Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 58

Bền Lòng Giữ Vững Đức Tin

 (Giacơ 5:7-8 / Hêbêrơ 11:1-7)

 

 

“Hỡi anh em, vậy hãy nhịn nhục cho tới kỳ Chúa đến. Hãy xem kẻ làm ruộng: họ bền lòng chờ đợi sản vật quí báu dưới đất cho đến chừng nào đã được mưa đầu mùa và cuối mùa. 8 anh em cũng vậy, hãy nhịn nhục và bền lòng; vì kỳ Chúa đến gần rồi.”

(Be patient, then, brothers and sisters, until the Lord’s coming. See how the farmer waits for the land to yield its valuable crop, patiently waiting for the autumn and spring rains. 8 You too, be patient and stand firm, because the Lord’s coming is near.)

 

 

I. Những Dấu Hiệu dẫn đến Thời Kỳ Sau Rốt

 

Những người cơ đốc (Christians) có nhiều điểm rất khác biệt với những người ngoại, nhất là khi hướng nhìn về tương lai.

> Là con cái Chúa, c/ta có sự trông cậy, (hope) chờ đợi Chúa Giê-xu sẽ trở lại, hứa ban cho nước thiên đàng, y như lời Ngài đã nói trong Giăng 14:1-3 như sau: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa. 2 Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3 Khi Ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.” (“Do not let your hearts be troubled. You believe in God; believe also in me. 2 My Father’s house has many rooms; if that were not so, would I have told you that I am going there to prepare a place for you? 3 And if I go and prepare a place for you, I will come back and take you to be with me that you also may be where I am.)

> Lời của Chúa cũng nhắc nhở c/ta những dấu hiệu (signs of endtimes) của những tai họa lớn sẽ xảy ra trước, như chưa bao giờ có trên thế gian, dẫn đến thời kỳ “Chúa Giê-xu sắp trở lại rồi.”

 

a) Chính lời của tiên tri Đaniên ngày xưa cũng đã nói trước về thời kỳ cuối cùng này trong Đaniên 12:4, mà đã được đóng ấn dấu kín cho đến lúc sự khôn ngoan học thức được tăng lên (an increase in knowledge) – “Còn như ngươi, hỡi Đa-ni-ên, ngươi hãy đóng lại những lời (tiên tri) nầy, và hãy đóng ấn sách (tiên tri) nầy cho đến kỳ cuối cùng. Nhiều kẻ sẽ đi qua đi lại, và sự học thức sẽ được thêm lên.” (But you, Daniel, roll up and seal the words of the scroll until the time of the end. Many will go here and there to increase knowledge.)

> Với hệ thống máy điện toán tối tân ngày hôm nay qua các vệ tinh nhân tạo, không ai trong c/ta có thể từ chối rằng sự học thức hiện đại ngày nay thật tăng trưởng đến mức tột bực.

# Người ta cách xa nhau hơn nửa quả điạ cầu, nhưng có thể liên lạc với nhau trong vài giây.

 

b) Chính Chúa Giê-xu trong Mathiơ 24:3-14, cũng nói đến một số những dấu hiệu sẽ xảy ra trước dẫn đến thời kỳ sau rốt và những điều này đang lần lượt ứng nghiêm ngay trước mắt c/ta.

> Nếu đọc, c/ta thấy có tối thiểu 10 dấu hiệu Chúa Giê-xu cho biết sẽ xảy ra trước ngày tận thế, từ chiến tranh, tai họa, những tiên tri gỉa nổi lên, tội ác thêm nhiều, lòng yêu mến Chúa nguội dần, cho đến lúc Tin Lành được giảng ra khắp đất.

> Là con cái Chúa, c/ta biết trước về những dấu hiệu sẽ xảy ra trước ngày tận thế, để c/ta chịu chú tâm chuẩn bị, hầu cho sự trở lại của Ngài sẽ chẳng còn như “kẻ trộm trong đêm.”

 

> Sứ đồ Giacơ cũng nhắc nhở hết thảy con cái Chúa điều này và thúc dục c/ta phải có sự nhịn nhục bền lòng chờ đợi Chúa Giê-xu trở lại.

> Làm thế nào để có sự bền lòng chờ đợi cho đến khi Chúa Giê-xu trở lại đây?

> Mỗi người c/ta phải trau dồi đức tin (building our faith) của mình, để đứng vững cho đến ngày đó. Trau đồi đức tin nghĩa là sao?

