Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 48

Nhớ Đến Chúa

Remembering God

(Giôna 2:8)

 

“Đức Giê-hô-va sắm sửa một con cá lớn đặng nuốt Giô-na; Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. 2 Giô-na từ trong bụng cá cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, 3 mà rằng: Tôi gặp hoạn nạn, kêu cầu Đức Giê-hô-va, thì Ngài đã trả lời cho tôi. Từ trong bụng âm phủ, tôi kêu la, thì Ngài đã nghe tiếng tôi. 4 Ngài đã quăng tôi trong vực sâu, nơi đáy biển, và dòng nước lớn bao bọc lấy tôi. Hết thảy những sóng lượn và những ba đào của Ngài đều trải qua trên tôi. 5 Tôi đã nói rằng: Tôi đã bị ném khỏi trước mắt Ngài; Dầu vậy, tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài. 6 Nước bao phủ lấy tôi, cho đến linh hồn tôi; Vực sâu vây lấy tôi tư bề; Rong rêu vấn vít đầu tôi. 7 Tôi đã xuống đến chân nền các núi; Đất đã đóng then nó trên tôi đời đời. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, nhưng Ngài đã đem mạng sống tôi lên khỏi hầm hố! 8 Khi linh hồn tôi mòn mỏi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê-hô-va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài. 9 Những kẻ chăm sự hư không giả dối, thì lìa bỏ sự thương xót của mình. 10 Nhưng tôi, tôi sẽ dùng tiếng cảm tạdâng của lễ cho Ngài; Tôi sẽ trả sự tôi đã hứa nguyện. Sự cứu đến từ Đức Giê-hô-va! 11 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng con cá, và nó mửa Giô-na ra trên đất khô.”

(From inside the fish Jonah prayed to the Lord his God. 2 He said: In my distress I called to the Lord, and he answered me. From deep in the realm of the dead I called for help, and you listened to my cry. 3 You hurled me into the depths, into the very heart of the seas, and the currents swirled about me; all your waves and breakers swept over me. 4 I said, ‘I have been banished from your sight; yet I will look again toward your holy temple.’ 5 The engulfing waters threatened me, the deep surrounded me; seaweed was wrapped around my head. 6 To the roots of the mountains I sank down; the earth beneath barred me in forever. But you, Lord my God, brought my life up from the pit. 7 “When my life was ebbing away, I remembered you, Lord, and my prayer rose to you, to your holy temple. 8 “Those who cling to worthless idols turn away from God’s love for them. 9 But I, with shouts of grateful praise, will sacrifice to you. What I have vowed I will make good. I will say, ‘Salvation comes from the Lord.’” 10 And the Lord commanded the fish, and it vomited Jonah onto dry land.)

 

 

I. Life Troubles

 

> Have you been in a “valley” of suffering, pains, headaches, fears, discouragement, or dissapointment? (Bạn có bao giờ đối diện với một hoàn cảnh đau thương, một cơn hoạn nạn, hay sự đau khổ, thất vọng nào chưa?)

# May be you are facing a chronic disease that would not go away? (Có thể bạn gặp phải một căn bịnh ung thư hiểm nghèo mà không còn cách nào chữa nữa?)

# May be you are experiencing a family crisis because the lost of a loved one? (Có thể bạn đang đối diện với một chuyện đau buồn vì mất một người thân yêu trong gia đình?)

# You expect a promotion, then the economy is shaky and you lose your job? (Có thể bạn đang mong được tăng lương, lên chức, rồi kỹ nghệ thương mại xuống dốc làm bạn bị mất job?)

# May be you are dealing with a reality of a broken relationship? (Có thể bạn đang đối diện với một sự đổ vỡ trong mối liên hệ của mình với những người khác?)

# May be you are facing a dead-end situation and there is no immediate solution? (Có thể bạn đang đối diện với một con đường cùng, không có lối thoát, không thắng được một sự nghiện ngập nào đó?)

> You are discouraged, shocked, depressed, and you want to give up? (Bạn đang chán nản, thất vọng, bàng hoàng và muốn bỏ cuộc chăng?)

> To the world, they call these bad lucks, or a curse that can make them very angry; some try to cover up with drugs, alcohol, affairs, gambling, but the problems just get worse and can lead to suicidal. (Đối với thế gian thì họ xem những điều đó là xui xẻo, sự rủa sả làm họ rất tức giận; Một số đi tìm rượu, thuốc phiện, kể cả tình dục xấu xa, thú vui cờ bạc để mong che đậy được những đau khổ buồn chán này, nhưng chỉ làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn, có khi dẫn họ đến chỗ tự sát.)

> What about us as Christians, how should we deal with the troubles in life when they come? (Còn c/ta là con cái Chúa thì c/ta đối diện với những khổ đau này như thế nào?)

 

> We do not always understand or have an answer for why there are suffering and pains in life. (Không một ai trong c/ta hiểu rõ hay câu trả lời trọn vẹn tại sao có những đau khổ trong đời sống?)

 

 

II. Our Forgetfulness

 

> But there are at least two reasons why we face sufferings: (Nhưng có tối thiểu 2 lý do chính tại sao c/ta có sự đau khổ trong cuộc sống:)

1) Most of the suffering and pains are the consequences of sins, due to our bad choices, or wrong decisions. (Thứ nhất, hầu hết những đau khổ c/ta chịu phải là do hậu quả của tội lỗi, khi c/ta có sự chọn lựa sai lầm.)

> We all know one of the basic laws of life is the natural law of “sow & reap.” (Ai trong c/ta cũng biết một trong những định luật căn bản là luật “Gieo chi gặt nấy.”

# In Galatians 6:7 the Bible stated – “Do not be deceived: God cannot be mocked. A man reaps what he sows.” (Lời Chúa trong Galati 6:7 có chép – “Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy.”)

