Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 60

Ađam - "Ngươi Ở Đâu?"

Sáng Thế Ký 3:9

www.vietnamesehope.org

 

“Giê-hô-va Đức Chúa Trời kêu A-đam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu?”

(But the LORD God called to the man, “Where are you?”)

 

 

Trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, có bao giờ bạn đã đánh mất một vật gì rất quí giá chưa? Cách đây hơn nửa năm, vợ tôi đánh mất cặp nhẫn cưới, vì có người rình, đã lẻn vào xe chúng tôi và ăn cắp mất khi chúng tôi ở trong tiệm uống càphê. Khi lái xe nửa đường về gần đến nhà mới ý thức là mất cái ví trong đó có những giấy tờ quan trọng, vài thẻ credits, một ít tiền mặt, và nhất là cặp nhẫn cưới. Vợ tôi tối hôm đó quay xe trở lại tìm từ trong những thùng rác, cho đến những ghế ngồi, vỉa hè mong kẻ trộm trả lại cái ví mà mình đã đánh mất. Chúng tôi cảm thấy rất buồn, kéo dài cả đến cả một tuần lễ vì cặp nhẫn cưới không phải chỉ là một vật đắt tiền mà thôi, nhưng nó còn tượng trưng một điều gì rất quí gía về tình yêu và sự hôn nhân của chúng tôi.

 

 

I. Những Lý Do Tìm Kiếm

 

Có ba điều căn bản chúng ta cần hiểu về việc tìm kiếm.

 

1) Thứ nhất, chúng ta sẽ bỏ công hết sức ra đi tìm một vật gì đó, lý do là vì vật đó thuộc của mình, còn nếu thuộc của người khác chúng ta chẳng bận tâm làm chi, phải không?

 

2) Thứ hai, chúng ta đi tìm một vật gì đó vì nó rất quí gía đối với chúng ta, còn nếu chỉ là một miếng giẻ rách, những cái lon lủng, một đôi giầy, vài đồng đô-la thì cũng chẳng đáng tìm làm chi cho mệt sức, phải không? Đi vào những chợ Wal-mart, chúng ta thường thấy người ta đăng hình tìm những trẻ lạc và có thưởng, tại sao vậy? Vì đây là những người thân yêu trong gia đình của chính họ đã thất lạc, chứ không phải là những thứ vô gía trị.

 

3) Thứ ba, khi chúng ta đi tìm ra được rồi thì mình sẽ phải sẵn sàng trả mọi gía để chuộc lại điều quí gía mà mình đã đánh mất, nếu không thì tự chúng ta đã đi “ăn cắp” của người khác, vì vật quí của chúng ta đánh mất bây giờ đã thuộc của người khác rồi.

 

Trong Kinh Thánh cũng nói đến câu chuyện Đức Chúa Trời, Đấng Tối Cao đã một lần đi tìm kiếm một nhân vật rất quí gía đối với Ngài.

 

