Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 41

Thức Ăn Còn Lại Cho Đến Sự Sống Đời Đời

(Food that Endures to Eternal Life)

Giăng 6:23-27/40

 

“Qua ngày sau, có mấy chiếc thuyền khác từ thành Ti-bê-ri-át lại gần nơi chúng đã ăn bánh khi Chúa tạ ơn rồi, 24 đoàn dân thấy Đức Chúa Jêsus không ở đó môn đồ cũng không, bèn vào mấy thuyền kia mà đi qua thành Ca-bê-na-um để tìm Đức Chúa Jêsus. 25 Chúng vừa tìm được Ngài tại bờ bên kia biển, bèn thưa rằng: Lạy thầy, thầy đến đây bao giờ? 26 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi tìm ta chẳng phải vì đã thấy mấy phép lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và được no. 27 Hãy làm việc (khổ sở), chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là chính Đức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình… 40 Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt."

(Then some boats from Tiberias landed near the place where the people had eaten the bread after the Lord had given thanks. 24 Once the crowd realized that neither Jesus nor his disciples were there, they got into the boats and went to Capernaum in search of Jesus. 25 When they found him on the other side of the lake, they asked him, “Rabbi, when did you get here?” 26 Jesus answered, “Very truly I tell you, you are looking for me, not because you saw the signs I performed but because you ate the loaves and had your fill. 27 Do not work for food that spoils, but for food that endures to eternal life, which the Son of Man will give you. For on him God the Father has placed his seal of approval… 40 For my Father’s will is that everyone who looks to the Son and believes in him shall have eternal life, and I will raise them up at the last day.)

 

 

I. Our Needs

 

> What kinds of food do you like to eat? (Quí vị thích ăn những món nào?)

> What kinds of clothes do you like to wear? (Quí vị thích mặc loại quần áo nào?)

# Our bodies are designed to need these basic things to survive. If we don’t eat, we will surely die; if we don’t wear clothes, we cannot go too far anywhere. (Đời sống của loài người chúng ta cần có rất nhiều những nhu cầu phải có để có thể tồn tại. Trong những nhu cầu căn bản cho phần thuộc thể thì “cơm ăn áo mặc” là điều cần thiết nhất; Ai cũng phải ăn, phải uống, phải mặc để mà sống.)

 

> But our conscience seems to say that we also have other spiritual needs for the soul, that our eyes cannot see; but we do not know exactly what it is. (Nhưng con người có lương tâm để nhận biết c/ta còn có nhu cầu của phần linh hồn nữa, mà mắt không thấy được và không biết rõ nó là gì.)

> The only thing we can ask ourselves are “why am I here?” and “Where will I go into eternity after I die?” (C/ta chỉ có thể tự hỏi chính mình với những câu hỏi tâm linh huyền bí, như là “Tôi từ đâu đến? Tại sao tôi ở đây? Và rồi sau cái chết tôi sẽ đi về đâu đời đời?”)

# (Ecclesiates 3:11) The Bible said that the great Creator puts in our human heart the quest for eternity that no other creatures on earth has – “He has also set eternity in the human heart.” (Sách Kinh Thánh (Truyền Đạo 3:11) chép rõ Đấng Tạo Hóa đã đặt ý niệm về cõi đời đời ở trong lòng của loài người từ lúc ban đầu, mà những con súc vật thì không hề nghĩ đến.)

> We, as humans need a “special revelation” in order to know this spiritual need, and to have the answers for these mysterious questions about eternity. (Cho nên c/ta cần có một sự khải thị đặc biệt để có thể biết rõ nhu cầu tâm linh của mình là gì, và có câu trả lời cho những câu hỏi huyền bí về cõi đời sau.)

 

 

II. The Special Revelation  

 

> What is this special revelation? How is it different from the general revelation? (Sự khải thị siêu nhiên đặc biệt này là gì? Sự khải thị đặc biệt này khác gì với sự khải thị tổng quát?)

> First, we all have the general revelation by just making observation of the things around us. (Thứ nhất, mỗi c/ta ai đã sanh ra đời đều nhận được sự khải thị tổng quát, bởi sự c/ta quan xát mọi thứ xung quanh mình.)

 

a) For example, when we look up in the sky and see the vast, and unlimited space; when we look around and see all kinds of creatures and the beautiful cycle of life; and when look inside of our bodies and see they are wonderfully made; then we can conclude based on this general revelation that there is a Great Creator, Who created all of these things; eventhough we do not fully know of Who He is and what are His wills for us. (Khi nhìn lên trên thấy một bầu trời vĩ đại, khi nhìn xung quanh thấy sự sống của mọi loài được duy trì một cách lạ lùng, khi nhìn vào chính thân thể của mình thì thấy được dựng nên một cách tinh vi, thì bởi sự khải thị tổng quát này, ai cũng nhận biết có một Đấng Sáng Tạo đầy quyền phép. Mặc dầu c/ta không biết rõ Ngài là ai và ý muốn của Đấng đó cho mình là gì. Ông bà của c/ta ngày xưa đâu có Kinh Thánh, nhưng vẫn nhận biết có Đấng Tạo Hóa.)

 

b) We also know the general revelation of the moral laws of what is right and wrong through our inner conscience. (Tự con người cũng nhận biết những định luật đạo đức qua lương tâm bên trong của mình có, biết điều đúng và sai.)