# You drive, drink & text, and got into a car accident; Now you must deal with injuries, fines, and bad records. (Nếu bạn vừa lái xe, vừa uống rượu, vừa text nữa và bị đụng xe là hậu quả của những hành động sai lầm của mình mà thôi?)

 

2) But for Christians, when we deal with life suffering, God has a purpose to help us NOT forgetting, but in knowing Him better. (Nhưng đối với cơ đốc nhân, c/ta đối diện với sự đau khổ có khi Chúa cho phép xảy đến là để nhắc c/ta chớ quên Ngài, mà còn thông biết Chúa là ai hơn.)

 

a) First, our human nature is so easily forgetful. (Cá tánh tự nhiên của con người thì hay quên.)

# As we get older, we are not just changing from the outside: face wrinkles, gray hair on our head, weaker knees, false teeth, hearing aids, but also loosing the memory, because of our natural and sinful/decayed body originated from Adam & Eve. (Càng lớn tuổi, c/ta thay đổi không chỉ bên ngoài: nào là da nhăn, tóc bạc, răng rụng, nhưng còn thay đổi bên trong nữa đó là bắt đầu bị lãng quên.)

# An old man forgot his wife name, and called her with all kinds of other nice titles liked darling, honey, baby, sweet heart… that made a young man curious. (Câu chuyện về một ông cụ gọi tên vợ mình với những danh từ thật đẹp nào là “cục cưng, em yêu,” làm cho một anh thanh niên ngạc nhiên thắc mắc hỏi, thì ông cụ trả lời lý do ông gọi vợ như vậy là vì khi đến tuổi này thì ông cụ đã quên tên bà cụ là gì rồi.)

 

> We tend to forget God, especially, when our stomach is full, our car is new, our job is stable, our retirement is secured. (C/ta dễ quên Chúa, nhất đó là khi “bụng no, giường ấm, xe mới, chương trình về hưu được bảo đảm” phải không?”

# I wonder how many Vietnamese generations will still remember God Who rescued and brought their parents, grandparents, and great grandparents to this free country in the first place? (Tôi không biết còn bao nhiêu thế hệ con cháu người Việt của c/ta nữa sẽ còn biết ĐCT đã giải cứu và đem cha mẹ, ông bà của c/nó thoát ách cộng sản và qua được đất nước tự do này?)

# Why does America today forget God and reject His words? (Tại sao nước Hoa-kỳ bị dẫn đến tình trạng “quên lãng và chối bỏ” lời của ĐCT ngày hôm nay?)

> Because we have became a great and rich nation; we become more independent and free, so we don’t need God anymore. (C/ta đã trở nên một cường quốc, có đời sống giàu có, tiện nghi, độc lập tự do nhất trên thế giới, thì sao cần có Chúa làm chi nữa?)

> Our life is bombarded with so many new electronic toys, technologies, and entertainments that can distract us so much from remembering Who God is and whether He is still existed? (Thế giới văn mình c/ta đang sống chứa quá nhiều những “đồ chơi” điện tử, những kỹ thuật tối tân, những thú vui chơi mà dễ làm c/ta quên lãng Chúa là ai và không biết Ngài có thật không nữa?)

 

> Looking back at the history in the Old Testament, we see that one of the warnings from Moses to the Isrealites before they entered the promised land was not to forget God for what He had done for them through the wilderness for 40 years. (Nhìn lại lịch sử của người Do Thái, c/ta cũng thấy một hoàn cảnh tương tự mà chính Môise đã cảnh cáo dân sự Chúa đừng quên ơn Ngài, sau khi đã được vào đất hứa và hưởng một cuộc sống độc lập và thịnh vượng.)

# In Deuteronomy 8:1-3 Moses commanded the Isrealites – “Be careful to follow every command I am giving you today, so that you may live and increase and may enter and possess the land the Lord promised on oath to your ancestors. 2 Remember how the Lord your God led you all the way in the wilderness these forty years, to humble and test you in order to know what was in your heart, whether or not you would keep his commands. 3 He humbled you, causing you to hunger and then feeding you with manna, which neither you nor your ancestors had known, to teach you that man does not live on bread alone but on every word that comes from the mouth of the Lord.” (Trong PTLLK 8:1-3 – “Hãy cẩn thận làm theo hết thảy điều răn mà ta truyền cho các ngươi ngày nay, để các ngươi được sống, được gia thêm, và được vào nhận lấy xứ mà Đức Giê-hô-va đã thề cùng tổ phụ các ngươi, để ban cho các ngươi. 2 Hãy nhớ (đừng quên) trọn con đường nơi đồng vắng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi đi trong bốn mươi năm nầy, để hạ ngươi xuống và thử ngươi, đặng biết điều có ở trong lòng ngươi, hoặc ngươi có gìn giữ những điều răn của Ngài hay chăng. 3 Vậy, Ngài có hạ ngươi xuống, làm cho ngươi bị đói, đoạn cho ăn ma-na mà ngươi và tổ phụ ngươi chưa hề biết, để khiến ngươi biết rằng loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Đức Giê-hô-va mà ra.)

> But it appeared that after the Isrealites conquered the promised land, Cana-an, became strong and independent, they began to forget God and worshipped the idols of the land. (Nhưng rồi sau khi chiếm được đất, sống độc lập, tự do, no nê và giàu có thì dân sự Chúa (giống như nước Hoakỳ ngày nya) đã quên Ngài và đi thờ lạy các tà thần ở xứ.)

 

b) Do you know that the forgetness of God begins with the ignorance of God’s commandments a little bit each day? (Bạn có biết là sự quên lãng Chúa bắt đầu từ khi c/ta xem thường lời của Chúa mỗi ngày một ít không?)