1) Thứ nhất, vì nhân vật này thuộc của chính Ngài. Chính Đức Chúa Trời đã dựng nên nó, được giống hình ảnh và có sanh khí của chính mình. Nhân vật đó chính là ông Ađam, tổ phụ của loài người mà Chúa rất yêu. Chúng ta phải hiểu Đức Chúa Trời là thần, nghĩa là Ngài không có hình tượng, hay thể xác như con người chúng ta và khi Chúa dựng nên Ađam giống hình ảnh của Mình, không chỉ có nghĩa là dựng nên thân thể xác thịt này thôi, nhưng nói đến phần linh hồn, thiêng liêng mà mỗi người chúng ta có để có thể tương giao với chính Ngài mà không có một loài nào khác có. Ngày xưa, trước khi Ađam và Êva phạm tội ăn trái của cây cấm, ông bà có phần thần linh quí báu đầy dẫy sự vinh hiển, thánh khiết của Đức Chúa Trời và được tự do tương giao hoàn toàn với Ngài. Cho đến khi hai người nghe theo lời dẫn dụ của quỉ satan không vâng lời, ăn trái của cây cấm thì Kinh Thánh chép họ thấy mình “lõa lồ,” vì đã đánh mất đi sự vinh hiển thánh khiết của Chúa. Cho nên ngay sau khi phạm tội, hai người tự thấy mình xấu hổ đi lấy lá che thân thể mình, và vào bụi cây trốn tránh Đức Chúa Trời. Trong sách Sáng Thế Ký 3:6-8 chép – (When the woman saw that the fruit of the tree was good for food and pleasing to the eye, and also desirable for gaining wisdom, she took some and ate it. She also gave some to her husband, who was with her, and he ate it. 7 Then the eyes of both of them were opened, and they realized they were naked; so they sewed fig leaves together and made coverings for themselves. 8 Then the man and his wife heard the sound of the LORD God as he was walking in the garden in the cool of the day, and they hid from the LORD God among the trees of the garden.)  “Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa. 7 Đoạn, mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lõa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân. 8 Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời.” Trước kia hai người được tự do tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng sau khi ăn trái cấm thì sợ nghe tiếng phán của Chúa vì đã đánh mất sự vinh hiển do tội lỗi gây nên. Đây là hậu quả tự nhiên của tội lỗi mà nó sẽ phân rẽ/xa cách tội nhân với Đức Chúa Trời thánh khiết vẹn toàn. Giống như là khi con em chúng ta nói láo thì điều tự nhiên chúng nó thường muốn tránh mặt chúng ta, phải không?  Mà có nói chuyện đi nữa thì thường không dám “nhìn thẳng” vào mặt chúng ta. Hồi xưa, mỗi lần đi học về mà “thành tích biểu” (grade report) có điểm thấp, hạng thấp thì tôi luôn trốn không muốn thấy ba tôi để bị đòn, có khi trốn vào trong phòng vệ sinh, đợi đến khi nào có khách đến nhà chơi trong không khí vui vẻ của gia đình thì mới đưa thành tích biểu ra cho ba tôi ký tên cho lẹ, vì ông không để ý.

   

2) Vì Đức Chúa Trời đã đánh mất một nhân vật rất quí gía thuộc của mình nên Ngài đã tự ý đi tìm Ađam và hỏi: “Ngươi ở đâu?” Đây không có nghĩa là Đức Chúa Trời ngay lúc đó không biết Ađam ở đâu vì Ngài là Đấng quyền năng, tối cao, vô sở bất tri, nghĩa là không có gì Ngài không biết. Chúa biết rõ hai người đang trốn trong bụi cây, Ngài biết rõ tình trạng xấu hổ của hai người, và sự xa cách họ tự nhận thấy với Chúa vì tội lỗi của mình đã phạm. Bản chất của con người chúng ta là tội lỗi, là hư mất, là lạc loài, là mù quáng, không thấy, không hiểu lẽ thật, không ai trong chúng ta tự muốn đi tìm kiếm Chúa, nên chính Ngài phải đi tìm chúng ta. Sách Rôma 3:10-11 lời Chúa chép gì? (As it is written: “There is no one righteous, not even one;  there is no one who understands; there is no one who seeks God.) “như có chép rằng: Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không. Chẳng có một người nào hiểu biết, Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời.” Khuynh hướng của con người là thích sống trong sự tối tăm hơn là sự sáng và làm những điều ác, nghịch lại với Đức Chúa Trời.

 

 

II. Ẩn Dụ Chiên Lạc

 

