Virgin Parable  

 

> Who are these virgins? Who is the bridegroom? What do the lamps and oil mean? Why does the bridegroom come late? How do we know which virgins are wise and which ones are foolish? (Khi học về các ẩn dụ, điều trước tiên chúng ta nên tìm hiểu xem những nhân vật trong ẩn dụ đó biểu hiệu cho gì? 10 người nữ đồng trinh là ai? Đèn và dầu đây nghĩa là gì?)

 

1) First, we need to understand a little bit about the wedding custom of that time. (Trước hết c/ta cần tìm hiểu về phong tục đám cưới thời đó, gồm có 3 bước chính.)

 

a) The marriage usually begins with the fathers of both sides who make an initial engagement for their children to be married, the children then made their vows to each other which are binding. (Phong tục hôn nhân thường bắt đầu bằng sự xếp đặt của người cha của hai họ; sau đó 2 người nam nữ cam kết với nhau lời nguyện trong sự kết hôn.)

 

b) And then there was up to a year for the young man to get things ready to take the bride home to be his own. He had to provide a place for her, perhaps to build an addition room on his father’s house, or to purchase land and cultivate a field, and show that he could care for her. (Sau đó thì người nam có đến khoãng 1 năm để chuẩn bị một chỗ ở cho vợ mình.)

 

c) At the end of the engagement time, the man would go to take his bride, and she would become his wife and live with him – and that becomes the official wedding. (Cuối cùng là giai đoạn chàng rể sẽ đi rước vợ mình về nhà, làm xong trọn việc đám cưới.)

> The last step is the time we see here in this parable - when the bride is waiting with her bridesmaids, and the bridegroom arrives with all of his best men, and he collects his bride, then they all go with torches (lamps), parading throughout the night in the village with joyful singing, and the wedding celebration would go on as long as seven days. (Trong ẩn dụ 10 người nữ đồng trinh là bước cuối, lúc chàng rể cùng với những người phù rể đi rước cô dâu và các phù dâu, và trên tay họ có cầm đèn đuốc sáng, diễn hành suốt đêm, qua các đường phố, hát ca vui mừng đến bữa tiệc, và cuộc vui có thể diễn ra đến 7 ngày.)

 

2) Secondly, what are all things and personalities in this parable represented of? (Thứ hai c/ta cần học hỏi để biết những nhân vật trong ẩn dụ này thì biểu hiệu cho những ai?)

 

a) Of course, the bridegroom here represents Jesus - Who will return one day to collect His church – the bride. (Đương nhiên Chàng rểtrong ẩn dụ này biểu hiệu cho chính Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trở lại một ngày để tiếp đón nàng dâu của mình… là Hội Thánh.)

 

b) The 10 virgins can be understood as both sinners and Christians – Some are not ready for Jesus’ return, but some are prepared for it. (Mười người nữ này có thể biểu hiệu cho những tội nhân và con dân Chúa - một số chưa sẵn sàng chờ đợi Chúa trở lại, còn số khác thì đang chuẩn bị.)

 

> Notice that All of them are called “virgins,” they are all at the same place, they all have the same purpose to wait for the bridegroom (or wanting to attend the wedding celebration), they all have lamps. (Chú ý là lúc bình thường thì 10 người nữ đồng trinh, ai nấy cũng đều giống nhau hết.  Tất cả 10 người đều được gọi (hay xưng danh) là những người nữ đồng trinh, họ cùng ở một chỗ, cùng có mục đích muốn đón chàng rể (hay muốn lên thiên đàng), và cả 10 người đều có đèn trong tay.)

> By looking at them from outside – you cannot recognize which ones are wise and who are foolish? (Quan xát bên ngoài, c/ta không phân biệt được ai là người nữ đồng trong dại & ai là khôn?)

