Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 21

Gặp Gỡ Chúa Tại Bụi Gai Cháy

(Encounter with God at the Burning Bush)

(Xuất Hành 3:1-15)

 

Vả, Môi-se chăn bầy chiên cho Giê-trô, ông gia mình, là thầy tế lễ tại xứ Ma-đi-an; dẫn bầy chiên qua phía bên kia đồng vắng, đến núi của Đức Chúa Trời, là núi Hô-rếp. 2 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng người trong ngọn lửa, giữa bụi gai kia. Người nhìn thấy cả bụi gai đang cháy, nhưng không hề tàn. 3 Môi-se bèn nói rằng: Ta hãy tẻ bước lại đặng xem sự lạ lớn nầy, vì cớ sao bụi gai chẳng tàn chút nào. 4 Đức Giê-hô-va thấy người tẻ bước lại xem, Đức Chúa Trời bèn ở giữa bụi gai gọi rằng: Hỡi Môi-se, hỡi Môi-se! Người thưa rằng: Có tôi đây! 5 Đức Chúa Trời phán rằng: Chớ lại gần chốn nầy, Hãy cổi giầy ngươi ra, vì chỗ ngươi đang đứng là đất thánh. 6 Rồi Ngài lại nói: Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Môi-se liền che mặt, vì sợ nhìn đến Đức Chúa Trời. 7 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta đã thấy rõ ràng sự cực khổ của dân ta tại xứ Ê-díp-tô, và có nghe thấu tiếng kêu rêu vì cớ người đốc công của nó; phải, ta biết được nỗi đau đớn của nó. 8 Ta ngự xuống đặng cứu dân nầy khỏi tay người Ê-díp-tô, dẫn từ xứ ấy lên đến một xứ kia đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật, tức là nơi dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít ở. 9 Nầy, tiếng kêu rêu của dân Y-sơ-ra-ên thấu đến ta, và ta đã thấy dân Ê-díp-tô hà hiếp chúng nó thể nào; 10 vậy bây giờ, hãy lại đây, đặng ta sai ngươi đi đến Pha-ra-ôn, để dắt dân ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ê-díp-tô. 11 Môi-se bèn thưa rằng: Tôi là ai, dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô? 12 Đức Chúa Trời phán rằng: Ta sẽ ở cùng ngươi; nầy là điều làm dấu cho ngươi biết rằng ta đã sai ngươi đi: Khi ngươi dắt dân sự ra khỏi xứ Ê-díp-tô rồi, thì các ngươi sẽ phụng sự Đức Chúa Trời tại trên núi nầy. 13 Môi-se thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Y-sơ-ra-ên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? thì tôi nói với họ làm sao? 14 Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi. 15 Đức Chúa Trời lại phán cùng Môi-se rằng: Ngươi sẽ nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, sai ta đến cùng các ngươi. Ấy đó là danh đời đời của ta, ấy sẽ là kỷ niệm của ta trải qua các đời.”

(Now Moses was tending the flock of Jethro his father-in-law, the priest of Midian, and he led the flock to the far side of the wilderness and came to Horeb, the mountain of God. 2 There the angel of the Lord appeared to him in flames of fire from within a bush. Moses saw that though the bush was on fire it did not burn up. 3 So Moses thought, “I will go over and see this strange sight—why the bush does not burn up.” 4 When the Lord saw that he had gone over to look, God called to him from within the bush, “Moses! Moses!” And Moses said, “Here I am.” 5 “Do not come any closer,” God said. “Take off your sandals, for the place where you are standing is holy ground.” 6 Then he said, “I am the God of your father, the God of Abraham, the God of Isaac and the God of Jacob.” At this, Moses hid his face, because he was afraid to look at God. 7 The Lord said, “I have indeed seen the misery of my people in Egypt. I have heard them crying out because of their slave drivers, and I am concerned about their suffering. 8 So I have come down to rescue them from the hand of the Egyptians and to bring them up out of that land into a good and spacious land, a land flowing with milk and honey—the home of the Canaanites, Hittites, Amorites, Perizzites, Hivites and Jebusites. 9 And now the cry of the Israelites has reached me, and I have seen the way the Egyptians are oppressing them. 10 So now, go. I am sending you to Pharaoh to bring my people the Israelites out of Egypt.” 11 But Moses said to God, “Who am I that I should go to Pharaoh and bring the Israelites out of Egypt?” 12 And God said, “I will be with you. And this will be the sign to you that it is I who have sent you: When you have brought the people out of Egypt, you will worship God on this mountain.” 13 Moses said to God, “Suppose I go to the Israelites and say to them, ‘The God of your fathers has sent me to you,’ and they ask me, ‘What is his name?’ Then what shall I tell them?” 14 God said to Moses, “I am who I am. This is what you are to say to the Israelites: ‘I am has sent me to you.’” 15 God also said to Moses, “Say to the Israelites, ‘The Lord, the God of your fathers—the God of Abraham, the God of Isaac and the God of Jacob—has sent me to you.’ “This is my name forever, the name you shall call me from generation to generation.”)