Một trong những ẩn dụ nổi tiếng của Chúa Giê-xu giúp cho chúng ta hiểu được điều này đó là ẩn dụ về “Con Chiên Lạc” có chép trong Tin Lành Luca 15:1-7 như sau: (“Now the tax collectors and "sinners" were all gathering around to hear him. But the Pharisees and the teachers of the law muttered, "This man welcomes sinners and eats with them." Then Jesus told them this parable: "Suppose one of you has a hundred sheep and loses one of them. Does he not leave the ninety-nine in the open country and go after the lost sheep until he finds it? And when he finds it, he joyfully puts it on his shoulders and goes home. Then he calls his friends and neighbors together and says, 'Rejoice with me; I have found my lost sheep.' I tell you that in the same way there will be more rejoicing in heaven over one sinner who repents than over ninety-nine righteous persons who do not need to repent.) “Hết thảy các người thâu thuế và người có tội đến gần Đức Chúa Jêsus đặng nghe Ngài giảng. Các người Pha-ri-si và các thầy thông giáo lằm bằm mà nói rằng: Người nầy tiếp những kẻ tội lỗi, và cùng ăn với họ! Ngài bèn phán cho họ lời thí dụ nầy: Trong các ngươi ai là người có một trăm con chiên, nếu mất một con, mà không để chín mươi chín con nơi đồng vắng, đặng đi tìm con đã mất cho kỳ được sao? Khi đã kiếm được, thì vui mừng vác nó lên vai; đoạn, về đến nhà, kêu bạn hữu và kẻ lân cận, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được con chiên bị mất. Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn.” Nghề chăn chiên hay dê trong thời đó là một trong những kỹ nghệ chính ở vùng Palestine. Chiên/dê đem lại sữa, thịt, lông và da cho nhiều kỹ nghệ sản xuất lúc đó và khi nói đến việc chăn chiên thì ai cũng sẽ hiểu. Ẩn dụ này nói về một người chăn chiên kia có nuôi 100 con chiên trong đàn của mình. Theo lối chăn chiên thời đó, mỗi buổi chiều khi người chăn lùa chiên mình vào chuồng, người chăn thường đếm từng con một: 1, 2, 3, 50, 60, 80, 98, 99… Một hôm, người chăn đếm đi đếm lại mà sao vẫn thiếu một con, thì hóa ra một con chiên đã bị thất lạc. Khi biết mất một con rồi thì người chăn không có tự nghĩ: "Thôi mất một con cũng đâu có sao? Mình còn 99 con mà? Mặc kệ con chiên đã đi lạc, đáng khiếp cho nó vì nó không nghe lời; Vả lại khu rừng ngoài kia, giờ đây rất là nguy hiểm, có nhiều thú dữ rình rập, dại gì mà bỏ đi tìm một con chiên lạc đó, và rồi còn có thể gây sự nguy hiểm đến tánh mạng của chính mình nữa sao?” Chúa Giê-xu phán: người chăn chiên trong câu chuyện này thì lại không nghĩ như vậy, nhưng ngay lập tức bèn để 99 con kia ở lại ở trong chuồn mình, ra đi, tìm kiếm cho được con chiên đã bị lạc mất. Tại sao người chăn chiên không thỏa lòng với 99 con kia và không sợ nguy hiểm đến tính mạng mà lại cố đi tìm cho được một con chiên đã bị đi lạc? Dễ hiểu thôi, vì chiên lạc đó thuộc của người chăn. Con chiên lạc đó rất quí gía như 99 con chiên kia. Người chăn cũng biết rõ tự con chiên đi lạc đó không ý thức được những tình trạng nguy hiểm trước mắt của các thú dữ đang rình mò để ăn thịt nó; và tự nó cũng không khôn ngoan đủ để có thể tự tìm kiếm, đánh hơi mò đường trở về chuồn, là nơi nó luôn được chăm sóc và bảo vệ an toàn.

 

Người chăn chiên trong ẩn dụ này đương nhiên biểu hiệu cho chính Chúa Giê-xu; còn con chiên lạc đó là ai? Biểu hiệu cho chính Ađam mà Đức Chúa Trời đã một lần tìm kiếm trong vườn Êđen, hay chính là mỗi người chúng ta ngày hôm nay, người lành cũng như kẻ dữ, không chừa một ai hết. Trong sách Êsai 53:6 cho chúng ta thấy rõ điều này – (We all, like sheep, have gone astray, each of us has turned to his own way; and the LORD has laid on him the iniquity of us all.)  “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người.”

 

 

III. Chương Trình Chuộc Lại

 

Không phải tìm kiếm Ađam mà thôi, không phải ý thức sự yếu đuối bất toàn của Ađam và Êva không thể tự cứu mình, không thể che đậy tội lỗi của mình mà thôi, nhưng sau đó chính Đức Chúa Trời đã có một chương trình sắm sẵn để cứu chuộc lại hai người và dòng dõi của họ, để tìm lại những gì Ngài đã mất. Chương trình này đòi hỏi Đức Chúa Trời đã phải trả một gía rất cao đó chính là sự chết đổ huyết của chính Con Ngài là Cứu Chúa Giê-xu.

