Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 46

Thông Biết Chúa Trọn Vẹn

Know God Personally, His Ways, His Presence and See His Glory

(Xuất Hành 33:8-23)

 

“Vừa khi Môi-se ra đến Trại, thì cả dân sự chổi dậy, mỗi người đứng nơi cửa trại mình, ngó theo Môi-se cho đến khi nào người vào trong Trại rồi. 9 Vừa khi người vào đó, thì trụ mây giáng xuống dừng tại cửa Trại, và Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se. 10 Cả dân sự thấy trụ mây dừng tại cửa Trại, bèn đứng dậy, rồi mỗi người đều sấp mình xuống nơi cửa trại mình. 11 Đức Giê-hô-va đối diện phán cùng Môi-se, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình. Đoạn, Môi-se trở về trại quân, còn kẻ hầu trẻ của người, tên là Giô-suê, con trai của Nun, không ra khỏi Trại. 12 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Nầy, Chúa phán cùng tôi rằng: Hãy đem dân sự nầy lên! Song Chúa chẳng cho tôi biết Chúa sai ai đi cùng tôi. Vả, Chúa có phán rằng: Ta biết ngươi vì danh ngươi, và ngươi được ơn trước mặt ta. 13 Vậy bây giờ, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin cho tôi biết đường của Chúa, để cho tôi biết Chúa và được ơn trước mặt Ngài. Xin cũng hãy nghĩ rằng dân nầy là dân của Ngài! 14 Đức Giê-hô-va đáp rằng: Chính mình ta sẽ đi cùng ngươi, và ta sẽ cho ngươi an nghỉ. 15 Môi-se thưa rằng: Nếu chính mình Ngài chẳng đi, xin đừng đem chúng tôi lên khỏi đây. 16 Lấy cớ chi mà người ta sẽ biết rằng tôi cùng dân sự Ngài được ơn trước mặt Ngài? Có phải khi nào Ngài cùng đi với chúng tôi chăng? Thế thì, tôi cùng dân sự Ngài sẽ được phân biệt với muôn dân trên mặt đất. 17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Ta sẽ làm điều ngươi cầu xin ta, vì ngươi được ơn trước mặt ta, và ta biết ngươi bởi danh ngươi vậy. 18 Môi-se thưa rằng: Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài! 19 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ làm cho các sự nhân từ ta phát ra trước mặt ngươi; ta hô danh Giê-hô-va trước mặt ngươi; làm ơn cho ai ta muốn làm ơn, và thương xót ai ta muốn thương xót. 20 Ngài lại phán rằng: Ngươi sẽ chẳng thấy được mặt ta, vì không ai thấy mặt ta mà còn sống. 21 Đức Giê-hô-va lại phán: Đây có một chỗ gần ta, ngươi hãy đứng trên hòn đá; 22 khi sự vinh hiển ta đi ngang qua, ta sẽ để ngươi trong bộng đá, lấy tay ta che ngươi, cho đến chừng nào ta đã đi qua rồi. 23 Ta sẽ rút tay lại, và ngươi thấy phía sau ta; nhưng thấy mặt ta chẳng được.”

(And whenever Moses went out to the tent, all the people rose and stood at the entrances to their tents, watching Moses until he entered the tent. 9 As Moses went into the tent, the pillar of cloud would come down and stay at the entrance, while the Lord spoke with Moses. 10 Whenever the people saw the pillar of cloud standing at the entrance to the tent, they all stood and worshiped, each at the entrance to their tent. 11 The Lord would speak to Moses face to face, as one speaks to a friend. Then Moses would return to the camp, but his young aide Joshua son of Nun did not leave the tent. 12 Moses said to the Lord, “You have been telling me, ‘Lead these people,’ but you have not let me know whom you will send with me. You have said, ‘I know you by name and you have found favor with me.’ 13 If you are pleased with me, teach me your ways so I may know you and continue to find favor with you. Remember that this nation is your people.” 14 The Lord replied, “My Presence will go with you, and I will give you rest.” 15 Then Moses said to him, “If your Presence does not go with us, do not send us up from here. 16 How will anyone know that you are pleased with me and with your people unless you go with us? What else will distinguish me and your people from all the other people on the face of the earth?” 17 And the Lord said to Moses, “I will do the very thing you have asked, because I am pleased with you and I know you by name.” 18 Then Moses said, “Now show me your glory.” 19 And the Lord said, “I will cause all my goodness to pass in front of you, and I will proclaim my name, the Lord, in your presence. I will have mercy on whom I will have mercy, and I will have compassion on whom I will have compassion. 20 But,” he said, “you cannot see my face, for no one may see me and live.” 21 Then the Lord said, “There is a place near me where you may stand on a rock. 22 When my glory passes by, I will put you in a cleft in the rock and cover you with my hand until I have passed by. 23 Then I will remove my hand and you will see my back; but my face must not be seen.”)

 

 

I. Desire to Know God

> Is God real to you? (Đức Chúa Trời có thật đối với quí vị không?)

> If God is real to you, then do you talk to Him often? (Nếu Ngài có thật thì quí vị có thường nói chuyện với Chúa không?)

> When do you talk to God, what do you say? What will you ask Him for? (Khi nói chuyện với Chúa, quí vị nói gì với Ngài? Quí vị xin Chúa điều gì?)

> The greatest desire of our heart should be to know God better. (Điều mong ước của mỗi tấm lòng của c/ta phải là mong được thông biết Chúa hơn mỗi ngày.)

