Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 61

Làm Sao Biết Có Chúa?

Knowing God

(Giăng 17:3 / 1:1-14)

 

“Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật,

cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.”

(Now this is eternal life: that they know you (the Father), the only true God,

and Jesus Christ, whom you have sent.)

 

 

I. Ba Trạng Thái của Con Người

 

          Con người chúng ta được cấu tạo bởi 3 trạng thái căn bản:

 

          1) Thứ nhất là phần thể chất (physical) là những gì mà mắt thấy, tai nghe, tay sờ và miệng nếm. Theo lẽ tự nhiên thể xác của chúng ta cần cơm ăn áo mặc thì nó mới có thể tồn tại được; Vì lý do đó mà đời sống của chúng ta luôn phải lao động, đổ mồ hôi trán làm lụng cực nhọc để đáp ứng cho nhu cầu cho phần thể chất này.

 

          2) Thứ hai là phần tình cảm (emotional) là những cảm gíac tìm ẩn trong lòng của chúng ta cảm nhận mà mắt chẳng thấy được, như là yêu, giận, vui, buồn, ghét, ghen, tức…

 

          3) Chưa hết, chúng ta còn có phần tâm linh (spiritual) là phần phân biệt loài người được dựng nên thật khác biệt và cao hơn mọi loài vật khác. Bộ óc của con người thật tinh vi vì có sự suy tưởng đến những điều huyền bí/mầu nhiệm mà mắt không thấy được, lòng chưa cảm nhận, và chưa có câu trả lời cho nó. Những câu hỏi của tâm linh loài người hay suy tưởng như là:

 

          a) Nguồn gốc của loài người từ đâu đến?

 

          b) Mục đích của sự sống là gì? Tại sao tôi hiện hữu?

 

          c) Sau khi chết, tôi sẽ đi ở đâu đời đời? Các loài vật thì không có bộ óc để suy tưởng đến những điều này; Những con bò mỗi buổi sáng ra đồng ăn cỏ chắc rằng sẽ không bao giờ suy nghĩ đến ngày mai chúng nó sẽ ra sao. Có hai nhóm người chính có hai cách trả lời cho những câu hỏi huyền bí này như sau:

 

          1) Nhóm thứ nhất nghĩ rằng sự sống của loài người bắt đầu bởi “chance,” nghĩa là từ một sự may rủi, thình lình và bỗng nhiên đã xảy ra từ một khối nổ lớn (a Big bang) và tiến trình từ đó theo thời gian cấu tạo nên loài người, và cuối cùng của đời người sẽ đi vào chỗ “hư không,” mọi sự sẽ tan biến mất. Điều này hoàn toàn đi ngịch lại với định luật căn bản “gieo và gặt,” hay tiếng Anh gọi là “Cause & Effect,” nghĩa là vật gì hiện hữu cũng phải có từ một sự bắt đầu “cause” gây ra nào đó, chứ không tự nhiên mà thành.

 

 

II. Sự Sáng Tạo

 

          Nhóm người thứ hai thì không tin nguồn gốc loài người là bởi “chance,” nhưng tin rằng có một Đấng Tối Cao, quyền năng đã bắt đầu sự sống của loài người, và chính Ngài cũng có câu trả lời về mục đích của đời sống và cõi đời đời của con người. Tại sao họ có niềm tin này? Vì khi họ nhìn lên cao mắt thấy sự sáng tạo lạ lùng, sự vận hành chính xác của mặt trời, mặt trăng cùng các hành tinh trong vũ trụ, các ngân hà vĩ đại trong không gian vô tận thì nhận thức rằng phải có một Đấng Chí Cao đã dựng nên mọi vật. Khi họ nhìn vào cơ thể tinh vi của loài người mà không ai có thể “design” giống như vậy được thì tự biết có một Đấng Chí Cao, Tạo Hóa nào đó ở đằng sau những sự sáng tạo lạ lùng. Khi họ quan xát và thấy sự duy trì của sự sống cho muôn loài (the cycles of life) một cách thật lạ lùng, không thể ngẫu nhiên mà có được, nhưng phải có một Đấng Chí Cao đã dựng nên. Niềm tin này đi đúng với tâm tình của tác gỉa trong Thi Thiên 19:1 đã nói – (The heavens declare the glory of God; the skies proclaim the work of his hands.) “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, Bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm.” Sự sáng tạo lạ lùng của bầu trời vĩ đại dẫn đến một niềm tin về một Đấng Tạo Hóa quyền năng, tuy rằng chưa biết rõ Ngài là ai.  Trong nhóm người thứ hai này tin có Đấng Tạo Hóa cũng có hai loại khác nhau:

 

          a) Loại thứ nhất nhận thức có một Đấng Sáng Tạo tối cao, nhưng cùng một lúc nghĩ rằng Ngài là Đấng rất cao xa, mà con người không thể nào liên hệ đến được. Chính Ngài đã bắt đầu sự sống của con người nhưng sau khi tạo dựng nên muôn loài thì Ngài đã biến đi xa mất, và không có liên hệ gì với cuộc sống của loài người nữa; Ngài là Đấng quá cao xa mà loài người không thể nào “với tìm” đến được. Đấng Sáng Tạo này cứ để vũ trụ và trái đất xoay vần ở trong một tiến trình tự động mà tương lai loài con người không một ai biết chắc chắn sẽ đi về đâu. Giống như đạo hồi giáo tin có Đấng Sáng Tạo, có tên là “Allah,” nhưng đối với họ Đấng Allah quá tối cao mà họ không thể liên hệ được với Ngài. Ngày xưa những triết gia của người Hy-lạp cũng tin vào một Thượng Đế tối cao và gọi Ngài là “logos,” nhưng không biết rõ Ngài là ai. Người Việt chúng ta cũng tương tự như vậy, tin có một Đấng Tạo Hóa chí cao vô hình, ban cho mưa nắng, mùa màng và xưng Đấng ấy là “Ông Trời,” nhưng không thể biết rõ Ngài.  

 

          b) Loại thứ hai cũng như loại người thứ nhất, tin có một Đấng Sáng Tạo, nhưng khác ở một điểm rất quan trọng, đó là họ tin rằng chính Đấng Sáng Tạo muốn loài người biết đến Ngài và đã cung cấp “con đường” để con người có thể biết và liên hệ được với chính Ngài. Một trong những nhóm người này có danh là “cơ đốc nhân,” hay tiếng Anh là Christians. Đương nhiên nhóm người này có những chứng cớ để hổ trợ niềm tin này, chứ không phải vô không mà tin như vậy.

 

 

III. Kinh Thánh

 

          Một trong những chứng cớ rõ ràng nhất của họ chính là cuốn sách Kinh Thánh. Họ tin Kinh Thánh chính là lời của Đấng Tối Cao Sáng Tạo đã ban cho trong ngôn nghữ của loài người, để con người có thể biết đến Ngài, ý muốn của Chúa là thể nào, và có thể trả lời mọi câu hỏi huyền bí, mầu nhiệm mà loài người suy tưởng đến.

 

 

          1) Theo lời Kinh Thánh, loài người tội lỗi (tội nhân) thì không thể nào “với tìm” đến Đức Chúa Trời thánh khiết vô hình tối cao vẹn toàn để biết có mối liên hệ được, từ khi Ađam và Êva là tổ phụ của loài người phạm tội và bị đuổi ra khỏi vườn sự sống. Vì loài người không thể nào “với tìm” đến Đấng Chí Cao, cho nên chính Chúa đã phải tự khải thị/bày tỏ Ngài qua ngôn nghữ của loài người trong cuốn Kinh Thánh thì con người mới có thể biết đến Chúa được. Tuần qua chở một người đi học lái xe, phải đi theo làm người thông dịch, lý do là vì vị giáo viên không hiểu tiếng Việt. Cũng vậy nếu ý muốn của Đấng Chí Cao mà không được bày tỏ bằng chính ngôn nghữ của con người thì ai có thể biết được. Kinh Thánh là phương cách thực tế Chúa khải thị lạ lùng cho con người để chúng ta biết đến và tin Ngài.Trong Giăng 20:31(But these are written that you may believe that Jesus is the Messiah, the Son of God, and that by believing you may have life in his name.) “Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.” Kinh Thánh không bởi ý của con người viết ra, nhưng những lời này được Đức Chúa Trời ”hà hơi” trên một số nhân vật qua nhiều thời đại để viết xuống thành lời của Ngài. Trong 2 Timôthê 3:16-17(All Scripture is God-breathed and is useful for teaching, rebuking, correcting and training in righteousness, so that the servant of God[a] may be thoroughly equipped for every good work.) “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” Chúa soi dẫn nghĩa là “hà hơi” trên khoãng 40 nhân vật, trong vòng khoãng 1,500 năm, như những “ngòi bút” được Ngài dùng viết xuống bằng ngôn nghữ của loài người, thành sách Kinh Thánh, để bày tỏ chính Ngài và ý muốn của Chúa.