 

1) Chúng ta thấy hình bóng của chương trình “đổ huyết” này đã được bắt đầu ngay sau đó, khi Đức Chúa Trời đã phải giết một con thú vô tội, để có da làm thành áo dài mặc lấy cho hai người, và che đậy sự lõa lồ của hai người do tội lỗi gây nên, mà những lá cây không thể làm trọn được. Trong sách Sáng Thế Ký 3:21 chép rõ điều này – (The LORD God made garments of skin for Adam and his wife and clothed them.)  “Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho.”

 

2) Sự đổ huyết này qua biết bao nhiêu đời vẫn cứ tiếp tục diễn tiễn được biểu tượng qua đại lễ chuộc tội mỗi năm (The day of Atonement) của dân Do Thái là dân chọn của Đức Chúa Trời mà thầy tế lễ thượng phẩm phải giết những con vật, lấy huyết đi vào nơi chí thánh của đền thờ, dâng cho Đức Chúa Trời và cầu thay Chúa tha tội cho họ. Đại lễ chuộc tội (Day of Atonment) của người Do Thái này có chép rõ trong sách Lêviký 16 như sau: (“Aaron shall bring the bull for his own sin offering to make atonement for himself and his household, and he is to slaughter the bull for his own sin offering. 12 He is to take a censer full of burning coals from the altar before the LORD and two handfuls of finely ground fragrant incense and take them behind the curtain. 13 He is to put the incense on the fire before the LORD, and the smoke of the incense will conceal the atonement cover above the tablets of the covenant law, so that he will not die. 14 He is to take some of the bull’s blood and with his finger sprinkle it on the front of the atonement cover; then he shall sprinkle some of it with his finger seven times before the atonement cover. 15 “He shall then slaughter the goat for the sin offering for the people and take its blood behind the curtain and do with it as he did with the bull’s blood: He shall sprinkle it on the atonement cover and in front of it. 16 In this way he will make atonement for the Most Holy Place because of the uncleanness and rebellion of the Israelites, whatever their sins have been. He is to do the same for the tent of meeting, which is among them in the midst of their uncleanness. 17 No one is to be in the tent of meeting from the time Aaron goes in to make atonement in the Most Holy Place until he comes out, having made atonement for himself, his household and the whole community of Israel. 18 “Then he shall come out to the altar that is before the LORD and make atonement for it. He shall take some of the bull’s blood and some of the goat’s blood and put it on all the horns of the altar. 19 He shall sprinkle some of the blood on it with his finger seven times to cleanse it and to consecrate it from the uncleanness of the Israelites. 20 “When Aaron has finished making atonement for the Most Holy Place, the tent of meeting and the altar, he shall bring forward the live goat. 21 He is to lay both hands on the head of the live goat and confess over it all the wickedness and rebellion of the Israelites—all their sins—and put them on the goat’s head. He shall send the goat away into the wilderness in the care of someone appointed for the task. 22 The goat will carry on itself all their sins to a remote place; and the man shall release it in the wilderness.) “Vậy, A-rôn sẽ dâng con bò tơ mình, là con sinh tế chuộc tội, giết nó làm lễ chuộc tội cho mình và cho nhà mình; 12 đoạn lấy lư hương đầy than hực đỏ trên bàn thờ trước mặt Đức Giê-hô-va, và một vốc hương bột, mà đem vào phía trong bức màn. 13 Người phải bỏ hương trên lửa, trước mặt Đức Giê-hô-va, hầu cho ngọn khói hương bao phủ nắp thi ân ở trên hòm bảng chứng, thì người không chết. 14 Người cũng phải lấy huyết con bò tơ đó, dùng ngón tay rảy trên nắp thi ân, về phía đông, và rảy bảy lần về phía trước nắp thi ân. 15 Đoạn, người giết con dê đực dùng về dân chúng làm của lễ chuộc tội; đem huyết nó vào phía trong bức màn; dùng huyết con dê đực đó cũng như đã dùng huyết con bò tơ, tức là rảy trên nắp thi ân và trước nắp thi ân vậy. 16 Người vì cớ sự ô uế, sự vi phạm và tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên phải làm lễ chuộc tội cho nơi thánh và cho hội mạc ở giữa sự ô uế của họ. 17 Khi thầy tế lễ vào đặng làm lễ chuộc tội nơi thánh cho đến khi người ra, thì chẳng nên có ai ở tại hội mạc; vậy, người sẽ làm lễ chuộc tội cho mình, cho nhà mình, và cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. 18 Đoạn, người ra, đi đến bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, đặng làm lễ chuộc tội cho bàn thờ; người lấy huyết con bò tơ đực và con dê đực, bôi chung quanh những sừng của bàn thờ. 19 Rồi dùng ngón tay rảy huyết bảy lần trên bàn thờ, làm cho bàn thờ nên sạch và thánh, vì cớ những sự ô uế của dân Y-sơ-ra-ên. 20 Khi thầy tế lễ đã làm lễ chuộc tội cho nơi thánh, cho hội mạc, và cho bàn thờ rồi, thì người phải dâng con dê đực còn sống kia. 21 A-rôn sẽ nhận hai tay mình trên đầu con dê đực còn sống, xưng trên nó các gian ác và sự vi phạm, tức những tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên, và chất trên đầu nó, rồi nhờ một người chực sẵn việc nầy mà sai đuổi nó ra, thả vào đồng vắng. 22 Vậy, con dê đực đó sẽ gánh trên mình các tội ác của dân Y-sơ-ra-ên ra nơi hoang địa.” Trong nghi lễ này có ba con vật được dùng: một con bò tơ đực và hai con dê đực: con bò tơ và một con dê đực bị giết và thầy tế lễ thượng phẩm lấy huyết đem vào rẩy nơi thánh để cầu xin Chúa tha tội cho mình và cho dân mình. Khi đi ra, thầy tế lễ đặt tay lên đầu con dê đực thứ hai còn sống, xưng trên nó các sự gian ác và vi phạm là tội lỗi của mình và dân sự mình rồi đuổi con dê đực đó đi vào đồng vắng để chết ở đó, có hình bóng là nó gánh trên mình hết thảy các tội ác của dân sự Chúa. Sự đặt tay trên con vật đó tượng trưng sự “truyền” đi tất cả tội phạm của mọi người lên con dê này, vì đó mà người ta mới có danh từ gọi con vật đó là "the Scape goat," nghĩa là con dê bị đổ thừa tội lên mình nó.