# We should not boast of anything in this life other than boasting in knowing God as in Jeremiah 9:23-24 said: “This is what the LORD says: "Let not the wise man boast of his wisdom or the strong man boast of his strength or the rich man boast of his riches, but let him who boasts boast about this: that he understands and knows Me, that I am the LORD, Who exercises kindness, justice and righteousness on earth, for in these I delight," declares the LORD.” (Trong Giêrêmi 9:23-24 lời Chúa có nhắc chúng ta nên khoe gì trong cuộc sống? “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình. Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì ta ưa thích những sự ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy.”

# Many people in this world do not care to know anything about God; therefore, they would never find a meaningful life, or the answer and hope for the life after. (Nhiều người chẳng cần muốn biết Chúa là ai; vì vậy họ không thể nào tìm được ý nghĩa thỏa mãn tâm linh cho lòng mình trong cuộc sống này, và sẽ không thể tìm được câu trả lời và sự hy vọng cho cõi đời sau.)

> Others may know God, but do not know about Him with a deep knowledge and passion. (Những người khác thì chỉ biết Chúa sơ xài, nhưng thật sự không hiểu Ngài là ai với một tấm lòng khao khát tìm biết Chúa.)

> But some really seek to know God with all of his heart and experience a wonderful and satisfied life. (Nhưng có một số người tìm kiếm Chúa hết lòng, hết linh hồn và họ kinh nghiệm được một đời sống thoả lòng trọn vẹn mà thấy không cần điều chi nữa.) 

> One of those people was Moses. Let’s learn from Moses on how He knew God. (Một trong những người đó chính là nhà lãnh đạo Môise. C/ta hãy học ở nơi Môise đã biết Chúa thể nào.)

 

 

II. Moses Life Background

 

> The life of Moses from birth begun with 40 years in the Egyption palace, then 40 years caring for the sheep in the dessert, until God called him to lead God’s people in the wilderness for 40 years to the promised land. (Đời sống của Môise bắt đầu từ trong cung điện của người Aicập 40 năm, sau đó phải trốn tránh trong đồng vắng 40 năm, và cuối cùng được Chúa gọi dẫn dân sự Chúa hành trình đi trong sa mạc 40 năm đến đất hứa.)

> Moses had seen and experienced so much: the cruelty of the Egyptians, God’s 10 plagues, a long time in the dessert when God seemed to be silent, the call for a commission at the burning bush, the rescue at the Redsea, the stubbornness and rebellion of God’s people. (Môise đã kinh nghiệm biết bao nhiêu điều trong cuộc sống: nào là sự tàn ác của dân Aicập, 10 tai họa ĐCT giáng trên người Aicập, thời gian Chúa yên lặng thật lâu, sự kêu gọi tại bụi gai cháy không tàn, sự Chúa giải cứu họ qua biển Chết, và sự cứng lòng của chính dân sự Ngài trong đồng vắng.)

> But there was an experience that Moses had that not many men can experience on this earth and that was the direct relationship with God - The Almighty God Who once revealed to Moses that His name was “I AM,” meaning the self-existed and eternal One. (Nhưng có một kinh nghiệm Môise có mà hiếm có người nào trên thế gian này có được đó là mối liên hệ trực tiếp với Chúa Quyền Năng.)

 

 

III. Moses Knew God

 

1) In this experience, Moses first learned about the grace of God. (Thứ nhất trong mối liên hệ này, Môise kinh nghiệm được ân điển của chính Chúa ban cho mình.)

# In v. 11 - God spoke to Moses as a friend, although Moses could not see Him. (Trong c. 11 chép ĐCT nói chuyện với Môise như một người bạn thân, mặc dầu Môise không thấy được Ngài.)

 

> There is no way for any man, as a sinner can approach to God, because His wrath will surely consume him. (Không một kẻ tội nhân nào có thể đến gần với ĐCT vì sự thánh khiết của Chúa sẽ đốt cháy người đó ngay.)

# One of the most simple theologies about God that it easy to understand, but at the same time most misunderstood is “God is love.” (Một trong giáo lý thần học rất dễ hiểu, nhưng cũng thường hay bị hiểu lầm chưa trọn đó là “Chúa là sự yêu thương.”)

> Of course, God is love if you don’t believe it then look at the cross, and it can be summarized in Romans 5:8 – “God demonstrates his own love for us in this: While we were still sinners, Christ died for us.” (Đương nhiên ĐCT là Đấng yêu thương, nếu không biết thì quí vị có thể hướng nhìn đến thập tự gía, mà đã được tóm tắt trong Rôma 5:8 như sau: “Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết,” trên cây gỗ.)

> But God is not only love, but also just, that means He will not let any sins go unpunished. All sinners will be judged for the sins they committed. (Chúa không phải chỉ là Đấng yêu thương mà thôi, nhưng Ngài còn là Đấng Công Bình nữa, nghĩa là Chúa sẽ trừng phạt mọi kẻ tội nhân, xứng với tội họ đã vi phạm.)

> With our nature as sinners, the Bible said we are the enemies of God, and no one can get close to Him; so the thought of being a friend to God is unthinkable, un-imaginable, and impossible. (Bản chất tự nhiên của mỗi c/ta ai cũng là tội nhân, cho nên Kinh Thánh cho biết c/ta là kẻ thù của ĐCT, thì việc mà một người được đến gần với Ngài là chuyện không thể xảy ra được, huống gì được làm bạn với Chúa?)

> But God at His own initiate chose to be Moses’ friend and spoke to him face-to-face, meaning directly. God is real and He came down as a pillar of cloud over Moses’ tent and spoke with him as a friend without Moses was being consumed. (Nhưng ĐCT đã tự ý chọn Môise làm bạn và giáng xuống như một trụ mây trên lều và nói chuyện với ông, mà Môise không bị đốt cháy.)