> Bài giảng sáng nay giúp c/ta hiểu bước đầu tiên của đức tin trong Chúa nghĩa là sao?

 

 

II. Định Nghĩa Đức Tin

 

Trong Hêbêrơ 11:1-7 – “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy. / 2 Ấy là nhờ đức tin mà các đấng thuở xưa đã được lời chứng tốt. 3 Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật bày ra đó đều chẳng phải từ vật thấy được mà đến. / 4 Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình, vì Đức Chúa Trời làm chứng về người rằng Ngài nhậm lễ vật ấy; lại cũng nhờ đó dầu người chết rồi, hãy còn nói. / 5 Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên và không hề thấy sự chết; người ta không thấy người nữa, vì Đức Chúa Trời đã tiếp người lên. Bởi chưng trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Đức Chúa Trời rồi. 6 Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài. / 7 Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian, và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy.” (Now faith is confidence in what we hope for and assurance about what we do not see. 2 This is what the ancients were commended for. 3 By faith we understand that the universe was formed at God’s command, so that what is seen was not made out of what was visible. 4 By faith Abel brought God a better offering than Cain did. By faith he was commended as righteous, when God spoke well of his offerings. And by faith Abel still speaks, even though he is dead. 5 By faith Enoch was taken from this life, so that he did not experience death: “He could not be found, because God had taken him away.” For before he was taken, he was commended as one who pleased God. 6 And without faith it is impossible to please God, because anyone who comes to him must believe that he exists and that he rewards those who earnestly seek him. 7 By faith Noah, when warned about things not yet seen, in holy fear built an ark to save his family. By his faith he condemned the world and became heir of the righteousness that is in keeping with faith.)

 

> Trong Hêbêrơ 11, câu 1, so sánh một vài bản dịch khác nhau, giúp định nghĩa cho chúng ta hiểu đức tin là gì: (definition of faith)

·         “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.” (Bản dịch Truyền Thống) (“Now faith is the substance of things hoped for, the evidence of things not seen” (KJV))

·         “Đức tin là thực chất của những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những việc ta không xem thấy.” (Bản dịch Mới)

·         “Đức tin là bảo đảm chắc chắn cho những gì chúng ta hy vọng và bằng chứng cho những gì không thấy được.” (Bản Dịch năm 2011)

 

1) Có lẽ bản dịch “đức tin” là thực chất (reality/substance) thì rõ nhất.

> Thực chất nghĩa là một điều gì có thật, chứ không phải là một gỉa thuyết (hypothesis) mà cần phải chứng minh nữa.

# Theo khoa học, khi người ta muốn chứng minh một điều gì thì họ thường bắt đầu bằng một gỉa thuyết, và rồi tìm cách chứng minh điều đó là thực chất qua những công trình thí nghiệm, nhưng kết cuộc gỉa thuyết đó có thể là đúng như vậy hay là sai, phải không?

> Nhưng đức tin đã là “thực chất” rồi, không phải là gỉa thuyết, thì không cần một thí nghiệm nào nữa.

 

2) Điều thứ hai cho thấy đức tin là bằng cớ rõ ràng của những điều mắt trần không thể thấy được.

# Bằng cớ hay bằng chứng là những chứng cớ rõ ràng người ta thường bày ra trong các cuộc xử án để xác nhận lẽ thật.

> Đây có nghĩa đức tin là “con mắt thuộc linh” (spiritual eyes) để có thể thấy rõ được những bằng chứng, mà mắt thường không thể thấy được, trí óc chưa có thể hiểu được, nhưng nhận biết rõ được những điều có thật chưa xảy ra.

# Thử hỏi mắt trần của chúng ta có đã thấy Chúa Giê-xu không? Bạn có bao giờ thấy Đức Chúa Trời là Thần Linh chưa? Nhưng tại sao chúng ta tin có Ngài, là vì bởi đức tin giúp chúng ta nhận biết rõ Ngài thật hiện hữu.

 

> Như vậy thức chất của đức tin là gì mà ở trên nó chúng ta xây tất cả những điều hy vọng và sự trông cậy của mình, để bền lòng chờ đợi Chúa Giê-xu trở lại?

 

 

III. Lời ĐCT

 

Thứ nhất, nền tảng bởi đâu mà chúng ta đang trông đợi ngày Chúa Giê-xu sẽ tái lâm?