 

3) Nghi lễ của sự chuộc tội này cứ được lập đi lập lại nhiều đời trong lịch sử của người do thái cho đến đúng thời điểm thì Con Trời, Đấng Cứu Thế đã đến, sanh ra trong lòng của một người nữ đồng trinh để chịu chết đổ huyết trên cây thập tự gía, làm của lễ chuộc tội một lần là trọn vẹn, hầu để Đức Chúa Trời chuộc hết thảy dòng dõi tội nhân của Ađam lại cho chính Ngài. Sách Galati 4:4 có chép – (But when the set time had fully come, God sent his Son, born of a woman, born under the law) “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp.” Chúng ta phải ý thức một điều tự nhiên như sau: “Vật nào càng quí bao nhiêu thì cái gía chuộc phải càng cao bấy nhiêu.” Mỗi người chúng ta có linh hồn là rất quí gía đối với Đức Chúa Trời mà Ngài đã phải trả một gía rất cao để chuộc lại chúng ta bằng chính huyết của Con một Mình. Cho đến khi nào chúng ta hiểu được điều này, chúng ta mới có thể hiểu được phần nào về tình yêu thương (agape) vĩ đại của Chúa đối với mỗi người chúng ta lớn lao là thể nào.  Chúa Giê-xu đã vâng lời Đức Chúa Cha giáng sanh, thành người hơn 2,000 năm trước đây và trong sách Tin Lành Luca 19:10 chép rõ mục đích Ngài từ trời đến trần gian này là để làm gì? (For the Son of Man came to seek and to save the lost.”) “Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất,” chuộc lại hết thảy những con chiên lạc cho chính Đức Chúa Trời, trong đó có tôi và bạn.