 

          2) Làm sao biết Kinh Thánh trong đó có tất cả 66 sách là lời tuyệt đối của Đức Chúa Trời hằng sống? Hãy so sánh những sự khác biệt lạ lùng của Kinh Thánh không giống như các cuốn sách khác trên đời này thì tự nó chứng tỏ là lời mầu nhiệm của Đấng Chí Cao:

 

          a) Sự hiệp nhất ý của tất cả những người viết qua nhiều thời đại mà lại không có sự mâu thuẫn. Ý hiệp nhất của Kinh Thánh đó là bày tỏ chương trình của Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại qua chính Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu, đã từ trời, xuống thế gian mặc thể làm người để chịu chết trên cây thập tự chuộc tội cho nhân loại. Cả phần Kinh Thánh Cựu Ước hoàn toàn nói trước về chương trình của Đức Chúa Trời sẽ ban cho Đấng Cứu Thế; và cả phần Kinh Thánh Tân Ước chép lại sự giáng thế của Đấng Cứu Chuộc này đã đến hoàn tất chương trình cứu rỗi, công việc rao giảng Tin Lành này đến cho thế giới, và tương lai của loài người sẽ đi về đâu.

 

          b) Những lời tiên tri có chép trong Kinh Thánh được ứng nghiệm lạ lùng, từng chấm từng nét. Trong Êsai 53:5-9 chép trước khoãng 700 năm chi tiết về sự chết và sự chon của Chúa Giê-xu đã phải như thể nào – (But he was pierced for our transgressions, he was crushed for our iniquities; the punishment that brought us peace was on him, and by his wounds we are healed. 6 We all, like sheep, have gone astray, each of us has turned to our own way; and the Lord has laid on him the iniquity of us all. 7 He was oppressed and afflicted, yet he did not open his mouth; he was led like a lamb to the slaughter, and as a sheep before its shearers is silent, so he did not open his mouth. 8 By oppression and judgment he was taken away. Yet who of his generation protested? For he was cut off from the land of the living; for the transgression of my people he was punished. 9 He was assigned a grave with the wicked, and with the rich in his death, though he had done no violence,    nor was any deceit in his mouth.) “Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh. 6 Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người. 7 Người bị hiếp đáp, nhưng khi chịu sự khốn khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng. 8 Bởi sự ức hiếp, và xử đoán, nên người đã bị cất lấy; trong những kẻ đồng thời với người có ai suy xét rằng người đã bị dứt khỏi đất người sống, là vì cớ tội lỗi dân ta đáng chịu đánh phạt? 9 Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác, nhưng khi chết, người được chôn với kẻ giàu; dầu người chẳng hề làm điều hung dữ và chẳng có sự dối trá trong miệng.”

 

          c) Biết bao nhiêu sự “biến đổi” đời sống của vô số người qua nhiều thế hệ bởi đã nghe lời Kinh Thánh giảng. Những kẻ gian ác trở nên người giảng Tin Lành, nếu không tin thì hãy viếng thăm nhà tù Angola ở ngay tại tiểu bang Louisiana mà có biết bao nhiêu tù nhân chung thân nay đang học thần học để trở nên những vị Mục Sư hầu việc Chúa trong ngay tù đó. Kể cả “chính tôi đây!”

