Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 28

Chúa Là Hòn Đá Của Tôi

(Thi Thiên 18:1-6)

 

“Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là năng lực tôi, tôi yêu mến Ngài. 2 Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi; Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình; Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu rỗi tôi, và là nơi náu ẩn cao của tôi. 3 Đức Giê-hô-va đáng được ngợi khen; tôi sẽ kêu cầu Ngài, Ắt sẽ được giải cứu khỏi các kẻ thù nghịch tôi. 4 Các dây sự chết đã vương vấn tôi, Lụt gian ác chảy cuộn làm cho tôi sợ hãi. 5 Những dây Âm phủ đã vấn lấy tôi, Lưới sự chết hãm bắt tôi. 6 Trong cơn gian truân tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va, Tôi kêu cầu Đức Chúa Trời tôi: Tại đền Ngài, Ngài nghe tiếng tôi, Và tiếng kêu cầu của tôi thấu đến tai Ngài.

(I love you, Lord, my strength. 2 The Lord is my rock, my fortress and my deliverer; my God is my rock, in whom I take refuge, my shield and the horn of my salvation, my stronghold. 3 I called to the Lord, who is worthy of praise, and I have been saved from my enemies. 4 The cords of death entangled me; the torrents of destruction overwhelmed me. 5 The cords of the grave coiled around me; the snares of death confronted me. 6 In my distress I called to the Lord; I cried to my God for help. From his temple he heard my voice; my cry came before him, into his ears.)

 

 

[PP] Have you been in the “valleys” of suffering, pains, headaches, fears, discouragement, and depression? (Bạn có bao giờ đối diện với những ”thung lũng” của sự đau khổ, sợ hãi, chán nản chưa?)

# May be you are facing a chronic disease that it would not go away; you are hopeless because there is no treatment. (Có thể một căn bịnh kinh niên hiểm nghèo mà bạn chưa tìm được thuốc chữa)

# May be you are experiencing sadness because the lost of a loved one. (Có thể một sự buồn đau vì mất một người thân yêu trong gia đình)

# May be a bad news coming to you from the doctor about your health with the word “cancer.” (Có thể một tin xấu khi bác sĩ cho biết mình mắc phải một căn bịnh ung thư)

# May be you are dealing with a reality of a broken relationship. (Có thể bạn đối diện với sự đổ vỡ trong mối liên hệ gia đình)

# May be a danger is coming that creates a terrible fear to your life security. (Có thể một sự nguy hiểm nào đó đang đe dọa sự sống của bạn)

# May be you are facing a dead-end and there is no immediate solution. (Có thể bạn đối diện với với một nan đề hay con đường cùng mà không có lối thoát)

# May be the enemies, bullies try to harm you and they are stronger than you. (Có thể bạn đang đối diện với áp lực của kẻ ác đang muốn hãm hại mình)

> You want to give up, you are discouraged, shocked, depressed, having crazy thoughts, and you start doubting God? (Bạn muốn bỏ cuộc, bạn đâm ra chán nản, bối rối, có những ý tưởng muốn làm những điều dại dột, và nhất là bạn bắt đầu nghi ngờ Chúa)

 

[PP] We do not always understand why there are suffering and pains in life. (Chúng ta không thể hiểu hết mọi lý do tại sao con người gặp phải những khổ đau trong cuộc sống)

> But there are two main reasons: (Nhưng có lẽ vì 2 lý do chính)

a) Most of the suffering and pains are the consequences of sins, due to bad choices, or wrong decisions. (Hầu hết những đau khổ chúng ta gặp phải là hậu qủa của tội lỗi, khi chúng ta có những  quyết định hay chọn lựa sai lầm)

# You drink & drive, and got into a car accident; Now you must deal with injuries, fines, and bad records. (Bạn uống rượu say lái xe, hậu quả bị đụng xe; bây giờ bạn bị thương, phải trả tiền phạt, tiền sửa xe, và hạnh kiểm xấu khó đi kiếm được việc làm)

 

b) But for Christians, it could be the purpose for God to sharpen our faith.

> God’s purpose is always for us to know Him better. (Nhưng đối với Cơ Đốc Nhân, sự đau khổ xảy ra trong đời sống chúng ta cũng có thể là mục đích để Chúa dùng rèn luyện đức tin của mình, để chúng ta thông biết Ngài hơn)

> Unfortunately, sometimes it needs hard lessons of suffering and painful valleys for God to get our attention. (Điều bất hạnh đó là đôi khi con người của chúng ta cần những bài học đau thương, qua những thung lũng của sự đau khổ, thử thách thì chúng ta mới biết chú tâm hướng về Chúa)  

 

 

I. Personal Relationship

[PP] Psalm 18 was written by David. (Bài Thi Thiên 18 là do Đavít sáng tác)