> Thực chất/bằng cớ của đức tin có một nền tảng chắc chắn, đó chính là “lời hằng sống của Đức Chúa Trời,” (the Word of God) nghĩa là tất cả những gì Ngài đã phán và hứa ban cho, chắc chắn sẽ thành hình trọn vẹn y hệt như vậy.

# Trong sách 1 Phiêrơ 1:25-26 chép gì về đặc tánh của lời Chúa? “Vì, Mọi xác thịt ví như cỏ, Mọi sự vinh hiển của nó ví như hoa cỏ. Cỏ khô, hoa rụng, nhưng lời Chúa còn lại đời đời. Và lời đó là đạo Tin Lành đã giảng ra cho anh em.” (For, “All people are like grass, and all their glory is like the flowers of the field; the grass withers and the flowers fall, 25 but the word of the Lord endures forever.” And this is the word that was preached to you.)

> Lời Chúa tuy không có quyền năng để cứu chúng ta, nhưng giúp dẫn chúng ta đến đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đấng đã đổ huyết trên cây thập tự cứu chuộc chúng ta.

> Rõ ràng trong Rôma 10:17 nói đến ích lợi của lời Chúa giúp hướng dẫn đến đức tin nơi Ngài – “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Consequently, faith comes from hearing the message, and the message is heard through the word about Christ.)

 

 

IV. Biết Rõ Đối Tượng

 

Một yếu tố quan trọng của đức tin phải có đó là Đối Tượng (the Person God) để chúng ta tin cậy, vì không ai tin vào sự hư không được.

> Đức tin của chúng ta có đối tượng rõ ràng như có chép trong câu 3, vì không phải là loại “mù quáng,” – “Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật bày ra đó đều chẳng phải từ vật thấy được mà đến.” (By faith we understand that the universe was formed at God’s command, so that what is seen was not made out of what was visible.)

> Đối tượng của chúng ta tin cậy cũng không phải là một vị thần mà chẳng có thể giúp đỡ chúng ta, hay chẳng có hứa điều gì hết. Nhưng đối tượng của Cơ Đốc là Đấng Chí Cao, Đấng Tạo Hóa, ĐCT là Đấng đã dựng nên muôn loài vật, dựng nên thế gian từ chỗ hư không.

> Nếu có thực vật, sự sáng tạo lạ lùng trước mắt thì phải có Đấng đã dựng nên nó, gọi là Đấng Tạo Hóa, hay người Việt có danh xưng nôm na là “Ông Trời.”

# Những người đi theo gỉa thuyết tiến hóa nói rằng thế giới từ một khối nổ lớn (the Big Bang) mà đến, và rồi theo thời gian tạo nên mọi vật. Nhưng câu hỏi luôn là “ai” đã dựng nên “big bang” từ lúc ban đầu?

# Câu 6 chép rõ ai có đức tin thì phải tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu bởi những chứng cớ của những thực vật đã được tạo nên – “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời...” (And without faith it is impossible to please God, because anyone who comes to him must believe that he exists and that he rewards those who earnestly seek him.)

> Tin có Đấng Sáng Tạo cũng là phải tin Ngài là Đấng Quyền Năng, nghĩa là phải tin rằng Đức Chúa Trời đã làm nên mọi loài vật bởi lời Ngài từ chỗ hư không.

# Câu chuyện vui về một số các nhà bác học vô thần một hôm họ muốn thách thức Chúa nên nói rằng họ không cần đến Ngài thì cũng có thể tự “clone” thành con người được. Đức Chúa Trời mỉm cười, đồng ý và để cho họ làm trước. Các nhà bác học vào các phòng thí nghiệm, bắt đầu xúc “một đống đất” để làm thí nghiệm “clone” thành một thể xác. Nhưng Đức Chúa Trời cản ngay không cho, và Ngài nói: “Đất đó là thuộc của Ta; các ngươi hãy tự đi lấy đất của mình làm ra đi để dùng cho thí nghiệm.”

> Kể cả “bụi đất” là thứ tầm thường, cũng không thuộc của chúng ta, hay do mình tự tạo nên được, vì tất cả chúng ta và mọi thứ đều là những vật thọ tạo do Đấng Sáng Tạo dựng nên từ chỗ hư không.