 

 

IV. Chúa Gọi Tên Mỗi Người Chúng Ta

 

Điều chúng ta phải hiểu nữa ở đây đó là câu Đức Chúa Trời hỏi “Ngươi ở đâu?” đến với Ađam cũng chính là câu hỏi Chúa Giê-xu hỏi mỗi người chúng ta ngày hôm nay? Như đã nói trước Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tri, có nghĩa là không có điều gì Ngài không biết, Chúa biết rõ hai người đang trốn trong bụi cây, nhưng Đức Chúa Trời hỏi để Ađam tự cáo trách về tình trạng tội lỗi, ý thức sự hư mất, lầm lạc của chính mình mà biết ăn năn. Trong đời sống, có khi Chúa cũng hỏi chúng ta câu hỏi tương tự này “Ngươi ở đâu?” Có thể trong hòan cảnh của một tai nạn chúng ta phải đối diện với, có thể một căn bịnh hiểm nghèo chúng ta mắc phải, có thể một thất bại nặng nề nào đó, để chúng ta biết dừng bước lại mới có thể nghe được tiếng Chúa đang gọi mình và nhận thức tình trạng hư mất xa đọa của mình? Con người chúng ta thật giống như những “con chiên đi lạc” hằng ngày chúng ta bận rộn và bị cuốn theo những chiều gió của thế gian này mà không để ý đến tiếng Chúa đang gọi mình. Chúa Giê-xu đang gọi mỗi người chúng ta “Ngươi ở đâu?” để chúng ta biết dừng bước lại giữa sự bận rộn của cuộc đời mà xem xét kỹ coi con đường chúng ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đi đâu? Có thật đến một chỗ bình an không, hay đang dẫn chúng ta đến chỗ hư mất đời đời trong hồ lửa của địa ngục? Chúa Giê-xu đang gọi mỗi người chúng ta “Ngươi ở đâu?” để chúng ta biết dừng bước lại nhận ra con người thật của mình mà biết ăn năn và tìm kiếm sự cứu rỗi của Chúa, không khẻo quá trễ. Chúa Giê-xu đang gọi mỗi người chúng ta “Ngươi ở đâu?” để chúng ta biết dừng bước lại coi xem mình có đang dùng những thứ gì để che đậy con người tội lỗi của mình không? Có phải những “lá cây tạm bợ” ở đời này, nào là rượu chè, tình dục bất chính, những công việc đạo đức, sức tu trì của mình mà có thật sẽ cứu linh hồn của mình được trong ngày tận thế không, hay chúng ta cần đến huyết của Chúa Giê-xu là con đường duy nhất để cứu thoát linh hồn của mình khỏi chốn hư mất đời đời. Chính Chúa Giê-xu khi Ngài đã đến và đã tuyên bố rằng Ngài là “Con Đường” duy nhất, là Lẽ thật sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời. Lẽ thật mà mọi người chúng ta cần biết có chép trong lời tuyên xưng của Chúa Giê-xu trong sách Giăng 14:6 như sau: (Jesus answered, “I am the way and the truth and the life. No one comes to the Father except through me.) “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.” Bản chất của con người là mù quáng, không thấy, không nghe, không hiểu lẽ thật mà cần có lẽ thật để được “sáng mắt” thì mới thoát khỏi sự hư mất, nhưng được sống đời đời ở trong nước thiên đàng với Đức Chúa Trời. Một vị giáo sĩ vào nhà của một người phụ nữ ấn độ làm chứng về Chúa Giê-xu mà căn phòng đó đang có nhiều cửa sổ bị đóng lại. Người phụ nữ nói: "Ông coi đây, như phòng này có nhiều cửa sổ. Đây tượng trưng cho nhiều con đường tôn giáo khác nhau có thể đến với thượng đế, thì Đạo Chúa Giê-xu cũng chỉ là một trong những cánh cửa sổ này mà thôi, như những tôn giáo khác. Vậy thì tại sao tôi cần phải tin đến Chúa Giê-xu, khi tôi đã có Ấn Độ gíao rồi?" Vị giáo sĩ nghe vậy bèn đến mở một cách cửa sổ ra để ánh sáng mặt trời chiếu vào căn phòng tối đó và nói: “Bà nói đúng lắm, những tôn giáo trên đời này giống như là những cánh cửa sổ, nhưng Chúa Giê-xu không tự xưng mình là “cửa sổ,” nhưng chính Ngài là ánh sáng mặt trời chiếu rọi qua tất cả những cánh cửa sổ này. Chính Ngài là nguồn ánh sáng đem đến sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta!”  Chúa Giê-xu không phải là những người chỉ đường như tất cả những chủ giáo khác, nhưng chính Ngài là Con Đường duy nhất dẫn chúng ta trở về với Cội Nguồn, Đấng Sáng Tạo của mình và đó là lẽ thật mà Chúa đang gọi bạn “Ngươi ở đâu?” để bạn biết phân biệt mà dừng bước lại, nhận lẽ thật. Chính Ngài là con đường cứu rỗi duy nhất mà bất cứ ai bằng lòng ăn năn, tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu thì được sự cứu rỗi linh hồn như có hứa trong sách Rôma 13:10(for, "Everyone who calls on the name of the Lord will be saved.") “Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu.” Lẽ thật ở đây đó là Đức Chúa Trời rất yêu thương bạn, Ngài đang tìm kiếm bạn, mong bạn quay trở về, vì Chúa biết con đường bạn đang đi sẽ dẫn đến sự hư mất đời đời. Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho bạn một Con Đường chính đáng, bảo đảm, chắc chắn sẽ dẫn bạn đến sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Ngài.