> Ignorance means to put God word lightly, not important, and no longer relevant to our life. (Xem thường lời Chúa nghĩa là coi nhẹ, chẳng thấy lời Chúa quan trọng hay có liên hệ chi nữa đến đời sống của mình.)

> We still go to church, but we begin to ignore God when we listen to God word without any compulsive or commitment to obey; it just goes from one ear through the other. (C/ta vẫn đi nhà thờ, nhưng c/ta bắt đầu xem thường lời Chúa khi chỉ nghe mà lòng chẳng có sự cảm động, sự thúc dục hay có lời cam kết vâng phục làm theo; chỉ nghe lỗ tai này xuyên qua lỗ tai kia.)

 

c) Another danger of ignorance God’s word is the cumulative effect. What is the cumulative effect? A little impact each day, from weeks to weeks, adding up to a point that God is no longer existed; He is not real, but just a myth, a cartoon character; the Bible is just a story, a fable. (Một sự nguy hiểm khi xem thường lời Chúa là sự chồng chất, dồn dập lại mỗi ngày một ít, để rồi dẫn đến giai đoạn chẳng còn biết Chúa là ai, lời hứa của Ngài có thật không nữa, và Kinh Thánh chỉ là những câu chuyện gỉa tưởng mà thôi?)

 

# The boredom in the family relationship between husband and wife with time is an example of the cumulative effect. (Sự chán ngán trong tình nghĩa vợ chồng theo thời gian là một thí dụ của sự chồng chất này.)

> You do not get bored with your spouse overnight or in few months; but a little bit each day, when you begin to ignore one another, to a point that you fall out of love. (Bạn không có rớt vào tình trạng hôn nhân sa sút qua một đêm hay vài tháng, nhưng vì sự chồng chất, dồn dập mỗi ngày một ít theo thời gian, khi bạn sống bắt đầu không để ý đến người phối ngẫu của mình nữa, và rồi dẫn đến một ngày tình yêu hôn nhân trở nên vô vị.)

> If you come to church, listen to sermons just to listen, study the Bible just to fulfill your Christian’s duty without any conviction or commitment to obey, then you are falling into this cumulative effect, and one day worship will become boring. (Nếu bạn đến nhóm mỗi Chúa Nhật, nghe giảng chỉ để nghe mà thôi, học Kinh Thánh chỉ để làm trọn trách nhiệm của đạo mà thôi, nhưng không có sự cáo trách, thúc dục vâng theo lời Chúa chi hết, thì bạn đang bị rớt vào trình trạng dồn dập của sự chán ngán.)

> This was happened to Jonah. (Đây chính là tình trạng của tiên tri Giôna.)

 

> Who was Jonah? (Giôna là ai?)

# Jonah was a prophet of God. (Giôna là một trong những vị tiên tri của ĐCT.)

> A prophet is the “voice” of God; He speaks the commandments of God, often a warning or rebuke. (Vai trò của những vị tiên tri là “tiếng nói” của ĐCT, thường là những mạng lệnh hay lời cảnh cáo của Chúa đến với vua và dân sự Ngài.)

> In Chapter 1:1-2, God commanded Jonah to go to Nineveh to call this gentile nation to repent and return to God because of their wicked lifestyle – “The word of the Lord came to Jonah son of Amittai: 2 “Go to the great city of Nineveh and preach against it, because its wickedness has come up before me.” (Sự kiện bắt đầu khi ĐCT gọi tiên tri Giôna hãy chổi dậy, đi tới thành Ninive mà giảng về sự đóan phạt, để cho dân thành ấy biết ăn năn, từ bỏ những điều ác và quay trở về cùng Ngài – “Có lời Đức Giê-hô-va phán cho Giô-na con trai A-mi-tai như vầy: Ngươi khá chổi dậy! Hãy đi đến thành lớn Ni-ni-ve, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt ta.”)

 

> But Jonah did not obey; He ignored God’s command and ran away from Him. (Sau khi nghe lời của ĐCT phán cùng mình thì Giôna đã làm gì? Thay vì từ chỗ mình ở đi đến thành Ninive là khoãng 500 dặm về phía đông, nhưng Giôna lại xuống thuyền đi ngược chiều về phia Tây ~2000 dặm đến thành Tarêsi (1:3) - “Nhưng Giô-na chổi dậy đặng trốn qua Ta-rê-si, để lánh khỏi mặt Đức Giê-hô-va.”)

 

> Jonah went down to Joppa, where he found a ship bound for that port. After paying the fare, he went aboard and sailed for Tarshish to flee from the Lord. (Giôna xuống một chiếc tàu ở Giaphô đi Tarêsi, trả tiền, lên tàu và rồi nghủ say như chết, giống như là được đi “cruise,” Giôna thấy yên lòng và tưởng mình đã thoát khỏi tay của ĐCT. Giôna say nghủ đến nỗi không còn biết những chuyện gì xẩy ra xung quanh mình nữa.)

> Can anyone run away from God? Can God be ignored? Noway, because He is all-present, all-powerful, and all-knowing God. (Nhưng Giôna quên rằng không ai trốn được ĐCT, Chúa không thể bị xem thường, vì ĐCT là Đấng toàn tại, toàn tri, nghĩa là Ngài là Đấng quyền năng, ở khắp mọi nơi và biết mọi việc.)

# What did David express God’s nature of omni-present in Psalm 139:7-10? “Where can I go from your Spirit? Where can I flee from your presence? 8 If I go up to the heavens, you are there; if I make my bed in the depths, you are there. 9 If I rise on the wings of the dawn, if I settle on the far side of the sea, 10 even there your hand will guide me, your right hand will hold me fast.” (Trong Thi Thiên 139:7-10 – tác gỉa Đavít nói gì về quyền năng vô hạn toàn tri, toàn tại của ĐCT – “Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa? Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi nằm đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi, Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi.”

