Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 15

Một Tâm Hồn Bình An

Giăng 14:27

 

“Ta để sự bình an lại cho các ngươi; Ta ban sự bình an ta cho các ngươi; Ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi.”

(Peace I leave with you; my peace I give you. I do not give to you as the world gives. Do not let your hearts be troubled and do not be afraid.)

 

 

I. Peace on Earth

 

> If you are asked – what is one thing that the world needs the most, then what would be your answer? (Nếu hỏi điều gì thế giới cần nhất trong lúc này, thì câu trả lời của bạn sẽ là gì?)

> My answer would be in just one word – “peace.” (Có lẽ nhu cầu cần nhất của thế giới hiện nay trong 2 chữ mà thôi, đó là “hòa bình?”)

# Look around and see troubles, chaos and wars happening everywhere in the world: In Syria, Middle East, North Korea, Vietnam, even in the US Congress between Democrat and Republican. (Nếu quan xát, c/ta thấy thế giới ngày này đầy dẫy những trở ngại và chiến tranh: Bên nước Syria, Trung đông, Bắc hàn, kể cả ngay tại Hoakỳ đây có sự tranh chấp giữa đảng Dân Chủ và Cộng Hòa.)

> Why don’t we have peace? (Tại sao c/ta khó tìm được hòa bình trên thế gian này?)

> One simple answer is because the heart of man is evil. (Cội rễ là vì lòng con người là xấu xa.)

# The first conflict was in the beginning after the creation of mankind, when Adam/Eve disobeyed God by eating the forbidden fruit. (Cuộc chiến đầu tiên giữa Ađam/Êva với Chúa, sau khi mọi sự được dựng nên, ông bà đã không vâng lời Ngài trong vườn Êđen ăn trái cấm, và dòng dõi họ đã trở nên loài thù nghịch cùng Chúa.)

# The second war was between their sons, when Cain killed Abel because of jealousy. (Cuộc chiến thứ hai là giữa 2 người con trai của tổ phụ loài người sau khi sanh ra đời, người anh là Cain đã vì ghen tức em mình mà giết chết Abên.)

# Wars and conflicts continue until this day, and the world still cannot find peace. (Chiến tranh trong thế giới từ lúc đó cứ diễn tiến hoài cho đến ngày hôm nay không ngừng.)

 

> How can we find peace? (Như vậy làm sao c/ta tìm được sự hòa bình đây?)

> We live in a country having the most comforts provided by the best technologies. (Những người đang sống ở nuớc Mỹ này là 1 đất nước hòa bình, tiện nghi nhất trên thế giới, với đầy đủ những máy móc và kỹ thuật tinh vi…)

> But strangely, many Americans still have a lot of worries and fears. (Nhưng sao đời sống của nhiều người ở bên đây vẫn còn có những điều bất an, và lắm những điều lo sợ.)

a) Whatever we eat, we worry of being fat. (Thức ăn bên đây thật là dư dật… nhưng lúc nào ăn cũng lo sợ có nhiều chất mỡ, sợ mập, sợ bị cao máu, phải đếm từng calorie một để khỏi mắc phải bịnh “tim giựt.”)

b) Rich people worry others would steal their money or find ways to sue them for money. (Giàu có quá thì lại sợ những người khác dòm ngó, rồi ăn cướp của cải mình, hay kiếm cớ đem mình ra toà kiện cáo lấy tiền… vì thế ở bên đây có lắm người đang thích lái xe hiệu "I-SU-ZU" là vậy?)

c) We fear of sickness, so we work hard to have enough money to buy all kinds of life insurance. (C/ta lúc nào cũng sợ bị mắc ~bịnh tật "bất đắt dĩ"... vì lý do đó mà có biết bao nhiêu người phải lo mua bảo hiểm sức khoẻ.)

d) Parents fear of their children be led into many addictions of this world or violence crimes. (Biết bao nhiêu cha mẹ nuôi nấng con cái bên đây lúc nào cũng bị “căng thẳng tinh thần”… vì sợ con mình đi theo "đám đông" làm ~chuyện điên cuồng, theo băng đảng, đi bắn phá, mang về thai hoang.)

e) So many people try different ways to find peace from Yoga, to heavy drinking, party-ing, but at the end is just emptiness. (Có nhiều người tìm sự tĩnh tâm của tâm hồn qua những phương pháp như “Yoga” (ngồi thiền)... nhưng rồi chỉ đưa tâm thần mình vào chỗ "tuyệt vọng," đầy ~khoảng trống vô nghĩa mà thôi.)