 

          d) Sự nhiệm mầu của lời Kinh Thánh được duy trì và không thay đổi qua nhiều thời đại. Có cuốn sách nào lâu đời, không di dịch, được in ra nhiều ngôn nghữ nhất, phổ biến rộng rãi nhất trên qủa địa cầu này qua nhiều thời đại, bằng cuốn sách Kinh Thánh này không, cho dù qua nhiều cơn bắt bớ đạo?

 

          e) Không đi sai với lịch sử, khoa học và những dấu tích khảo cổ tìm được. Trong Êsai 40:22(He sits enthroned above the circle of the earth, and its people are like grasshoppers. He stretches out the heavens like a canopy, and spreads them out like a tent to live in.) “Ấy là Đấng ngự trên vòng trái đất nầy, các dân cư trên đất như cào cào vậy. Chính Ngài là Đấng giương các từng trời ra như cái màn, và giương ra như trại để ở,” chứ không có vuông. So sánh với sách Mặc-môn nói Chúa Giê-xu đã có lần viếng thăm nước Bắc Mỹ (North America)?

 

          3) Lẽ mầu nhiệm của sự Chúa “cảm hóa/hà hơi” trên những người lãnh đạo tôn giáo, các học gỉa, thầy thông giáo ngày xưa trong tiến trình tuyển chọn biệt riêng ra 66 sách trong bộ Kinh Thánh “Canon,” vì cùng một lúc có những “tà đạo” nổi lên.

 

          a) Bộ Canon của Cựu Ước (gồm 39 sách) được chấp thuận bởi các nhà thông giáo, lãnh đạo của người Do Thái vào ~250AD.

 

          b) Bộ Canon của Tân Ước (gồm 27 sách) được chấp thuận bởi các nhà lãnh đạo qua nhiều những hội đồng vào ~363AD.

 

          Họ tuyển chọn 66 sách này theo sự hướng dẫn/hà hơi của Thần Linh Chúa dựa trên những tiêu chuẩn sau đây:

 

          a) Nguồn gốc của sách đến từ đâu? Có phải đến từ những sứ đồ hay những nhà lãnh đạo tôn giáo mà nhiều người nhận biết không?

 

          b) Có sự chấp thuận của một số đông các Hội Thánh không?

 

          c) Có sự ảnh hưởng gì đến cộng đồng người cơ đốc?

 

          d) Có bày tỏ quyền năng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh không?

 

          Mầu nhiệm về sự khải thị của Chúa, được Ngài “hà hơi” trên những nhân vật viết xuống thành lời Ngài qua sự tuyển chọn 66 sách vào bộ Kinh Thánh Canon mà thôi.

 

 

IV. Khải Thị qua Chính Chúa Giê-xu

 

          Không phải chỉ bày tỏ qua Kinh Thánh mà thôi, Đức Chúa Trời còn khải thị cho loài người thấy được chính Ngài nữa. Đức Chúa Trời là Thần Linh, vô hình, Ngài không có xác thịt như chúng ta có, tuy chúng ta có thể biết Chúa qua lời Kinh Thánh, nhưng chúng ta sẽ không thể thấy Ngài ngoại trừ khi chính Chúa trở nên xác thịt như chúng ta. Câu chuyện người đàn ông không tin Chúa muốn giúp một đàn ngỗng trú trong garage của mình ở giữa một trận bão tuyết, nhưng càng đến gần đàn ngỗng thì càng làm cho chúng nó sợ và chạy xa hơn. Cho đến lúc ông thốt lên: “Chỉ một chốc lát thôi nếu tôi có thể trở thành một trong những con ngỗng này, thì mới nói cho chúng nó hiểu có thể trú ẩn an toàn trong cái garage của mình?” Giống như vậy, Đức Chúa Trời, Đấng Chí Cao phải trở thành người thì con người mới có thể thấy và biết Ngài! Đến thời kỳ sau cùng, Đức Chúa Trời bày tỏ qua chính Ngôi Lời, là Cứu Chúa Giê-xu, Con Ngài. Trong Hêbêrơ 1:1-3 lời Kinh Thánh có chép – (In the past God spoke to our ancestors through the prophets at many times and in various ways, 2 but in these last days he has spoken to us by his Son, whom he appointed heir of all things, and through whom also he made the universe. 3 The Son is the radiance of God’s glory and the exact representation of his being, sustaining all things by his powerful word. After he had provided purification for sins, he sat down at the right hand of the Majesty in heaven.) “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, 2 rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; 3 Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao.” Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, để khải thị chính mình cho chúng ta thấy và để chúng ta có được mối liên hệ trực tiếp với Chúa. Con Ngài đã đến với nhân loại như thế nào? Trong Giăng 1:1 - sứ đồ Giăng giới thiệu sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Con Ngài bằng chữ “Ngôi Lời” – (In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God.) “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.”