> We know from our Old Testament that David had a lot of enemies, and one of his greatest enemies was King Saul; David spent many years in hiding from him. His life was not an easy one. (Đavít có rất nhiều kẻ thù đeo đuổi và nhiều năm ông đã phải sống trốn tránh khỏi vua Saulơ. Đời sống của ông không thường được thoải mái bình an) 

> David wrote this Psalm after God had delivered him from his enemies - the Philistines in 2 Samuel 21. It was in this battle that Goliath’s four sons were defeated. This Psalm is simply a recap of 2 Samuel 22 when David wrote this song as a result of God’s deliverance. (Đavít sáng tác bài thơ ca ngợi này sau khi được Chúa giải cứu mình khỏi tay người Philítin trong trận chiến đối nghịch với 4 người con trai của tên khổng lồ Gôliát. Đây là bài thơ ca ngợi cũng có chép trong 2 Samuên 22) 

> Because of WHO God was and WHAT He had done for David, He broke out in a song of praise as a natural reaction of the gratitude toward God. (Bởi vì Đavít biết rõ Đức Chúa Trời là ai và những gì Ngài đã làm cho mình, cho nên ông đã bộc phát ra bài thơ này để tỏ lòng biết ơn Chúa đã giải cứu mình)

 

[PP] First, notice that how many times David used the word "my" in the first 2 verses. (Chú ý chỉ trong 2 câu đầu, Đavít dùng nhiều chữ “của tôi.”)

# I count a total of 8 times: my strength, my rock, my fortress, my deliverer, my refuge, my shield, my horn of salvation, and my stronghold. (Tôi đếm tất cả đến 8 lần – là năng lực của tôi, là hòn đá của tôi, là đồn lũy của tôi, là Đấng giải cứu của tôi, là nơi nương náu của tôi, là cái khiên của tôi, là sừng cứu rỗi của tôi, là nơi náu ẩn cao của tôi.)

> What David was emphasizing here is his personal relationship with God. (Điều Đavít muốn nhấn mạnh ở đây là mối liên hệ mật thiết mình có với Chúa)

> To David, God was not some far off figure with a long & white beard flying up in the clouds somewhere; On the contrary, David had a personal relationship to God, and the only reason he had this relationship, was because God had given David the opportunity to know Him through the difficult times David had to deal with his enemies. (Đối với Đavít, Đức Chúa Trời không phải là một vị thần, râu trắng dài, bay trên không trung, nhưng là một Chúa có thể liên hệ được và Ngài đã cho phép những sự khó khăn xảy ra trong cuộc sống của Đavít để ông thông biết được Chúa rõ hơn)

 

> Are we thankful to know a God Who wants a personal relationship with us? (Bạn có lòng cảm tạ Chúa không vì biết Ngài muốn có mối liên hệ đến mình?)

> Does it mean anything to you that the One True God, the Creator of the Universe, The King of kings and Lord of lords, reached down from heavenly throne and has given you an opportunity to have a personal relationship with Him? (Làm thể nào một Đấng Sáng Tạo Chí Cao, Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa từ trời đã đến thế gian để có mối liên hệ trực tiếp với con người chúng ta được?)

> Our God is not a God who is far off, but He walks with us, takes care of us, reveals Himself to us through His Son Jesus, and has given His spirit to live inside each of us. (Đức Chúa Trời không phải là một vị thần xa xôi, nhưng Ngài đến cùng đi với chúng ta, chăm sóc chúng ta, bày tỏ cho chúng ta thấy được Ngài qua chính Chúa Giê-xu, và Thần Linh Chúa đang sống trong chúng ta)

> Can you say that “The Lord is my God, and I know Him?” (Bạn có kinh nghiệm và có thể nói rằng Ngài là Chúa của đời sống mình không, và bạn biết rõ Chúa?)

 

 

II. Knowing God

> How much did David know God personally through the difficulties of his life? (Đavít đã biết Đức Chúa Trời rõ thể nào qua những khó khăn trong cuộc sống?)

 

[PP] 1) David knows God is his Strength in verse 1. (Đavít biết Chúa là năng lực của mình)

a) When we say God is our strength, it means that we do not depend on our own or someone else’s strength, power, and knowledge, but trusting in God’s power alone. (Khi chúng ta nói rằng Chúa là năng lực của mình, nghĩa là chúng ta không còn nương tựa vào năng sức, sự khôn ngoan của riêng mình nữa)

# Remember the past experience when the Israelites just crossed the Red sea before entering the promised land in Numbers 13:32-33, they trusted in their own strength and were afraid to take the land – 10 out of 12 men who went to spy out Canaan and when facing a difficult opposition, they doubted God and sinned - "And they spread among the Israelites a bad report about the land they had explored. They said, “The land we explored devours those living in it. All the people we saw there are of great size. 33 We saw the Nephilim there (the descendants of Anak come from the Nephilim). We seemed like grasshoppers in our own eyes, and we looked the same to them.” You see grasshoppers do not have much strength after all.