 

 

V. Những “Minh Họa” của Đức Tin

 

Bởi đức tin mà những đấng thưở xưa tin cậy vào lời Chúa hứa, mà trong câu 2 có chép họ có lời chứng tốt – “Ấy là nhờ đức tin mà các đấng thuở xưa đã được lời chứng tốt.” (This is what the ancients were commended for.)

> Đấng thưở xưa đây là ai? Là tổ tiên của đạo, là những nhân vật đời xưa đã chết mà được tác gỉa Hêbêrơ nhắc đến, chẳng hạn như từ Abên cho đến kỵ nữ Raháp.

> Tại sao những đấng thưở xưa này nhận được những lời chứng tốt?

# Vì cuộc đời của họ là những “minh họa” của đức tin làm đẹp lòng Chúa, vì họ tin cậy chắc chắn vào những lời Chúa đã hứa và sống vâng phục theo đó, cho dù mắt họ chưa thấy điều Chúa đã hứa.

> Hãy xem một vài những Đấng thưở xưa có đức tin làm đẹp lòng Chúa sau đây để hiểu rõ thêm những đặc tánh của đức tin.

 

1) Trong câu 4, tại sao Đức Chúa Trời nhận của tế lễ của Abên mà không nhận của Ca-in? “Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình, vì Đức Chúa Trời làm chứng về người rằng Ngài nhậm lễ vật ấy; lại cũng nhờ đó dầu người chết rồi, hãy còn nói.” (By faith Abel brought God a better offering than Cain did. By faith he was commended as righteous, when God spoke well of his offerings. And by faith Abel still speaks, even though he is dead.)

> Muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta cần trở lại lịch sử Kinh Thánh có chép trong Sáng Thế Ký 4:1-5 như sau – “A-đam ăn ở với Ê-va, là vợ mình; người thọ thai sanh Ca-in và nói rằng: Nhờ Đức Giê-hô-va giúp đỡ, tôi mới sanh được một người. 2 Ê-va lại sanh em Ca-in, là A-bên; A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in thì nghề làm ruộng. 3 Vả, cách ít lâu, Ca-in dùng thổ sản làm của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va. 4 A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Đức Giê-hô-va đoái xem A-bên và nhận lễ vật của người; 5 nhưng chẳng đoái đến Ca-in và cũng chẳng nhận lễ vật của người; cho nên Ca-in giận lắm mà gằm nét mặt.” (Adam made love to his wife Eve, and she became pregnant and gave birth to Cain. She said, “With the help of the Lord I have brought forth a man.” 2 Later she gave birth to his brother Abel. Now Abel kept flocks, and Cain worked the soil. 3 In the course of time Cain brought some of the fruits of the soil as an offering to the Lord. 4 And Abel also brought an offering—fat portions from some of the firstborn of his flock. The Lord looked with favor on Abel and his offering, 5 but on Cain and his offering he did not look with favor. So Cain was very angry, and his face was downcast.)

> Đời xưa, tổ phụ của loài người sanh hai đứa con đầu tiên trên trái đất là Ca-in và Abên. Tuy rằng Kinh Thánh không nói rõ, nhưng chắc chắn chính Đức Chúa Trời đã có lần “khải thị” cho cả hai người này phải dâng của lễ với tấm lòng như thế nào cho đẹp ý Ngài.

> Abên đã tin vào lời Đức Chúa Trời và vâng lời làm theo y như vậy, còn Ca-in thì không, nên Chúa không nhận. Nếu chúng ta không có đức tin sẵn sàng làm theo y hệt như ý Chúa thì chẳng thể nào làm vui lòng Ngài.

> Nếu chúng ta thật tin Chúa thì phải làm theo ý Chúa, không cộng thêm ý riêng của mình thì mới làm đẹp lòng Chúa được. Nhớ rằng Ca-in cũng dâng của tế lễ, nhưng không dâng theo y như ý Chúa muốn.

# Thiết nghĩ ai trong chúng ta là con cái Chúa chắc cũng muốn hầu việc Chúa, nhưng có hầu việc theo ý Ngài không là một chuyện khác?

# Đôi khi Hội Thánh Chúa bị cản trở chưa tăng trưởng đúng mức là vì có những người đang hầu việc Chúa theo ý riêng của mình. Đây là điều mà mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiểm chứng và tự xét đức tin hầu việc Chúa của mình như thế nào, có đẹp ý Ngài không, hay theo sự suy nghĩ và đường lối riêng của mình?