 

          a) Chữ “Ngôi Lời” theo nguyên nghĩa tiếng Hy-lạp (Greek) quen thuộc với những triết gia thời đó là chữ “logos,” nghĩa là “word, speech, hay thought” (tư tưởng, lời). Theo người Hylạp, họ tin có một Đấng Chí Cao, quyền năng nhưng không biết Ngài là ai, đặt tên là “logos.” (the mind of that supernatural God). Như đã nói người Việt chúng ta tin có Đấng Sáng Tạo, không biết Ngài là ai, đặt tên là “Ông Trời.” Giăng dùng “logos” để nói đến Chúa Giê-xu chính là Đấng đó, là Ông Trời cho những người ngoại lúc đó hiểu về nguồn gốc của Cứu Chúa Giê-xu.

 

          b) Giăng dùng chữ “Ngôi Lời” cũng rất sâu sắc cho người Do Thái cũng hiểu rõ Chúa Giê-xu chính là lời của Đức Giê-hôva đã mặc thể thành người ở ngay trước mắt họ. Trong thời Cựu Ước, người Do Thái biết và tiếp xúc với Đức Chúa Trời là bằng sự khải thị của lời của Ngài qua các vị tiên tri. Họ không thấy được Đức Giêhôva, chỉ tin và nghe qua lời của các vị tiên tri phán. Đối với họ lời của Đức Giêhôva chính là Giêhôva, Đức Chúa Trời. Cho nên khi sứ đồ Giăng dùng chữ “Ngôi Lời” thì người Do Thái biết ngay ám chỉ đến Chúa Giê-xu chính là Đức Giêhôva trong thể xác con người. Chính Chúa Giê-xu đã có lần tự xưng mình với Đức Chúa Cha là Một (Giăng 10:30) – (I and the Father are one.) “Ta với Cha là một.” Nhiều lần Chúa Giê-xu phán “ai thấy, tin, và biết Ta” là “thấy, tin và biết Cha,” như có chép trong Giăng 14:7(If you really know me, you will know my Father as well. From now on, you do know him and have seen him.) “Ví bằng các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta; và từ bây giờ các ngươi biết và đã thấy Ngài.”

 

          b) Giăng 1:3 - gían tiếp chứng minh điều gì về thần tánh nữa của Ngôi Lời là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa? (Through him all things were made; without him nothing was made that has been made.) “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” Chúa Giê-xu chính là Đấng sáng Tạo nên muôn vật. Ngài là “Ông Trời” đã thu nhỏ lại trong hình dạng loài người. Chính Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Đấng có quyền ban cho sự sống và sức sống. Hay nói rõ hơn - Ngài là nguồn của mọi sự sống, không có Ngài thì không có sự sống. Trái tim tự động đập/bóp/bơm máu đi nuôi thân thể bởi một nguồn/dòng điện làm tim đập được, nhưng nguồn điện đó từ đâu mà có? Chúa Giê-xu ban cho từ lúc ban đầu!

 

          c) Giăng 1:14(The Word became flesh and made his dwelling among us. We have seen his glory, the glory of the one and only Son, who came from the Father, full of grace and truth.) “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.” Ngôi vị Trời này đã đầu thai mặc thể có một không hai trở nên làm Người, để khải thị Đức Chúa Trời cho nhân thế thấy và biết Ngài. Điều này rõ ràng khi cô Mari mang thai Chúa Giê-xu có chép trong Mathiơ 1:20(But after he had considered this, an angel of the Lord appeared to him in a dream and said, “Joseph son of David, do not be afraid to take Mary home as your wife, because what is conceived in her is from the Holy Spirit.) “Song đang ngẫm nghĩ về việc ấy, thì thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giô-sép trong giấc chiêm bao, mà phán rằng: Hỡi Giô-sép, con cháu Đa-vít, ngươi chớ ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh.” Sự mặc thể làm người của Chúa Giê-xu không đánh mất đi thần tính của Ngài. Chính Ngài là: “100% Thiên Chúa không di dịch, đã trở nên 100% con người” – Thiên Nhân.