> God does not need a GPS system, hidden cameras to know what is going on, because He is all-present. (ĐCT không cần máy GPS, máy ảnh ngầm, Ngài biết rõ mỗi người c/ta đang ở đâu, làm gì và có ý định chi, vì Chúa là Đấng quyền năng ở khắp mọi nơi, mà chẳng có một ai có thể trốn tránh được Ngài.)

 

> Jonah did not obey God because he was angry with the Nineveh people who dealed cruelty with God’s people and Jonah reasoned himself that this nation did not deserve for God’s salvation. (Giôna không vâng lời Chúa vì ông ghét người Ninive là dân ngoại, họ đối xử tàn ác với dân tộc của ông, và theo sự suy luận của Giôna thì dân Ninive này không xứng đáng được Chúa cứu.)

# Giống như là sau biến cố 75’s nhiều năm, quí vị bảo những sĩ quan của chế đỗ cũ hát ô hãy trở về Việt-nam giảng đạo cho cộng sản? Chuyện rất khó làm được – không thể làm được?

 

> Did God just sit still and look at Jonah running away from Him? No. (ĐCT có ngồi yên và để Giôna cứ chạy trốn không? Không!)

> While Jonah was sleeping in the bottom of the ship, God allowed a storm to come to wake Jonah up – “Then the Lord sent a great wind on the sea, and such a violent storm arose that the ship threatened to break up.” (Khi Giôna đang say nghủ yên dưới hầm tàu thì ĐCT thấy rõ ông, và Ngài làm cho 1 cơn giông bão lớn nổi lên, đến nỗi làm cho chiếc thuyền gần bị vỡ tan. Các người thủy thủ trên chiếc thuyền đó qúa sợ hãi, ai nấy kêu cầu đến chính thần của mình, còn Giôna thì vẫn nghủ mê.)

> The sailors later had to decide to throw Jonah out of the ship into the sea so they could survive. (Và rồi các thủ thủy phải quyết định quăng Giôna ra khỏi tàu để tàu khỏi bị chìm.)

> Finally, God sent a big fish to swallow Jonah in for 3 days and 3 nights. (Cuối cùng, ĐCT làm cho 1 con cá lớn đến nuốt lấy Giôna vào trong bụng nó 3 ngày 3 đêm.)

> In the belly of the big fish, Jonah repented his sins and prayed to God. (Trong bụng cá bấy giờ Giôna mới ăn năn và cầu nguyện trở về cùng ĐCT - “Giô-na từ trong bụng cá cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, mà rằng: Tôi gặp hoạn nạn, kêu cầu Đức Giê-hô-va, thì Ngài đã trả lời cho tôi.”)

 

> There is no place worst than in the belly of the fish. (Hãy tưởng tượng tình trạng của Giôna trong bụng cá lớn đó như thế nào?)

1) A pitched dark place. (Chỗ vực sâu đó tối đen như mực, 3 ngày 3 đêm, chẳng có một bóng đèn, chẳng có một tia ánh sáng.)

2) A stinky and smelly place. (Trong bụng cá chứa đầy những thứ nhơ nhuốp, hôi tanh, rong rêu vấn vít ở xung quanh Giôna.)

# Ai đi câu cá và về làm cá thì biết mùi tanh và trong bụng cá có những gì?

3) Not a good and healthy breathing place. (Trong bụng cá là chỗ thiếu không khí, có lẽ làm cho Giôna bị ngộp thở, cộng thêm sự dòng lên đưa xuống, sự đảo lộn trong bụng cá như “máy xấy quần áo” thật là khổ sở cho Giôna.)

> There is no place can be compared liked in the belly of the fish that Jonah expressed as the realm of the death, Hades. (Có lẽ không có hình ảnh nào diễn tả của “âm phủ” ở trên trần thế này rõ ràng cho bằng tình trạng khi Giôna ở trong bụng cá này.)

 

> Have you been in the belly of a big fish, living like hell? Then who did you remember and what did you wish for? (Bạn có bao giờ ở trong “bụng cá” chưa? Lúc đó bạn nhớ đến gì và cầu mong đến ai?)

 

> What happened to Jonah when he was in the belly of a big fish? (Tâm trạng của Giôna như thế nào khi ông bị ở trong bụng cá lớn?)

1) Jonah remembered his God, Jehovah and prayed to Him. (2:8 – Giôna lúc đó mới nhớ đến Chúa của mình mà cầu nguyện - “Khi linh hồn tôi mòn mỏi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê-hô-va…”)

 

2) Jonah looked toward the holy temple where God’s presence resided. (2:5 – Giôna trong bụng cá nhớ đến “đền thánh”… là nơi có sự hiện diện của ĐCT ngự trị.)

 

3) Jonah repented of his sin for turning away from God’s mercy and lovingkindness. Jonah commited to offer a sacrifice to God with thanksgiving. (2:9 – Giôna ăn năn tội và muốn trở lại, mong được thờ phượng Chúa; Giôna muốn dâng lên lời cảm tạ và của lễ của tấm lòng là 2 hành động rõ ràng của sự thờ phượng.)

 

4) Jonah re-committed his life to God and promised to obey Him, going to Nineveh and warned the people to return to God. (c 2:9b - Giôna hứa nguyện làm lại với Chúa những điều mình đã hứa với Chúa trước kia; Giờ đây ông sẵn sàng vâng lời ĐCT mà đi đến làm chứng cho dân thành Ninive, cho dù đến chỗ đó nguy hiểm, nhưng vẫn tốt hơn là chỗ Âm Phủ trong bụng cá này.)

 

5) In Jonah 2:10, after 3 days and nights, God heard his prayer and commanded the big fish to vomit him out to the dry land. (Sau 3 ngày 3 đêm, ĐCT nghe lời cầu xin của Giôna và ra lệnh cho con cá lớn mửa Giôna trên đất khô.)

