Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 34

Cuộc Đời Mỏng Manh - Bạn đang Trông Cậy Gì

(Thi Thiên 39:4-7)

(Life is Short – Where is your Hope?)

 

Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi, và số các ngày tôi là thể nào; Xin cho tôi biết mình mỏng mảnh là bao. 5 Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay, và đời tôi như không không trước mặt Chúa; Phải, mỗi người, dầu đứng vững, chỉ là hư không. 6 Quả thật, mỗi người bước đi khác nào như bóng; Ai nấy đều rối động luống công; Người chất chứa của cải, nhưng chẳng biết ai sẽ thâu lấy. 7 Hỡi Chúa, bây giờ tôi trông đợi gì? Sự trông cậy tôi ở nơi Chúa.”

“Lord, tell me, what will happen to me now? Tell me, how long will I live? Let me know how short my life really is. 5 You gave me only a short life. Compared to you, my whole life is nothing. The life of every human is like a cloud that quickly disappears. 6 Our life is like an image in a mirror. We rush through life collecting things, but we don’t know who will get them after we die. 7 So, Lord, what hope do I have? You are my hope!” (ERV)

 

 

I. Be Aware of Life is Short

 

1) Life is fragile and short, like an image in a mirror. (Cuộc đời chóng qua, như là một giấc mộng mà thôi; Thời gian cứ lặng lẽ trôi nhanh, không chịu ngừng, và không bao giờ quay trở lại.)

> Our temporary life is framed in a certain number of days, and we cannot extend it. (Cuộc sống của mỗi người chúng ta (c/ta) đã bị đóng khung trong một số ngày ở trên đất này. Đôi khi người ta thường dùng từ “giờ giây thung,” nhưng trên thực tế, c/ta không thể ngừng thời gian lại được, không thể đem nó đi cất giữ, hay có thể kéo dài nó ra thêm được.)

# What is the average life span of a human being? (Quí vị có biết cuộc sống con người trung bình là bao nhiêu năm không?) World wide survey average is 67 years. (Thống kê trên toàn thế giới trung bình là 67 năm)> In the U.S. with better living environment, is 77 years; Male – 74 and Female – 80. (Còn tại Mỹ, trung bình là 77 tuổi; Đàn ông là 74, còn đàn bà là 80, lâu hơn vài năm.)

> But no one lives forever on this earth; the most is in the order of 100 years. (Trên đời này, có ai sống mãi không? Quá lắm là đến “ba vạn sáu ngàn ngày,” nghĩa là 100 năm thì ngủm.)

# A statistic today shows that among 100,000 people, there is only one who lives up to 110 years. (Một thống kê cho biết, trong vòng 100,000 người thì chỉ có 1 người sống đến 110 tuổi thôi.)

> But compare this 110 years with eternity, it is nothing, it is so short. (Nhưng nếu so sánh 110 tuổi với cõi đời đời, thì vẫn là ngắn ngủi, chẳng là bao nhiêu.)

 

2) Life is short and will surely have an end to it. (Cuộc sống tạm bợ, ngắn ngủi này chắc chắn có điểm cuối cùng, có thời kỳ kết thúc của nó.)

# Have you visited a funeral home or a cemetery lately to realize this? (Bạn có bao giờ đi dự một đám tang hay viếng một nghĩa địa nào chưa?)

# Death is a sure thing; when it comes, it will stop everything. (Sự chết cuối cùng là chắc chắn và khi nó đến nó sẽ kết thúc mọi sự ở trên đời này.)

# The statistic shows that the chances of you winning a state lottery jackpot are 1 in 4,000,000. The chance that we eventually are going to die is 1 in 1. (Thống kê cho một người trúng số độc đắc là 1 người trong vòng 4 triệu người mua vé, còn thống kê về sự tử vong thì mọi người đều phải bị chết.)

# The president of famous video game called Nintendo, Mr. Satoru Iwata died this week at 55. (Người gìa cũng chết, trẻ con cũng chết, người nổi tiếng cũng chết kể cả những tiểu tốt. Tuần qua, người khám phá ra trò chơi điện tử nổi tiếng Nintendo, tên Satoru Iwata đã qua đời lúc 55 tuổi.)

 

3) Life is not just short and has an end to it, but it is also uncertain; we don’t really know when will it end, and what will happen next. (Cuộc sống không phải chỉ ngắn ngủi phù du, có thời điểm kết thúc, nhưng còn là vô định; C/ta không biết khi nào nó sẽ chấm dứt, hay chuyện gì sẽ xảy ra tới nữa.)

# We all know our birthdays, but most don’t know their “deathdays.” (Ai trong c/ta cũng biết rõ ngày sinh của mình, gọi là ngày sinh nhật, nhưng ít có ai thật sự biết ngày tử vong của mình.)

> The real fear is not just about death itself, but when will it come so we can prepare for it. (Điều đáng phải lo sợ hơn đó là c/ta không biết lúc nào sự cuối cùng sẽ đến, vì nó có thể đến bất thình lình, lúc mình không ngờ, chưa sửa soạn gì cả.)

# Some people went to sleep, and never woke up. (Có những người trong lúc đi nghủ, nhưng đâu ngờ sáng ra không còn thức dậy nữa.)