> This is called grace, meaning a favor of God bestowed on Moses, eventhough he was a sinner and not deserved it. (Đây là ân điển lạ lùng, phước lành ĐCT ban cho Môise, mặc dầu ông là kẻ có tội như mọi người, không đáng được có mối liên hệ này.)

> God chose to have a personal relationship with Moses. (Chúa tự chọn có một mối liên hệ cá nhân gần gũi mật thiết với Môise như một người bạn là chuyện không thể tưởng tượng được.)

 

> Do you want to know God as a friend? Do you desire to have a personal relationship with God that’s close? (Quí vị có muốn biết Chúa Chí Cao như một người bạn thân của mình không?)

# Do you pray to God as a friend through Jesus with the help of His Holy Spirit? (C/ta có cầu nguyện với Chúa như một người bạn gần gũi qua Cứu Chúa Giê-xu với sự giúp đỡ của Thánh Linh không?)

> There is no greater and closer relationship we can have with God than a friendship, and whoever experiences this would never have to be afraid of anything else. (Không có mối liên hệ nào đẹp cho bằng được gần gũi với Chúa như vậy, và ai kinh nghiệm được điều này thì chẳng còn điều chi mình sợ hãi nữa.) 

# Those who have friendship with God will have peace and boldness, even if they have to stand infront of the kings and rulers of this world, just as Moses stood before Pharaoh, king of Egypt without any fear, because God was his friend. (Họ sẽ là người có sự bình an, tánh dạn dĩ, can đảm cho dù phải đứng trước các vua chúa ở đời này, như Môise trước mặt vua Pharaôn, nhưng chẳng một chút sợ hãi vì ĐCT là bạn của mình.)

 

2) Secondly, Moses asked to know God’s ways & will. (Môise muốn biết đường lối Chúa.)

> During the conversation with God in the tent, what did Moses ask Him? What was Moses’ desires? (Trong sự nói chuyện với Chúa, Môise xin gì ở Ngài? Môise ao ước điều chi?)

# He didn’t ask God to show him a miracle, signs or wonders? Moses did not request God for richness or more power. (Môise không có xin Chúa bày tỏ những dấu lạ cho ông xem. Ông cũng không xin thêm sự giàu có hay quyền thế.)

# He did not ask God to reveal to him the lottery number to buy so he could win the powerball? (Không có xin Chúa chỉ cho ông con số xổ xố là gì để mua và thắng được số độc đắc?)

# He did not ask God for whom to marry? Which stocks to invest? (Không có xin Chúa cho biết ai là người bạn trăm năm lý tưởng của mình? Mua bán những loại công khố phiếu nào?)

# He did not ask God for what career he should go for? (Không có xin Chúa chỉ cho mình nên học ngành gì?) He did not ask God to show him the best fishing spot? (Câu cá chỗ nào?)

> Moses desired to know God’s ways; Moses asked God to teach him His ways in v. 13“If you are pleased with me, teach me your ways so I may know you and continue to find favor with you.” (Nhưng Môise ao ước được biết đường lối Chúa, ông xin Chúa chỉ cho mình biết công việc của Chúa là gì.) Why? (Tại sao?)

> Because through knowing God’s ways Moses could know God of His nature and how He acted when and where. (Lý do là vì qua đường lối Chúa, Môise sẽ thông biết Ngài là ai, đặc tánh của Chúa là gì trong mọi việc Ngài làm.)

 

> What is wisdom? (Sự khôn ngoan là gì?)

# Wisdom is the knowledge of knowing something to act upon. (Khôn ngoan là sự hiểu biết về một điều gì đó để hành động.)

> Better definition of wisdom is to know what God is doing and what He is going to do next. In every life situations, have you asked God to give you the wisdom to understand why God acted a certain way and what He plans to do next so you can get on “the bus” with Him? (Định nghĩa hay hơn của sự khôn ngoan đó là sự hiểu biết Chúa đang làm gì, và việc gì Ngài sẽ sắp sửa làm nữa, để sửa soạn vâng phục cùng làm theo với Chúa.)

# Most of time when facing difficulties, we tend to complain – “why me?” Rather than trying to understand God’s ways – why is He doing that? What can I learn from it? What does God want to teach me? (Thường khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, c/ta hay phàn nàn, có khi trách móc Chúa nữa, thay vì tự hỏi xem đường lối của Chúa là gì trong việc này, và Chúa muốn dạy dỗ chính mình điều chi đây?)

> Only those who have this heart to seek of knowing God will understand His ways in every situation as said in Romans 8:28 – “And we know that in all things God works for the good of those who love him, who have been called according to his purpose.” (Ai thật lòng có tâm tình đó thì sẽ hiểu được đường lối hành động của Chúa trong mọi sự, như có chép trong Rôma 8:28 – “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.”)

 

> Did God show Moses His ways? He did – How? (ĐCT có chỉ cho Môise đường lối của Mình không? Có - bằng cách nào?)

# Through the 10 commadments that God wrote by His own fingers on the 2 tablets of stone, that Moses broke them when he came down from the mountain and was angry at His people because they worshipped a golden calf. (Qua chính sự ban cho 10 điều răn của Chúa, viết xuống do chính những ngón tay của Ngài trên 2 bảng đá, mà Môise khi xuống núi vì quá giận dân sự Chúa phạm tội thờ bò vàng mà lỡ đập bể.) 

> Moses was about to go up the mountain to receive the 10 commandments from God for the second time. (Môise đang trong giai đoạn lên núi lần thứ hai để nhận lại 10 điều răn của ĐCT.)