 

> Our life is full of worries and fear for two reasons:

1) Our human strength is so weak in dealing with life troubles, and

2) We cannot know and control the future.

(C/ta sống bất an vì không biết rõ tương lai sẽ ra như thế nào, và sự yếu đuối bất toàn của chính mình trước những hoạn nạn, tai ương và khó khăn trong cuộc đời.)

> So, the basic answer to know peace is to find a Person - who has the power to overcome all our troubles and can secure our destiny. (Như vậy, điều căn bản để kinh nghiệm được sự bình an là khi c/ta tìm được một Đấng đầy quyền năng, mà có thể giúp c/ta vượt qua khỏi mọi trở ngại và bảo đảm định mệnh tốt đẹp đời đời cho chính mình.)

 

 

II. Jesus’ Claims, Power, and Promises

 

> How can we find that Person Who can give us peace? (Làm sao c/ta tìm được Đấng đó là ai đây?)

> Jesus Christ once came into the world and has promised peace that no one before and after Him has dared to offer. (Khi Chúa Giê-xu đến thế gian, Ngài đã hứa ban cho sự bình an, mà chưa ai trước Chúa hay sau Ngài đã dám hứa ban như vậy.)

 

> To understand the peace that He offers, we first need to understand Who He is. (Để hiểu được gía trị của sự bình an mà Chúa Giê-xu hứa ban cho, c/ta trước tiên phải hiểu Ngài là ai.)

> To know who Jesus is we need to know what He has claimed about Himself, what He has done, and what He has promised to us about eternity. (Để biết Chúa là ai, c/ta cần phải biết Chúa đã tự xưng gì về mình, những gì Ngài đã làm, và những lời gì Ngài đã hứa ban cho c/ta trong cõi đời đời.)

 

1) There are many things Jesus claimed about Himself that no one ever did. (Chúa Giê-xu tuyên bố nhiều điều về Ngài, mà từ trước tới nay chưa có ai dám xưng giống như vậy.)

 

a) First, Jesus claimed to be God in John 10:30-33“I (Jesus) and the Father are one. Again his Jewish opponents picked up stones to stone him, but Jesus said to them, “I have shown you many good works from the Father. For which of these do you stone me?” “We are not stoning you for any good work,” they replied, “but for blasphemy, because you, a mere man, claim to be God.” (Trước hết, Chúa Giê-xu xưng chính mình là Đức Chúa Trời thành nhân trong Giăng 10:30-33 – “Ta với Cha là một. Người Giu-đa lại lượm đá đặng ném Ngài, những Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đá ta? Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời.”)

# In addition, the apostle John claimed Jesus is God in John 1:1“In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God.” (Trong Giăng 1:1, sứ đồ Giăng tuyên bố Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời – “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.”)

# In Colossians 1:15-17 – the apostle Paul claimed Jesus is the incarnated Creator - “The Son is the image of the invisible God, the firstborn over all creation. For in him all things were created: things in heaven and on earth, visible and invisible, whether thrones or powers or rulers or authorities; all things have been created through him and for him. He is before all things, and in him all things hold together.” (Trong Côlôse 1:15-17, sứ đồ Phaolô tuyên bố Chúa Giê-xu chính là Đấng Tạo Hóa – “Ấy chính Ngài (Giê-xu) là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được, là Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên. Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả. Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài.”)

 

b) Jesus claimed that He is the Savior of the world and only through Him there is no other available way that mankind can re-connect to God and enter heaven. (Chính Chúa Giê-xu tự xưng mình là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, và chỉ bởi Ngài là con đường duy nhất để mọi người có thể liên hệ với Đức Chúa Trời và vào nước thiên đàng.)