 

> Why did God do that? (Tại sao ĐCT lại làm những điều này?)

> God did that because He loved the people of Nineveh and did not want anyone to perish. (ĐCT làm điều này vì Ngài yêu thương dân thành Ninive, không muốn một ai bị hư mất, nhưng muốn họ nghe được Tin Lành qua Giôna mà ăn năn.)

> God did this so that Jonah, God’s prophet would know Him better. (ĐCT làm điều này để giúp Giôna biết càng rõ hơn về chính Chúa là ai.)

> God sometimes does the same thing to us, sending a “big fish,” so that in the valleys of pains and suffering, we come to ourselves, repent, and God would rescue us so that we can know He is real. (Chúa có khi làm giống vậy trong đời sống của c/ta, sai những “con cá lớn” đến, để c/ta biết Ngài có thật, và kinh nghiệm được quyền năng của Chúa.)

 

 

III. Knowing God through Life Suffering

 

> What can we learn from God through Jonah’s experience? (C/ta học được gì về Chúa qua kinh nghiệm của Giôna?)

> How can troubles and life suffering teach us about God? (Làm thế nào qua những khổ sở và đau thương, hoạn nạn c/ta học biết gì về ĐCT?)

 

1) First, so that we can know our God is personal. (Thứ nhất, để c/ta biết được ĐCT có thật và Ngài muốn có mối liên hệ cá nhân với mỗi người c/ta.)

a) God is not a myth, not a “flying object” out in space, once a while visiting the earth. (ĐCT không phải là một câu chuyện huyền thoại, không phải là một vật lạ bay trong không trung, lâu lâu Ngài đến thăm trái đất.)

# None of us wants to deal with hardship, but so many times we have to learn “hard” lessons with tears to say to ourselves that God is real! (Không có ai trong c/ta muốn đối diện với những hoàn cảnh đau thương, nhưng biết bao nhiêu lần c/ta phải học bài học đau thương với nước mắt, để nhận biết Chúa có thật.)

 

b) God does not sleep and He is not dead liked many people think, and He sent out “big fish” to remind us that. (ĐCT không có ngủ, cũng như Ngài không có chết như nhiều người tưởng đâu; Ngài sai những “con cá lớn” qua những hoạn nạn đến trong cuộc sống để nhắc c/ta không quên điều đó.)

> God will do everything needed, even sending “big fish,” to have a personal relationship with each of us, for us to know Him: His power, presence, and love. (ĐCT sẽ làm mọi điều cần thiết, kể cả sai những “con cá lớn” đến trong đời sống của c/ta, để có mối liên hệ với mỗi c/ta; để c/ta thông biết được quyền năng, sự hiện hữu và tình yêu thương của Ngài dành cho c/ta.)

 

c) God is always nearer than we think. He is watching us even when we sleep; He will do all He can to find ways to bring us back closer to Him, as a Father loves His sons and daughters. (ĐCT luôn ở gần bên cạnh c/ta. Ngài luôn chăm nhìn mỗi c/ta kể cả khi c/ta ngủ; luôn đem c/ta gần trở lại với Chúa, như một người cha thương mến những con trai, con gái của mình.)

# As parents, what price would you pay if your kids got kipnapped? Everything! (Thử hỏi nếu con cái c/ta bị bắt cóc và phải chuộc một gía rất cao thì quí vị là cha mẹ sẽ bằng lòng trả gía gì? Tất cả tài sản mình có nếu cần.)

> He loves us so much and does not want even worse thing will happen to us, so He has to send out the “big fish.” (Chúa yêu mến c/ta qúa đỗi mà phải sai những “con cá lớn” đến trong đời sống của mỗi c/ta, hầu cho c/ta tránh khỏi những tai họa còn xấu hơn nữa sẽ xảy đến cho c/ta.)

 

2) Secondly, so that we can know God is serious about His plan of salvation. (Sự kiện này dạy cho c/ta hiểu Chúa rất quan trọng hóa về công việc cứu chuộc loài người.)

> God was serious about saving 120,000 souls living in Nineveh; in 40 days if they did not repent and return to God, they would be destroyed. (ĐCT quan tâm đến linh hồn của trên 120,000 người trong thành Ninive; trong vòng 40 ngày nữa nếu họ đã không ăn năn thì linh hồn của họ sẽ bị hư mất ở trong hồ lửa địa ngục đời đời.)

> In fact, God is so serious about His salvation that He gave His only begotten Son so anyone can be saved by believing in Jesus name. (Rõ ràng, ĐCT rất quan trọng về việc cứu chuộc nhân loại đến mức Ngài hy sinh ban cho Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.) 

 

3) Thirdly, so that we can have a fear of God and learn to keep His commandments. (Để c/ta biết kính sợ Chúa mà biết giữ điều răn, mạng lệnh Ngài trao cho.)

# Parents discipline their kids with rods, so that the children can have wisdom to make wise decisions and to be matured. (Các bậc cha mẹ dùng roi sửa phạt con cái của mình luôn trong sự yêu thương, để c/nó có sự khôn ngoan hầu có những quyết định tốt lành đem đến ích lợi cho đời sống.)

> We need to have a fear of God to be serious about His calling and obeying Him, and I think this is what the modern churches and this country are lack of. (C/ta cần có sự kính sợ Chúa để biết chú tâm đến công việc giảng đạo, đại sứ mạng mà Ngài đã trao cho mỗi người và hội thánh chung, và vâng giữ lời Chúa.)

> Do not ignore His commandments from weeks to weeks. (C/ta không thể nào cứ đến đây mỗi tuần, nghe lời Chúa giảng, học lời Chúa dạy và rồi ra về xem thường lời Chúa gọi mình.) 

# America - do not keep on ignoring God because the “big fish” is coming. (Nước Hoakỳ này chớ có xem thường lời cảnh cáo của Chúa trong Kinh Thánh, Chúa sẽ sai “con cá lớn” đến sao để nhắc nhở nước này?)