# For example, the people living before the 10 commandments given, already knew the moral laws of not taking someone else life called murdering, not taking someone else’s stuffs called stealing, or not giving false statements called lying. (Tỉ dụ như những người sống trước khi được ban cho 10 điều răn của ĐCT, họ đã biết lương tâm không cho phép c/ta giết người, ăn cướp của người khác, hay nói dối lòng.)

 

> However, some of our knowledge about the great Creator and moral laws from only the general revelation can be incorrect and incomplete, (Nhưng sự hiểu biết của c/ta về Đấng Sáng Tạo có khi không chính xác và không trọn vẹn, nếu chỉ dựa trên sự khải thị tổng quát mà thôi.)

> The reason because we all are living in a fallen/sinful world that belongs to the devil who can distort our perception of right and wrong (e.g. homosexuality), brings faulty reasoning into our thinking process (e.g. relativism means there is no absolute truth), and causes us to sup-press from time to time the testimony of our conscience (e.g. the worship of satan). (Lý do là vì thế giới c/ta đang sống ở trong bóng tối của tội lỗi và quyền lực ác của ma quỉ cám dỗ, nó hay vặn vẹo sự suy nghĩ đúng sai của mình, nó len lõi sự suy luận sai lầm vào đầu óc của c/ta, và có khi nó cản trở đè nén những sự cáo trách thiện lành của lương tâm mình.)    

> Therefore, we would need a Special revelation from the Creator Himself, as a standard of truth, to interpret the general revelation correctly. (Vì vậy con người c/ta cần có một sự khải thị đặc biệt đến từ Đấng Tạo Hóa Chí Cao, làm tiêu chuẩn cho mọi lẽ thật, để điều chỉnh, bẻ trách, sửa trị sự suy nghĩ của c/ta.)

# If I ask the question - what is the temperature in this building? Some of you feel like 70 degree, others say 75, and I say “no, it’s 80.” But the truth is what does the thermometer read? (Nếu hỏi nhiệt độ của căn phòng này là bao nhiêu? Có người sẽ nói 70 độ, người khác nói 75 độ, tôi thì nói 80 độ. Nhưng nhiệt độ đúng là do cái máy đo nhiệt độ chỉ định.)

> We define things according to what we see and feel, but we need a standard to tell exactly what it is. (C/ta định mọi việc theo sự thấy và cảm nhận, nhưng c/ta cần một tiêu chuẩn thật đúng, không thay đổi để định chính xác mọi điều.)

> Our life is not just about the temperature, but the matter of eternal life and death; and sometimes you have only one chance to choose; therefore you cannot decide based on what you see and feel from the general revelation, but we need the standards of the unchangable truth of the special revelation from God, our Creator. (Cuộc sống của loài người không phải chỉ là vấn đề nhiệt độ, nhưng là sự sống hay sự chết đời đời, có khi c/ta chỉ có một cơ hội duy nhất để chọn lựa; c/ta không thể chỉ dựa vào sự khải thị tổng quát mà thôi, nhưng cần tiêu chuẩn của lẽ thật, sự khải thị đặc biệt ban cho từ Đấng Sáng Tạo nên c/ta.)

> We now know that this Special revelation is called the Bible – the Word of God. (Bây giờ c/ta nhận biết sự khải thị ấy chính là sách Kinh Thánh, lời lẽ thật của ĐCT làm tiêu chuẩn cho loài người.)

> The Bible helps us to know clearly Who is the great Creator, Why He created us, What are His wills for us now, and Where will we go beyond death. (Kinh Thánh giúp c/ta biết rõ Đấng Tạo Hóa Chí Cao là ai, Tại sao Ngài dựng nên loài người, Tại sao c/ta ở đây, Ý muốn của Chúa cho c/ta bây giờ là gì, và c/ta sẽ đi về đâu sau cái chết?)

 

a) From the Bible, we know the great Creator has a name, called God (Elohim, God the Almighty) – Who in the beginning made the heavens and the earth as written in Genesis 1:1. (Kinh Thánh giúp cho c/ta nhận biết Đấng Sáng Tạo có tên là Đức Chúa Trời, là Đấng từ lúc ban đầu đã dựng nên trời và đất, có chép trong sách STK 1:1.)

 

b) By the special revelation through His written Word – the Bible, we know that God is Spirit (meaning we cannot see Him with our eyes), but He communicated with us by His Son Jesus Christ, Who was born of a woman as a man, so that mankind can know the in-visible God. (Bởi sự khải thị đặc biệt của Kinh Thánh, c/ta biết Chúa là Thần mà mắt c/ta không thể thấy được, nhưng Ngài đã khải thị cho c/ta thấy Ngài qua Con một của mình, đã đến thế gian, sanh ra trong lòng của một cô gái đồng trinh, làm người, để con người có thể biết và thấy Đấng Tạo Hóa vô hình.)

# In John 1:1 and John 1:14 summarize this truth of God’s incarnation – “In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God. And 14 The Word became flesh and made his dwelling among us. We have seen his glory, the glory of the one and only Son, who came from the Father, full of grace and truth.” (Lời Chúa trong Giăng 1:1 và 1:14 tóm tắt cho c/ta biết được lẽ thật này – “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. và 14 Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.”)