# John 14:6“I am the way and the truth and the life. No one comes to the Father except through me.” (Giăng 14:6 – “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.”)

 

2) Secondly, to have the peace we need to know about His power demonstrated through the miracles He did. (Muốn có sự bình an trong Cứu Chúa Giê-xu, c/ta phải biết đến quyền năng của Ngài được bày tỏ qua những phép lạ Ngài đã làm, khi còn ở trên thế gian này.)

i) In John 2 – The first miracle of Jesus turning water to wine at a wedding in Cana. (Giăng 2 – Phép lạ đầu tiên Chúa hóa nước thành rượu tại một bữa tiệc cưới ở thành Cana.)

ii) In John 5 – Jesus healed a paralyzed man. (Giăng 5 - Chữa lành một người bị liệt.)

iii) In John 6 – Jesus fed over 5,000 people. (Giăng 6 – Chúa ban phát thức ăn cho 5,000 người ăn.)

iv) In Mark 4 – Jesus once demonstrated His power over His creation when His disicples faced stormy trouble at the sea, by He just said “Be still.” (Trong sách Mác 4 – Chúa Giê-xu bày tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên khi các môn đồ gặp phải một trận bão ở gần biển Galilê, thì Chúa thức dạy, chỉ phán một lời “lặng đi,” thì mọi vật liền yên lặng như tờ.)

v) In Matthew 8 – Jesus restored the life of two demon-possed men in the region of the Gadarenes. (Trong Mathiơ 8 – Chúa Giê-xu chữa lành 2 người bị quỉ ám ở nơi mồ tại xứ dân Ga-đa-ra)

vi) In John 11 – Jesus raised Lazarus from the dead. (Giăng 11 – Chúa làm phép lạ cho Laxarơ sống lại.)

> The Bible recorded at least 34 miracles that Jesus did to demonstrate His power. (Trong Kinh Thánh ghi chép tối thiểu 34 phép lạ Chúa Giê-xu đã làm để bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời ở trong Ngài.)

> The more powerful the Person we trust, the greater peace we have. (Đấng c/ta tin cậy càng có quyền năng lớn chừng nào thì sự bình an của c/ta càng lớn hơn thể đó.)

> Does the “gods” that you are placing your faith in right now can do any miracles? (Thử hỏi những vị chúa mà bạn đang tin cậy có đã làm những phép lạ gì không?)

 

> More than that, Jesus did something for each of us that none of us could do for ourselves and that is He died on the cross to make an atonement for our sins, meaning to payoff all the debts demanded by sins; because without this, a sinner cannot be fully righteous and reconciled with the holy and perfect God to enter the kingdom of heaven. (Chúa Giê-xu đã làm một việc nữa mà không ai trong c/ta có thể làm cho mình được, đó là Ngài thanh toán mọi món nợ tội lỗi của hết thảy những kẻ dám tin danh Ngài, và làm c/ta trở nên công bình trọn vẹn, vì đây là điều kiện phải có để một người có thể vào nước Đức Chúa Trời.)

# Colossians 1:20 verifies that “…through Him (Jesus) to reconcile to Himself (God) all things, whether things on earth or things in heaven, by making peace through his blood, shed on the cross.” (Trong Côlôse 1:20 - “… bởi huyết Ngài (Chúa Giê-xu) trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời.”

 

3) Thirdly, to have peace, we need to know what Jesus has promised to us for our eternity. (Muốn có sự bình an, c/ta phải biết Chúa Giê-xu đã hứa và bảo đảm gì cho tương lai đời đời của mọi kẻ tin.)

a) In John 14:1-4 Jesus once promised “Do not let your hearts be troubled. You believe in God; believe also in me. My Father’s house has many rooms; if that were not so, would I have told you that I am going there to prepare a place for you? And if I go and prepare a place for you, I will come back and take you to be with me that you also may be where I am. You know the way to the place where I am going.” (Trong Giăng 14:1-4 Chúa Giê-xu đã một lần hứa - "Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó. Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa.")