> But a clear distinction later that five of them are foolish, because they do not have oil when the bridegroom comes, and the other five do have oil in their lamps to light up and follow the bridegroom. (Nhưng cho đến khi chàng rể đến, thì lúc đó mới biết (hay phân biệt được) người nữ nào thật là “phù dâu,” tùy theo đèn người trinh nữ đó có ánh sáng tỏa ra hay không? Và rõ ràng đèn có sáng được hay không tùy theo đèn đó có dầu để đốt hay không?)

 

> Remember Jesus taught in another parable of the wheat and tares in Matthew 13 – they are growing together in this world, and even in churches? (Nhớ ẩn dụ khác Chúa Giê-su dạy về “cỏ lùng vào lúa mì” không? Cả 2 đều mọc lên trong ruộng, có khi trong nhà thờ nữa?)

> They look so much alike, that we don’t dare start pulling them out, unless we pull up the wheat, but wait until the coming of the Lord when He will make the distinction and do the separation. (Hai thứ giống hệt nhau bên ngoài mà c/ta không được nhổ cỏ lùng, vì nhỡ nhổ nhầm trốc gốc lúa thì sao, nhưng phải đợi khi mùa gặt đến, khi Chúa trở lại… Ngài sẽ phân biệt và phân rẽ 2 thứ ra.)

 

> Without too many questionins about who these virgins actually are, I want to make a few statements that may help you to understand who these virgins are. (Tôi xin nói vài điều để giúp quí vị hiểu rõ những trinh nữa này là ai.)

 

a) Not everyone comes into the church of God… will go to heaven, even they may have an interest to know God. (Không phải tất cả mọi người bước vào nhà thờ… đều sẽ được vào nước thiên đàng đâu, mặc dầu họ có sự quan tâm về đạo.)

 

b) Not everyone has a religion… such as Baptist, Catholics, Methodist, Buddhist… will go to heaven. (Không phải mọi người có tôn giáo… đều sẽ được vào nước Đức Chúa Trời đâu.)

 

c) Not everyone lives a good life - always doing charity, helping the poor, giving money to build temples/churches… will go to heaven. (Không phải tất cả những người sống tốt lành, hay bố thí, giúp xây nhà thờ đều chắc chắn sẽ được vào nước thiên đàng một ngày đâu.)

> Many people want or have a desire to go to heaven, but that does not mean that everyone will be there… at the end of the day. (Nhiều người biết và khao khát được rỗi linh hồn, nhưng đây không có nghĩa là mọi người sẽ được cứu trong ngày tận thế.)

> Jesus’ parable clearly said - Only those who have “oil” in their lamps… will go with the bridegroom to enter the wedding feast. (Ẩn dụ này, Chúa Giê-su dạy rõ, chỉ có 5 người trinh nữ có dầu trong đèn mình và chiếu sáng, khi chàng rể đến… thì mới được đi với và vào dự tiệc cưới.) 

> So, what is the oil in the lamp then? (Như vậy “dầu” đây nghĩa là gì?)

> The Bible often teaches that… “oil” representing the Holy Spirit. (Kinh Thánh thường xuyên dạy “dầu” là biểu hiệu cho Thần Linh của Chúa, Ngôi thứ Ba.)

> Who truly has the Holy Spirit? (Ai là người thật có Đức Thánh Linh?)

# Is it ALL the people going to church? No. (Có phải tất cả mọi người bước vào nhà thờ không?)

# Is it ALL the people doing good deeds? No. (Có phải tất cả những người luôn làm lành không?)

# Is it ALL the people always being religious, knowing the Bible from the front to the back? No. (Có phải tất cả mọi người gọi mình là đạo đức, có sự hiểu biết tất cả về lời Chúa không?)

 

1) The person who has the Holy Spirit - first must be convicted of sins by Him. (Người có Đức Thánh Linh, phải là người trước tiên được chính Ngài cáo trách tội lỗi mình.)