 

> There is no other way for God the Almighty to reveal Himself perfectly to mankind than through His Son came down from heaven to earth and putting on a “human skin?” (Không có một sự khải thị lạ lùng nào cho bằng khi chính ĐCT quyền năng qua Con Ngài, đã giáng thế mặc lấy da thịt của loài người như mỗi c/ta.)

# If God reveals Himself in a “Spirit” then how do we know Him fully? How could we relate to Him? (Nếu Chúa chỉ đến với c/ta như một vị Thần Linh, thì làm sao con người xác thịt của c/ta có thể liên hệ với Ngài được?)

# If God reveals Himself in a powerful being then how can we approach Him? (Nếu Chúa chỉ đến với c/ta như một Đấng oai nghi đầy quyền năng thì làm sao con người yếu đuối đến gần Ngài được?)

# There is a legend story which was told by an evangelist to the Chinese about the dragon god. (Câu chuyện huyền thoại của một vị giáo sĩ đến nước Trung Hoa kể lại.)

> There was a man who was so devoted to his god of dragon. Everyday he waked up early and worshipped his dragon god. Everyday he offered fresh food to his dragon god on the altar. He always prayed wishing that one day he could see face-to-face his dragon god. (Về một người đàn ông rất khâm phục và tôn kính thờ chúa rồng của mình. Mỗi ngày ông thức dậy sớm thờ chúa rồng và dâng trên bàn thờ những thức ăn mới và cầu xin được một ngày thấy tận mặt chúa rồng của mình.)

> Well, the dragon up in cloud looked down and saw this man devotion, so it decided to come down to visit this man and satisfy his need. So the dragon flew down to earth, came to the man’s house, wrapped around his house with its huge “alligator scale liked” tail, and put its face right on the window. (Con rồng ở trên cao nhìn thấy tấm lòng thành tâm của ông này nên quyết định sẽ bay xuống đến thăm người đàn ông này một lần. Thế là nó bay xuống lấy cái đuôi của nó có da như da con cá sấu quấn lấy xung quanh căn nhà của người đàn ông này, và rồi dựa mặt mình vào cánh cửa sổ của căn nhà.)

> The man was worshipping the dragon and heard some noises, he looked up toward the window, and saw a fierce face of some creatures; the man was so scared, he ran to his backdoor to get out of the house, trying to run away from this monster and would never came back. (Người đàn ông đang thờ lạy chúa rồng bỗng nhiên nghe tiếng động, nghửng mặt lên thì thấy gương mặt của một con vật dữ tợn mà ông chưa bao giờ thấy, ông sợ quá, phóng ngay ra cửa đằng sau nhà, chạy mất tiêu và không bao giờ trở về nhà đó nữa.)

> If God reveals Himself to us as “perfect and holy God,” how can we as sinners approach Him? (Nếu Chúa khải thị c/ta chỉ trong bản tánh thiêng liêng thánh khiết trọn vẹn thì làm sao những kẻ tội nhân như c/ta có thể đến gần Ngài được?) 

> That’s why God became a man in Christ Jesus so we can relate to Him and without the Special revelation in His written word, the Bible, we would not know. (Vì lý do đó mà ĐCT quyền năng vô hạn đã đến như một “con người” để c/ta biết đến Ngài. Nếu không có sự khải thị này trong lời Kinh Thánh, trong Cứu Chúa Giê-xu, thì c/ta không thể biết rõ được lẽ thật.)

 

c) By the special revelation we know Who Jesus is, through His birth, His life, what He said, His teachings, His works of miracles, His death, resurrection, ascension, and His promises for our eternity. (Bởi sự khải thị lạ lùng, c/ta biết được Chúa Giê-xu là ai bởi những lời Ngài đã phán, những sự dạy dỗ của Chúa, qua những phép lạ Ngài đã làm, sự chết, sống lại, thăng thiên, và những lời hứa cho tương lai đời đời của mỗi c/ta.)

 

 

III. Jesus’ Miracles

 

> Jesus is the Son of God Who came to teach the truth, and to provide the one-way that mankind can reconnect (meaning to have a reconciliation) to God that was broken by our sins. (Chúa Giê-xu đến để dạy dỗ lẽ thật và ban cho loài người con đường thoát duy nhất để được liên hệ lại với Đấng Sáng Tạo, cùng hưởng nước thiên đàng của Ngài một ngày.)

> But how do we know that Jesus is the One, sent by God to be the Savior of the world? Why not Buddha, Mohammed or Joseph Smith? (Nhưng làm sao c/ta biết Chúa Giê-xu đúng là Đấng Cứu Chuộc được ĐCT sai đến? Tại sao không là Phật Tử hay chủ giáo Môhamét?)

> One of the ways we can affirm that Jesus is the One sent by God is through His works of miracles. (Một trong những cách c/ta nhận biết được Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế được sai đến là qua những phép lạ Ngài đã làm khi còn sống trên đất này.)

> Note that Jesus did not have to do miracles to prove His divine deity, because He is God and He does not need to prove Himself; but He graciously did them to help our weak faith which is usually based on sights only. (Chính Chúa không cần phải làm những phép lạ để chứng tỏ Ngài là Chúa; nhưng Chúa làm phép lạ để giúp đức tin yếu đuối của c/ta, thường chỉ dựa trên những gì mắt thấy mà thôi.)