 

> Jesus died on the cross, was raised to life after 3 days in the tomb, appeared to His disciple in 40 days, ascended in heaven before their eyes, now in heaven at the right hand of God to intercede for each believer (Romans 8:34), to prepare a place for us in heaven, and He will return one day to bring us home with Him – these are the things Jesus has done and promised us, and God cannot lie. (Chúa Giê-xu chết trên cây thập tự, sống lại sau 3 ngày, hiện ra với các môn đồ trong 40 ngày, thăng thiên về trời, bây giờ đang ở bên hữu Đức Chúa Cha cầu thay cho c/ta, Ngài sửa soạn một chỗ cho mỗi kẻ tin, và một ngày Chúa sẽ trở lại để đem c/ta về nước Đức Chúa Trời - tất cả những điều này Chúa đã làm và hứa cho c/ta, và Ngài không thể nói dối được.)

 

b) In 1 Thessalonians 4:13-17 – the apostle Paul told us how His return will take place, so we can have an assurance of Jesus’ promise – “Brothers and sisters, we do not want you to be uninformed about those who sleep in death, so that you do not grieve like the rest of mankind, who have no hope. 14 For we believe that Jesus died and rose again, and so we believe that God will bring with Jesus those who have fallen asleep in him. 15 According to the Lord’s word, we tell you that we who are still alive, who are left until the coming of the Lord, will certainly not precede those who have fallen asleep. 16 For the Lord himself will come down from heaven, with a loud command, with the voice of the archangel and with the trumpet call of God, and the dead in Christ will rise first. 17 After that, we who are still alive and are left will be caught up together with them in the clouds to meet the Lord in the air. And so we will be with the Lord forever.” (Trong 1 Thêsalônica 4:13-17 sứ đồ Phaolô nói rõ về sự trở lại của Chúa sẽ như thế nào, để c/ta có sự bảo đảm của lời Ngài đã hứa – “Hỡi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh em không biết về phần người đã ngủ, hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác không có sự trông cậy. 14 Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài. 15 Vả, nầy là điều chúng tôi nhờ lời Chúa mà rao bảo cho anh em: chúng ta là kẻ sống, còn ở lại cho đến kỳ Chúa đến, thì không lên trước những người đã ngủ rồi. 16 Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. 17 Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.”)

# This is Jesus’ promise that I preached in my mom’s funeral last week to comfort my relatives and encourage all to put their trust in Jesus Christ. (Đây là lời hứa về sự trở lại của Chúa mà tôi đã chia xẻ với mọi người trong ngày lễ an táng của mẹ tôi tuần qua, để an ủi mọi người thân và khích lệ những người khác đặt lòng tin nơi Chúa.)

 

c) While waiting for His return, Jesus promised to be with us always through His Holy Spirt until the end of time; we are not orphans, we are not sheep without the Shepherd. (Khi chờ đợi ngày Chúa trở lại, Ngài cũng đã hứa sẽ luôn ở với c/ta luôn, qua Thánh Linh cho đến tận thế.)

# In Matthew 28:20b what did Jesus promise? “… And surely I am with you always, to the very end of the age.” (Trong Mathiơ 28:20b – Chúa đã hứa gì trước khi thăng thiên về trời? “… Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.”)

 

> Why do Christians have peace even when they face death, walking through the darkest valley of death? (Tại sao cơ đốc nhân có sự bình an, cho dù khi đi qua trũng của bóng chết?)

# A very simple answer is because they have the promise of Jesus’ return and they know for sure where they will go into eternity. (Câu trả lời đơn sơ là vì họ có lời hứa của Chúa Giê-xu sẽ trở lại và họ biết rõ mình sẽ đi về đâu đời đời.)

> Do you know where you are going? (Bạn có biết mình sẽ đi đâu, sau cõi đời này không?)