 

Chúa Giê-xu đang đi tìm kiếm bạn, Ngài đã đổ huyết chịu chết trên cây thập tự gía thay thế cho bạn rồi. Ngài đang gọi tên bạn “Ngươi ở đâu?” Chúa biết rõ bạn đang ở đâu, trong tình trạng hư mất nào, nhưng chính bạn có biết mình đang ở đâu không? Hãy quay trở lại cùng Chúa và nhận món quà cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho bạn ngay hôm nay. Có người nhận xét rất đúng: “Chúng ta không có ánh sáng mặt trời, không phải vì mặt Trời đã ngừng rọi chiếu ánh sáng, nhưng vì chúng ta đã tự nhắm mắt lại!”  Hãy mở mắt ra, hãy quay trở lại mà tiếp nhận Cứu Chúa Giê-xu. Chúa sẽ không bắt buộc bạn điều gì cả, Ngài ban cho chúng ta sự tự do chọn lựa. Nhưng bạn nên nhớ sự tự do chọn lựa nào cũng có kết qủa tốt hay xấu đi theo sau. Nếu bạn sống không có Chúa, bạn sẽ chết không có Ngài và đi vào chỗ hư mất là nơi không có Ngài. Ngược lại, nếu bạn sống chọn tin theo Chúa Giê-xu thì sau khi chết bạn sẽ được sống đời đời với Ngài trong nước thiên đàng y như lời Ngài đã hứa. Bạn có bao giờ dừng bước lại tính kỹ, đắn đo xem hậu qủa sẽ là gì cho mình trong cõi đời sau, nếu bạn không chịu tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu ngay hôm nay không?

 

Mong bạn đáp lại câu hỏi của Đức Chúa Trời “Ngươi ở đâu?” mà bằng lòng nhận thức tình trạng hư mất của mình, biết ăn năn quay trở về và trả lời với Chúa rằng: “Bây giờ con nhận biết mình đang ở trong tình trạng hư mất. Nay con ăn năn và quay trở về cùng Chúa. Xin Ngài cứu con. Con bằng lòng từ bỏ con đường con đang đi mà trở lại tiếp nhận Cứu Chúa Giê-xu là ‘Con Đường’ cứu rỗi duy nhất cho đời sống con và muốn hứa nguyện bước đi theo Ngài từ ngày hôm nay!” Amen!

 


------------- Lời Mời Gọi

 

Trong đời sống của mỗi chúng ta, có bao giờ chúng ta nghe được những câu hỏi đã “chạm” vào lòng mình chưa? Như tiếng gọi của một người đến nhà và hỏi tên mình để được đi phỏng vấn cấp giấy qua Mỹ? Hay tiếng gọi của một chàng trai trẻ hỏi các cô “Will you married me?” Hay câu hỏi của cô y tá… “Ông bà muốn đặt tên cho cháu là gì?” Hay câu hỏi của vị bác sĩ… “Chị có muốn biết kết quả của cuộc thử nghiệm máu không?” Biết bao nhiêu những câu hỏi trong đời, nhưng có lẽ không có câu hỏi nào quan trọng cho bằng câu hỏi của Chúa Giê-xu hỏi mỗi người chúng ta: “Ngươi đang ở đâu?” Lý do là vì câu hỏi quan trọng này sẽ định đoán số mệnh đời đời của mỗi người chúng ta, của tôi và của bạn.