# John 16:7-9 what did the apostle John taught about the role of the Holy Spirit – “Nevertheless I (Jesus) tell you the truth: It is expedient for you that I go away; for if I go not away, the Comforter (another name for the Holy Spirit) will not come unto you; but if I go, I will send him unto you. 8 And he, when he is come, will convict the world (you and me in it) in respect of sin, and of righteousness, and of judgment:” (Sứ đồ Giăng chép rõ một trong những vai trò của Thánh Linh là gì mà Chúa Giê-su đã dạy? “Ta nói thật với các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi, vì nếu Ta không đi, Ðấng An Ủi sẽ không đến với các ngươi; nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ phái Ngài đến với các ngươi. 8 Khi Ngài đến, Ngài sẽ cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công chính, và về sự phán xét.”)

> To have the Holy Spirit resides in us, our lamps – the person must first be convicted of sins by Him. (Ai có Thánh Linh “dầu trong đèn mình” thì trước tiên phải được cáo trách tội lỗi.)

 

> What is sin? (Tội lỗi là gì?)

# Everything that is opposite to the righteousness of God. (Là tất cả những điều gì… đi nghịch với sự công bình của Đức Chúa Trời.)

 

> What is God’s righteousness? (Sự công bình của Đức Chúa Trời là gì?)

# It is the His perfect standard in the Person of Jesus Christ – His Son. (Là tiêu chuẩn toàn hảo của Chúa trọn vẹn ở trong Đức Chúa Giê-su Christ, Con Ngài.)

 

> Do you know what a plumb line is? what do people use it for? (Bạn có biết “sợi dây chì dọi” là gì không? Người ta dùng sợi dây này để làm gì?)

> To determine a true and perfect straight vertical line; at the same time, it defines all other lines are NOT straight: Religions are not, good works are not, living according to good conscience is not… only in Christ Jesus. (Để định coi xem một “đường thẳng dọc thật” là sao; cùng một lúc nó chỉ cho c/ta sự cong quẹo của những con đường khác: Không phải là tôn giáo do con người lập nên, không phải công việc làm lành để được cứu, nhưng chỉ bởi Cứu Chúa Giê-su mà thôi.)

> Only one standard that God accepts for a person to enter His kingdom, not being a Baptist, a Catholic, a Buddhist, a religious person, a good person… but that is the blood of His Son on the cross, and whoever calls upon His name – Jesus… will be saved, will enter heaven, will go with the bridegroom to celebrate the feast of the Lamb. (Chỉ có một tiêu chuẩn Đức Chúa Trời chấp nhận để một người được rỗi linh hồn, thoát địa ngục nhưng được vào thiên đàng, không phải là tôn giáo, công đức cá nhân, nhưng là Huyết vô tội của Chúa Giê-su đã đổ ra trên cây thập tự, và ai quyết tâm bằng lòng kêu cầu danh Ngài… thì được cứu, được vào nước thiên đàng.)

 

# I believe that many people will wake up at the end time and be surprised… that they do not have “oil,” their lamps do not light up, they do not have the righteousness of God, because they never believe in Jesus – They may say: “Lord, Lord, did we not prophesy in your name and in your name drive out demons and in your name perform many miracles?” But they will hear Jesus said to them plainly, ‘I never knew you. Away from me, you evildoers!” (Tôi tin rằng trong ngày tận thế, nhiều người sẽ rất ngạc nhiên, bởi vì đèn của mình không có dầu; vì họ không có sự công bình của Chúa, vì chưa bao giờ tin nhận Cứu Chúa Giê-su. Họ có thể nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi há chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, hoặc nhân danh Chúa mà đuổi quỷ, hoặc nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao… đi nhà thờ sao, làm nhiều việc lành sao?” Nhưng bấy giờ họ sẽ nghe Chúa đáp: “Ta không hề biết các ngươi; hỡi bọn làm việc gian tà, hãy đi ngay cho khuất mắt Ta.”)

> Wait a minute now, pastor – I go to VHBC, I got baptized there, I even taught the Bible there? I have a good religion? I don’t need to repent my sins and believe in Jesus alone…

> Don’t be liked the foolish virgins; Don’t be surprised… because you don’t have oil in your lamp, You never really repent your sins and believe in Jesus Christ – God’s Son, even though you may have gone to church 1,000 times.