# We tend to have a lot of fears and worries when we come to new places that we are not familiar with – what exist to take, the location of the stores, can I make a U-turn… but if you have a local person driving in the car with us, then there is nothing to worry, or I say that you have “peace.” (Mỗi lần c/ta đến một chỗ lạ, thường làm cho c/ta bị bối rối vì không quen thuộc đường xá ở đó; nhưng nếu có một người bạn đã từng ở chỗ đó lâu năm, cùng đi với mình trên xe thì đâu còn lo lắng chi, hạy nói là “bình an thay.”)

 

 

III. Believe In Jesus

 

1) Everything sounds really good, but there is one thing you need to do to know peace, and that is to believe in Jesus. (Những lời hứa của Chúa nghe rất hợp lý, nhưng vẫn còn thiếu một điều rất quan trọng để một người có sự bình an, đó là bạn phải phải tin cậy Chúa.)

> Isn’t that what Jesus said in John 14:1“… believe in God, believe also in Me?” (Rõ ràng Chúa Giê-xu đã nói trong Giăng 14:1 - “Ngươi tin Đức Chúa Trời thì hãy tin Ta nữa.”)

> You can know all truths about peace, but without believing in Jesus, all your knowledge is useless for you. (Bạn có thể biết lẽ thật để làm sao có sự bình an, nhưng bạn không chịu tin nhận Chúa thì mọi sự hiểu biết của bạn cuối cùng cũng chỉ là vô ích mà thôi.)

> You can come to church thousand times, listening to the message of peace thousand times, but if you never trust the Prince of Peace (Jesus Christ), you will not “taste” what peace is. (Bạn có thể đi nhà thờ ngàn lần, nghe không biết bao nhiêu bài giảng về ơn bình an, nhưng bạn chưa chịu đặt lòng tin cậy nơi Chúa Bình An, là Cứu Chúa Giê-xu, thì bạn sẽ không thể nào nếm được sự bình an Ngài hứa ban cho.)

# That’s why there are so many people have religions, they may go to church every Sunday, but still not experiencing peace, they are still living in fears and worries, because Jesus is still outside of their heart. (Vì vậy mà có vô số người ngày hôm nay có tôn giáo, họ đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật, nhưng vẫn chưa kinh nghiệm sự bình an; họ vẫn sống trong những nỗi lo sợ và bất an, vì Chúa Giê-xu vẫn ở ngoài đời sống của họ.)

> They may have a lot of money in the bank, all kinds of life insurances, prestige, fame, fortunes, but when they face stress and death, they lose control of their emotion, and some ended up in suicidal. (Họ có thể có rất nhiều của cải, mua đủ loại bảo hiểm, nổi tiếng; nhưng khi đối diện với sự chết, họ mất hy vọng, không có chỗ nương tựa, và một số đi đến chỗ tự tử.)

# I can think of Marilyn Monroe, Elvis Presley, and Robin Williams… (Những tài tử nổi tiếng)

 

2) What does “believing in Jesus” mean? (Tin Chúa Giê-xu nghĩa là sao?)

a) “Believing in Jesus” simply means that you accept everything Jesus has claimed about Himself, every thing Jesus had done, and every promises Jesus has promised are true for you, and cry out to Him to save you. (“Tin cậy Chúa” nghĩa là chấp nhận tất cả những gì Chúa Giê-xu tuyên bố về mình, những gì Ngài đã làm, và những gì Chúa hứa cho bạn đều là lẽ thật, và kêu cầu Ngài cứu bạn.)

 

3) The proof of your belief/faith is in your obedience to His words and teachings. (Dấu hiệu rõ ràng của lòng tin cậy Chúa Giê-xu thật chính là sự vâng lời làm theo những lời dạy dỗ của Ngài.)

# A person cannot say I believe in Jesus and ignore His teachings. (Một người không thể nói mình tin Chúa, nhưng xem thường, hay chẳng đếm xỉa đến những lời Ngài dạy dỗ.)

> It is a peace that you experience daily, by walking in His words, not just something that you wait at the end of your life. (Sự bình an Chúa ban là điều bạn kinh nghiệm mỗi ngày khi vâng giữ lời Chúa dạy dỗ, chứ không phải là đợi đến khi mình sắp sửa qua đời.)