 

 

> Have you met someone who is so inspired and changed your life? (Có bao giờ bạn gặp được ai mà người đó đã gây cảm hứng và thay đổi cuộc đời và lối sống của mình chưa?)

# May be a famous athelete? May be a great speaker? May be a godly teacher? A talented musician? (Có thể là một nhà lực sĩ thể thao nổi tiếng? một người có năng khiếu nói năng giỏi? một thầy cô đạo đức, một ca sĩ trứ danh, hay một vị anh hung nào đó?)

> What’s about an encounter with God – Do you want to meet Him? (Còn sự gặp gỡ với Chúa thì sao, bạn có muốn có cơ hội được gặp Ngài không?)

> Do you have a desire to experience God, and to know His will for your life? (Bạn có mong ước được kinh nghiệm gặp Chúa và biết được rõ ý của Ngài cho cuộc sống mình là gì không?)

> No one who is aware of God and met Him – his life would ever be the same. (Không một ai đã để ý và gặp gỡ được Chúa, mà cuộc đời của người đó vẫn còn y nguyên được.)

 

> The climax in a Christian journey is to know God and His will for his/her life here on earth. (Điểm cao nhất trong cuộc hành trình của một người cơ đốc phải là được gặp gỡ Chúa, thông hiểu Chúa, và biết được ý muốn của Ngài cho mình là gì ở trên trái đất này.)

# Jeremiah 29:11 reminds us God’s good will for all of us – “For I know the plans I have for you,” declares the Lord, “plans to prosper you and not to harm you, plans to give you hope and a future.” (Trong Giêrêmi 29 - CHÚA có phán về chương trình tốt lành của Ngài cho mỗi c/ta: "Vì chính Ta biết rõ chương trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an thịnh vượng cho các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy vọng.”)

> God has an universal plan and that is to save the world unto Himself. (Chúa có một chương trình phổ thông tốt lành đó là cứu mọi người trên thế gian này.)

> That’s why He sent His Son, Jesus into this world with a purpose “to seek and to save the lost.” (Vì vậy mà Chúa sai Con một của mình là Giê-xu, đến thế gian với mục đích “tìm và cứu mọi tội nhân.)

 

> His promise of a salvation plan for mankind was announced right after Adam and Eve sinned against God in the garden, recorded in Genesis 3:14-15“So the Lord God said to the serpent (satan), “Because you have done this, “Cursed are you above all livestock and all wild animals! You will crawl on your belly and you will eat dust all the days of your life. And I will put enmity between you and the woman, and between your offspring and hers; he will crush your head, and you will strike his heel.” (Lời hứa về chương trình cứu chuộc này cho nhân laọi được Chúa phán ra ngay sau khi Ađam và Êva phạm tội, có ghi chép trong Sáng Thế Ký 3 như sau: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng con rắn (satan) rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.”)

> Because satan in the form of a serpent tempted Eve, God cursed him and promised a Savior would come from the offspring of a woman – This Savior would defeat satan with a price to be striked at His heel on the cross, but He would rescue mankind out of the judgment and condemnation of sins. (Bởi vì satan trong hình của con rắn đã cám dỗ bà Êva, Đức Chúa Trời rủa sả nó và hứa sẽ ban cho một Đấng Cứu Chuộc, đến từ dòng dõi của một người nữ. Đấng đó sẽ bị nó cắn gót chân khi bị treo trên cây thập tự, những Ngài sẽ diệt cái nọc của sự chết của nó, mà cứu nhiều người ra khỏi sự phán xét của tội lỗi.)

 

 

I. God Does Not forget His promises

 

> Since that first promise, time travelled for almost 2,000 years until God made His rescue mission clear by making a covenant with Abram, because through his generations, a Savior would be born. (Từ lúc ban đầu đó, thời gian trôi qua gần 2,000 năm cho đến khi Chúa bày tỏ chương trình cứu chuộc đó bằng cách lập một giao ước với Ápram, vì qua dòng dõi của ông, Đấng Cứu Thế sẽ sanh ra đời.)

> Later, in the history we know that this nation is the Hebrew people - Jewish nation. (Sau này, trong lịch sử c/ta biết dòng dõi đó chính là người Hêbêrơ, dân tộc Do Thái.)

> Through the generations of Abraham’s descendants – Isaac, Jacob, and Joseph, then the Jewish people were carried into Egypt being under slavery for about 400 years. (Qua dòng dõi của Ápbraham đó là Ysác, Giacốp, Giôsép và rồi dân chọn riêng của Chúa đã bị đem làm phu tù trong xứ Ai Cập gần 400 năm.)

 

> 400 Years in slavery were a long time – Why did God take so long to rescue them? (Đây là một thời gian rất dài mà không hiểu tại sao Chúa đã không giải cứu họ sớm hơn?)