> The virgins that go with the bridegroom are NOT the ones that just have beautiful lamps outside, decorating with religious activities and good works, but the ones who have “oil” inside their lamps that produces light. (Năm người nữ được đi theo với chàng rể, không phải là vì họ có cái đèn đẹp bên ngoài, được trang trí bởi những việc làm đạo đức, nhưng là vì cái đèn của họ có “dầu” bên trong, được mồi và đốt sáng.)

> Your “lamp” must have oil – The Holy Spirit must witness your faith of believing in Jesus Christ to enter heaven one day. (Đèn của bạn phải có dầu, Đức Thánh Linh phải ấn chứng đức tin của bạn đã quyềt định bằng lòng tin nhận Cứu Chúa Giê-su, để được vào nước thiên đàng, ngaòi ra không còn một tiêu chuẩn nào nữa.)

 

2) Your lamp must have oil, and also know this - Someone else cannot give/share their “oil” with oyu on the last day. (Không phải đèn mình phải có dầu, nhưng bạn cần biết – không ai có thể cho dầu của họ… cho bạn được trong ngày tận thế được.)

> In this parable and when the bridegroom came un-expectedly, the foolish virgins ask the wise to share their oil with them, but they “cannot do” that. (Trong ẩn dụ này khi chàng rễ đến trễ, thì 5 người trinh nữ dại không còn dầu trong đèn, nên năn nỉ xin 5 người kia chia sớt cho mình một ít, nhưng họ không làm được.)

> Salvation is non-transferable. Personal faith cannot be shared. (Sự cứu rỗi không thể sang sẻ được. Đức tin cá nhân không thể chia cho nhau được.)

> The point here is NOT that the wise virgins are selfish, but it is intending to teach the non-transferable nature of salvation. (Đây không phải là 5 người nữ khôn sống ích kỷ, nhưng rõ ràng Chúa dạy ẩn dụ này để cho mọi người hiểu sự cứu rỗi không thể sang sẻ cho nhau được, mỗi người phải tự có, tự quyết định lấy cho chính mình… trước ngày tận thế.)

# The saved can’t save the lost. (Người đã được cứu không thể cứu tội nhân hay người khác được.)

# Your mom even though she loves you very much – she cannot do for you; it’s a matter of individual, of each person must “receive” the oil for himself before the bridegroom comes. (Cho dù mẹ quí vị thương yêu bạn đến đâu đi nữa, bà cũng không làm được trong ngày tận thế, sự cứu rỗi là vấn đề cá nhân riêng của mỗi người; không phải cha tôi là mục sự là tự động tôi được cứu đâu.)

 

3) After the sudden coming of the bridegroom, the door will be closed; so, be ready. (Sau khi chàng rễ đến thì cửa sẽ bị đóng lại – “Ðang khi các cô ấy đi mua dầu, chàng rể đến, và những ai đã sẵn sàng đều cùng chàng rể vào dự tiệc cưới; rồi các cửa đóng lại.”)

> In Matthew 24:40-41 - Jesus also taught about what happens at His un-expected return: Two people will be in the field working, and one will be taken, the other left; two will be grinding at the mill, one will be taken and the other left. (Trong Mathiơ 24:40-41, Chúa Giê-su nói trước về sự trở lại bất ngờ của Ngài – “Bấy giờ sẽ có hai người nam ở ngoài đồng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. 41 Hai người nữ xay cối, một người được đem đi, một người bị bỏ lại.”)

> They will be going on with the daily routine of grinding, plowing, planting, and suddenly the Lord returns to collect His church. (Cả 2 người sống như thường, cầy ruộng, say cối… làm móng tay, đầu tư, sửa chữa, đánh cá, texting, trang điểm, làm tóc… thình linh một người được cất đi, còn một người bị để lại.)