 

          e) Giăng 1:5 – nói đến sự sáng và tối tăm bày tỏ mục đích tại sao Chúa phải đầu thai làm người? (The light shines in the darkness, and the darkness has not overcome it.) “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng.” Bản chất của con người là tội nhân và hậu quả cuối cùng là sự chết đời đời nơi tối tăm trong địa ngục. Trong Mathiơ 8:12(But the subjects of the kingdom will be thrown outside, into the darkness, where there will be weeping and gnashing of teeth.”) “Nhưng các con bổn quốc sẽ bị liệng ra chốn tối tăm ở ngoài, tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.” Chính Chúa Giê-xu là Sự Sáng nghĩa là Ngài là sự cứu rỗi đến với nhân loại, giải cứu chúng ta là những người đang sống lầm than trong bóng tội lỗi.

 

 

V. Sự Sống Đời Đời

 

          Tại sao Đức Chúa Trời bày tỏ Ngài qua Kinh Thánh để làm gì? Tại sao Đức Chúa Trời khải thị chính Ngài qua Cứu Chúa Giê-xu để làm gì? Để chúng ta được biết đến Ngài, thấy Ngài và nhận được sự cứu rỗi, nếu chúng ta bằng lòng tin cậy vào Chúa Giê-xu. Trong Giăng 1:12(Yet to all who did receive him, to those who believed in his name, he gave the right to become children of God) “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Chúa Giê-xu), thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” Tin là sao? Tin không phải chỉ là biết, nhưng là “chịu ngồi vào chiếc ghế” mà mình tin có thể chịu sức nặng của thân thể mình được.  Đức tin đến bởi sự nghe lời Chúa, hiểu, cảm động, ăn năn tội, quyết định tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Đấng Cứu Chúa của mình, và dẫn đến một mối liên hệ ở trong Ngài. Bởi niềm tin mà chúng ta biết được mục đích của đời sống này và trả lời được câu hỏi tương lai của con người sẽ đi về đâu. Bởi tin Chúa Giê-xu chúng ta nhận biết “chết không phải là hết,” nhưng là thật sự bắt đầu hưởng sự sống đời đời – (Now this is eternal life: that they know you, the only true God, and Jesus Christ, whom you have sent.) “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” Bởi tin Chúa Giê-xu, chúng ta có sự trông cậy chờ đợi ngày Chúa trở lại để ban cho sự sống vĩnh cửu trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời. Đây là mối liên hệ thỏa vui được ở trong nước của Chúa đời đời, thay vì ở trong hồ lửa địa ngục. Đây cũng chính là mục đích từ ban đầu tại sao Đức Chúa Trời dựng nên loài người để làm gì.

 

          Niềm tin đến từ chỗ nhận thức được sự hiện hữu của một Đấng Chí Cao qua sự sáng tạo lạ lùng của Ngài ở xung quanh mình. Lời Kinh Thánh mầu nhiệm bày tỏ cho chúng ta biết đến Ngài và ý muốn của Chúa. Sự khải thị của Chúa qua sự mặc thể làm người của Cứu Chúa Giê-xu cho chúng ta thấy được Chúa. Chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời hòan tất qua sự chết và sống lại của Cứu Chúa Giê-xu, Con Ngài, ban cho bất cứ ai dám tin nhận Ngài. Mục đích cuối cùng tương lai của những kẻ tin chính là được hưởng sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Chúa.  Thật không có gì vui sướng cho bằng khi mình biết Chúa qua lời của Ngài, cảm nhận trực tiếp tình yêu thuơng của Ngài trong Cứu Chúa Giê-xu và còn biết đời sống tương lai của mình ở trong bàn tay chăm sóc tuyệt vời của Đức Chúa Trời nhơn từ.  Bạn có muốn được niềm vui sướng này không?