 

# According to the four gospel accounts, there were a total of 34 miracles Jesus performed that were recorded in the Bible to demonstrate His power over four different categoties: Over all sicknesses, over demons, over nature, and over death. (Theo như Kinh Thánh trong 4 sách Tin Lành ghi chép lại thì Chúa Giê-xu đã làm tối thiểu 34 phép lạ, chứng tỏ quyền năng của Ngài trên 4 khu vực: Trên mọi bệnh tật, trên thế giới thần linh ma quỉ, trên thiên nhiên, và trên sự chết.)

> Of course, the Bible did not include all the miracles Jesus did, because according to John 21:25, the apostle John said - "Jesus did many other things as well. If every one of them were written down, I suppose that even the whole world would not have room for the books that would be written." (Đây không phải là tất cả những phép lạ Chúa Giê-xu đã làm, vì trong Giăng 21:25, sứ đô Giăng nói Kinh Thánh không thể chép đủ hết tất cả mọi việc, mọi phép lạ Ngài đã làm.)

# Check yourself on this – is there any religious leaders in the history of mankind who was doing such many miracles like Jesus? (Bạn hãy tự hỏi – trên đời này có một chủ giáo nào đã làm nhiều phép lạ như Chúa Giê-xu không?)

# In the book of Quran for Muslism, there was no claim of Mohammad’s miracles other than the Quran itself. The teaching of the Quran said that Muhammad performed no supernatural, verifiable miracles apart from the inspiration that he received. (Trong sách Koran của người Hồi Giáo, không có ghi chép lại rõ ràng một phép lạ nào Môhamét đã làm, ngoại trừ ông tự xưng mình được sự khải thị của sách Koran.)

 

> Most of the miracles of Jesus have something to do with meeting our physical life needs, but often pointing to our spiritual needs and answering many mysterious questions about eternity. (Hầu hết tất cả những phép lạ Chúa làm liên hệ đến những nhu cầu vật chất của con người, nhưng thường để dạy dỗ những lẽ thật của phần tâm linh, và trả lời mọi câu hỏi về thế giới đời đời.) 

> One of Jesus’ miracles performed is recorded in John 6:1-13 when He multiplied 5 small loaves of bread and 2 fish to feed 5,000 people full, not counting the women and children. (Một trong những phép lạ Chúa làm có gi chép trong sách Tin Lành Giăng 6:1-13, khi Chúa hóa 5 cái bánh và 2 con cá cho đến hơn 5,000 người ăn no nê đến nỗi thừa 12 rổ đầy, chưa tính con số đàn bà và con nít.)  

 

 

IV. The Bread of Life

 

> Jesus did this miracle for many reasons: (Chúa Giê-xu làm phép lạ này để bày tỏ nhiều lẽ thật.)

 

a) First, Jesus cared for our physical needs, the need of the stomach. (Chúa Giê-xu thông biết và có thể đáp ứng nhu cầu phần thuộc thể của đám đông, sự đói của thể xác, của cái bụng c/ta, vì chính Chúa cũng mang hình hài của xác thịt.)

 

b) Secondly, Jesus wanted to strengthen His disciples’ faith in believing in Him through this miracle. (Chúa Giê-xu muốn tăng thêm đức tin, lòng tin cậy của các môn đồ mình qua phép lạ này.)

 

c) Thirdly, Jesus did this miracle to demonstrate the power of the Almighty God, the great Creator in Him. Jesus proved to the crowd that He is the Provision for our life. He provided for all our physical needs from air to breath, water to drink, and food to eat. (Qua sự cung cấp thức ăn của bánh và cá, Chúa chứng tỏ quyền năng của Đấng Tạo Hóa ở trong Ngài; chính Ngài là Nguồn cung cấp mọi nhu cầu của cuộc sống con người từ không khí, nước uống cho đến các thực vật.)

 

d) But the most important about this miracle was that Jesus wanted to teach the multitude that He Himself is the One God sent to come and give the “Bread” that can endure to eternal life, something beyond this temporary life – “Do not work for food that spoils, but for food that endures to eternal life, which the Son of Man will give you. For on him God the Father has placed his seal of approval.” (Điều quan trọng nhất lý do Chúa Giê-xu làm phép lạ này là để cho đám đông nhận biết rằng chính Ngài là Đấng ĐCT đã sai đến, để ban cho họ bánh, không chỉ hay hư nát, nhưng sẽ còn dẫn đến sự sống đời đời.)

# For that reason Jesus claimed Himself in verse 35, that no other religious leaders in the human history said – “I am the bread of life. Whoever comes to me will never go hungry, and whoever believes in me will never be thirsty.” (Vì lý do đó mà chính Đức Chúa Jêsus đã phán trong c. 35 như sau: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát.)

> The main purpose for Jesus came into the world is not about doing miracles, or giving us food, because all food will be spoiled one day, but He came to meet our deepest need and that is to be free of the condemnation and punishment of sins, but to live eternally with God in heaven one day. (Chúa Giê-xu đến không phải để cung cấp cho loài người bánh thuộc thể vì mọi thức ăn rồi sẽ bị hư nát, nhưng Ngài đến đáp ứng nhu cầu cần thiết nhất của mỗi c/ta, đó là được thoát khỏi sự đóan xét và phán xét của tội lỗi, nhưng được sống đời đời với chính ĐCT một ngày trong nước thiên đàng của Ngài.)