# Some students went to shool and that was their last day to study. (Có những em học sinh đi học, nhưng đâu ngờ đó là buổi học cuối cùng của mình, vì bị bắn chết.)

# Some were travelled on the air plane or Amtrak and did not know that was their last trip. (Có những người đi trong 1 chuyến máy bay hay xe lửa điện mà không có ngày trở về với gia đình mình.)

# Some people were in church studying the Bible, and their life unexpectedly ended there. (Trong một buổi học Kinh Thánh, có những người đâu ngờ đó là lúc đời mình bị kết thúc.)

# Some people were driving and got hit by a drunk driver. (Có người đang lái xe bình thường thì bị đụng chết bất ngờ bởi một người say rượu.)

 

> We can avoid talking about death, but in reality, no one can escape death, and it often comes at an unexpected moment. (C/ta có thể tránh nói đến sự chết, nhưng trên thực tế sự cuối cùng của cuộc sống mỗi người c/ta chắc chắn sẽ đến một ngày, thường lại đến một cách bất ngờ.)

> Nothing is certain as death, and nothing is so un-certain as the hour of death. (Không có gì xác định chắc chắn cho bằng sự chết, và cũng không có gì là vô định về thời điểm khi nào nó sẽ đến.)

# What are you planning on doing tomorrow? How about next week? Do you have plans for next month or even next year? (Bạn đang có những chương trình gì cho tương lai ngày mai, tuần tới, tháng tới, năm tới… có chắc sẽ đến không?)

# I doubt there is a teenager in this church that has given much thought to the end of life – they figure that they have plenty of time: 50, 60, may be even 70 years to go. (Những em thiếu nhi thì có lẽ chẳng bao giờ suy tưởng đến điều này, vì tự nghĩ mình còn đến tối thiểu 50, 60, 70 năm nữa.)

# Not many young people at 20 or 30 today have given much thought about death. They are just too busy with college, career, and getting a good job. (Những người trẻ tuổi thì cũng chẳng nghĩ đến vấn đề tử vong, vì bận rộn trong sự học vấn, tìm việc làm, lập gia đình...)

# Not many of us in the middle age group of 40 or 50 have given much thought about death. We are just busy raising a family and earning a living; besides, we believe that we still have plenty of time. (Kể cả những người trung niên vì lo xây dựng gia đình, sắm nhà cửa, sửa soạn cho chương trình về hưu, nên chẳng bao giờ nghĩ đến sự cuối cùng của đời này.)

> Whether we want to think about it or not, we need to understand the length of our lives is not guaranteed, at least not in this world. (Mặc dầu có suy nghĩ đến hay không, c/ta phải nhận thức rằng cuộc sống tạm bợ này sẽ không cứ kéo dài mãi, nhưng chắc chắn sẽ có thời kết thúc.)

> We must recognize and accept this reality that life is short and death is a sure thing. (C/ta nếu là người khôn ngoan phải nhận biết thực trạng này.)

> The devils will do all they can to distract us from accepting this truth, just living with ignorance, and regret at the end of life when it is too late. (Ma quỉ sẽ cám dỗ c/ta hết sức, làm c/ta bị lo ra không nhận biết thực trạng này, cứ sống tỉnh bơ, chẳng chuẩn bị, cho đến khi sự cuối cùng đến thì hối tiếc vì quá muộn màng.)

# A story of Satan sent 3 of his angels to earth to tempt people from believing in God. (Câu chuyện quỉ satan sai 3 thiên sứ của mình xuống thế gian để cám dỗ nhân loại đừng tin Chúa.) The first fallen angel said to satan: “I will come down and tell them that there is no hell.” (Đứa thứ nhất nói: “Tôi sẽ xuống thế gian và nói với mọi người rằng - đừng lo, không có địa ngục đâu!”) Satan said: “It won’t work, because people understand justice, so there will be hell for the final judgment.” (Satan trả lời: “Không được đâu, vì mọi người ai cũng hiểu luật công bằng thì đương nhiên phải có địa ngục để phán xét.”) The second fallen angel said: “I will come down and tell them that there is no heaven.” (Đứa thứ hai nói: “Tôi sẽ xuống thế gian và nói với họ rằng - Đừng tin Chúa chi cho vô ích vì không có thiên đàng đâu!”) Satan said: “It won’t work either. If there are rewards in this world, then there will be a place called heaven.” (Satan nói: “Điều này cũng không hiệu nghiệm, vì mọi người hiểu có thưởng có phạt ở đời này, thì cũng phải có thiên đàng dành cho những kẻ công bình.”) The wise and third fallen angel said: “I will come down and tell them there are heaven and hell, but don’t worry, be happy; there is no rush to plan for it, just enjoy all the pleasures of life to the max; whatever comes will come.” (Đứa thứ ba nói: “Tôi sẽ xuống thế gian và nói với mọi người rằng thiên đàng và địa ngục có thật, nhưng bạn đừng vội vã sửa soạn cho nó làm chi, hãy cứ vui sướng với những  thú vui ở đời này, để nước tới chân hãy chạy cũng không muộn đâu.”) Satan said: “You are a wise servant, keep distracting them with pleasures to procrastinate from making decision to trust God. Go and do it now!” (Satan nói: “mày là đứa khôn nhất, hãy mau xuống thế gian, dụ dỗ loài người lo ra với những thú vui mà trì hoãn tin nhận Chúa là điều hay nhất.”)