 

2) Trong câu 5, tại sao Hênóc không “nếm” sự chết? “Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên và không hề thấy sự chết; người ta không thấy người nữa, vì Đức Chúa Trời đã tiếp người lên. Bởi chưng trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Đức Chúa Trời rồi.” (By faith Enoch was taken from this life, so that he did not experience death: “He could not be found, because God had taken him away.” For before he was taken, he was commended as one who pleased God.)

> Muốn hiểu rõ đời sống của Hênóc, chúng ta cần trở lại Sáng Thế Ký 5:21-24 có chép – “Hê-nóc được sáu mươi lăm tuổi, sanh Mê-tu-sê-la. 22 Sau khi Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la rồi, đồng đi cùng Đức Chúa Trời trong ba trăm năm, sanh con trai con gái. 23 Vậy Hê-nóc hưởng thọ được ba trăm sáu mươi lăm tuổi. 24 Hê-nóc đồng đi cùng Đức Chúa Trời, rồi mất biệt, bởi vì Đức Chúa Trời tiếp người đi.” (When Enoch had lived 65 years, he became the father of Methuselah. 22 After he became the father of Methuselah, Enoch walked faithfully with God 300 years and had other sons and daughters. 23 Altogether, Enoch lived a total of 365 years. 24 Enoch walked faithfully with God; then he was no more, because God took him away.)

> Đời sống của Hênóc dạy chúng ta một đặc tánh quan trọng của đức tin làm vừa lòng Chúa nữa, đó là đức tin là một mối liên hệ thông công mật thiết, cùng bước đi với Chúa mỗi ngày, chứ không phải chỉ là một lần gặp gỡ.

# Biết bao nhiêu cơ đốc nhân ngày nay vẫn chưa hiểu lẽ thật này, cứ tự nghĩ tôi tin Chúa Giê-xu nhận lễ Báptêm một lần rồi là xong, chẳng còn cần chi nữa. Vì vậy mà đời sống vẫn còn bị “giam cầm” trong những “giây xích vô hình” của tội lỗi, mà chưa kinh nghiệm được một cuộc sống dự dật như Chúa Giê-xu đã một lần hứa trong Giăng 10:10 – “Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.” (The thief comes only to steal and kill and destroy; I have come that they may have life, and have it to the full.)

> Điều nguy hiểm nhất của loại “tin là hết” đó là sẽ không làm đẹp lòng Chúa được. Đức tin của Hênóc là loại đi cùng tốc độ với Chúa để hòan toàn trong sự thông công với Ngài.

> Hênóc luôn để ý xem khi nào Chúa bước thì sẵn sàng theo sau, không lấy lý do bào chữa hay trì hoãn. Ông không đi trước Ngài, nhưng “đồng bước đi” nói đến sự “đồng ý” vâng phục lời Chúa phán hòan toàn. Chúa yêu thích sự thông công với Hênóc bởi đức tin của ông, đến nỗi Ngài cất chính ông đi, mà không nếm sự chết.

 

3) Trong câu 7, tại sao đức tin của Nôe là chứng tốt? “Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian, và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy.” (By faith Noah, when warned about things not yet seen, in holy fear built an ark to save his family. By his faith he condemned the world and became heir of the righteousness that is in keeping with faith.)