> For sure, God’s commandments show us His ways and wills. (Điều răn và luật pháp của Chúa bày tỏ rõ đường lối của chính Ngài cho c/ta biết.)

# For example, the second commandment in Exodus 20:4-5 forbids His people to make any image and worship it – “You shall not make for yourself an image in the form of anything in heaven above or on the earth beneath or in the waters below. You shall not bow down to them or worship them; for I, the Lord your God, am a jealous God.” (Chẳng hạn như điều răn thứ hai, ĐCT cấm dân sự của Chúa không được làm gì? “Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. 5 Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà.)

> Why? Can’t we just make an image as a symbol so we can “see” God easier? No, for at least 2 reasons: (Tại sao không được? Tôi chỉ làm tượng chạm là vật để tượng trưng và dễ thấy được Chúa thôi mà, có sao đâu? Không được vì tối thiểu 2 lý do sau đây:) 

a) There is no image that can contain all the glory of the Almighty God. God cannot be contained in a physical and dumb statue which has eyes but cannot see, has legs but cannot walk, has a mouth but cannot speak. God is Spirit, He is all powerful, all knowing, all present; you cannot limit Him in a image of stone or metals. (ĐCT là Đấng Quyền Năng Chí Cao, vô hình, đầy sự vinh hiển thì Ngài không thể bị thu nhỏ trong những vật bằng đất vô tri vô giác.)

b) It misdirects the people to worship idols rather than God. God is not an idol and He is not a myth that we can constraint Him in a statue liked other gods. (Tượng chạm sẽ làm cho con người lầm lạc vào việc thờ lạy các tà thần là điều ĐCT kỵ tà.)

 

> Today, we are so blessed to have the full Bible so that we can know God and His ways fully. (C/ta ngày nay thật được phước vì có cả trọn bộ Kinh Thánh để biết đường lối và ý Chúa trọn vẹn.)

> One of the most common questions Christians have is “How do I know God’s will?” (Một câu hỏi rất thông thường con cái Chúa hay hỏi đó là “Làm sao tôi biết được ý Chúa cho mình?)

> The answer is that you need to do 3 things: Read, read, and read the Bible with a submissive heart to God, then you will know His ways and will. (Câu trả lời là bạn phải làm 3 điều sau đây: Đọc, đọc, và đọc kỹ luôn lời của Chúa với một tấm lòng sẵn sàng đầu phục Ngài.)

# How many of us before doing the morning devotion daily first pray silently: “Lord, please reveal to me your ways and wills today in the scriptures that I about to read, for I am readily doing your wills.” (Có bao nhiêu người mỗi buổi sáng thức dậy là cầu nguyện trước khi học Kinh Thánh rằng: “Xin Chúa bày tỏ đường lối của Ngài cho con biết trong lời Kinh Thánh con sắp sửa học; và con sẵn lòng vâng lời làm theo.”)

> The Bible is not a “911” book that we only need it when we get in trouble, or trying to find a quick answer. (Kinh Thánh không phải là cuốn sách khi gặp nguy hiểm thì mới đọc, nhưng phải thường xuyên sưu gẫm và trông đợi ý Chúa bày tỏ cho mình.)

# A story of a young man wanted to know God’s will, so he opened the Bible and pointed his finger on a location; it landed in verse Matthew 27:5 – saying Judas Iscariot went away and hanged himself. (Có một anh thanh niên một hôm bột chột muốn thử biết ý Chúa cho mình ngày hôm đó là gì bằng cách lấy cuốn sách Kinh Thánh dở ra và chỉ ngón tay vào, thì nhầm ngay câu Kinh Thánh trong Mathiơ 27:5 có chép – “Giu-đa bèn ném bạc vào đền thờ, liền trở ra, đi thắt cổ.”) Next location he tried again was in the parable of the good Samaritan in Luke 10:37 when Jesus said: “Go and do likewise.” (Đương nhiên anh tự nghĩ đây không phải là ý Chúa cho nên anh đóng sách lại, dở ra và chỉ ngón tay vào lần nữa, kỳ này ngón tay anh dính vào câu Luca 10:37 – “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, làm theo như vậy.”) Next location he tried again was on John 13:27 – saying “So Jesus told him, “What you are about to do, do quickly.” (Anh sợ quá, đóng sách lại, dở ra lần nữa, kỳ này ngón tay dính ngay vào câu Giăng 13:27 có chép: “Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng người rằng: Sự ngươi (tính) làm hãy làm mau đi.”)

> The Bible must be living instructions of our daily life. (Kinh Thánh phải là lời chỉ dẫn cho đời sống của c/ta mỗi ngày, trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh chứ không chỉ lúc gặp phải sự nguy hiểm, bó tay mà thôi.)

> Ask God to give you the wisdom when you study the Bible daily, so that in every life situations you can know the ways how God acts, and being perfectly content. (Phải cầu xin Chúa giúp ban cho sự khôn ngoan trong sự học lời Chúa mỗi ngày và thấy được trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống Chúa hành động thể nào, mà hết sức thỏa lòng.) 

 

3) Thirdly, Moses requested for God’s presence. (Môise cầu xin Chúa hiện diện ở cùng mình luôn.)