> Pleasures, fame, ambitions, busy-ness, popularity… Some of these are not bad, but they can distract us from the frailty of this life in order to prepare for eternity that will surely come next. (Một số những thú vui, tham vọng, sự nổi tiếng, công việc ở đời này thì không có xấu, nhưng những thứ này ma quỉ có thể dùng để c/ta sống bị lo ra, không nhận biết cuộc đời ngắn ngủi, có thời kết thúc, mà sửa soạn cho cõi đời sau.)

 

 

II. Psalm 39 Background

 

> Psalm 39 is one of king David’s Psalms; He wrote this Psalm in sorrow, and the conviction of sin was heavy upon him. (Thi Thiên 39 là một trong những bài Thi Thơ của vua Đavít sáng tác. Đavít viết Thi Thiên này khi tâm linh đang bị cáo trách tội lỗi.)

> It centers around verses 4-5 – “Lord, tell me, what will happen to me now? Tell me, how long will I live? Let me know how short my life really is. You gave me only a short life. Compared to you, my whole life is nothing. The life of every human is like a cloud that quickly disappears.” (Câu 4-5 là chủ đích tại sao Đavít sáng tác bài Thi Thiên này – “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi, Và số các ngày tôi là thể nào; Xin cho tôi biết mình mỏng mảnh là bao. 5 Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay, Và đời tôi như không không trước mặt Chúa; Phải, mỗi người, dầu đứng vững, chỉ là hư không.”)

> I believe David was saying – “Life is so short, why put so much time into the things that will perish, they are vanity. I’m just a traveler passing through this world. Grant me time to get things back on course – that I might live for you with all my heart, soul and strength with all the time I have left.” David prayed that God helped him to know his life’s end, and the measure of his days, so that he might know how frail he is. (Vua Đavít muốn nói rằng cuộc sống của mình quá ngắn ngủi, đời người là phù du và cuối cùng là sự hư không. Đavít xin Chúa cho ông nhận biết thực trạng này, để ông sống trông cậy nơi Chúa luôn và trong ý muốn của Ngài với những số ngày còn lại của đời mình.)

> Life is extremely short; it is unpredictable and death is not within our realm of control. (Cuộc sống con người là ngắn ngủi chừng nào, là mỏng manh thể nào, và sự chết là điều mà không ai điều khiển hay làm chủ được.)

> We need to be aware of our frailty and the shortness of life. (C/ta cần ý thức sự hao mòn này của cuộc sống.)

 

 

III. Finding an Answer

 

> So, is there anything beyond this life? Who has an answer for this important question? (Như vậy câu hỏi thật đáng chú tâm là có còn gì sau cuộc sống này không? Nếu có thì ai có câu trả lời đây?)

# Hebrews 9:27 gives us an answer - "As it is appointed unto men once to die, but after this the judgment:" (Theo như Kinh Thánh Hêbêrơ thì là câu trả lời – “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.”)

> Death is our universal fate, because of our first parents Adam and Eve, but death is not the end. (Sự chết là định mệnh chung của mọi người, vì mọi người đều đến từ 2 người tội nhân đầu tiên là Ađam và Êva. Nhưng “chết không phải là hết” đâu.)

> The Bible reveals that life is temporary and has an end of death because of sins; but after death, there is a judgment. In Romans 3:23/6:23 – we will all face judgment because - “All have sinned and fall short of the glory of God;” and “the wages of sin is death…” (Kinh Thánh bày tỏ cuộc sống này chỉ là tạm bợ và sẽ kết thúc bởi sự chết, vì hết thảy c/ta đều đã phạm tội; Và sau cái chết là sự phán xét.)

> How well can a sinner stand before the holy and perfect God at the end of his life? (Làm thế nào một kẻ tội nhân đứng nổi trước mặt ĐCT thánh khiết vẹn toàn trong ngày cuối cùng?)

# Not too good, because a lake of fire is waiting for him according to God’s justice. (Chẳng được gì đâu vì cuối cùng chỉ còn là một hồ lửa địa ngục thôi, theo y như sự đoán xét công bình của Chúa cho mọi kẻ có tội.)

> That is terrible! but king David had a hope in the promise of the merciful God – “You are my hope!”  (Điều này thật là kiếp sợ, nhưng vua Đavít có sự trông cậy nơi ĐCT nhơn từ và thốt lên - “Sự trông cậy tôi ở nơi Chúa.”)

 

1) This hope is not in David’s security of possessions. (Sự trông cậy này của Đavít có không dựa trên của cải vật chất ở đời này.)

# 1 Timothy 6:7 reminds us what? “For we brought nothing into the world, and we can take nothing out of it.” My translation is – “We all born naked, and will die naked; there is nothing we can bring with us beyond this life.” So don’t put our hope in it. (Trong 1 Timôthê 6, lời Chúa nhắc nhở c/ta sanh ra đời trần truồng, thì khi qua đời này cũng không đem theo chi được hết. Vậy thì đừng đặt lòng trông cậy ở nơi nó.)