 (Có nhớ lịch sử của người Ysơraên khi họ sắp sửa đi qua biển đỏ để vào đất hứa, nhưng 10 trong 12 người thám tử dựa trên năng lực của mình, khi thấy những dân to lớn trong xứ thì nghi ngờ lời Chúa mà phạm tội, nói rằng chúng ta chỉ là những con cào cào, không thể chiếm lấy đất được)

 

b) The Bible reminds us strength does not come from youth, it comes from the Lord as in Isaiah 40:30-31 – “Even youths grow tired and weary, and young men stumble and fall, but those who hope in the LORD will renew their strength. They will soar on wings like eagles; they will run and not grow weary, they will walk and not be faint.” (Kinh Thánh nhắc chúng ta năng lực của mình không phải đến từ sức mạnh trẻ trung của mình, nhưng đến từ Chúa trong Êsai 40:30-31 – “Những kẻ trai trẻ cũng phải mòn mỏi mệt nhọc, người trai tráng cũng phải vấp ngã. 31 Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng; chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.”)

# Couple weeks ago, I was fine, felt good, ready to go home and run, enjoying the spring time; Boom! At noon on Friday I felt dizzy, weak, nausea; I got a stomach bug that brought me down to bed, sleeping almost a whole day, did not feel hungry or desire to eat anything, I was really sick for just a bug I couldn’t even see. (Vài tuần trước đây, đang làm việc, người thấy khỏe mạnh, sẵn sàng để về nhà chạy bộ; tự nhiên thấy chóng mặt, thân thể mệt mỏi, buồn nôn và phải đi về nhà ngay vì bị đau bụng. Tôi nghủ suốt một ngày, không thèm ăn uống chi hết. Thân thể đột xúc trở nên yếu đuối bởi những con vi khuẩn mà mắt không thể thấy được – con người chúng ta thật yếu đuối)

 

b) The strength of David to overcome his enemies, the Philistines, and king Saul, was from the Lord. (năng lực Đavít có để thắng những kẻ thù mình đến từ Chúa quyền năng)

> Throughout the Bible we see that God teaches His people to depend on Him through various circumstances, and issues to know that – “Not by might nor by power, but by my Spirit,’ says the Lord Almighty.” (Trong Kinh Thánh lời Chúa luôn nhắc chúng ta luôn nhờ cậy nơi Thần Quyền của Chúa, chứ không năng lực của mình – “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.” (Xachari 4:6)

 

> In God we have strength to endure pains when things get tough. (Bởi năng lực của Chúa, chúng ta chịu đựng vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống)

> In God we have strength to wait, knowing that suffering will not last forever, and help will come soon. (Bởi năng lực của Chúa, chúng ta kiên nhẫn chờ đợi sự tiếp trợ của Ngài)

> In God we have strength to be faithful, and keep on keeping on, when everyone else around you wants to quit. (Bởi năng lực của Chúa ban, chúng ta cứ trung tín cho đến cùng, mặc dầu những người xung quanh đang muốn bỏ cuộc)

> In God we have strength to stand boldly, and proclaim the Gospel, even though no one cares to listen. (Bởi năng lực của Chúa, chúng ta dạn dĩ rao truyền Tin Lành cho dù thế giới chẳng muốn nghe)

# Strength to say as Paul once said in Philippians 4:13 – “I can do everything through Him who gives me strength.” (Sức mạnh của chúng ta đến từ Chúa, y như Phaolô đã một lần tuyên bố - “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.”)

# In 2 Corinthians 12:7-9 Paul experienced a suffering on his body, called a thorn in his flesh and he asked the Lord Jesus three times to take it away, but Jesus did not do it, so Paul can experience the power of His grace, knowing that when he was weak that he is strong in the Lord - “I was given a thorn in my flesh, a messenger of Satan, to torment me. 8 Three times I pleaded with the Lord to take it away from me. 9 But he said to me, “My grace is sufficient for you, for my power is made perfect in (your) weakness.” (Trong 2 Côrinhtô 12:7-9 kể lại một sự đau đớn, cái giằm xóc thịt Phaolô gặp phải, ông cầu xin Chúa cất đi đến 3 lần, nhưng Ngài không làm để chính Phaolô kinh nghiệm “Chúa phán rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối.”)