> Muốn biết rõ tại sao, chúng ta cần trở lại Sáng Thế Ký 6:12-22 có chép – “Nầy, Đức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy điều bại hoại, vì hết thảy xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại. 13 Đức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta sẽ diệt-trừ họ cùng đất. 14 Ngươi hãy đóng một chiếc tàu bằng cây gô-phe, đóng có từng phòng, rồi trét chai bề trong cùng bề ngoài. 15 Vậy, hãy làm theo thế nầy: Bề dài tàu ba trăm thước, bề ngang năm mươi thước, bề cao ba mươi thước. 16 Trên tàu ngươi sẽ làm một cửa sổ, bề cao một thước, và chừa một cửa bên hông; ngươi sẽ làm một từng dưới, một từng giữa và một từng trên. 17 Còn ta đây, ta sẽ dẫn nước lụt khắp trên mặt đất, đặng diệt tuyệt các xác thịt có sanh khí ở dưới trời; hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ chết hết. 18 Nhưng ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của ngươi, đều hãy vào tàu. 19 Về các loài sanh vật, ngươi hãy dẫn xuống tàu mỗi loài một cặp, có đực có cái, có trống có mái, hầu cho ở cùng ngươi đặng giữ tròn sự sống; 20 chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng tùy theo loại, mỗi thứ hai con, sẽ đến cùng ngươi, để ngươi giữ tròn sự sống cho. 21 Lại, ngươi hãy lấy các thứ đồ ăn đem theo, đặng để dành làm lương thực cho ngươi và các loài đó. 22 Nô-ê làm các điều nầy y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn.” (God saw how corrupt the earth had become, for all the people on earth had corrupted their ways. 13 So God said to Noah, “I am going to put an end to all people, for the earth is filled with violence because of them. I am surely going to destroy both them and the earth. 14 So make yourself an ark of cypress wood; make rooms in it and coat it with pitch inside and out. 15 This is how you are to build it: The ark is to be three hundred cubits long, fifty cubits wide and thirty cubits high. 16 Make a roof for it, leaving below the roof an opening one cubit high all around. Put a door in the side of the ark and make lower, middle and upper decks. 17 I am going to bring floodwaters on the earth to destroy all life under the heavens, every creature that has the breath of life in it. Everything on earth will perish. 18 But I will establish my covenant with you, and you will enter the ark—you and your sons and your wife and your sons’ wives with you. 19 You are to bring into the ark two of all living creatures, male and female, to keep them alive with you. 20 Two of every kind of bird, of every kind of animal and of every kind of creature that moves along the ground will come to you to be kept alive. 21 You are to take every kind of food that is to be eaten and store it away as food for you and for them.” 22 Noah did everything just as God commanded him.)

 

> Vài điểm chúng ta cần chú ý đến đức tin của Nôe đó là trước hết Nôe tin vào lời Đức Chúa Trời và có một mối liên hệ thông công mật thiết với Chúa thường xuyên giống như Hênóc, chứ không phải chỉ là cuộc gặp gỡ một lần với Ngài mà thôi, vì trong câu 9 có chép “Nôe đồng đi cùng Đức Chúa Trời.”

> Đức tin của Nôe là loại vâng lời tuyệt đối bắt đầu bằng sự ông nghe lời phán xét và mạng lệnh của Chúa rõ ràng, và kiên nhẫn vâng lời làm theo, bằng cách xây một cái tàu theo đúng kích thước của Chúa muốn, cho dù theo đám đông thì việc đó thật là vô lý vì chưa hề có ai thấy mưa bao giờ.

> Ông và gia đình trung tín xây chiếc tàu trong suốt gần 120 năm cho dù không một ai chịu nghe lời cáo trách mà tin Chúa.

# Cứ tưởng tượng như nếu quí vị là Mục Sư quản nhiệm một Hội Thánh mà trong suốt cuộc đời hầu việc Chúa của mình sẽ không thấy một ai tin nhận Chúa, không làm một nghi lễ Báptêm nào cho ai hết, thì quí vị sẽ nản chí thể nào?

> Nhưng đó không phải là đức tin của Nôe vì ông nhất quyết tin Chúa, hiểu ý Ngài, và sống vâng lời làm theo y hệt như Chúa muốn, cho dù không “hợp” với ý của dư luận và những áp lực của đám đông xung quanh. Ông là người có đức tin tin rằng công thức của đám đông (majority) là “Một mình tôi với Chúa” là đủ rồi.

 

 

VI. Trau Dồi Mối Liên Hệ với Chúa

 

Những dấu hiệu ngày Chúa Giê-xu trở lại càng ngày càng rõ hơn.

> Càng rõ bao nhiêu thì c/ta phải trau dồi đức tin của mình càng ngày càng vững bấy nhiêu để có thể bền lòng đứng vững trong sự trông cậy của mình.

> Muốn đức tin vững vàng thì c/ta cần phải hiểu đức tin nơi Chúa nghĩa là sao.

> Tóm tắt những yếu tố cần biết về đức tin như sau:

 

1) Đức tin phải có Đối tượng là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa Quyền Năng, khải thị trong sự giáng thế của Cứu Chúa Giê-xu.

2) Nền tảng của đức tin là lời hằng sống của Chúa trong Kinh Thánh, những gì Ngài đã phán và hứa.