# Have you ever seen a funeral car pulling a U-haul behind it? (Quí vị có bao giờ thấy một chiếc xe tang chở hòm, mà còn kéo theo sau chiếc U-haul chở đồ đạc cho người đã chết không?)

 

2) This hope is not in the religions or even the church membership. (Sự trông cậy này không dựa trên tôn giáo nào bạn đang theo, hay có tên trong thành viên của một hội từ thiện nào đó.)

# Satan tempted so many to have just enough religions to hide them from getting the real thing, entering heaven. (Ma quỉ ngày nay cám dỗ vô số người với biết bao nhiêu những tôn giáo hay, những lý thuyết đẹp, để che đậy họ không nhìn thấy được chân lý của cứu rỗi là thập tự giá, mà được vào nước thiên đàng một ngày.)

> There are so many “religious” people today who missed the simple road to salvation by just believing in Jesus Christ. (Biết bao nhiêu người sống thánh thiện, đạo đức, hiền lành mà lại đánh mất ơn cứu rỗi thật đơn sơ bằng cách chỉ bởi tin nhận Cứu Chúa Giê-xu.)

 

3) This hope is not in good works; The Bible said all our good works are just filthy rags before the holiness of God. (Sự trông cậy này không dựa trên những công đức cá nhân, vì tất cả những công trạng của con người chỉ là những miếng giẻ rách trước mặt ĐCT.)

# In Isaiah 64:6 - "All of us have become like one who is unclean, and all our righteous acts are like filthy rags; we all shrivel up like a leaf, and like the wind our sins sweep us away." (Lời Chúa trong Êsai 64:6 có chép – “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.”)

> Our good works are polluted with sins and cannot stand before God, unless they are washed by the blood of His Son. (Những việc lành của c/ta đã nhiễm tội trần xấu xa ô uế, mà không thể nào còn tồn tại trước sự thánh khiết của ĐCT; ngoại trừ được rửa sạch bởi huyết của chính Con Ngài.)

 

4) But in Psalm 39:7 king David declared – “Lord! You are my hope.” Or “my hope is in You.” (Trong Thi Thiên 39:7, vua Đavít tuyên xưng – “Sự trông cậy tôi ở nơi Chúa.”)

> Our hope beyond this life is to be found in God – ultimately in Jesus Christ, the Son of God. (Sự trông cậy cho cõi đời đời của c/ta ở nơi ĐCT, Đấng Sáng Tạo, bày tỏ qua chính Cứu Chúa Giê-xu, Con Ngài, đã từ trời đến.)

# In John 11:25-26 Jesus once proclaimed this hope that no one ever said - "I am the resurrection and the life. The one who believes in me will live, even though they die; and whoever lives by believing in me will never die." (Chính Chúa Giê-xu đã tuyên bố chân lý này mà chưa có một chủ giáo nào từ lúc ban đầu cho đến nay đã tự xưng – “Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết.”) 

> Jesus died on the cross to pay the price for all our sins; so that we have no more debts. (Chúa Giê-xu đã một lần chết trên cây thập tự để chuộc tội cho c/ta. Mọi kẻ tin không còn một món nợ tội lỗi nào nữa.)

> Jesus was raised again after 3 days to guarantee that He is and can give us the resurrection and the eternal life. (Chúa Giê-xu đã sống lại sau 3 ngày và hứa ban cho c/ta sự sống lại và sự sống đời đời một ngày.)

# At death, we all cross from one territory to another, but those who have established a personal relationship with Jesus will have no trouble with their “visas” to enter heaven. (Những kẻ tin cậy Chúa Giê-xu thì sẽ chẳng có trở ngại thẻ “Visa” vào nước thiên đàng một ngày, vì họ đã là công dân nước trời, bởi sự tin cậy vào Cứu Chúa Giê-xu.)

 

> Jesus wants to give you this hope of eternal life, but you must come to Him. (Chúa Giê-xu muốn ban cho bạn món quà của sự sống đời đời này, nhưng bạn phải đến với Ngài.)

 

a) First, you must accept that you are a sinner, for all of us have broken His commandments. (Trước hết bạn phải nhận thức mình là kẻ có tội vì mọi người đã vi phạm những điều răn của Chúa.)

 

b) And realizing that the judgment of death is a separated lake of fire is waiting for all of us. (Phải nhận thức sự ngắn ngủi và kết thúc của đời bạn là hồ lửa, vì là hình phạt của tội lỗi bạn đã phạm.)

 

c) But if you believe that Jesus died for your sins, was buried and rose again, you can be saved from sin, death and hell. (Nhưng nếu bạn bằng lòng tin nhận Chúa Giê-xu thì bạn sẽ được cứu khỏi sự hư mất trong lửa địa ngục.)