> Again in vs. 37-39 – Jesus said it would be like in the days of Noah, there will be eating, drinking, marrying and giving in marriage - life as usual, and then Jesus appears in the clouds to rapture His church, but others will be left behind – and it’s too late. (Trong c. 37-39, Chúa Giê-su nhắc lại sự kiện lịch sử - “Vì như trong thời Nô-ê thể nào, khi Con Người đến cũng thể ấy. 38 Vì giống như trong thời đó, trước khi nước lụt, người ta ăn, uống, cưới, gả, cho đến ngày Nô-ê vào tàu. 39 Họ chẳng quan tâm gì cho đến khi nước lụt đến và cuốn đi hết thảy.” Mọi sự trễ quá rồi.)

# Can you imagine a picture on the day of the flood in Noah’s time as the water started to go over their heads and they beat on the door of the ark, but no avail. And all their mockery had ended and was replaced by the sheer terror of their foolishness?

> The same picture as the foolish virgins go, get the oil and return, but the door is already closed; it’s too late and no second chance, no more opportunity to re-incarnate for a “make-up test.” (Hình ảnh cũng giống vậy, khi 5 người trinh nữ dại, đi mua dầu, trở lại… thì cửa đã đóng lại rồi; không còn cơ hội để “đầu thai kiếp khác” nữa.)

# People may knock all they want, but the door will be shut. The days of opportunity have come and gone forever. (Người ta có thể gõ cửa bao nhiêu cũng được, nhưng cơ hội không còn nữa.)

 

> For Christians – you will not lose your salvation, but this parable reminds us that we may miss opportunities to serve God, and lose a lot of eternal rewards. (Cho con dân Chúa, sự cứu rỗi của c/ta không bị mất, nhưng ẩn dụ này cũng nhắc mỗi người c/ta có thể đánh mất nhiều cơ hội tốt hầu việc Chúa, để rồi mất phần thường đời đời sao?)

# What did Jesus promise in Revelation 22:12“Look, I am coming soon! My reward is with me, and I will give to each person according to what they have done.” (Khải Huyền 22:12 Chúa Giê-su hứa gì? “Nầy, Ta đến mau chóng, đem phần thưởng theo với Ta, để thưởng cho mỗi người tùy việc họ làm.”)

> “What we have done,” not what we have said or thought about… (… Tùy theo việc c/ta làm, chứ không phải nói thôi, hay suy nghĩ về nó.)

 

> Will you regret anything… if Jesus returns tomorrow? (Quí vị có sẽ nuối tiếc gì không, nếu Chúa Giê-su trở lại ngày mai?)

# I wish that… I would work less and serve God more? I wish that… I would spend less time playing video games, chat, surf the net, texting, watching Korean movies… but more time to serve God and His church? Would you? (Tôi ước gì làm việc ít lại để có thì giờ hầu việc Chúa nhiều hơn? Ước gì tôi dùng ít thí giờ hơn cho việc chơi games, nói chuyện tào lao trên Iphone, xem phim hàn quốc… để hầu việc anh chị em mình trong danh Chúa hơn? Quí vị có sẽ nuối tiếc gì không?)

> Don’t live with an attitude “My service to God is ok.” (Đừng sống với thái độ tự mãn – tôi hầu việc Chúa vài tiếng đồng hồ mỗi sáng Chúa Nhật là đủ rồi!) 

# Did you see a new AT&T commercial about technology on TV says: “Just Ok is not Ok.”

# A story of a Christian boss who had a big business, he worked really hard, saved a lot of money, but being selfish, just keeping for himself, enjoying his own pleasures. One day, he died and went to heaven, the angel gave him a tour to his house. Passing through a heaven street, the angel pointed to a beautiful castle on the right and said: “That belongs to your Christian servant who worked for you on earth and always helped the church, cared for others in Jesus’ name.” The boss thought: “Whoa! If my servant has that beautiful castle, then mine must be even better, bigger, nicer…” But surprised, the angel pointed to a little shack on the field to the left and said: “That is your dwelling place.” The boss screamed “Why a shack?” The angel responded: “Because up here in heaven, the rewards are only based on what you had lived for others (not for yourself) in Jesus’ name when you were still on earth.”