# Since Adam & Eve sinned, they were banished from the garden that has the tree of life. (Ngày xưa, sau khi Ađam & Êva phạm tội, họ bị đuổi ra khỏi vườn Êđen có cây sự sống.)

> Human from that day lost the ability to live eternally with God, but perishing away from God forever. (Từ lúc đó giòng giống loài người đánh mất đi quyền năng để sống vĩnh cửu với Chúa, nhưng trên con đường dẫn đến sự hư mất đời đời.)  

> But when Jesus came and did this miracle to show and offer the Bread of life, Himself Who can provide a way for mankind to return to the Garden one day and to eat the fruits of the tree of life and live again eternally with God. (Nhưng khi Chúa Giê-xu đến và làm phép lạ này để chứng tỏ Ngài là Bánh của sự sống mà ai chịu ăn thì sẽ được trở về vườn sự sống, ăn trái của cây sự sống và sống đời đời với Chúa.)

 

> But many people did not understand this truth. They could only see the physical bread on how to fill their stomach and free from the Romans’ cruel domination. (Nhưng vô số người trong đám đông đã không hiểu lẽ thật này, vì họ chỉ thấy được nhu cầu của cái bụng mình mà thôi, hay là được thoát ách cai trị của đế quốc Lamã mà Chúa có thể làm được.) 

> The crowd seeked Jesus because of the physical bread and fish, because the power in this miracle working man, and not the kingdom of God. (Họ tìm Chúa chỉ để được ăn bánh và cá, chứ không tìm kiếm nước ĐCT.)

> The same thing is happening today; many people are blinded by the power of darkness to see the need of salvation, the Savior Jesus, the Bread of life, but only the physical food. (Ngày hôm nay cũng vậy, vô số người vẫn chưa hiểu Chúa Giê-xu đến để ban cho họ sự cứu rỗi, Bánh hằng sống, nhưng chỉ thấy đồ ăn vật chất mà thôi vì bóng tối đã che đậy và làm mù lòng họ.)

# In 2 Corinthings 4:4 said – “The god of this age has blinded the minds of unbelievers, so that they cannot see the light of the gospel that displays the glory of Christ, who is the image of God.” (Trong 2 Côrinhtô 4:4 có chép: “cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời.”)

> They only concern about the pleasures of this world, the gains of money, power, fame, and popularity, the food that can fill their stomach, and care less about the gift of eternal life that Jesus offered. (Họ chỉ thấy bánh của những thú vui vật chất, của tiền bạc, của quyền lực, của danh tiếng, nhưng không cần đến sự cứu chuộc và sự sống đời đời mà Chúa Giê-xu hứa ban cho.)

> They lived with an attitude: “Fill the stomach first, then talk about salvation later.” Similar to a Vietnamse saying: “Có thực mới vực được đạo.”)

> The problem of filling the stomach first is that when our stomach is full, we tend to forget the One Who has filled our stomach to worship Him, but living in ignorance of God, and His kingdom. (Vấn đề khi c/ta cho bụng mình ăn no trước đó là nhiều khi no rồi, c/ta lại quên lãng đi Đấng đã ban phước cho mình để thờ phượng, nhưng lại sống hờ hững, tự mãn, chẳng cần biết Chúa là ai, và chẳng thèm sự cứu rỗi của Ngài là gì nữa.)

# Look at the America; we become so independent, powerful and rich, our stomach is full, and now we are in-different about morality, promoting and protecting things that God calls abominations in His word. The bad thing is that the churches of Jesus Christ begin to tolerate these and don’t want to raise any voices, or defending for our faith. (Hãy nhìn xem chính nước Mỹ ngày nay đã trở nên giàu có với nhiều quyền lực, bụng no nê, nhưng nay đang làm những điều gớm ghiết, nghịch với Đấng đã ban phước cho nước này; còn hơn nữa, chính hội thánh của Chúa ngày nay cũng đang dần dần chấp thuận với những điều ác này , chỉ yên lặng không đứng lên làm chứng niềm tin của mình.)

# Some of Christians don’t even care to do a simple thing and that is to register to vote, supporting those leaders who still stand firm for God.

 

> Jesus said that we all need to seek for the Bread of life first, that can bring us to eternal life because at the end of the day, all other kinds of bread will be spoiled, disappointed, and perished into the eternal lake of fire. (Chúa Giê-xu dạy đám đông phải tìm kiếm Đấng Cứu Thế ban cho Bánh hằng sống trước hết, là bởi vì mọi thứ bánh khác ở trên đời này một ngày sẽ bị hư nát mà thôi, chẳng còn có ích chi nữa.)

> That’s why Jesus came and said in Matthew 6:33“But seek first his kingdom and his righteousness, and all these things will be given to you as well.” (Vì vậy có lần Chúa Giê-xu giảng trên núi đã phán rằng: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.”)