 

d) If you will repent (that is turning from your sins) and ask Jesus to save you, He will, and give you the eternal life, for we have these words of assurance found in Romans 10:9 & 13“If thou shalt confess with thy mouth the Lord Jesus, and shalt believe in thine heart that God hath raised him from the dead, thou shalt be saved…For whosoever shall call upon the name of the Lord shall be saved.” (Nếu bạn bằng lòng ăn năn và xưng tội cùng Chúa, kêu cầu danh Ngài, bạn sẽ được Ngài tha thứ mọi tội và ban cho bạn sự sống đời đời trong nước thiên đàng một ngày.)

 

> At the death for all Christians is the beginning of the eternal life because of Jesus. (Ngày chết của mọi kẻ tin Chúa Giê-xu chính là bắt đầu của cuộc sống vĩnh cửu trên Baradi/thiên quốc, bởi tất cả những gì Cứu Chúa Giê-xu đã làm cho mình.)

# In John 10:9 Jesus said - "I am the door: by me if any man enters in, he shall be saved, and shall go in and out, and find pasture." (Chúa Giê-xu đã tuyên bố - chính Ngài là cánh cửa dẫn mọi kẻ tin vào đồng cỏ xanh tươi của nước thiên đàng.)

> Jesus Christ is the “Door” to the eternal life beyond this present one. (Chính Chúa Giê-xu là “cánh cửa” dẫn c/ta đến sự sống đời đời trong nước thiên đàng của ĐCT, sau cái chết phũ phàng.)

> Let me ask you, "Have you entered that door?" (Bạn đã bằng lòng bước vào “cánh cửa” đó chưa?)

 

 

IV. Living a New Life

 

> Because we have a sure hope in the promise of Jesus Christ, we can now live a new life. (Bởi vì c/ta có sự trông cậy chắc chắn trong lời hứa Chúa ban cho sự sống đời đời, c/ta bây giờ có thể bắt đầu một đời sống mới ngay hôm nay.)

 

1) The new life has inner peace and joy, because the relationship of knowing Jesus’ presence through His Spirit. (C/ta sống trong một đời mới có sự bình an và vui mừng, vì có mối liên hệ và sự hiện diện của Chúa trong lòng mình.)

# Do you feel safe driving a car with or without insurance? Especially, if the insurer is from a well-known company, which always stands behind of what they promise? (Bạn có thấy bình an khi lái một chiếc xe mà mình đã mua bảo hiểm đàng hoàng không?) 

> Christians’ life is no way perfect yet; but we have an inner peace and joy, because of the safe destination we have in Jesus’ promise, that He will return one day and give us the eternal life. (Cuộc sống của mọi kẻ tin không có nghĩa là trọn vẹn, nhưng họ có sự bình an và vui mừng, là bởi vì định mệnh đời đời của họ đã được Chúa Giê-xu bảo đảm và chắc chắn sẽ ban cho khi Ngài trở lại.)

> A hope of a better place called heaven where there will be no more tears, pain and suffering. (Sự trông cậy của một chỗ tuyệt vời trên thiên đàng mà sẽ không còn nước mắt hay đau đớn nữa.)

> A better place because there will be no more power of sins that disappoints us. (Trên thiên đàng là nơi không còn quyền lực của tội ác nào nữa mà sẽ làm cho c/ta thất vọng.)

> A better place that we will never smell death any more. (Trên thiên đàng là nơi không còn sự chết nữa.)

> A better place for us to see face to face of our Creator. (Nơi c/ta sẽ ngắm xem mặt đối đối mặt với Đấng Sáng Tạo vinh hiển đời đời.)

 

2) The new life has a new purpose in this present time, pursuing things that have eternal values. (Cuộc sống mới có muc đích mới, đó là c/ta biết đeo đuổi những điều có gía trị trường tồn ở đời này.)

> What are things that have eternal values? (Những điều nào có giá trị trường tồn?)

# Things of God that will have rewards in heaven. (Những điều có liên hệ đến ý muốn tốt lành của Chúa và kết quả là những phần thưởng trên thiên đàng.)

# In Matthew 6:19-21 – Jesus taught about these eternal rewards – “Do not store up for yourselves treasures on earth, where moths and vermin destroy, and where thieves break in and steal. But store up for yourselves treasures in heaven, where moths and vermin do not destroy, and where thieves do not break in and steal. For where your treasure is, there your heart will be also.” (Trong Mathiơ 6, Chúa Giê-xu dạy về của cải đời đời này – “Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó.”)

> What are you living for? For the things of God or the things of this world only? (Bạn đang sống cho những gì? Những điều theo ý Chúa mà sẽ tồn tại, hay chỉ những điều thuộc của thế gian?)

# The stuffs of this world will sadly disappoint you, especially at the end of life; it will all be meaningless! (Những điều thuộc thế gian này sẽ làm bạn thất vọng, vì cuối cùng chỉ là sự hư không mà thôi!)

# King Solomon (David’s son) was the richest king, who tasted every good things in this life could offer; but near the end of his life, Solomon concluded: “Laughter,” I said, “is madness. And what does pleasure accomplish?... Everything was meaningless, a chasing after the wind;” (Vua sôlômôn là vị vua giàu có và quyền quý nhất xưa nay, có đến 300 bà hoàng hậu và 700 cung phi mỹ nữ, nhưng rồi khi sắp sửa lìa đời, nhìn lại đằng sau, Salômôn chỉ thốt lên những câu như nói như sau: “Cười là điên, vui sướng mà làm chi - hư không của sự hư không - thảy thảy đều hư không.”