# It is like taking “one a day” vitamin to keep your body healthy. (Giống như công thức của sự uống thuốc bổ “một viên” mỗi ngày, chứ bạn không có uống một lúc 30 viên rồi nghỉ cả tháng được.)

> Don’t you know that God’s commandments, Jesus teachings are pathways to guide us constantly in safety, blessings and experiencing peace. (Bạn có biết là những điều răn, mạng lệnh của Chúa dẫn c/ta đi đứng an toàn, không bị vấp ngã và chính lúc đó mình kinh nghiệm sự bình an.)

> What did Paul teach about this in Philippians 4:9“Whatever you have learned or received or heard from me, or seen in me—put it into practice. And the God of peace will be with you.” (Sứ đồ Phaolô dạy gì về bí quyết này trong Philíp 4:9 – “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.”)

 

# I give you just one example – Bible said in Ephesians 4:32“Be kind and compassionate to one another, forgiving each other, just as in Christ God forgave you.” If you have obeyed this to forgive all your enemies, then would you experience a peaceful life, no more headaches and bitterness? (Thí dụ trong Kinh Thánh Êphêsô 4:32 lời Chúa dạy - “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy,” và bạn vâng lời tha thứ mọi kẻ thù của mình, thì không phải bạn sẽ kinh nghiệm một đời sống bình an, không còn những căn bệnh nhức đầu, bực bội, hay lòng cay đắng nữa phải không?)

> You don’t experience peace, because you do not obey His teachings; you have not obeyed, because you do not have Jesus in your heart; the reason you don’t have Him in your heart, because you have not made a decision to believe in Jesus Who promises to give you peace. (Bạn chưa kinh nghiệm sự bình an là vì bạn chưa vâng giữ lời của Chúa Giê-xu; bạn chưa vâng giữ là vì bạn chưa thật sự có Chúa Giê-xu sống trong lòng mình; và bạn chưa có Chúa trong lòng mình là bởi vì bạn chưa bao giờ thật sự quyết định mời Chúa bước vào làm Chủ đời sống mình qua Chúa Thánh Linh.)

 

 

IV. Overcoming Sadness but Finding Comfort

 

> There is a time that your peace will be tested. (Sẽ có lúc sự bình an trong lòng của bạn bị thử thách coi xem có thật không.)

# Mine was tested last week, when we landed at Atlanta airport and my sister called and said “mom passed away.” (Sự bình an Chúa ban cho tôi bị thử thách tuần trước ngay sau khi c/tôi vừa đáp xuống phi trường Atlanta, đợi bay tiếp qua California, thì chị tôi gọi và báo tin mẹ tôi mới vừa qua đời.)

> Our life has many trouble times, but the worst is when we face death. (Trong đời sống của c/ta có những lúc bị bối rối, nhưng có lẽ lúc bối rối nhất là khi c/ta đối diện với sự chết của người thân.)

> Death is our greatest enemy because no one can ever defeat it, except Jesus Christ. (Tử thần là kẻ thù dữ nhất của loài người c/ta, vì chưa có ai thắng nó được, ngoại trừ Cứu Chúa Giê-xu.)

 

> Even we have a “big lost” in life last week, but we still can sing “It is well with my soul.” (Mặc dầu sự mất mát rất lớn cho chính đời sống tôi, nhưng lòng vẫn bình an thay, tâm linh vẫn yên ninh thay.)

> Even I am very sad about my mom’s death, I still can praise “Amazing Grace, How sweet the sounds.” (Cho dù tôi rất buồn vì mẹ tôi qua đời, nhưng vẫn có thể hát “Ân Điển lạ lùng” tôn vinh Chúa.)

> Why? (Tại sao?)  

> Very simple answer – because I believe in God and all the promises that Jesus told me in the Bible are true. (Lý do đơn giản là vì tôi tin cậy nơi Chúa và những lời Ngài đã hứa là lẽ thật.)