 

 

V. Look & Believe the Son

 

> So, how can a person taste the Bread of life that can endure to eternal life? (Làm thế nào để một người nếm được Bánh Hằng Sống?) What can I do to have this Bread? (Bây giờ chúng ta phải làm chi để có thể nhận được bánh hằng sống đó?)

> The answer is to look and believe in Jesus Christ as in verse 40 – “For my Father's will is that everyone who looks to the Son and believes in him shall have eternal life, and I will raise him up at the last day.” (Câu trả lời đơn giản là chúng ta phải nhìn và tin vào Cứu Chúa Giê-xu, như Ngài đã nói trong câu 40: “Ðây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con thì được sự sống đời đời.”)

> There are 2 basic steps here. (Hai bước căn bản để có sự sống đời đời đó là động từ “nhìn và tin.”)

 

1) “Look to Jesus” is an act of repentance, and repentance is a change in mind, recognizing that you are a sinner and if you are keep on going in sin, you will perish, but also recognizing Jesus is the Savior, only Him can save you from this terrible destination of hell, and that you are willing to make a U-turn away from sins and looking toward Jesus Christ. (Nhìn là hành động bày tỏ lòng ăn năn tội lỗi, nhận biết nếu mình tiếp tục sống trong tội lỗi thì sẽ dẫn đến sự hư mất, nhưng cũng nhận biết Chúa Giê-xu là Đấng có thể cứu thoát mình ra khỏi sự hư mất này, và bằng lòng thay đổi ý chí quay lưng khỏi tội lỗi và quay trở lại “nhìn nhận” Chúa Giê-xu để được sự tha tội và cứu chuộc.)

> “Look to Jesus” means to recognize Jesus is the Bread of Life that God gave to you. (Nhìn là nhìn nhận Chúa Giê-xu là Bánh hằng sống mà Đức Chúa Trời đã ban cho mình.)

 

2) “Believe in Jesus” is a decisive act of will to call upon the Name of Jesus, asking for His forgiveness, and receiving Christ as the Lord and Savior of your life. (Tin là một sự quyết định nhận lấy Bánh hằng sống cho chính mình để được tha tội, và bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu giờ đây là Chúa và Chủ đời sống mình.)

> Looking and believing are not works, but the expression of our faith and will to trust Jesus completely for all he had done on the cross to provide our salvation. (Nhìn và tin không phải là việc làm công đức cá nhân, nhưng sự nhất quyết của đức tin trong Chúa Giê-xu, lòng tin cậy vào mọi việc Ngài là đã làm trọn trên cây thập tự gía để cứu chuộc mình.)

 

# Let’s say you were at the mountain where Jesus did the miracle of multiplying the bread and fish. You are exhausted and hungry. You know that it was late and without eating food you would not make it home. (Tỉ dụ như bạn là một trong những người ở trong đám đông tại núi mà Chúa Giê-xu đã làm phép lạ hóa bánh và cá. Lúc đó trời đã sắp tối, bụng bạn đói, nếu không có gì ăn chắc bạn không về nhà được.)

> You saw Jesus did the miracle, and the basket of bread and fish passed right infront of you readily for your use; but you reject it, you just let it pass by, then would your stomach be full? (Rồi bạn thấy Chúa Giê-xu làm phép lạ hóa bánh và cá. Cái rổ bánh và cá được đem đến ngay trước mắt bạn, nhưng bạn lại từ chối không chịu nhận lấy mà ăn thì bụng của bạn có no được không?)

> But if you are willing to eat the bread and fish, then you would taste the goodness of God and continue living. (Nhưng nếu bạn bằng lòng thò tay lấy bánh và cá mà ăn thì chắc chắn bạn sẽ thưởng thức thức ăn này và bụng bạn sẽ được no nê.)

> Others ate the bread that would make your stomach full – no; You must eat the bread for yourself. (Người khác ăn no có làm bụng bạn no không? Không. Bạn phải tự ăn bánh ấy cho chính mình.)

> Also, did anyone on that day have to pay anything to eat the bread & fish? It was all provided and free! (Thêm nữa, bạn có thấy ai trong ngày đó phải trả gía gì để có bánh và cá mà ăn không? Tất cà đều là thức ăn Chúa Giê-xu ban cho không, chỉ nhận lấy ăn mà thôi, không đòi một gía nào.)

> Let me ask you – what else God can do for you in Christ Jesus to give you the eternal life? (ĐCT còn phải làm chi nữa trong Con Ngài để ban cho bạn sự sống đời đời?)

> Will you have any excuses to not receiving the free bread of life? (Bạn có còn lý do gì để bào chữa nữa không?)

 

> Just come to Jesus today to eat the Bread of life that endures to eternal life, then you will completely satisfied and need nothing else. (Hãy chỉ ăn năn và lấy đức tin đến với Chúa Giê-xu hôm nay, nhận Bánh hằng sống mà ăn, để bạn thật được thỏa lòng trọn vẹn, được no nê mà sẽ không còn cần chi nữa!)

 

 

---------------------- Lời Mời Gọi

> Nhu cầu của loài người là cần bánh để mà sống.

> Nhưng mọi thứ bánh ở trên đời này, hay gọi là những điều vật chất mà con người đeo đuổi hằng ngày sẽ không thỏa mãn chúng ta mãi được.