> King Solomon realized that all the pleasures and his earthly gains were useless for the next life to come. (Sôlômôn nhận thấy tất cả những lợi lộc, của cải riêng của mình thâu trữ được, giờ đây sắp sửa trở nên vô ích cho sự sống đời sau của mình.)

> Don’t waste your live in just pursuing things of this world which have no eternal value; Don’t set your children on a path of worldly pursuits, that may bring emptiness at the end of their short lives. (Đừng đeo đuổi chỉ những điều tạm bợ ở đời này mà không có gía trị trường tồn; đừng làm gương cho con cái mình đi vào những con đường của thế gian mà chỉ dẫn đến sự hư không mà thôi.)

# Jesus spoke these words found in Matthew 16:26 to remind us all – “For what is a man profited, if he shall gain the whole world, and lose his own soul? or what shall a man give in exchange for his soul?” (Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?)

 

> What are some things that have eternal values in this present life? (Những điều gì có gía trị trường tồn thực tế ở trên đời này?)

 

1) Discovering and exercising your spiritual gifts to care for the needy. (Biết khám phá và xử dụng những ân tứ thuộc linh Chúa Thánh Linh ban cho, để giúp đỡ, chăm sóc những kẻ yếu hèn ở xung quanh mình.)

# In Matthew 25, Jesus spoke about the parable of the Sheep and the Goats. He said: Because “you did for one of the least of these brothers and sisters of mine, Come, you who are blessed by my Father; take your inheritance, the kingdom prepared for you since the creation of the world.” (Trong Mathiơ 25, Chúa Giêsu dạy về ẩn dụ “Chiên và Dê,” Chúa phán: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, vì các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta; Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.”)

> Everyone of us has time to pray? Has hands to give out the Gospel tracts? Has tongue to witness? Has a car to pick someone to church? Has time to visit the sick? Has the money to help missions? But the question is this “Am I willing to do it? (Ai cũng có thì giờ để cầu nguyện, ai cũng có tay chân để biếu truyền đạo đơn, ai cũng có lưỡi để nói lời khích lệ ACE mình dự phần hầu việc Chúa, hay mời một người đi nhóm, một số biết lái xe để đón người ta đi nhóm, cho người hàng xóm quá giang đi chợ, ai cũng có tiền để giúp đỡ kẻ nghèo, ủng hộ các ban truyền giáo, nhưng vấn đề là c/ta có thấy cơ hội, lòng c/ta có được cảm động không và có muốn dấn thân hầu việc Chúa không?)

> New life is no longer for self, but “laying down” for others. (Cuộc sống mới không còn chú tâm đến “cái tôi” nữa, nhưng là hy sinh cho người khác.)

# Parents – are you “laying down” for your children or are you just pursuing your own life ambitions? (Các bậc cha mẹ có đang hy sinh cho con cái mình không, hay đang đeo đuổi những tham vọng của riêng mình?)

# Christians – do you care for thousands people going to hell everyday? (Cơ đốc nhân có bị thách thức khi có cả ngàn ngàn người chết hư mất mỗi ngày, hay c/ta có thái độ tỉnh bơ?)

 

2) Preaching the Gospel. (Giảng đạo cho đến cùng.)

> A wise person knows how to count the number of his/her days and finds opportunities to preach the Gospel. (Người khôn ngoan nhận biết số ngày ít ỏi của mình có trên đất mà luôn để ý những cơ hội để giảng Tin Lành về sự cứu rỗi trong Cứu Chúa Giê-xu.)

# But you said – “I am not a preacher?” (Nhưng quí vị tự nghĩ - tôi đâu phải mục sư đâu mà giảng Tin Lành được?)

> The best sermon is your life – your faith, your speech, your conduct, your purity, your hope - to your children, friends, relatives, and others around you. (Quí vị quên rằng bài giảng hữu hiệu nhất chính là nếp sống của mình trong đức tin, lời nói, nết làm, sự tinh sạch và sự trông cậy của mình mỗi ngày trước mặt con cái, người thân, bạn bè, người đồng lao, hàng xóm của mình.)

# Preach the Gospel, if necessary use words. (Hãy giảng Tin Lành, nếu cần thiết thì mới dùng chữ.)

# Story of a homeless man named Tommy. He came to a non-profit place serving food. There he listened to a message from a pastor. (Câu chuyện về anh “Tommy,” ngày trước là một người Homeless, không nhà cửa. Đến một cơ quan từ thiện xin ăn, có vị Mục Sư đến giảng lời Chúa.)

> He was touched with the message and came to accept Jesus as his Lord & Savior. After that, he wanted to be a volunteer serving in that place. Often, he witnessed to all the homeless came there to. (Anh cảm động đến tin nhận Chúa, sau đó xin tình nguyện giúp việc ở đó để hầu hạ những người Homeless khác; Anh thường xuyên vui vẻ làm chứng Chúa, kêu gọi mọi người tin nhận Ngài.)