 

Bạn có biết rõ mình đang ở đâu không? Bạn có biết rõ con đường mình đang đi sẽ dẫn mình đến đâu đời đời không? Bạn có đang lãng quên, thờ ơ, tỉnh bơ với câu hỏi này của Chúa không? Bạn có đang che đậy, không muốn trả lời câu hỏi này, bởi danh vọng, học thức, sự hiểu biết, khôn ngoan, tài sản của cải ở đời này mà bạn đang gặt hái không? Dù sao đi nữa, không trước thì sau, bạn sẽ khám phá ra mình sẽ đi về đâu đời đời, một nơi hư mất hay một chỗ bình an gọi là nước thiên đàng của Đức Chúa Trời. Điều này tùy ở bạn mà thôi. Chúa Giê-xu là con đường duy nhất có thể cứu bạn khỏi sự hư mất đời đời và dẫn bạn đến nước thiên đàng một ngày. Bạn có dám tin điều này và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu không? Mong bạn sẽ quyết định tin Chúa hết lòng.

 

Mỗi người chúng ta không thể nào cùng đi trên nhiều con đường cùng một lúc được. Khi chúng ta chọn tin Chúa Giê-xu nghĩa là mình quyết định từ bỏ con đường mình đang đi mà chỉ tin quyết một mình ở nơi Chúa Giê-xu mà thôi. Chúa yêu thương bạn và Ngài đã trả một gía rất đắt bằng chính huyết của mình rồi. Bây giờ chỉ còn ở bạn mà thôi có sẽ bằng lòng nhận lấy ơn cứu rỗi Ngài ban cho mà thôi.

 

Bạn sống có Chúa thì chắc chắn bạn chết cũng sẽ có Ngài tiếp đón bạn. Còn hậu qủa sẽ đến với bạn là gì nếu bạn cứ từ chối Chúa? Bạn có bao giờ suy nghĩ kỹ câu hỏi này chưa? Mong bạn tin Chúa Giê-xu ngay hôm nay để được rỗi linh hồn và sống tràn đầy hy vọng, chờ đợi nước thiên đàng mà Chúa Giê-xu đã hứa sẽ ban cho khi Ngài trở lại một ngày!

 

-------------------------------------------------------------------------------------

 

Adam – “Where are You?”

(Genesis 3:9)

 

 “But the LORD God called to the man, “Where are you?”

 

Have you ever lost anything that is very valuable to you? How much effort have you spent to search for it, even if you have to go through the trash cans? There are at least three reasons why we will spend a great effort to look for something: 1) It is once belonged to us; 2) It is priceless, and 3) If we find it, we will be willing to pay any price to redeem it back. Have you ever thought what did God do about His lost item who was Adam? God seeked Adam who was once created by His own image. God seeked Adam because he could not do anything to cover up his sin and restore his relationship with God. The parable of the lost sheep helps us to understand this fact. In this parable, the shepherd knows each of his sheep and counts them daily. Until one day, he realizes that one of his sheep is missing, he would begin the search immediately until he finds it. The shepherd searches for his lost sheep because it does not have a good sense of danger and know how to get back home. God seeked Adam and each of us just as the shepherd seeks his lost sheep in the parable. God had to pay a great price for us by the shedding blood of His only Son. This was initiated when God killed an animal to make garments for Adam and his wife. This shedding blood symbolic continues through many generations and is practiced through the Jewish law of atonement. Until the right time, the Savior Jesus was born of a virgin and became the sacrifice for our sins, once and for all. God is calling you today “Where are you?” This does not mean that God doesn’t know where you are, but do you know where you are going eternally? Do you know where the road that you are on will lead you to? Jesus is the true way that can lead you to the eternal life. Repent and believe in Him today!