> Each Christian is responsible with the gifts that the Holy Spirit gives us. We will be rewarded according to how we use the gifts to serve God, and not “digging” a hole and bury it. (Mỗi người tín hữu chịu trách nhiệm với những ơn mình có, và c/ta sẽ được phần thưởng tùy theo c/ta đã sử dụng những ơn này trung tín như thế nào, chứ không có “đào lỗ” mà chôn.) 

> Will you regret anything when Jesus returns? (Quí vị có sẽ nuối tiếc gì không khi Chúa trở lại?)

 

---------------------------------

> The world and churches are filled with people - who are un-redeemed and un-prepared for the coming of the Lord. (Thế giới đầy dẫy những người chưa được cứu, và chưa sửa soạn để chờ đón Chúa Giê-su trở lại.)

> Don’t be in either of these groups, but be ready everyday: making sure you have repented your sins and believe in Jesus Christ, and live for Him, serve God with all the gifts you have… before the door of heaven closes, and there will be no second chance. (Đừng ở trong 2 nhóm người này, nhưng hãy chuẩn bị sẵn sàng bằng cách ăn năn tội, tiếp nhận Cứu Chúa Giê-su hôm nay, và luôn tỉnh thức hầu việc Chúa với những ơn mình có, trước khi cửa thiên đàng đóng lại, mà không còn cơ hội lần nữa.) 

 

> Story of a couple who visited a monk village, which is built upon a high-top mountain.

> You cannot get there by plane or car, but walking, then get into a basket and the monks use ropes to pull you up to the place to tour.

# The man inside the basket saw the pulling ropes was kind of old, and worn-out; so he was very worried, and asked the monk in the basket with him – “So, how often do you replace these ropes?”

> The monk simply answered: “When it breaks!” (Khi nào nó bị đứt.)

# What? “When it breaks!” it is too late!

 

> Do you know when your life will “break?” Do you know when you are going to die? No one knows, and when it happens – it is too late, and there is no second chance. (Bạn có biết cuộc đời của bạn khi nào “bị đứt” không? Bạn có biết khi nào bạn chết không? Không ai biết được, và khi nó đến bất thình linh thì có quá trễ cho bạn được cứu không?)  

> That’s why the Bible says in 2 Corinthians 6:2“… NOW is the time of God’s favor, now is the day of salvation.” Not tomorrow – it is too late! (Vì vậy Kinh Thánh trong 2 Corinthians 6:2 chép rõ – “… Này, bây giờ là thời điểm thuận lợi! Này, hôm nay là ngày cứu rỗi!”)

 

> Friends – you need to believe in Jesus TODAY, don’t put off tomorrow, because it may not come. (Bạn hãy tin Chúa Giê-su hôm nay đi, chớ để ngày mai, vì ngày mai chưa chắc nó đến.)

 

---------------- Invitation

 

> Bạn có tin Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa hiện hữu không? “Nếu không có Chúa làm sao có mình?”

> Bạn có tin là Chúa là Đấng yêu thương bạn không?

# Kinh Thánh chép rõ - Đức Chúa Trời hiện hữu và yêu thương c/ta, tuy rằng loài người lạc loài trong bể tội, nhưng Ngài không bỏ c/ta, lại dám hy sinh và sai Con một của mình đến thế gian, chịu chết trên cây thập tự, hầu cho c/ta thoát lửa địa ngục, nhưng được vào nước thiên đàng một ngày.

> Chúa Giê-su đã Giáng Sinh, Ngài đã chết trên cây thập tự vì tôi và bạn, Chúa đã sống lại về Trời; nhưng một ngày Ngài sẽ trở lại để ban nước thiên đàng cho mọi kẻ tin.