> One day, a homeless man came there often & said. “Everytime I come to this place, you serve me food with joy, and tell me about a man named Jesus. I don’t know who He is, never met Him, but if this Jesus guy is just liked you then I want to meet Him.” (Một ngày kia có một người Homeless nói với Tommy: “Mỗi lần tôi đến đây ăn là anh hầu hạ tôi trong sự vui mừng và cứ giới thiệu tôi về ông Giê-xu. Tôi không biết ông Giê-xu là ai, cũng chưa bao giờ nói chuyện với; nhưng nếu ông Giê-xu là người giống như anh thì tôi muốn được gặp Ngài.”

 

3) Forgiving your debtors. (Tha thứ những kẻ phạm nghịch cùng c/ta.)

# Matthew 6:12 Jesus taught His disciples to pray – “And forgive us our debts, as we also have forgiven our debtors.” (Chính Chúa Giê-xu dạy các môn đồ cầu nguyện: “Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi;”)

> The greatest act of love is to forgive those who have tresspassed us. Give them a second chance; just as God has given you and me. (Việc làm cao quí, nhiều phần thưởng nhất là khi c/ta tha thứ kẻ phạm nghịch mình. Cho họ cơ hội lần nữa, như Chúa Giê-xu luôn cho chính mình vậy mỗi khi c/ta xưng tội.)

# I believe many saved people have not yet begun the new life, because they just could not get over with this thing called “forgiveness.” (Thiết nghĩ có vô số cơ đốc nhân vẫn chưa bắt đầu đời sống mới được, là vì chưa thắng được điều này, tha thứ mọi người đã làm hại mình.)

 

> So, are you wisely investing your life for the things that have eternal values, because the sure hope you have in Christ Jesus? (Quí vị có đang khôn ngoan đầu tư cuộc sống này cho những điều có gía trị trường tồn chưa?)

# Có một số con cái Chúa sống là tín đồ nhiều năm, ngồi đến mòn ghế nhà thờ, nhưng trong cuộc sống hằng ngày mình đã chỉ phí công, tốn sức mình vào những lạc thú chóng qua và mau tàn của đời này, hay làm việc quá sức, “overtime” không ăn không ngủ, chẳng lo chung sức với hội thánh, để  khi đến ngày “tính điểm,” thì nuối tiếc vì chỉ đến với Chúa tay trắng thôi sao.

> Jesus promised in Revelation 22:12 that He will return one day and bring with Him the rewards – “Look, I am coming soon! My reward is with me, and I will give to each person according to what they have done,” “Payday” is coming. (Chúa Giê-xu hứa sẽ trở lại và mang theo phần thưởng – “Nầy, ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.”)

> Remember it's not how long we live, but how well we live for God! (Thật ra cuộc đời ngắn hay dài không cần thiết, nhưng câu hỏi đúng hơn phải là mình có đã dùng con số ngày mình có trên đời này một cách khéo léo, để hầu việc Chúa không mới là đáng nói?)

 

> Because of the sure hope we have in Jesus, we should pursue the things that have eternal values, so that when life ends, we will not just say “life is nothingless!” but we can say as Paul once said – “I have fought the good fight, I have finished the race, I have kept the faith. Now there is in store for me the crown of righteousness, which the Lord, the righteous Judge, will award to me on that day—and not only to me, but also to all who have longed for his appearing.” (C/ta là những người đã có sự trông cậy đời đời, thì phải biết sống khôn ngoan, hầu cho khi sự kết thúc của cuộc đời này đến, mình sẽ không thốt lên như Salômôn – “Mọi sự là hư không,” nhưng sẽ mạnh dạn nói như Phaolô đã nói: “Ta đã đánh trận đích đáng. Ta đã hoàn tất cuộc chạy đua. Ta đã giữ vững được đức tin. Giờ đây mão miện công chính đang để dành cho ta.” (2 Timothy 4:7-8)

 

> Would we waste listening to another sermon or seek opportunities to make investments in heaven because we have a sure hope in Jesus’ promise? (C/ta có sẽ tiếp tục tốn phí thì giờ để nghe giảng, hay là c/ta sẽ thực hành những điều mình đã học, đầu tư trong những điều có gía trị trường tồn, và chờ đợi sự trông cậy một ngày sẽ đến, sau khi cuộc sống mỏng manh này chấm dứt?)

-------------- Lời Mời Gọi

 

> Lời Kinh Thánh trong Thi Thiên 39 nhắc nhở c/ta về cuộc sống này rất ngắn ngủi, chóng qua và rồi dẫn đến sự phán xét đời đời, vì mọi người đều đã phạm tội.

# Thực trạng rõ ràng cho lẽ thật này là sự chết cuối cùng, mà không ai thoát được, không trước thì sau, không sớm thì muộn.

> Nhưng trong giữa thực trạng bi đát này, Chúa Giê-xu đã đến, ban cho c/ta sự trông cậy của sự sống lại và sự sống đời đời trong nước thiên đàng, nếu c/ta bằng lòng tin danh Ngài. 

> Chúa Giê-xu đã đến và chuộc mọi tội của c/ta ở trên cây thập tự; bởi sự tin nhận Ngài c/ta được tha tội và có sự sống đời đời trong nước thiên đàng một ngày.