 

 

--------------------- Lời Mời Gọi

 

          Quí vị có biết nguồn gốc của mình đến từ đâu không? Bạn đã hiện hữu ở đây rồi thì câu hỏi này có lẽ không mấy là quan trọng nữa. Nhưng bạn có biết tương lai đời đời của mình sẽ đi đâu không? Niềm tin của bạn ở đâu để trả lời câu hỏi huyền bí này? Niềm tin có nền tảng vững vàng không? Có đến từ một Đấng quyền năng, Tối Cao không, hay triết lý của con người trần tục?

 

          Câu trả lời cho tương lai đời đời của loài người phải đến từ Đấng đã dựng nên trời và đất. Đấng đã bày tỏ bằng lời Kinh Thánh mầu nhiệm. Đấng đã đến khải thị thực tế cho chúng ta thấy qua chính Con Ngài. Đấng đã thực tế chết trên cây thập tự để cứu linh hồn của chúng ta. Đấng đã hứa và có câu trả cho tương lai đời đời của bạn và tôi. Nếu suy xét kỹ càng, mong rằng bạn sẽ thấy không có một cuốn sách nào hay ai có câu trả lời chính chắn cho tất cả những câu hỏi huyền bí của sự sống loài người cho bằng sách Kinh Thánh và chính Cứu Chúa Giê-xu. Giăng 17:3 – “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Now this is eternal life: that they know you (the Father), the only true God, and Jesus Christ, whom you have sent.)

         

          Hãy mở lòng nhìn biết Đấng Sáng Tạo và tin nhận Cứu Chúa Giê-xu ngay hôm nay! Chúa Giê-xu đã chết cho mọi người để được cứu rỗi, nhưng chỉ có những ai tin mà thôi; chứ không phải ai cũng tự động được cứu. Mong bạn bằng lòng tinh nhận Chúa Giê-xu ngay hôm nay.

 

          Cho con cái Chúa thì nhớ lời của Ngài trong 1 Phiêrơ 3:15 nhắc nhở – “Nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.” Hãy nhận biết những lẽ đạo căn bản này để sẵn sàng làm chứng niềm tin của mình - tại sao tôi tin Chúa Giê-xu mà không chọn những chủ giáo khác. Nền tảng ở trong sách Kinh Thánh và khải thị của Cứu Chúa Giê-xu.

 

 

  

IS THERE A GOD?

(John 17:3)

 

“Now this is eternal life: that they know you (the Father), the only true God,

and Jesus Christ, whom you have sent.” (Jesus’ Prayer)

 

Human has at least 3 states: body, mind and soul. Our brain is created higher than animals; therefore, we meditate on mysterious questions related to the origin, purpose and life’s destination. To answer these questions, there are really two main groups. Some believe life’s origin was just by “chance” and the result of “evolution” that do not satisfy the natural law of “cause & effect.” These believe that there is nothing beyond the physical existence around us. Others recognize that there is a great Creator of all things with supernatural power behind the universe. In this second group, there are also two kinds of belief. First group believes this great Creator is unreachable; He is uninvolved in our life struggles. Other group as Christians believes that this Creator wants to reveal Himself and provide a way so we can know Him as God. One of the clearest proofs is the holy Bible. God used about 40 different persons throughout 1,500 years of history as ”pens” to write down His will in the human language. The Bible is amazing, distincts itself from all other books in the world because of its unity, fulfilled prophecies, life’s transformation impacts, perfect reservation, and the correctness of history, science and archeology. Furthermore, God, the Holy Spirit miraculously breathed through the Canonized selection process to the final 66 books in the Bible, no more and no less. In the last days, God revealed Himself in the incarnation of Jesus, His Son, so we can see Him. Christ is a distinct Person of the Trinity of one true God. Jesus’ deity is the Creator Who gives life to all. He came into the world to save us from the darkness and judgment of sin and gives hope of the eternal life for those who are willing to believe in Him. What is your life purpose? Where will you spend eternity? Jesus is the answer of all these questions and can give you the eternal life. Believe in Jesus today!