3) Đức tin không phải chỉ là một cuộc gặp gỡ một lần với Chúa, nhưng là mối liên hệ thông công mật thiết bước đi với Chúa mỗi ngày, để nghe và hiểu được lời hứa và ý Ngài muốn là gì.

4) Đức tin sống làm đẹp lòng Chúa thì cẩn thận vâng lời làm theo y hệt như lời Chúa đã phán, mặc dầu đối diện với những áp lực xung quanh.

> Bằng cớ của một đức tin tốt phải là sự vâng lời Chúa tuyệt đối, mà các đấng thưở xưa được lời chứng tốt là vậy.

 

> Biết như vậy rồi, nhưng trên thực tế thì chúng ta có thể thực hành điều gì để trau dồi đức tin của mình đây?

> Phải thường xuyên tìm kiếm và suy gẫm lời Chúa để thông biết Ngài là ai và ý của Ngài cùng những lời Ngài đã hứa mà chờ đợi để nhận lãnh.

> Mục đích số một của sự học lời Chúa là để thông biết Chúa càng hơn; càng thông biết Chúa thì c/ta càng bền lòng chờ đợi những lời Ngài đã hứa ban cho.

> Càng thông biết Chúa, c/ta càng biết rõ ý Chúa cho mình là gì để vâng lời làm theo.

 

> Đức tin được trau dồi qua sự suy gẫm lời của Chúa luôn là 4 bước: Đọc, hiểu, cảm động, và vâng lời làm theo.

a) Đọc Kinh Thánh là một chuyện, nhưng có hiểu thấu theo ý Chúa muốn không là một chuyện khác. > Vì vậy khi đọc chúng ta cần cầu nguyện xin Đức Thánh Linh giúp cho mình hiểu thấu được ý Chúa, mà không theo trí khôn ngoan của mình, nhưng theo đường lối của Chúa.

# Trong Êsai 55:9 chép rõ - “Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.” (As the heavens are higher than the earth, so are my ways higher than your ways and my thoughts than your thoughts.)

> Chúng ta không thể hiểu “đường lối cao” của Chúa nếu dùng trí khôn thấp kém của con người được. Vì vậy mà ngày nay có biết bao nhiêu người đang đi “trật đường rầy,” hầu việc Chúa theo ý riêng mình, để rồi lại tình cờ cản trở sự gây dựng thân thể Đấng Christ chưa được trưởng thành.  

 

b) Một số đọc hiểu, nhưng lòng chẳng bị cáo trách chi hết, cứ trơ trơ, chắng thấy thấm chi cả.

# Chúng ta không thể đọc Kinh Thánh với thái độ “lời này dành cho người ngồi bên cạnh” hay chỉ là những “lời hay ý đẹp” mà thôi.

 

c) Phải lấy đức tin sau khi đọc và hiểu ý Chúa đó là cẩn thận cam kết, nhất định vâng lời làm theo y như lời Chúa phán dạy, không xoay bên tả hoặc phải, cũng không trì hoãn.

# Chúng ta không thể nào đọc Kinh Thánh với thái độ: “Để con coi có tiện không thì sẽ làm?” hay là “Xin Chúa sai người khác đi?”

 

> Mỗi người phải tự xét coi xem đức tin của mình là loại nào, đến mức nào rồi?

> Đọc có hiểu không? Hiểu có cảm động chi không? Cảm động rồi có sanh ra việc làm gì không?

> Chúng ta có phản ảnh đức tin làm đẹp lòng Chúa và làm chứng tốt cho những người xung quanh không? Kể cả sau khi chúng ta nằm xuống đi nữa, như các đấng thuở xưa, họ đã chết rồi nhưng “vẫn còn nói.”

> Thật mong mỗi người chúng ta sẽ cố gắng trau dồi đức tin của mình, hầu đứng vững được trước mọi cơn giông kéo đến từ mọi phía trong thời kỳ sau rốt, nhịn nhục bền lòng cho tới kỳ Chúa đến.

 

 

---------------- Lời Mời Gọi

 

> Có lần Chúa Giê-xu đã phán trong Luca 18:8b – “Song khi Con người đến, há sẽ thấy đức tin trên mặt đất chăng?” (when the Son of Man comes, will he find faith on the earth?”)

> Đây là lời Chúa Giê-xu trực tiếp thách thức người Do Thái, nhưng gián tiếp cũng thách thức mỗi người c/ta, thách thức VHBC, khi Chúa trở lại thì Ngài có sẽ thấy đức tin nơi Chúa ở trong c/ta không?