 

# Listen to the wise king Solomon said in Ecclesiastes 12:1, 6-7, 13-14 to conclude about the focus of life should be - Remember your Creator in the days of your youth, before the days of trouble come and the years approach when you will say, “I find no pleasure in them”— “6 Remember him—before the silver cord is severed, and the golden bowl is broken; before the pitcher is shattered at the spring, and the wheel broken at the well, 7 and the dust returns to the ground it came from, and the spirit returns to God who gave it. “13 Now all has been heard; here is the conclusion of the matter: Fear God and keep his commandments, for this is the duty of all mankind. 14 For God will bring every deed into judgment, including every hidden thing, whether it is good or evil.” (Hãy lắng nghe lời khuyên của vua Salômôn trong Truyền đạo về mục đích của đời sống phải là gì? “Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo hóa ngươi, trước khi những ngày gian nan chưa đến, trước khi những năm tới mà ngươi nói rằng: Ta không lấy làm vui lòng; 6 lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo hóa trước khi dây bạc đất, và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra trên giếng; 7 và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó. 13 Chúng ta hãy nghe lời kết của lý thuyết nầy: Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài; ấy là trọn phận sự của ngươi. 14 Vì Đức Chúa Trời sẽ đem đoán xét các công việc, đến đỗi việc kín nhiệm hơn hết, hoặc thiện hoặc ác cũng vậy.”)

 

 

IV. Disciplined Lifestyle

 

> We now understand about the “big fish,” so what can we do to prevent from forgetting God? (C/ta đã hiểu tại sao Chúa cho phép những con cá lớn nuốt mình, bây giờ thì c/ta cần làm chi để tránh khỏi tình trạng này?)

 

1) Don’t copy the wicked. (Đừng bắt chước những kẻ ác)

# Proverbs 24:1-2, 19-20“Be not thou envious against evil men; Neither desire to be with them: 2 For their heart studieth oppression, And their lips talk of mischief. 19 Fret not thyself because of evil-doers; Neither be thou envious at the wicked: 20 For there shall be no reward to the evil man; The lamp of the wicked shall be put out.” (Châm Ngôn 24:1-2, 19-20 – “Chớ ganh tị với kẻ ác, Cũng đừng mong ước ở cùng chúng nó. 2 Vì lòng chúng nó nghĩ điều hung dữ; Môi chúng nó nói điều tổn hại. Đừng bực mình vì kẻ dữ; Chớ ganh tị với kẻ gian ác. 20 Vì kẻ dữ không có tương lai; Ngọn đèn của người gian ác sẽ tắt.”)

> They only focus on the temporary life and end up in vanity. (Họ chỉ chú tâm đến những điều tạm bợ ở đời này mà cuối cùng chỉ là sự hư không mà thôi.)

> Don’t compare with them; don’t desire what they have, do not be jealous with them, and loose the life priority and that is to “seek first the kingdom of God.” (Đừng so sánh với họ, đừng ganh tị với họ, đừng ham muốn những điều họ có, vì chỉ làm c/ta đánh sai mục đích ưu tiên của cuộc sống này mà thôi.)

# Don’t copy them to buy those lottery tickets to win the powerball, but use that money to help the poor. (Đừng bắt chước họ mua những vé sổ xố ham trúng độc đắc, nhưng thà lấy tiền đó giúp đỡ những kẻ nghèo đói.)

 

2) Practice a disciplined life to be in the word everyday. (Tập luyện một đời sống tĩnh tâm với Chúa trong sự cầu nguyện và học lời Chúa mỗi ngày.)

# Do not mold your life relationship with God into a lifestyle of one Sunday morning per week. (Đừng tự nắn đời sống đạo của c/ta chỉ giới hạn vào buổi sáng Chúa Nhật vài tiếng đồng hồ và ở trong 4 bức tường mà thôi.)

> Everyday devotion is a desire to know God more in His words. (Mỗi ngày trong sự tĩnh tâm, hết lòng ao ước được hiểu biết Chúa nhiều hơn.)

> Don’t withdraw yourself from “hard and itching ears” sermons and Bible lessons because they may save you from the “big fish.” (Đừng ngại nghe những lời gỉang khó nghe hay những bài học Kinh Thánh khó nuốt, là bởi vì lời Chúa cảnh cáo có thể giúp đỡ c/ta tránh khỏi những “con cá lớn.”)

 

3) Do the word of God carefully. (Cẩn thận làm theo lời Chúa dạy.)

> It’s not just to hear and understand the words, but it’s more important to obey them because “an act of obedience is worth more than 10,000 sermons,” so that we can avoid the cumulative effect. (Không phải chỉ nghe thôi, nhưng điếu quan trọng hơn nữa là phải làm theo nữa, vì “một hành động vâng lời quí hơn là nghe được 10,000 bài giảng.”)

> Not just do the words only, but do them carefully, not carelessly, not as burdensome. (Không phải chỉ làm theo lời Chúa dạy thôi, nhưng phải cẩn thận mà làm, không có cẩu thả, thờ ơ, chậm trễ, sơ xài.)

# In Joshua 1:8, what did Joshua command God’s people to do carefully? Keep this Book of the Law always on your lips; meditate on it day and night, so that you may be careful to do everything written in it. Then you will be prosperous and successful.” (Trong Giôsuê 1:8, Giôsuê ra lệnh cho dân sự Chúa làm điều gì cẩn thận? “Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.”)