# Dù cho được ăn ngon đến đâu đi nữa, có uống được loại thuốc bổ đắt tiền nổi tiếng đến đâu đi nữa, con người sẽ có lúc đến tuổi gìa nua, răng rụng, tóc bạc, da nhăn nheo, lưng cong, mất trí nhớ và rồi qua đời mà thôi, quá lắm là “ba vạn sáu ngàn ngày.”

> Lý do là loài người đã máng tội, đánh mất đi năng lực để có thể sống vĩnh cửu.

 

> Nhưng cám ơn ĐCT, Ngài đã ban cho c/ta Bánh hằng sống để c/ta có được lại sự sống đời đời.

> Chúa Giê-xu, Con ĐCT đã đến và tuyên bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống Chúa sai đến. 

> Chúa Giê-xu là Đấng duy nhất có quyền năng để làm sạch mọi tội của chúng ta bởi chính huyết vô tội của Ngài, đã đổ ra trên cây thập tự gía.

> Ngài còn là Bánh hằng sống thật phải có quyền năng ban cho sự sống đời đời.

> Chúa Giê-xu có quyền năng để làm mọi kẻ tin được sống lại trong ngày tận thế.

 

> Ai cũng sẽ chết, nhưng chỉ có những ai tin cậy Chúa Giê-xu thì mới sống lại và sống đời đời một ngày.

> Bạn có sẽ sống lại được không? Bạn có nghĩ mình tự làm mình sống lại được không?

# Một thân xác mà còn sống thì không có mùi hôi; nhưng ai cũng chết hết và một xác chết sau 3-4 ngày thì chắc chắn sẽ lên mùi hôi thúi, và rồi để lâu thì xác đó sẽ có những con dòi và thành bụi đất một ngày, phải không?

> Nhưng Chúa Giê-xu phán Ngài là bánh thật và trong Ngài có quyền năng phục sinh, nghĩa là Chúa sẽ làm mọi kẻ tin Ngài cũng sẽ sống lại trong ngày sau rốt.

> Đây là lời tuyên bố có một không hai và lời hứa này thật có lý vì chính Cứu Chúa Giê-xu đã một lần sống lại vinh hiển, sau 3 ngày từ phần mộ bước ra chiến thắng thần chết.

 

> Giá trị cuối cùng của đời sống này là gì?

> Cuối cùng của đời này, bạn còn có gì nữa không? Tại sao mình đổ hết sức lực chỉ vào những điều một ngày sẽ hư nát, chỉ có gía trị tạm bợ ở đời này, mà lại đánh mất linh hồn mình sao?

 

> Chỉ hãy nhìn và tin nhận Cứu Chúa Giê-xu.

> Đức Chúa Trời sẽ từ chối những ai từ chối Con một của Ngài, mà Chúa đã hy sinh.

> Ngược lại Đức Chúa Trời chấp nhận bất cứ ai và ban cho nước thiên đàng không điều kiện, nếu người đó bằng lòng tin nhận Con Ngài là Cứu Chúa Giê-xu Christ

# 1 Giăng 5:11-12(And this is the testimony: God has given us eternal life, and this life is in his Son. He who has the Son has life; he who does not have the Son of God does not have life.) “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.”

 


-------------

> Còn con cái Chúa…

> Chúng ta đã có Bánh hằng sống ở trong mình như đã một lần tin Chúa, nhưng chúng ta có thường xuyên ăn bánh đó không? Mối liên hệ của chúng ta với Chúa Giê-xu ra như thể nào?

> Bên ngoài có mập mạp, nhưng bên trong tâm linh đang “ốm o gầy mòn, da bọc xương” không?

> Chúng ta có đang sống đời sống chiến thắng mọi cám dỗ và đầy dẫy việc lành không?

> Chúng ta có đang đói khát Bánh hằng sống không? Bánh đó có đang thỏa mãn chúng ta không, hay là chúng ta cứ đang cắm đầu cắm cổ chỉ đeo đuổi những của cải vật chất ở đời này mà thôi sao?

> Có thể mỗi Chúa Nhật chúng ta đến đây chỉ nghe quảng cáo về bánh, ngủi mùi bánh thơm; Nhưng ra về chưa thật sự ăn bánh, chưa làm theo những lời dạy dỗ sao?

> Hãy lắng nghe tiếng Chúa Giê-xu cáo trách chúng ta - (Do not work for food that spoils, but for food that endures to eternal life, which the Son of Man will give you.) “Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi.”

 

> Mỗi lần đến nghe giảng là mỗi lần mỗi người chúng ta phải quyết định, điều chỉnh lại nếp sống của mình, để có thì giờ học Kinh Thánh mỗi ngày và cầu nguyện tìm kiếm Chúa không?

> Hãy cầu xin ĐTL làm cho chúng ta đói khát chính Ngài ngay giờ phút này, và cho chúng ta biết tìm đến với Ngài, để chính mỗi người chúng ta được thỏa mãn, gia đình chúng ta được no đủ hạnh phúc, và Hội Thánh của Ngài được thỏa lòng trong sự hiệp nhất, hòa thuận mà hầu việc Chúa.

> Hãy cầu nguyện như sau: “Ôi! Chúng con thật cần Chúa, thật cần Bánh hằng sống như chưa bao giờ hết! “Lạy Chúa Giê-xu, xin Ngài ban cho chúng con đồ ăn đó, chính là Ngài luôn luôn! Amen!”