> Sự trông cậy này là chắc chắn không bởi vì công đức hay tôn giáo c/ta đang đi theo, nhưng bởi việc làm chính Chúa Giê-xu đã chết, nhưng sau 3 ngày đã sống lại, và hứa sẽ trở lại một ngày.

 

> Cuộc đời của bạn & tôi sẽ chấm dứt một ngày, đó là thực trạng không ai tránh được.

> Bạn có sẵn sàng đối diện với sự sống bên kia chưa?

> Bạn sẽ đi đâu - linh hồn có được yên nghĩ không?

> Khi bạn còn nghe tiếng mời gọi của Chúa thì đừng cứng lòng, nhưng hãy mềm lòng: ăn năn và tiếp Đấng Cứu Thế Giê-xu vào lòng, vì Kinh Thánh chép rõ: “Hôm này là Ngày cứu rỗi - Today is the day of salvation - vì ngày mai chưa chắc nó đến, Tomorrow may not come!”

 

--------------------------

> Với sự trông cậy chắc chắn, c/ta có thể sống với một đời sống mới đầy sự bình an và vui mừng.

> Thêm nữa, c/ta sống chẳng còn phí phạn thì giờ nữa, mà đánh mất đi nhiều cơ hội thâu trữ của cải ở trên thiên đàng, bằng cách khôn ngoan đầu tư trong những điều có gía trị trường tồn.

> Hãy sống cho những điều có ý nghĩa nhất, để khỏi hối tiếc trong ngày sau cùng khi mình nhắm mắt lìa đời.

# Hãy xử dụng ân tứ thuộc linh Chúa ban để cứu giúp người.

# Hãy giảng dạy như giảng dạy một bài cuối cùng của đời mình; những người nghe cũng vậy, hãy nghe và sống theo lời Chúa như là bài giảng cuối cùng mình được nghe.

# Hãy tha thứ những kẻ phạm nghịch cùng mình.


 

Life is Short – Where is your Hope?

 

“Lord, tell me, what will happen to me now? Tell me, how long will I live? Let me know how short my life really is. 5 You gave me only a short life. Compared to you, my whole life is nothing. The life of every human is like a cloud that quickly disappears. 6 Our life is like an image in a mirror. We rush through life collecting things, but we don’t know who will get them after we die. 7 So, Lord, what hope do I have? You are my hope!” (ERV)

 

 

          Life is fragile and short, like an image in a mirror. Our temporary life is framed in a certain number of days, and we cannot extend it. Life is short and will surely have an end to it. Death is a sure thing; when it comes, it will stop everything. Life is also uncertain; we don’t really know when will it end, and what will happen next. We can avoid talking about death, but in reality, no one can escape death, and it often comes at an unexpected moment. Nothing is certain as death, and nothing is so un-certain as the hour of death. Whether we want to think about it or not, we need to understand the length of our lives is not guaranteed, at least not in this world. The devils will do all they can to distract us from accepting this truth, just living with ignorance, and regret at the end of life when it is too late.

 

          Psalm 39 is one of king David’s Psalms; He wrote this Psalm in sorrow, and the conviction of sin was heavy upon him. David was saying – “Life is so short, why put so much time into the things that will perish, they are vanity. I’m just a traveler passing through this world. Grant me time to get things back on course – that I might live for you with all my heart, soul and strength with all the time I have left.” David prayed that God helped him to know his life’s end, and the measure of his days, so that he might know how frail he is. We all need to be aware of our frailty and the shortness of life.

 

          So, is there anything beyond this life? Who has an answer for this important question? The Bible reveals that life is temporary and has an end of death because of sins; but after death, there is a judgment. But king David had a hope in the promise of the merciful God. This hope is not in David’s security of possessions. This hope is not in the religions. Satan tempted so many to have just enough religions to hide them from getting the real thing, entering heaven. This hope is not in good works. But in Psalm 39:7 king David declared – “Lord! You are my hope.” Our hope beyond this life is to be found in God – ultimately in Jesus Christ, the Son of God. Jesus died on the cross to pay the price for all our sins. Jesus was raised again after 3 days to guarantee that He is and can give us the resurrection and the eternal life. Jesus wants to give you this hope of eternal life, but you must come to Him. At the death for all Christians is the beginning of the eternal life because of Jesus.

         

          Because we have a sure hope in the promise of Jesus Christ, we can now live a new life. The new life has inner peace and joy. The new life has a new purpose in this present time, pursuing things that have eternal values. What are things that have eternal values? Things of God that will have rewards in heaven. What are some things that have eternal values in this present life? 1) Discovering and exercising your spiritual gifts to care for the needy; 2) Preaching the Gospel. The best sermon is your life – your faith, your speech, your conduct, your purity, your hope to those around you; and 3) Forgiving your debtors. Many saved people have not yet begun the new life, because they just could not get over with this thing called “forgiveness.” So, are you wisely investing your life for the things that have eternal values, because the sure hope you have in Christ Jesus? Jesus promised in Revelation 22:12 that He will return one day and bring with Him the rewards to give to each person according to what they have done.” Would we waste listening to another sermon or seek opportunities to make investments in heaven because we have a sure hope in Jesus’ promise?