> Moses was not content with a friendship with God; He was not yet satisfied with the promise that God would show His ways to him, He desired for more of GodHis presence in vs. 15-16“Then Moses said to him, “If your Presence does not go with us, do not send us up from here. 16 How will anyone know that you are pleased with me and with your people unless you go with us? What else will distinguish me and your people from all the other people on the face of the earth?” (Môise yêu mến Chúa cho dù có mối liên hệ thân thiện, cho dù được Chúa bày tỏ đường lối Ngài qua những mạng lệnh, điều răn, ông muốn được thêm sự hiện diện của Ngài với mình trong c. 15-16)

> A simple theology here – Moses wanted to know God’s ways so he could obey and pleased God, but how did Moses know that God was pleased with Him without His presence? (Giáo lý thần học căn bản ở đây đó là Môise muốn biết đường lối của Chúa để vâng theo mà làm vừa lòng Ngài; nhưng làm sao Môise biết Chúa vừa lòng với mình nếu Ngài không hiện diện ở đó.) 

> The presence of God is the clear proof that we know that we are doing His wills and ways; in the opposite, if we are living outside God’s will, He will NOT be present with us. (Hay nói cách khác, c/ta biết có sự hiện diện của Chúa trong những công việc mình làm đúng theo ý Chúa và vừa lòng Ngài; nếu c/ta sống ở ngoài ý Chúa thì Ngài sẽ không ở với c/ta đâu.)

# Is God present with America in a general sense? I don’t believe so, because we are promoting many things that oppose to God’s laws. (Thử hỏi ĐCT có đang hiện diện với nước Hoakỳ ngày nay không? Tôi không tin như vậy là vì họ đang làm nhiều điều nghịch với những điều răn Chúa dạy.)

> What happens when God is not present with America? Look around and see the chaos and mess we have in America from gun problems to power abusement. (Chuyện gì xảy ra khi Chúa không có hiện diện với nước Hoakỳ? Quí vị cứ nhìn xung quanh đi thì biết ngay, từ những vụ xử dụng súng ống bừa bãi đến những việc tham nhũng tranh chấp quyền lợi, chưa kể những tai họa đang xảy ra và sẽ xảy ra nữa.)

> With the Oregon incident, president Obama said correctly “Prayer is not enough,” but somewhat incorrect – “Yes, prayer is not enough, America needs to repent her sins. Praying without repentance is not enough – that’s the correct theology, Mr. President.”  (Tổng thống Obama qua vụ bắn súng tại tiểu bang Oregon tuyên bố gần đúng: “Cầu nguyện chưa đủ,” vì thật c/ta cần sự ăn năn, từ bỏ con đường tà mà quay trở lại cùng Chúa, nếu không sẽ quá trễ chăng?) 

 

> Is God present with VHBC? How do we know? Are we seeking His commandments and obey them? Do we come to church to pray without any repentance? Are we desiring His presence? (ĐCT có đang hiện diện ở giữa vòng VHBC không? Làm sao c/ta biết? Mỗi người có đang thành thật vâng phục theo ý Chúa không? Có đến đây cầu nguyện mà không có sự ăn năn tội chi hết sao?)

# I have a grandson, Josiah lives in Dallas. I have often seen his pictures on facebook, but last week I had a chance to visit him, to see with my own eyes as he was taking first steps, to feel, to touch, to hold, to smell, to talk with him. There is no greater joy then to be present with him. That is the power of presence. That’s what we should desire of God – His presence. (Cháu ngoại tôi là bé Josiah, hiện đang sống ở Dallas; tôi có nhiều lần thấy hình ảnh của cháu trên Facebook, nhưng tuần qua có cơ hội đi thăm được cháu vài ngày, thấy trước mắt cháu bắt đầu chập chững bước đi, được bồng bế, ngửi mùi em bé, được nói chuyện cùng cháu, mà không có được trên Facebook. Không có gì vui sướng cho bằng được hiện diện ngay bên cạnh cháu. Đó cũng phải là điều mà mỗi c/ta mong ước có Chúa luôn ở bên cạnh mình y như vậy.)

 

# How many of us would pray like Moses? Ask Him for His presence always in everything we say and do? (Có bao nhiêu người trong c/ta cầu nguyện như Môise, xin Chúa luôn hiện diện với mình, nếu không mình sẽ không nói hoặc làm mọi việc?)

> I am not going to make that decision without your presence and approval? (Con sẽ không quyết định làm việc đó nếu không có Chúa hiện diện và chứng nhận?)

> I am not going to date that person without your sign of presence and approval? (Con sẽ bằng lòng không làm quen với người đó nếu Chúa cho con biết dấu hiệu rõ của ý Ngài không chấp thuận?)

> I am not going to take that job with a very high salary but a lot of strings attached including working on Sunday without your presence and approval? (Con sẽ không nhận công việc đó cho dù lương cao nhưng có thể phải đi làm trong ngày Chúa Nhật, nếu Chúa ở bên cạnh cho con biết rõ.)

> I am not going to say bad things about that person, viewing that website, playing that video game because I know you are here with me? (Con sẽ không nói xấu người đó, xem địa chỉ Internet đó, hay chơi trò chơi điện tử đó vì con biết Chúa đang ở bên cạnh con?)

> Don’t you know that the power of overcoming the battles of temptations is not from our own strength, but acknowledged that God’s presence is with us. (Quyền lực để c/ta thắng tất cả những trận chiến thuộc linh của mọi sự cám dỗ không bởi sức người, nhưng là nhận biết có sự hiện diện của Chúa.)

> The strongest man in the world is he who walks with God, in His presence. (Kẻ mạnh nhất trên thế giới này là những ai cùng đi với Chúa, có sự hiện diện của Ngài.)

 

4) Moses asked God to see His glory. (Môise xin được thấy sự vinh hiển của Chúa)

# Not over yet, in v. 18 – Moses asked God for something else – “Then Moses said, “Now show me your glory.” (Chưa xong, trong c. 18 – Môise xin Chúa thêm một điều là được thấy sự vinh hiển của Ngài.)