> So when we say God is our strength, we don’t pray for an easy life; but pray to be a stronger faith person, experiencing His strength, His power. (Khi chúng ta nói rằng Chúa là năng lực của mình, nghĩa là chúng ta không có cầu nguyện cho một cuộc sống thỏai mái, sung sướng luôn, nhưng là một đời sống có đức tin vững vàng, vượt khỏi khó khan, để thông biết được năng lực của Chúa tiếp trợ trong mọi hoàn cảnh)   

 

[PP] 2) David also says that the Lord is his Rock. (Đavít cũng tuyên bố rằng Chúa là Hòn Đá của mình đứng trên đó)

> The rock provides stability because our God does not change. (Hòn đá biểu hiệu cho sự vững vàng, không lay chuyển, bởi vì Chúa chúng ta không thay đổi)

# Politicians will change, time will change, even love relationships will change; but Jesus is the same yesterday, today, and forevermore. He is our Rock and does not change. (Những nhà chính trị gia có thể thay đổi ý mình để làm vừa lòng dân, thời gian thay đổi, kể cả tình yêu cũng có có thể “thay trắng đổi đen,” nhưng Chúa Giê-xu thì hôm qua, ngày nay, cho đến đời đời không hể thay đổi, vì Ngài là Hòn Đá của chúng ta)

 

> The rock is also a picture of a safe place, that we can take refuge; where the enemies cannot harm us. (hình ảnh hòn đá còn là chỗ nương náu an toàn mà các kẻ thù nghịch của mình không thể đến gần hãm hại chúng ta được)

> All of us have three enemies: (Chúng ta có tối thiểu 3 kẻ thù muốn hãm hại mình)

a) Sin controls by the flesh (Thứ nhất là tội lỗi của xác thịt bắt chúng ta làm những điều gian ác)

b) Power of Satan as in Ephesians 6:12 – “For our struggle is not against flesh and blood, but against the rulers, against the authorities, against the powers of this dark world and against the spiritual forces of evil in the heavenly realms.” (Quyền lực của satan và các chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời)

c) And the last enemy is Death (Kẻ thù cuối cùng là sự chết)

> If we stand on the Rock, these enemies cannot harm us. (Nhưng nếu chúng ta đứng trên Hòn Đá, những kẻ thù này chẳng đụng đến chúng ta được)

 

> According to the New Testament, the Rock is Christ and the one who trusts in this Rock will never be put to shame. (Theo Kinh Thánh dạy rõ Chúa Giê-xu chính là Hòn Đá mà kẻ nào tin cậy thì sẽ chẳng bị xấu hổ đâu, chẳng bị kẻ thù cáo trách lên án tội lỗi chúng ta nữa)

# The Parable of Jesus in Matthew 7 about the house built on the rock and the house built on the sand – (Trong Mathiơ 7, Chúa Giê-xu có dạy về ẩn dụ 2 người xây nhà, một người xây trên đá – “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá. 25 Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá.” Còn một người xây nhà trên cát)

# Both houses look fine in a beautiful spring day, until the storms (hurricane seasons) come then we will know which house still stands – the one is built on the Rock. (Cả 2 căn nhà đều thấy tốt đẹp cả, cho đến khi bão tố kéo đến thì lúc đó mới thấy chỉ căn nhà xây trên đá thì còn đứng vững)

> Is your house built on the Rock? How do you know? Do you want to test it? (Căn nhà của bạn có đang xây trên Hòn Đá chưa? Làm sao mình biết? Bạn có muốn được thử xem không?)

 

[PP] Everyone knows about the motto “IN GOD WE TRUST” that was placed on United States coins because of the increased religious sentiment existing during the Civil War. (Ai cũng biết dấu hiệu “In God We trust” ở trên những đồng bạc của người Hoakỳ, đến từ sự yêu cầu của những người Cơ Đốc ngày xưa trong thời Nội Chiến nhận biết sự tiếp trợ từ nơi Đấng Chí Cao)

# Secretary of the Treasury Salmon P. Chase received many appeals from devout persons throughout the country, urging that the United States recognize the Deity on United States coins.

> As a result, Secretary Chase instructed James Pollock, Director of the Mint at Philadelphia, to prepare a motto, in a letter dated November 20, 1861: “Dear Sir: No nation can be strong except in the strength of God, or safe except in His defense. The trust of our people in God should be declared on our national coins.” (Từ năm 1861, khi Bộ Trưởng Ngoại Giao tên Salmon Chase đã đề nghị đặt hàng chữ “In God We Trust” trên những đồng tiền để nói lên lẽ thật không có một quốc gia nào hùng mạnh được nếu không nhờ cậy Chúa Quyền năng)

# Câu chuyện của một số những người giám đốc đi bộ trên đường ở New York City. Bỗng nhiên có một ông giám đốc làm lớn dừng lại cuí xuống lượm 1 đồng cent, nhìn kỹ và rồi bỏ túi đi tiếp. (A story of several CEO were walking on the street of New York city for lunch; suddenly, one of most influenced CEO stopped, bended down and picked up a penny and put in his pocket)

> Những học trò của ông lấy ngạc nhiên một người giám đốc giàu có như vậy mà tại sao mắc công chi cúi xuống lượm chỉ có đồng 1 xu bỏ túi, nên hỏi. (Other CEO students walking with him kind of surprised for a rich man liked him did take some time to just pick a cent that has almost no value)