> Chúa có sẽ thấy c/ta không đi theo những giáo lý của những giáo sư gỉa không?

> Chúa có thấy đời sống của c/ta làm vừa lòng Ngài không giống như Abên?

> Chúa có còn thấy c/ta bước đi theo Ngài không, giống như Hênóc?

> Chúa có thấy c/ta cứ vâng lời giữ lời của Ngài không, giống như Nôe?

 

> C/ta sẽ làm gì để bền lòng giữ vững đức tin của mình cho đến khi Cứu Chúa Giê-xu trở lại?

> C/ta có kiên nhẫn học kỹ lời Chúa mỗi ngày không để thông biết Ngài là ai?

> C/ta học có hiểu ý muốn của Chúa cho mình là gì không?

> Lòng c/ta có được cảm động cáo trách gì không?

> C/ta có sẽ sẵn sàng vâng lời, sống theo lời Chúa dạy không?

 

> Bắt đầu ngay hôm nay.


Stand Firm in Faith until the Return of Jesus Christ

(James 5:7-9 / Hebrews 11:1-7)

 

“Now faith is confidence in what we hope for and assurance about what we do not see. 2 This is what the ancients were commended for. 3 By faith we understand that the universe was formed at God’s command, so that what is seen was not made out of what was visible. 4 By faith Abel brought God a better offering than Cain did. By faith he was commended as righteous, when God spoke well of his offerings. And by faith Abel still speaks, even though he is dead. 5 By faith Enoch was taken from this life, so that he did not experience death: “He could not be found, because God had taken him away.” For before he was taken, he was commended as one who pleased God. 6 And without faith it is impossible to please God, because anyone who comes to him must believe that he exists and that he rewards those who earnestly seek him. 7 By faith Noah, when warned about things not yet seen, in holy fear built an ark to save his family. By his faith he condemned the world and became heir of the righteousness that is in keeping with faith.”

 

          As Christians, we have the hope waiting for Jesus’ return. The apostle James reminds us that we must stand firm in our faith until that day. First, we need to understand what does having faith in God mean? Faith is defined as: “Now faith is the substance of things hoped for, the evidence of things not seen” (KJV). Faith provides the ground (or substance) on which hope is built; Faith claims future and waiting things as present reality; It enables us to perceive unseen things just as if they were seen. The substance/foundation of faith is the Word of God, on what God said and promised. The object of faith is God Persons as revealed in the Bible (the written Word) and by the illumination of the Holy Spirit to understand God’s will. It’s not a leap in the dark, not a good luck charm to hang around your neck, not a gamble of “hope-so.” Hebrews 11 lists several illustrators of faith that pleases God.

 

          a) Faith of Abel – Why did God accept Abel’s offering and not Cain? Although in Genesis 4:1-5 did not say, but God would already reveal to both Abel and Cain about how the offering should be both with the sacrificial animal and right attitude of heart. Abel believed God, listened to His commandment, and obeyed just as God said.

 

          b) Faith of Enoch – Why didn’t Enoch taste death? In Genesis 5:21-24 - Faith is not an one-time encounter, but a personal relationship with God. Enoch walked with God each day means he had constant fellowship and communication with God. God liked this fellowship so much that He took Enoch to heaven and he did not experience death.

 

          c) Faith of Noah – Why did Noah’s faith have good report? Again in Genesis 6:5-22 just as Enoch, Noah’s faith is a personal relationship (daily communion) with God and not an one-time encounter. As Noah walked with God (v. 9), he took heed of His commandments (v. 14-21), means really listened to understand clearly God’s will, then Noah acted upon God’s commandment (v. 22). He obeyed and built an ark just as God directed, even he had never seen rain on earth, and no convert for about 120 years, except his family.

 

 

          So faith that pleases God should have the following characteristics: The substance of faith is revelation of God through the written Word. Faith requires a personal relationship (experiencing) with God. Faith takes heed of God’s commandments by carefully listening and reading His Word. Faith acts upon the will of God even if it goes opposite to the common senses.

 

          So how should we read the Bible to mature our faith? Pay attention on what God has promised and commanded. Ask the Holy Spirit for help to really understand God’s will. Commit to readily obey God. Do you have a desire that your life will be an illustrator of the faith that pleases God until the day of His return? Just do what you have already learned today.