> Why did Moses ask so much of God? (Tại sao Môise đòi hỏi Chúa nhiều vậy?)

> The amazing experience when someone is thristy for God, he just wants more, not less. He just desires more and be filled, as Jesus once promised in Matthew 5:6“Blessed are those who hunger and thirst for righteousness, for they will be filled.” Because God is generous! (Điều lạ lùng cho những ai gần gủi Chúa đó là càng muốn thông biết Chúa nhiều hơn và sẽ được thỏa lòng, vì ĐCT là Đấng giàu có và rộng lượng, như Chúa Giê-xu đã một phán trong Mathiơ 5:6 – “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!”)

> Some of you may think – what is it that makes Moses desired so much of God? (Có lẽ một số quí vị không hiểu được tại sao Môise lại ao ước nhiều điều ở Chúa như vậy?)

# Some of you like to watch kungfu or Korean love story movies or play video games? How much time and effort do you spend? Are you ever tired of doing this or do you always desire to watch more movies, play better video games, and as soon as a new movie or video game is coming out on the market, you will obtain them right away without hesitation. (Một số quí vị thích luyện chưởng hay chơi video games hay tìm tòi trên facebook phải không? Quí vị có chán không? Hay là mỗi khi có phim gì mới ra, video game mới ra hay tin tức mới trên Facebook là quí vị bỏ ra ngay thì giờ để tìm tòi mà không thấy chán.)  

> If you know that, then why can’t you understand that when someone has a full heart to desire for God, he will ask for more of God to know Him fully? (Nếu vậy tại sao quí vị lại không hiểu khi một người yêu mến Chúa hết lòng thì sẽ muốn thêm mọi điều nữa ở Chúa mà không thấy chán?)

# His worship to God will never be boring. He will not look at the clock and wish the sermon should end now? He will not be distracted at the other person Iphone? But he would focus totally on God and ask for more of Him. (Sự thờ phượng của họ sẽ không bị chán; họ không có ngồi nghe giảng mà cứ nhìn đồng hồ trong lòng mong bài giảng chấm dứt ngay; họ không bị lo ra bởi máy Iphone của người ngồi bên cạnh, nhưng hoàn toàn chú tâm đến Chúa và muốn thông biết Ngài hơn nữa.) 

> How would you image if every person in VHBC have that desire to know God liked Moses? To have a personal relationship with God, to desire knowing Gods’ ways and wills through the Bible, to allow God being present in our life, and to see the glory of God through every word and every deed we do and say, then VHBC can change the world for God, starting at Baton Rouge, Louisiana? (Nếu mọi người ở đây có tâm tình muốn thông biết Chúa giống như Môise, quí vị nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra ở Baton Rouge này và lan ra khắp nơi?)

 

> Did God answer Moses’ request? (ĐCT có đáp ứng lời cầu xin cho Môise thấy sự vinh hiển không?)

# In His generosity – Yes, in some way because Moses was still a sinner. (Có vì Chúa là Đấng rộng lượng, nhưng bằng một cách khác, vì Môise vẫn còn là người trần tục, một kẻ tội nhân.)

> God hid Moses under a cleft of the rock, then covered him with God’s hand and let him see only His back. (Chúa giấu Môise trong hóc đá để khỏi bị đốt cháy bởi sự thánh khiết của Ngài, Chúa chỉ thoáng đi qua, và Môise chỉ thoáng thấy phía sau lưng của Ngài mà thôi.)

 

 

IV. Know God through Christ Jesus

> Do you know today the greatest gift God gave us more than He gave to Moses – His own presence in human form in Christ Jesus, His Son. (Quí vị có biết ĐCT ban cho c/ta ngày nay ân điển còn lớn hơn những điều Môise xin không? Đó là sự hiện diện của chính Ngài trong hình thể con người qua Con Ngài là Cứu Chúa Giê-xu?)

> I can boast that I have a better Gift than Moses because I can see fully God’s face, not just His back in Christ Jesus. (C/ta có thể khoe mình ơn Chúa còn cho c/ta hơn Môise đó là thấy được sự vinh hiển trọn vẹn của Ngài trong Đức Chúa Giê-xu Christ không?)

 

1) In Christ, we can know God and have a personal relationship with Him. (Trong Chúa Giê-xu, c/ta có thể thông biết ĐCT toàn năng và có mối liên hệ gần gũi với Ngài.) 

> God’s will is to send His Son to come into the world; so that through Jesus Christ, you can know God. (Ý muốn của ĐCT là sai Con Ngài đến thế gian hầu cho c/ta biết được chính Chúa.)

# In John 1:14“The Word became flesh and made his dwelling among us. We have seen his glory, the glory of the one and only Son, who came from the Father, full of grace and truth.” (Giăng 1:14 chép – “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.”

# In John 14:9 - Jesus said: “If you see me, you see the Father” because “I and Father are One.” (Trong Giăng 14:9 - Đức Chúa Jêsus đáp rằng: …Ai đã thấy Ta, tức là đã thấy Cha; vì Ta với Cha là Một.)

> Jesus was not a statue, He was not a symbol but He is God in the flesh, so we can see God’s glory that Moses desired so much. (Chúa Giê-xu không phải là một bức tượng vô tri vô giác, nhưng Ngài sống động trong hình thể con người, đầy dẫy sự vinh hiển của ĐCT mà Môise hằng ao ước được nhìn thấy, mà nay c/ta thấy được.)

 

2) In Christ, we can know God’s way. (Trong Chúa Giê-xu, c/ta biết được đường lối Chúa.)

> God’s way of salvation was given by His only begotten Son. (Rõ ràng đường lối cứu chuộc của ĐCT cho loài người là sự ban cho chính Con một của Ngài.) 