> Ông giám đốc móc đồng xu ra và trả lời: “Tôi lượm đồng bạc này không phải vì gía trị của nó, nhưng nó quí ở chỗ là có dấu hiệu bày tỏ đức tin của nước Hoakỳ nơi Đấng Chí Cao với khẩu hiệu “In God We Trust.” (But the CEO pulled out the cent and said: “I picked this cent not because of its value, but its symbol of this country faith in the mighty God as “In God We Trust”)

 

> Unfortunately, many people today are rejecting God and trust in their own strength instead of God’s power alone. They reject the Rock, they want to ban the motto “In God We Trust,” and as a result, our nation is slowly losing the battles against our enemies. (Điều đáng tiếc, ngày nay có vô số người đã từ chối Chúa và muốn bỏ đi khẩu hiệu này trên những đồng tiền, và quốc gia này dần dần thua trận khi đương đầu với kẻ thù của mình)

# We have many enemies today and the greatest are home-grown terrorists influenced by Islamic idealism propaganda on the Internet that US homeland security appears to have no power to control it. It amazingly inspires even kids at 13, 14 years old to follow them. (Một trong những kẻ thù ngấm ngầm ngày nay chính là những kẻ khủng bố phá hoại lớn lên ngay trong nước Mỹ, bị ảnh hưởng bởi sự tuyên truyền trên mạng lưới Internet của bọn khủng bố Hồi Giáo Cực đoan, đến nỗi những đứa trẻ mới có 13, 14 tuổi đã đi theo)

> If we are going to defeat these enemies, it will not be because of America’s military or security powers. But it will be because of America’s return and dependence on God Almighty for help – In God We Trust! (Nếu chúng ta muốn thắng những kẻ thù này, thì sẽ không bởi năng lực của mình đâu, nhưng là khi đất nước Hoakỳ biết ăn năn, từ bỏ con đường ác, quay mặt trở lại cùng Ngài và nhờ cậy năng lực của Chúa giúp đỡ) 

 

[PP] 3) David also says that God is his Fortress, and his Shield. (Đavít cũng tuyên bố Chúa là đồn luỹ, và là cái khiên của mình)

> A fort is a place where we can seek safety in and being protected. (Cái đồn là chỗ chúng ta tìm được sự che chở an toàn)

> When we are in a fort we are surrounded by strong walls that keep the enemy out. These barriers protect us and stand between us and the enemy. (Trong những cái đồn này có những tường thành xung quanh để phân chia, ngăn chận chúng ta khỏi kẻ thù nghịch của mình)

# If satan wants to harm us, he has to go through first the barrier of Jesus Who shed His blood for our salvation, then through the power of the Holy Spirit in Whom satan has no chance to penetrate, and finally he has to go through the Father, the almighty God; in no way satan can even pass through the first barrier to reach us. (Có người diễn tả, nếu satan muốn hãm hại chúng ta thì nó phải bước qua trước tiên Chúa Giê-xu là Đấng đã đổ huyết chuộc tội cho chúng ta, rồi phải qua Thần Linh Chúa, cuối cùng phải vượt qua Đức Chúa Cha thì mới đụng đến chúng ta được. Đương nhiên ma quỉ không thể nào đi xuyên qua được Chúa Giê-xu thì huống gì đụng đến chúng ta được) 

# Our God is a barrier between us and the world, and the forces of satan - a barrier that cannot be broken. (Chúa là bức tường thành kiên cố đứng giữa ngăn chận chúng ta và ma quỉ cùng thế gian.)

 

> Are you thankful that we have a fortress, a place where we can seek shelter and refuge in? (Bạn có cảm tạ Chúa vì Ngài là đồn lũy vững chắc để chúng ta nướng náu không)

> Are you thankful that you have a God who will surround you in order to protect you? (Bạn có cảm tạ Chúa vì Thần Linh của Ngài luôn ở xung quanh để bảo vệ mình không?

 

[PP] 4) David says that God is his Deliver. (Đavít còn tuyên bố Chúa là Đấng giải cứu mình)

> Many times God delivered David. He delivered him from Goliath, from Saul, from a lion, from the Philistines, even from his own son rebellion. David writes in verse 17 of our text, "He rescued me from my powerful enemy, from my foes, who were too strong for me." (Biết bao nhiêu lần Chúa giải cứu Đavít khỏi sự hăm he của kẻ thù mình, là những kẻ mạnh hơn Đavít)

 

> Our God is a God of deliverance, one of the greatest events in the Old Testament was when God delivered his people from the cruel bondage of Egyptian Slavery. (Một trong những sự giải cứu lớn nhất Chúa đã làm cho dân sự Ngài đó là khỏi vòng nô lệ của người Aicập)

# God is also our deliverer because we belong to Him; we are His children through the blood of His Son, Jesus Christ. (Chúa giải cứu chúng ta lý do tự nhiên là bởi vì chúng ta là con cái của Ngài)

# In John 1:12 states that how we become God’ children? – “Yet to all who did receive him, to those who believed in his name, he gave the right to become children of God” (Trong Giăng 1:12 chép rõ làm thể nào một người được trở nên con cái Đức Chúa Trời? “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.”)