 

> How carefully do you do the worship? Then why you come to Sunday School late? Why do you forget the sacrifice? Why you don’t exam your heart before entering this place? Why do you carelessly viewing the Iphone during worship? Do you want God to remind you of Who He is? (Bạn có đang cẩn thận trong sự thờ phượng Chúa không? Nếu có thì tại sao c/ta cứ tiếp tục đến học Kinh Thánh trễ? Tại sao c/ta đến mà quên không mang theo của lễ dâng? Tại sao c/ta đến đây mà chưa tự xét đời sống và ăn năn tội? Tại sao c/ta lại vô ý lo ra trong những cái máy Iphone? C/ta có muốn Chúa “nhắc nhở” mình Chúa là ai không?)

> Unfortunately, sometimes it needs hard lessons of suffering and painful valleys for God to get our attention. (Điều đáng tiếc là nhiều khi c/ta cứ phải học những bài học đau thương thì c/ta mới để ý đến Chúa.)

> We don’t have to learn hard lessons in life. Once is more than enough. (C/ta không cần phải học những bài học đau thương này phải không? Chỉ học một lần là quá đủ rồi, đừng bất cẩn nữa.)

> Don’t ignore God’s messages from Sunday to Sunday; Carefully obey His commandments; Listen with a commitment to obey because of the fear of Him. (Đừng xem thường lời Chúa từ Chúa Nhật này qua Chúa Nhật kia, nhưng cẩn thận làm theo lời, lắng nghe với sự cáo trách và làm theo với tinh thần kính sợ Chúa.)

 

----------------------

> An interesting note about the book of Jonah is that it has no ending. (Điều cuối cùng đó là sách Giôna này không có phần kết thúc.)

> It seemed that this book of Jonah reflects each of us, our stubbonness and ignorance to God’s word. (Có lẽ sách này không có phần kết thúc là vì sự dậy dỗ cho Giôna cũng chính là sự dậy dỗ cho mỗi người c/ta chăng, phản ảnh tánh bướng bỉnh – hay thích đi nghịch lại với ý Chúa. Nó nói lên sự sai lệch về mục đích của đời sống c/ta, hay quan tâm đeo đuổi đến những điều tạm bợ, nhưng lại xem thường những mạng lệnh Chúa giao.)

 

> Then how must each of us end this book? (Như vậy mỗi người c/ta sẽ kết thúc câu chuyện này như thế nào?)

> Will we make life adjustments to be serious of God’s word and carefully obey them so that we can avoid the “big fish?” (C/ta có sẽ thấy được sự dậy dỗ của câu chuyện này không, mà biết ăn năn quay trở về cùng Chúa, đặt ý muốn, sự kêu gọi của Chúa làm ưu tiên, mục đích cho đời sống, và cẩn thận làm theo những mạng lệnh của Chúa không, để tránh khỏi những “con cá lớn” chăng?

 

> May God’s word speak clearly to each of us and convict our heart today! (Mong lời Chúa chạm đến mỗi lòng của c/ta sáng nay.)

 

 

------------- Lời Mời Gọi

> ACE có biết mục đích tại sao mình còn ở đây không?

> ACE có biết ý Chúa cho đời sống của mình là gì không?

> C/ta có đang chạy ngược chiều không? Có đang trốn tránh Ngài không? Có đang xem thường lời Chúa không?

# ĐCT ban ơn, cứu c/ta ra khỏi chế độ cộng sản, đem gia đình c/ta được đến 1 đất nước đượm sữa và mật… có phải để c/ta chỉ biết cặm cụi thâu lượm của cải vật chất ở đời này cho mình thôi sao?

> ĐCT đã hy sinh chính Con Ngài để đem c/ta từ sự tối tăm đến chỗ sáng láng để làm gì?

> Chúa cứu c/ta để làm gì? C/ta có tỉnh bơ với những điều Chúa đang gọi mình không?

> C/ta còn muốn thấy nnhững cơn giông bão nào, những con cá lớn nào, những biến cố tai họa đau thương nào nữa, thì mình mới biết tỉnh thức mà “lắng nghe tiếng Chúa” và đầu phục Ngài đây?

> Tại sao c/ta không chịu vâng lời Chúa ngay đi, mà lại cứ “dằn co” đến chỗ phải học những bài học đau thương, rồi mới chịu đầu phục?

> Những qúa khứ đau thương giúp c/ta phải “dừng bước lại” để tự hỏi “mục đích của đời sống” này là để làm gì? Thâu lượm, ăn uống hưởng thụ rồi chết mất chăng?

> Những “con cá lớn” có đã giúp c/ta biết quan tâm về những điều Chúa đang quan tâm không?

 

> ACE đang quan tâm ~điều gì nhất trong cuộc sống này?

> Chính Chúa đang hỏi mỗi người c/ta… ACE và tôi đang quan tâm ~gì trong cuộc sống bon chen này? ~Điều c/ta bỏ hết công sức và thì giờ vào đó có nên không? Có giá trị trường tồn không?

# Từ lúc c/ta mở mắt thức dậy mỗi ngày… c/ta đã lo về cái tóc, cái quần và cái áo của mình.

> C/ta lo làm sao được một bữa ăn ngon miệng đây… bỏ biết bao nhiêu thì giờ sửa soạn cho nó.

> C/ta lo làm ăn sao cho được thành công, phát đạt… mọi sự như ý trong công ăn việc làm.

> C/ta lo làm sao mua được tất cả ~bảo hiểm đắt tiền nhất… để cuộc sống mình được an tâm.

> Không phải ~điều này là xấu… nhưng Chúa muốn dậy dỗ c/ta hiểu tất cả ~thứ này đều là tạm bợ, chóng qua… chỉ thuộc ở trong khung của cuộc đời này mà thôi.

> Khi cuộc đời này chấm dứt… c/ta có mang theo được ~thứ này không?

 

> Nhưng còn ~thứ trường tồn quí gía – đó là những linh hồn ở xung quanh c/ta – linh hồn của những người thân yêu c/ta chưa được cứu rỗi, c/ta có đang quan tâm đến không, để rồi khi họ bước qua cõi đời này thì c/ta sẽ không bao giờ còn có cơ hội cứu vớt họ được nữa?