# In John 3:16“For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.” (Giăng 3:16 – “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”)

 

3) Given by Christ, we have the witness of His presence by the indwelling of the Holy Spirit. (Bởi sự ban cho từ Đấng Christ, c/ta có dấu chứng của sự hiện diện của Chúa qua Đức Thánh Linh.)

# In 1 Corinthians 3:16 said: “Don’t you know that you yourselves are God’s temple and that God’s Spirit dwells in your midst?” (Trong 1 Côrinhtô 3:16 có chép – “Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao?”)

> How do you know that God the Holy Spirit’s presence in us? (Làm sao c/ta biết có sự hiện hữu của Thánh Linh Ngài ở trong c/ta?)

> By the same way Moses experienced and that is our daily transformation of knowing and doing God’s will, and we slowly become distinguished from the world. (Cũng giống như Môise vậy, khi đời sống của c/ta biến hóa dần dần qua cách ăn nết ở của mình, từ từ “phân biệt” khác với những đường lối của người thế gian.)

> The inside, we begin to have less fear, less worries, no more regrets, but love, joy, peace, forbearance, kindness, goodness, faithfulness, gentleness and self-control – the fruits of the Holy Spirit. (Còn bên trong thì c/ta thay đổi luôn đầy dẫy những trái của Thánh Linh, “ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.”)

 

4) In Christ the Rock, we can approach the throne of glory one day – that is our eternal hope. (Trong Chúa Giê-xu là “Hòn Đá Góc Nhà” mà c/ta có thể đến gần Ngôi vinh hiển của ĐCT một ngày, và đó là sự trông cậy đời đời của mọi kẻ tin.)

> How did Moses see the “back” of God and still survive? (Làm sao Môise thấy phía sau của ĐCT mà không bị thiêu hủy bởi sự vinh hiển của Ngài?)

# A cleft of the Rock which was pointing to Jesus the Savior later. (Vì ĐCT giấu Môise nơi “hóc đá” và hóc đá đó chính là hình bóng của Cứu Chúa Giê-xu sau này che chở c/ta bởi chính huyết của Ngài mà dạn dĩ dẫn c/ta đến với ĐCT và hưởng nước thiên đàng một ngày.)

> Without Jesus, no one can; we will all be consumed by fire instantly. (Không có một ai có thể đến gần ĐCT chí thánh chí cao mà không bị đốt cháy ngay, nếu không có Chúa Giê-xu “che đậy” mình.)

 

 

--------------------------

> Do you want to know God that much? Do you desire to know God more than ever? (Quí vị có muốn được thông biết Chúa như chưa bao giờ hết không?)

> Learn to be alone with Jesus daily, have a conversation with Him, and share all your thoughts and desires. (Hãy tập có thì giờ tĩnh tâm với Chúa Giê-xu mỗi ngày, nói chuyện với Chúa như một người bạn của mình.)

> Ask Jesus to be your friend, to know His teachings and ways through the daily Word, His always presence in everything you say and do, and to see His glory. (Xin Chúa chỉ cho mình biết đường lối của Ngài, sự hiện diện của Chúa trong mọi quyết định trong đời sống, và thấy được sự vinh hiển của Chúa.)

> Then you will experience a relationship of knowing God in Christ Jesus that there is nothing in this world can compare that makes your life completed! (Để rồi c/ta kinh nghiệm biết Chúa, có mối liên hệ mật thiết với Ngài mà đời sống của c/ta không còn cần chi nữa để làm c/ta thật thỏa lòng.)

 


---------------- Lời Mời Gọi

 

> Sống ở đời, ai trong chúng ta cũng có những mục tiêu, ước vọng để đeo đuổi và tìm kiếm.

# Có thể là một bằng cấp, một nghề nghiệp chuyên môn, hay tìm kiếm một chỗ đứng quan trọng danh dự nào đó trong xã hội, hay trong cộng đồng.

> Ai trong chúng ta cũng có những mục đích hay mơ ước hằng đeo đuổi và tìm kiếm, vì chúng ta tin rằng nếu đạt được những mục đích này sẽ làm chúng ta thỏa mãn, vui sướng, và gặt hái được một đời sống tốt lành hơn trong tương lai.

> Nhưng rồi mọi sự sẽ trôi qua theo thời gian, mọi thứ có kỳ kết thúc của nó, và c/ta có còn lại gì nữa không khi “nhắm mắt xuôi tay?”?

> Mục đích tốt lành mà chỉ có thể làm c/ta thật thỏa lòng đó là phải là tìm biết Đấng Tạo Hóa Chí Cao.

> Sứ đồ Phiêrơ nhắn nhủ điều quan trọng nhất mà ai trong chúng ta cũng phải đeo đuổi đó là được tấn tới trong sự thông biết Cứu Chúa Giê-xu của chúng ta là ai càng hơn mỗi ngày - (But grow in the grace and knowledge of our Lord and Savior Jesus Christ.) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ.”

 

> Muốn thông biết Chúa, c/ta sẽ xin Ngài điều gì, như Môise tìm kiếm?

> Trước hết tìm kiếm một mối liên hệ gần gũi mật thiết với Chúa mỗi ngày.

> Xin Chúa cho mình hiểu được đường lối Ngài qua sự học lời Chúa mỗi ngày và những sự kiện hoàn cảnh xảy ra trong đời sống y theo những lời đó.

> Xin Chúa hiện diện với mình trong mọi lời mình nói và mọi việc mình làm để làm sáng danh Ngài.

> Trông đợi lời hứa Chúa sẽ cho mình thấy được sự vinh hiển của Ngài khi Chúa Giê-xu trở lại.