> God won’t forget us, but He will deliver His children out of dangers (Đức Chúa Trời là người Cha nhân từ, chắc chắn Ngài sẽ không quên con cái của mình)

# Parents let me ask you a question how does it make you feel when someone messes with your child, when they hurt or seek to harm you child. Does it get you a little angry? Does it cause your blood to boil and the hairs on your neck to stand up? Are you tempted to grab the individual and say to them "HOW DARE YOU MESS WITH MY CHILD?" (Là cha mẹ chúng ta cảm thấy thế nào khi đứa con mình bị ăn hiếp ở trong trường học? Bạn có tức giận không khi nghe những chuyện này? Bạn có muốn nắm cổ áo của thằng bé nào đã ăn hiếp con mình không?)

> This is exactly the picture David paints in the scripture: In the heavenly temple, God hears the cries of His children. Someone is messing with His children and is trying to cause them harm. And God gets angry described in vs. 7-9 – “The earth trembled and quaked, and the foundations of the mountains shook; they trembled because He was angry. 8 Smoke rose from his nostrils;     consuming fire came from his mouth, burning coals blazed out of it. 9 He parted the heavens and came down; dark clouds were under his feet.” (Đây chính là hình ảnh Đavít diễn tả sự giải cứu bênh vực của Chúa cho con cái Ngài; Chúa nối giận với những kẻ ác đang muốn làm hại Đavít – “Bấy giờ đất động và rung, Nền các núi cũng lay chuyển Và rúng động, vì Ngài nổi giận. 8 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài, Ngọn lửa hực phát ra từ miệng Ngài, Làm cho than cháy đỏ. 9 Ngài làm nghiêng lệch các từng trời, và ngự xuống; Dưới chân Ngài có vùng đen kịt.)

> And God is not just going to sit up in heaven, but He is going to take action as described in vs. 14–17 – “He shot his arrows and scattered the enemy, with great bolts of lightning he routed them.

15 The valleys of the sea were exposed and the foundations of the earth laid bare at your rebuke, Lord, at the blast of breath from your nostrils. 16 He reached down from on high and took hold of me; he drew me out of deep waters.” (Đức Chúa Trời sẽ không ngồi yên để kẻ thù cắn nuốt chúng ta, nhưng Ngài sẽ làm gì? “Ngài bắn tên, làm cho tản lạc quân thù nghịch tôi, Phát chớp nhoáng nhiều, khiến chúng nó lạc đường. 15 Hỡi Đức Giê-hô-va, bởi lời hăm he của Ngài, Bởi gió xịt ra khỏi lỗ mũi Ngài, Đáy biển bèn lộ ra, Và các nền thế gian bị bày tỏ. 16 Từ Trên cao Ngài giơ tay ra nắm tôi, Rút tôi ra khỏi nước sâu.”)

 

[PP] Don’t mess with God’s children. They have a big Daddy that will not sit still and let you push His children around. (Đừng có ăn hiếp con cái Chúa, vì họ có một người Cha rất lớn và sẽ không để con dân của Ngài bị ăn hiếp đâu)

# Read the book of Revelations, God will take revenge for His saints by pouring out His wrath upon our enemies on this earth with 7 seals, 7 trumplets, and 7 bowls. (Hãy về đọc sách Khải Huyền đi sẽ thấy Chúa sẽ bênh vực các thánh của mình, bằng cách đổ xuống thế gian này những cơn thạnh nộ của 7 ấn, 7 loa và 7 bát, trong thời kỳ 7 năm đại nạn sắp đến)

 

 

III. Loving God

[PP] Not just knowing God, but David came to love Him like never before in verse 1. (Không phải chỉ biết Chúa là ai thôi, nhưng Đavít càng yêu mến Ngài hơn)

> The love for God should motivate us to turn away from doing and saying wicked things, but walking in the ways of the Lord, keeping His commandments, serving God faithfully. (Lòng yêu mến Chúa thúc động chúng ta biết từ bỏ những con đường tà, nhưng quay trở lại đi trong đường lối và giữ gìn mạng lệnh của Chúa)

> We don’t keep God’s commandments, Jesus’ teachings, caring for His sheep - the church, just because we don’t love Him much? (Chúng ta không giữ điều răn Chúa, cũng chẳng chăm sóc chiên Chúa, cũng vì chúng ta chưa yêu mến Chúa hết lòng mà thôi)

 

# Vs. 21-23 describe the life of gratitude of David to love God – “For I have kept the ways of the Lord; I am not guilty of turning from my God. 22 All his laws are before me; I have not turned away from his decrees. 23 I have been blameless before him and have kept myself from sin.” (Câu 21-23 diễn tả tấm lòng biết ơn qua đời sống thực tế của Đavít đối với Chúa – “Vì tôi đã giữ theo các đường lối Đức Giê-hô-va, Chẳng có làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời tôi. 22 Vì các mạng lịnh Ngài đều ở trước mặt tôi, Còn luật lệ Ngài, tôi nào bỏ đâu. 23 Tôi cũng ở trọn vẹn với Ngài, giữ lấy mình khỏi ác.)