 

> Không phải ai cũng sẽ được vào nước thiên đàng, nhưng chỉ những kẻ tin mà thôi, như ẩn dụ Chúa dạy - chỉ 5 người nữ đồng trinh khôn ngoan có dầu trong đèn mình đốt sáng.

> Không phải hết thảy mọi người đều sẽ được vào nước thiên đàng đâu! Không phải hết thảy những ai đi nhà thờ, hay làm việc thiện, có đạo dòng… thì sẽ được vào nước thiên đàng đâu, nhưng chỉ có những ai có đức tin nơi Cứu Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời mà thôi.

> Tin đúng Đối Tượng - Đấng Cứu Chuộc, Chúa Giê-su mà Đức Chúa Trời đã sai đến, chứ không phải tin vào tôn giáo, những việc làm lành, đạo đức bề ngoài, hay công đức cá nhân…

# Lẽ that trong ẩn dụ 10 người nữ đồng trinh mong giúp bạn hiểu rõ - chỉ có những ai có “dầu” trong đèn của mình, nghĩa là được cáo trách tội lỗi, ý thức mình là một kẻ tội nhân, nay ăn năn và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời đã từ Trời giáng thế, chịu chết đổ huyết làm sạch mọi tội của mình, được Thánh Linh ấn chứng… thì người đó chắc chắn sẽ được cứu.  

 

> Bạn có dám tin lời Chúa Giê-su sẽ trở lại để ban cho nước thiên đàng là có thật không?

> Bạn có hiểu sự trở lại của Chúa là bất ngờ, mà bạn phải sẵn sàng ngay bây giờ, nếu không qúa trễ vì “cửa” thiên đàng sẽ bị đóng lại.

# Đi công tác, lái xe trên I-10 cạnh những xe hàng 18 bánh, luôn suy nghĩ nếu bị đụng xe bất thình lình thì sao? Mình sẽ về với Chúa.

> Trong ngày tận thế - bạn sẽ không còn cơ hội lần thứ hai nữa đâu, không còn lý do bào chữa nào nữa đâu, vì Chúa đã sai biết bao nhiêu người đến “năn nỉ” bạn đến tin nhận Ngài rồi.

# Thử hỏi có ai bán bảo hiểm cho bạn sau khi tai nạn đã xảy ra không?

> Chúa ban cho sự cứu rỗi như không, mà mình không nhận thì còn nói chi được nữa trong ngày tận thế?

> Bạn sẽ là người trinh nữ khôn hay dại sáng nay?

> Thì giờ cứu rỗi là ngay bây giờ - Hôm nay là ngày cứu rỗi! Hãy mở lòng tiếp nhận Chúa.

 

--------------------

> Con dân Chúa có đang tỉnh thức chuẩn bị như thế nào để gặp Chúa “trên mây” (1 Têsalônica 4:16) và được ở cùng Ngài (Giăng 14:3) chưa?

> Đừng trì hoãn nữa, vì c/ta cũng sẽ đánh mất cơ hội hầu việc Chúa sao?

# Mánh khóe của ma quỉ luôn là cám dỗ để c/ta bị lo ra vào những việc kém quan trọng hơn, mà không còn nhắm mục tiêu ưu tiên, để chuẩn bị chờ đợi Chúa trở lại mà nhận phần thưởng.

> Hãy luôn tỉnh thức, chắc chắn đèn mình có đầy dầu, đầy dẫy Thánh Linh cai trị; Sống trong đức tin với sự trung tín hầu việc Chúa.

> Hãy sống là những người trinh nữ khôn chờ đợi chàng rể trở lại. Khôn là sao?

a) Giữ mình khỏi sự ô uế của thế gian; b) khôn ngoan lợi dụng thì giờ hầu việc Chúa; c) sống theo ý Cha.

> Sống khôn ngoan “ngướn mắt lên” luôn trong năm 2019 chờ đợi chuẩn bị ngày Chúa Giê-su trở lại ban cho nước thiên đàng.