> And now I understand why Jesus once said – “Man shall not live on bread alone, but on every word (promises) that comes from the mouth of God.” (Bây giờ tôi mới càng hiểu rõ lời của Chúa Giê-xu đã một lần phán – “Có lời chép rằng: Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói (lời hứa) ra từ miệng Đức Chúa Trời.”)

 

> I pray that none of you will have to walk through the valley of death. (Tôi cầu nguyện mong rằng không một ai trong quí vị sẽ phải đi qua trũng của bóng chết.)

> But that will not be a guarantee, because we do not know how our life and other loved ones will end. (Nhưng điều đó không bảo đảm được, vì c/ta hết thảy không biết cuộc sống của mình hay của những người thân mình sẽ kết thúc như thế nào.)

> Then if you have to face the greatest enemy - death, will you still stand? (Rồi khi bạn đối diện với tử thần, bạn có sẽ còn đứng yên được không?)

> Will your peace prevail and bring glory to God’s name? (Sự bình an của bạn có thể vượt qua được và làm sáng danh Chúa không?)

 

> The wisest thing you can do is to believe in Jesus right at this moment. (Điều hay nhất ngay bây giờ là bạn hãy đặt lòng tin cậy nơi Chúa đi)

> Only Jesus can give you the peace that passes all understanding that the world cannot give. (Chỉ một mình Chúa Giê-xu mới có thể ban cho bạn sự bình an mà thế gian này không ban cho được.)

> Just come to Him right at this moment!

 

--------------------- Invitation

> Con người sống chỉ mong có được sự bình an và yên ổn…

> Cho dù cho đến lúc "nằm xuống" rồi đi nữa… cũng mong được “yên nghỉ,” phải không?

# Cho nên trên những mộ bia, người ta thường khắc những chữ: "An nghỉ nghìn thu" (RIP) là vậy.

> Tuy trả nhiều tiền để có một bia khắc bằng đá thật đẹp, nhưng khi "đậy nắp quan tài" của người thân mình lại… thật sự nhiều người không biết chắc ngưòi đó có sự bình an không, hay chờ đợi sự phán xét của Đấng Tạo Hóa?

 

> Kinh Thánh dạy sự bình an thật bắt đầu từ sự hòa thuận lại với Đức Chúa Trời là Đấng đã dựng nên mỗi c/ta.

> C/ta không có khả năng để tự làm hòa lại với trời, nhưng chỉ bởi qua Cứu Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời đã giáng thế, chịu chết chuộc sạch mọi tội lỗi của c/ta.

> Huyết thánh của Chúa Giê-xu làm c/ta có mối liên hệ với Đấng Thánh Khiết vẹn toàn và một ngày được ở trong nước của Ngài.

 

> Maybe you have been thinking “So if I believe in Jesus – what do I get?”

> Heaven is too far and just an abstract?

> Believe in Jesus, you may not get a lot of money or fame, getting more intelligent; but for sure, you will have peace that the world cannot offer you.

> There will be a time in your lifetime, you will need peace that can bring you through.

> Your human strength has no match to the greatest enemy of death.

> But Jesus can and He loves you and wants to give you the peace that can overcome all of these.

 

> Sự bình an Chúa Giê-xu ban cho giúp c/ta vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn ở trên đời này,

# Chính Chúa Giê-xu đã hứa gì trong Giăng 14:27 - "Peace I leave with you; My peace I give to you; not as the world gives do I give to you. Do not let your heart be troubled, nor let it be fearful.” “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi.”

 

> Bạn có muốn được sự bình an này không?

> Hãy đến với Chúa Giêsu ngay hôm nay - đừng chần chờ nữa…

> Hãy đến tiếp nhận Chúa Giê-xu vào lòng mình... để mọi tội lỗi của bạn được xóa sạch, đời sống tràn đầy hy-vọng, tâm hồn bình an… dù hoàn cảnh thế nào xảy ra đi nữa.

 


My Peace I Give You

(John 14:27)

 

“Peace I leave with you; my peace I give you. I do not give to you as the world gives.

Do not let your hearts be troubled and do not be afraid.”