> The more we love God, the more we love His teachings, His laws, His commandments – they are sweet like honey to our souls. (càng yêu mến Chúa, chúng ta càng thích luật pháp, điều răn của Chúa, như mật ong ngọt ngào làm tươi mát linh hồn mình)

 

------------------------

[PP] We sang a song today – “You are my All in All.” Do you know what that means? (Hồi nãy chúng ta hát bài “Chúa là Tất Cả đời tôi.” chúng ta có hiểu mình hát gì không?)

> This means Jesus is everything for us. He is our strength, our rock, our fortress, our deliverer, our refuge, our shield, our horn of salvation, and our stronghold. (Nghĩa là Chúa là “năng lực của tôi, là hòn đá của tôi, là đồn lũy của tôi, là Đấng giải cứu của tôi, là nơi nương náu của tôi, là cái khiên của tôi, là sừng cứu rỗi của tôi, là nơi náu ẩn cao của tôi.”)

 

> If we truly believe that then why are we fearful? Discouraged? Depressed? Sad? Giving up? (Nếu vậy thì tại sao chúng ta còn sống trong lo sợ, chán nản, buồn rầu?)

> We must look at the difficulties in life as the opportunities for us to do a self-exam (soul searching), seeking the Lord Jesus, and knowing Him like never before. (Chúng ta phải nhận biết những lúc khó khăn, đau khổ trong cuộc đời là lúc chúng ta phải tự xét mình, tìm kiếm Chúa và nhận biết Ngài như chưa bao giờ hết)

 

> So the question is not - Have you been in the valleys of suffering & pains, but the real question is have you experienced God is your strength, rock, fortress, horn of salvation, refuge, and counselor? (Cho nên câu hỏi không phải là mình có bao giờ gặp khổ đau chưa, nhưng câu hỏi là chúng ta có kinh nghiệm Chúa là năng lực của tôi, là hòn đá của tôi, là đồn lũy của tôi, là Đấng giải cứu của tôi, là nơi nương náu của tôi, là cái khiên của tôi, là sừng cứu rỗi của tôi, là nơi náu ẩn cao của tôi chưa?)

 

> Do you want to know Him liked never before? Then call upon the Lord right at this moment. (Bạn có muốn thông biết Chúa như chưa bao giờ biết không? Hãy kêu cầu Ngài ngay giây phút này)

> A fortress or a rock offers us no safety or protection unless we are standing on It, or are within Its walls. (Hoàn đá và đồn lũy sẽ không thể giúp chúng ta điều chi hết, cho đến khi nào mình bằng lòng đứng trên nó hay chịu ở trong đồn lũy đó)

> Some of us continue to get beat up spiritually and emotionally, because we keep on refusing to stand on the Rock or have chosen to remain outside His walls of protection. (Chúng ta bị hãm hại, bị ăn hiếp cũng vì mình đã từ chối Hòn Đá và không chịu ở trong những tường thành của đồn lũy Chúa mà thôi)

> It’s time to trust God “All in All,” casting all our cares and worries to Him, walking through the valleys of suffering and pains with Him, to really know Him. (Đây là lúc chúng ta phải tin cậy Chúa trong mọi sự, bằng cách trao mọi điều lo lắng, buồn rầu của mình cho Ngài, bước qua những thung lũng của sự khó khăn, buồn đau, để rồi thật biết Chúa là ai, như Đavít kinh nghiệm được) 

 

[PP] Why don’t you come inside the fortress, stand on the Rock and find rest today? (Tại sao bạn còn chần chờ mà chưa bước vào đồn lũy, đứng trên Hòn Đá mà tìm được sự yên nghỉ cho tâm hồn mình, cho dù giông tố có đang gầm thét xung quanh chăng?)

 

 

---------------- Lời Mời Gọi

# “Cuộc đời là bể khổ.” Không ai tránh được. Không phải là không có, nhưng khi nào nó sẽ đến?

> Còn những kẻ thù xung quanh hăm he muốn hãm hại chúng ta nữa.

> Làm cho chúng ta bị chán nản, nhiều khi muốn bó tay bỏ cuộc.

> Nhưng những lúc đó lại được sự tiếp trợ giải cứu của Chúa, để rồi chúng ta thông biết rõ Ngài hơn.