 

> Tất cả mọi điều ĐCT đã bày tỏ qua chính Con Ngài là Cứu Chúa Giê-xu để c/ta thông biết được Ngài.

# Có người đã cho một bí quyết sống thành công là như sau – “The secret of a successful life is not what you know, but Who you know!” Tạm dịch: “Bí quyết của một đời sống thành công không phải ở chỗ người đó đã biết những gì, nhưng họ đã biết Ai.”

> Cũng vậy bí quyết để một người cơ đốc kinh nghiệm được một đời sống phước hạnh, dư dật  không phải ở chỗ người đó đã thâu lượm được những sự hiểu biết khôn ngoan gì ở đời này; Nhưng là người đó có hiểu biết Cứu Chúa Giê-xu rõ là ai không?

> Biết Chúa sẽ dẫn đến tấm lòng yêu mến Ngài; yêu Chúa sẽ thích gìn giữ mạng lệnh điều răn của Ngài; bước đi vâng giữ những điều răn của Chúa thì chắc chắn sẽ dẫn đến đời sống phước hạnh thật.

 

> Lúc đó chúng ta mới thấu hiểu được một đời sống phước hạnh dư dật, một cuộc sống có ý nghĩa.

> Tất cả bắt đầu chỉ bằng một lời cầu nguyện thành thật xin Chúa Thánh Linh đặt vào lòng mình một nhiệt huyết, một sự nóng cháy, tấm lòng sốt sắng (a passion) muốn thông biết rõ Cứu Chúa Giê-xu hơn mỗi ngày.

> Mong đó là điều mà mọi người chúng ta đều thật mong ước.


Know God Personally, His Ways, His Presence and See His Glory

(Exodus 33:8-23)

 

            Is God real to you? If God is real to you, then do you talk to Him often? When do you talk to God, what do you ask Him for? The greatest desire of our heart should be to know God better. Some really seek to know God with all of his heart and experience a wonderful and satisfied life. One of those people was Moses. Let’s learn from Moses on how He knew God. The life of Moses from birth begun with 40 years in the Egyption palace, then 40 years caring for the sheep in the dessert, until God called him to lead God’s people in the wilderness for 40 years to the promised land. Moses had seen and experienced so much: the cruelty of the Egyptians, God’s 10 plagues, a long time in the dessert when God seemed to be silent, the call for a commission at the burning bush, the rescue at the Redsea, the stubbornness and rebellion of God’s people. But there was an experience that Moses had that not many men can experience on this earth and that was the direct relationship with God.

 

1) In this experience, Moses first learned about the grace of God as He spoke to Moses as a friend. With our nature as sinners, the Bible said we are the enemies of God, and no one can get close to Him; so the thought of being a friend to God is unthinkable, un-imaginable, and impossible. But God at His own initiate chose to be Moses’ friend and spoke to him face-to-face, meaning directly. This is called grace, meaning a favor of God bestowed on Moses, eventhough he was a sinner and not deserved it. There is no greater and closer relationship we can have with God than a friendship, and whoever experiences this would never have to be afraid of anything else. Those who have friendship with God will have peace and boldness, even if they have to stand infront of the kings and rulers of this world, just as Moses stood before Pharaoh, king of Egypt without any fear, because God was his friend.

 

2) Secondly, Moses asked to know God’s ways. During the conversation with God in the tent, what did Moses ask Him? He didn’t ask God to show him a miracle, signs or wonders? Moses did not request God for richness or more power. Moses desired to know God’s ways; Moses asked God to teach him His ways because through knowing God’s ways Moses could know God of His nature and how He acted when and where. Only those who have this heart to seek of knowing God will understand His ways in every situation.  Did God show Moses His ways? He did – How? Through the 10 commadments that God wrote by His own fingers on the two tablets of stone.

 

3) Thirdly, Moses requested for God’s presence. Moses was not content with a friendship with God; He was not yet satisfied with the promise that God would show His ways to him, He desired for more of God – His presence. The presence of God is the clear proof that we know that we are doing His wills and ways; in the opposite, if we are living outside God’s will, He will NOT be present with us.

 

4) Moses asked God to see His glory. Why did Moses ask so much of God? The amazing experience when someone is thristy for God, he just wants more, not less. He just desires more and be filled because God is generous! Did God answer Moses’ request? In His generosity – Yes, in some way because Moses was still a sinner. God hid Moses under a cleft of the rock, then covered him with God’s hand and let him see only His back.

 

          Do you know today the greatest gift God gave us more than He gave to Moses – His own presence in human form in Christ Jesus, His Son. 1) In Christ, we can know God and have a personal relationship with Him. 2) In Christ, we can know God’s way. God’s way of salvation was given by His only begotten Son on the cross. 3) Given by Christ, we have the witness of His presence by the indwelling of the Holy Spirit. How do you know that God the Holy Spirit’s presence in us? By the same way Moses experienced and that is our daily transformation of knowing and doing God’s will, and we slowly become distinguished from the world. We begin to have less fear, less worries, no more regrets, but love, joy, peace, forbearance, kindness, goodness, faithfulness, gentleness and self-control – the fruits of the Holy Spirit. And 4) In Christ the Rock, we can approach the throne of glory one day – that is our eternal hope.

 

          Do you want to know God that much? Do you desire to know God more than ever? Learn to be alone with Jesus daily, and share all your thoughts and desires. Ask Jesus to be your friend, to know His teachings and ways through the daily Word, His always presence in everything you say and do, and to see His glory. Then you will experience a relationship of knowing God in Christ Jesus that there is nothing in this world can compare that makes your life completed!