Food that Endures to Eternal Life

John 6:23-27/40

 

“Then some boats from Tiberias landed near the place where the people had eaten the bread after the Lord had given thanks. 24 Once the crowd realized that neither Jesus nor his disciples were there, they got into the boats and went to Capernaum in search of Jesus. 25 When they found him on the other side of the lake, they asked him, “Rabbi, when did you get here?” 26 Jesus answered, “Very truly I tell you, you are looking for me, not because you saw the signs I performed but because you ate the loaves and had your fill. 27 Do not work for food that spoils, but for food that endures to eternal life, which the Son of Man will give you. For on him God the Father has placed his seal of approval… 40 For my Father’s will is that everyone who looks to the Son and believes in him shall have eternal life, and I will raise them up at the last day.”

 

            What kinds of food do you like to eat? What kinds of clothes do you like to wear? Our bodies are designed to need these basic things to survive. If we don’t eat, we will surely die; if we don’t wear clothes, we cannot go too far anywhere. But our conscience seems to say that we also have other spiritual needs for the soul, that our eyes cannot see; and we do not know exactly what it is. We, as humans need a “special revelation” in order to know this spiritual need, and to have the answers for these mysterious questions about eternity.

 

          What is this special revelation? How is it different from the general revelation? First, we all have the general revelation by just making observation of the things around us, then we can conclude based on this general revelation that there is a Great Creator, Who created all of these things; even though we do not fully know of Who He is and what are His wills for us. We also know the general revelation of the moral laws of what is right and wrong through our inner conscience. However, some of our knowledge about the great Creator and moral laws from only the general revelation can be incorrect and incomplete. The reason because we all are living in a fallen/sinful world that belongs to the devil who can distort our perception of right and wrong (e.g. homosexuality), brings faulty reasoning into our thinking process (e.g. relativism), and causes us to suppress from time to time the testimony of our conscience (e.g. the worship of satan). Therefore, we would need a Special revelation from the Creator Himself, as a standard of truth, to interpret the general revelation correctly. We now know that this Special revelation is called the Bible – the Word of God.

 

          From the Bible, we know the great Creator has a name, called God. By the special revelation through His written Word – the Bible, we know that God is Spirit, but He communicated with us by His Son Jesus Christ, Who was born of a woman as a man, so that mankind can know the in-visible God. By the special revelation we know Who Jesus is, through His birth, His life, what He said, His teachings, His works of miracles, His death, resurrection, ascension, and His promises for our eternity. Jesus is the Son of God Who came to teach the truth, and to provide the one-way that mankind can reconnect to God that was broken by our sins. But how do we know that Jesus is the One, sent by God to be the Savior of the world? One of the ways we can know that Jesus is the One sent by God is through His works of miracles. Note that Jesus did not have to do miracles to prove His divine deity, because He is God and He does not need to prove Himself; but He graciously did them to help our weak faith which is usually based on sights only. Most of the miracles of Jesus have something to do with meeting our physical life needs, but often pointing to our spiritual needs and answering many mysterious questions about eternity. One of Jesus’ miracles performed is recorded in John 6:1-13 when He multiplied 5 small loaves of bread and 2 fish to feed 5,000 people, not counting the women and children.

 

          Jesus did this miracle for many reasons: First, Jesus cared for our physical needs, the need of the stomach. Secondly, Jesus wanted to strengthen His disciples’ faith in believing in Him through this miracle. Thirdly, Jesus did this miracle to demonstrate the power of the Almighty God, the great Creator in Him. Jesus proved to the crowd that He is the Provision for our life. He provided for all our physical needs from air to breathe, water to drink, and food to eat. But the most important about this miracle was that Jesus wanted to teach the multitude that He Himself is the One God sent to come and give the “Bread” that can endure to eternal life. The main purpose for Jesus came into the world is not about doing miracles, or giving us food, because all food will be spoiled one day, but He came to meet our deepest need and that is to be free of the condemnation and punishment of sins, but to live eternally with God in heaven one day. But many people did not understand this truth. They could only see the physical bread on how to fill their stomach and free from the Romans’ cruel domination. They only concern about the pleasures of this world, the gains of money, power, fame, and popularity, and care less about the gift of eternal life that Jesus offered. Jesus said that we all need to seek for the Bread of life first, that can bring us to eternal life because at the end of the day, all other kinds of bread will be spoiled, disappointed, and perished into the eternal lake of fire.

 

          So, how can a person taste the Bread of life that can endure to eternal life? The answer is to look and believe in Jesus Christ. “Look to Jesus” is an act of repentance, and repentance is a change in mind, recognizing that you are a sinner and if you are keep on going in sin, you will perish, but also recognizing Jesus is the Savior, only Him can save you from this terrible destination of hell, and willing to make a U-turn away from sins and looking toward Jesus Christ. “Believe in Jesus” is a decisive act of will to call upon the Name of Jesus, asking for His forgiveness, and receiving Christ as the Lord and Savior of your life. Looking and believing are not works, but the expression of our faith and will to trust Jesus completely for all he had done on the cross to provide our salvation. Just come to Jesus today to eat the Bread of life that endures to eternal life, then you will completely satisfied and need nothing else.