> Qua những khó khăn và khổ đau chúng ta mới có thể nói rằng Chúa là năng lực của tôi, là hòn đá của tôi, là đồn lũy của tôi, là Đấng giải cứu của tôi, là nơi nương náu của tôi, là cái khiên của tôi, là sừng cứu rỗi của tôi, là nơi náu ẩn cao của tôi!

 

# Câu chuyện của một cục đất sét thô kệch, bị uốn nắn trên bàn quay, bị nung trong lò lửa nóng, bị sơn phết đầy mình bởi những mầu sắc, thì mới rồi thấy mình được trở nên một cái bình đẹp đẽ trong mắt Chúa được.

> Mục đích của Chúa cho đời sống của mỗi chúng ta đó là kinh nghiệm được quyền năng của Ngài, và đến thông biết rõ Chúa là ai.

# Đôi khi đi giữa bóng của sự chết, thung lũng của sự đau khổ, chúng ta mới thật biết rõ Chúa và yêu mến Ngài hơn.

> Thử hỏi nếu không có những khó khăn, mà chúng ta vẫn trung tín hầu việc, giữ gìn điều răn của Chúa, thì thể nào chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình cho Chúa được, phải không?

# Tôi không bao giờ mong gặp phải khó khăn, nhưng cảm tạ Chúa qua những khó khăn đó, mình mới thật sự biết Chúa là Đấng Thành Tín thể nào.


 

  

The Lord is My Rock

(Psalm 18:1-6)

 

            Have you been in the “valleys” of suffering, pains, fears, discouragement, and depression? May be you want to give up because you are discouraged, shocked, depressed, having crazy thoughts, and you start doubting God? We do not always understand why there are suffering and pains in life. But there are two main reasons: a) Most of the suffering and pains are the consequences of sins, due to bad choices, or wrong decisions. b) But for Christians, it could be the purpose for God to sharpen our faith because God’s purpose is always for us to know Him better. Unfortunately, sometimes it needs hard lessons of suffering and painful valleys for God to get our attention.

 

            Psalm 18 was written by David. We know from our Old Testament that David had a lot of enemies, and one of his greatest enemies was King Saul; David spent many years in hiding from him. David wrote this song as a result of God’s deliverance from his enemies as a natural reaction of the gratitude toward God. First, notice that how many times David used the word "my" in the first 2 verses. There are a total of 8 times - my strength, my rock, my fortress, my deliverer, my refuge, my shield, my horn of salvation, and my stronghold. What David was emphasizing here is his personal relationship with God because He had given David the opportunity to know Him through the difficult times David had to deal with his enemies. Are we thankful to know a God Who wants a personal relationship with us? How much did David know God personally through the difficulties of his life?

 

            1) David knows God is his Strength. When we say God is our strength, it means that we do not depend on our own or someone else’s strength, power, and knowledge, but trusting in God’s power alone. The Bible reminds us strength does not come from youth, it comes from the Lord.  In God we have strength to endure pains when things get tough. In God we have strength to wait, knowing that suffering will not last forever, and help will come soon. In God we have strength to be faithful, and keep on keeping on, when everyone else around you wants to quit. In God we have strength to stand boldly, and proclaim the Gospel, even though no one cares to listen.

 

            2) David also says that the Lord is his Rock. The rock provides stability because our God does not change. Politicians will change, time will change, even love relationships will change; but Jesus is the same yesterday, today, and forevermore. He is our Rock and does not change. The rock is also a picture of a safe place that we can take refuge; that the enemies cannot harm us.

 

            3) David also says that God is his Fortress. A fort is a place where we can seek safety in and being protected. When we are in a fort we are surrounded by strong walls that keep the enemy out. These barriers protect us and stand between us and the enemy. Are you thankful that we have a fortress, a place where we can seek shelter and refuge in?

 

            4) David says that God is his Deliver. God is also our deliverer because we belong to Him; we are His children through the blood of His Son, Jesus Christ. God won’t forget us but He will deliver His children. Don’t mess with God’s children. They have a big Daddy that will not sit still and let you push His children around.

 

            Not just knowing God, but David came to love Him like never before. The love for God should motivate us to turn away from doing and saying wicked things, but walking in the ways of the Lord, keeping His commandments, serving God faithfully by caring for His sheep. The more we love God, the more we love His teachings, His laws, His commandments – they are sweet like honey to our souls.

 

            Is God the Lord of “my All in All?” If we truly believe that then why are we still fearful? Discouraged? Depressed? We must look at the difficulties in life as the opportunities for us to do a self-exam (soul searching), seeking the Lord Jesus, and knowing Him like never before. Do you want to know Him liked never before? Then call upon the Lord right at this moment. A fortress or a rock offers us no safety or protection unless we are standing on It, or are within Its walls.  Some of us continue to get beat up spiritually and emotionally, because we keep on refusing to stand on the Rock or have chosen to remain outside His walls of protection. Why don’t you come inside and stand on the Rock today and find rest?