> Không phải c/ta không cần tiền hay thức ăn để mà sống ở trên đời này.

> Nhưng c/ta phải ý thức có những điều trường tồn quí gía, c/ta cũng cần phải đeo đuổi khi còn có cơ hội đó chính là những linh hồn hư mất đang ở xung quanh c/ta.

 

> Mong thái độ sống của c/ta sẽ thay đổi từ ngày hôm nay và mong c/ta sẽ biết quân bình thì giờ, sức năng mà biết quan tâm đến những điều trường tồn mãi mãi, sống biết kính sợ Chúa và cẩn thận làm theo những mạng lệnh của Ngài!   

    

 

Remembering God

(Jonah 2:8)

“When my life was ebbing away, I remembered you, Lord,

and my prayer rose to you, to your holy temple.”

 

          Have you been in a “valley” of suffering, pains, fears, or disappointment? To the world, they call these bad lucks, or a curse that can make them very angry. Some people try to cover up with drugs, alcohol, affairs, gambling, but the problems just get worse and can lead to suicidal. What about us as Christians, how should we deal with the troubles in life when they come? We do not always understand or have an answer for why there are suffering and pains in life. But there are at least two reasons why we face sufferings: 1) Most of the suffering and pains are the consequences of sins, due to our bad choices, or wrong decisions. 2) But for Christians, when we deal with life suffering, God has a purpose to help us NOT forgetting, but in knowing Him better.

 

          First, our human nature is so easily forgetful. As we get older, we are not just changing from the outside: face wrinkles, gray hair on our head, weaker knees, false teeth, wearing the hearing aids, but also loosing the memory, because of our natural and sinful/decayed body originated from Adam & Eve. We tend to forget God, especially, when our stomach is full, our car is new, our job is stable, our retirement is secured. Do you know that the forgetfulness of God begins with the ignorance of God’s commandments a little bit each day? Ignorance means to put God word lightly, not important, and no longer relevant to our life. We still go to church, but we begin to ignore God when we listen to God word without any compulsive or commitment to obey; it just goes through from one ear to the other. Another danger of ignorance God’s word is the cumulative effect. What is the cumulative effect? A little impact each day, from weeks to weeks, adding up to a point that God is no longer existed; He is not real, but just a myth, a cartoon character; the Bible is just a story, a fable. This was happened to Jonah.

 

          Who was Jonah? Jonah was a prophet of God. A prophet is the “voice” of God; He speaks the commandments of God, often a warning or rebuke. In Chapter 1, God commanded Jonah to go to Nineveh to call this gentile nation to repent and return to God because of their wicked lifestyle. But Jonah did not obey; He ignored God’s command and ran away from Him. Jonah went down to Joppa, where he found a ship bound for that port. After paying the fare, he went aboard and sailed for Tarshish to flee from the Lord. Can anyone run away from God? Can God be ignored? No way, because He is all-present, all-powerful, and all-knowing God. Did God just sit still and look at Jonah running away from Him? No. While Jonah was sleeping in the bottom of the ship, God allowed a storm to come to wake Jonah up. The sailors later had to decide to throw Jonah out of the ship into the sea so they could survive. Finally, God sent a big fish to swallow Jonah in for 3 days and 3 nights. What happened to Jonah when he was in the belly of a big fish? 1) Jonah remembered his God, Jehovah and prayed to Him. 2) Jonah looked toward the holy temple where God’s presence resided. 3) Jonah repented of his sin for turning away from God’s mercy and loving-kindness. 4) Jonah committed to offer a sacrifice to God with thanksgiving. 5) Jonah re-committed his life to God and promised to obey Him, going to Nineveh and warned the people to return to God. And 6) In Jonah 2:10, after 3 days and nights, God heard his prayer and commanded the big fish to vomit him out to the dry land. Why did God do that? How can troubles and life suffering teach us about God: First, so that we can know our God is real and personal. God is not a myth, not a “flying object” out in space, once a while visiting the earth. God does not sleep and He is not dead liked many people think, and He sent out “big fish” to remind us that. God is always nearer than we think. He is watching us even when we sleep; He will do all He can to find ways to bring us back closer to Him, as a Father loves His sons and daughters. He loves us so much and does not want even worse thing will happen to us, so He has to send out the “big fish” to stop what we are doing. Secondly, so that we can know God is serious about His plan of salvation. God was serious about saving 120,000 souls living in Nineveh; in 40 days if they did not repent and return to God, they would be destroyed. In fact, God is so serious about His salvation that He gave His only begotten Son, so anyone can be saved by believing in Jesus name. Thirdly, so we can have a fear of God and learn to keep His commandments.

 

          What can we do to prevent from forgetting God? 1) Don’t copy the wicked. They only focus on the temporary life and end up in vanity. Don’t compare with them; don’t be jealous with them, and loose the life priority and that is to “seek first the kingdom of God.” 2) Practice a disciplined life to be in the word every day. Do not mold your life relationship with God into a lifestyle of one Sunday morning per week. Everyday devotion is a desire to know God more in His words. Don’t withdraw yourself from “hard and itching ears” sermons and Bible lessons because they may save you from the “big fish.” 3) Do the word of God carefully. It’s not just to hear and understand the words, but it’s more important to obey them because “an act of obedience is worth more than 10,000 sermons,” so that we can avoid the cumulative effect. Not just do the words only, but do them carefully, not carelessly, not as burdensome.

 

          An interesting note about the book of Jonah is that it has no ending. It seemed that this book of Jonah reflects each of us today, our stubbornness and ignorance to God’s word. Then how must each of us end this book? Will we make any life adjustments to be serious of God’s word and carefully obey them so that we can avoid the “big fish?” May God’s word speak clearly to each of us and convict our heart today!