> Did God forget His promise? Did God go to sleep? Was God too busy to remember His people? (Có phải Chúa đã quên lời hứa của mình rồi sao? Có phải Ngài buồn ngủ trong thời gian dài này không, hay là Chúa quá bận rộn mà không còn nhớ đến chương trình cứu chuộc nhân loại nữa sao?)

# Last week Bible study in Psalm 121 describes one of God’s attributes: “I lift up my eyes to the mountains, where does my help come from? My help comes from the Lord, the Maker of heaven and earth. 3 He will not let your foot slip he who watches over you will not slumber; 4 indeed, he who watches over Israel will neither slumber nor sleep.” (Bài học Kinh Thánh tuần trước trong Thi Thiên 121 có chép về một trong những thần tánh của Đức Chúa Trời như sau: “Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va, Là Đấng đã dựng nên trời và đất. 3 Ngài không để cho chân ngươi trượt ngã; Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ.”)

> In v. 4 – One of impotant attributes of God as the Creator is “self-sufficient,” meaning that He does not need anything to exist and survive; Not like us – we need a lot of things to live: from food to eat, air to breath, and for sure sleep to rest our bodies. (Trong c. 4, cho thấy rõ Chúa là Đấng không cần một thứ gì để có thể tồn tại; không giống như mỗi người c/ta cần rất nhiều thứ, từ thức ăn để sống, không khí để thở, và cần ngủ thì thân thể mới có thể tiếp tục sống còn được.)

> But God does not sleep; So, He does not forget; But God will act in His own timing that is always the best for us. (Nhưng Đức Chúa Trời thì không có cần ngủ, Ngài không có quên lời đã hứa; và Chúa có thời điểm hành động riêng của Ngài, để ban cho c/ta luôn những điều tốt lành nhất.)

 

# Last week sermon in Psalm 37:7 we learned that David said – “Be still before the Lord and wait patiently for Him;” (Bài giảng tuần trước trong Thi Thiên 37, Đavít nhắc nhở c/ta cần làm gì để thấy được Chúa hành động? “Hãy yên tịnh trước mặt Đức Giê-hô-va, và chờ đợi Ngài.”)

# We as parents know what and when to give our kids things that they need so they can be safe and enjoy life to the best; You don’t give your car key to your 10-years old child and say “enjoy a good ride, do you?” (Một số c/ta là cha mẹ, c/ta biết rõ điều gì và lúc đó thì con cái c/ta cần những thứ gì nhất mà sẽ cho c/nó; quí vị có bao giờ đưa chiếc chìa khoá xe hơi của mình cho một đứa trẻ và nói: “Con lái xe vui nhé” không?)

> If we know that, then why we don’t understand that God knows what and when to give us the best things. (C/ta biết điều đó thì tại sao lại không hiểu Chúa biết rõ khi nào là lúc tốt nhất để cứu giúp c/ta chăng?)

> God is never late. Just be still and wait for Him. (Chúa không bao giờ chậm trễ cả như nhiều lúc c/ta tưởng đâu. Chỉ hãy yên lặng và chờ đợi Ngài hành động đúng lúc.)

> But sometimes we feel that God takes so long and we may lose hope. (Mặc dù vậy, đôi khi thấy thời gian Chúa kéo dài quá lâu mà làm cho c/ta mất sự hy vọng sao?)

> This may be the case of Moses as we read the scriptures ealier this morning in Exodus 3. (Đây có thể là tình trạng của Môise đang đối diện, trong những câu Kinh Thánh c/ta đọc hồi nãy.)

 

 

II. Moses

 

> Who was Moses? (Môi se là ai?)

> Moses was a Hebrew baby who was saved by the Egyptian princess during the time that his people were under the slavery for about 400 years. (Môise ngày xưa là một đứa bé người Hêberơ bị trôi sông, được công Chúa người Ai Cập đem về nuôi trong chính cung điện mình, trong khi đó dòng giống người Do Thái bị làm nô lệ từ đời Giôsép gần 400 năm.)

> You see that God did not forget His promise, but He set up for this little baby to be protected right inside the Egyptian king court. (C/ta thấy rõ Chúa không quên lời hứa, nhưng Ngài đã xếp đặt và gìn giữ cho bé Môise được vào sống ngay trong giữa cung điện của vua Ai cập Pharaôn.)

> Moses grew up in Egyptian palace for about 40 years and received the best education and learned all customs of this kingdom. (Môise lớn lên trong cung điện 40 năm và được thâu nhập tất cả nền văn hóa tốt nhất của người Ai Cập.)

> Then one day, while Moses went out to where his own people were done hard labor, he saw an Egyptian beating a Hebrew; So, being a hero, Moses got involved by killing the Egyptian and hid him in the sand. (Một ngày kia, Môise đi dạo thấy 1 người Êdíptô đánh 1 người Hêbêrơ, nổi máu anh hùng bèn nhẩy vào can thiệp và lỡ giết người Êdíptô, sau đó đem xác đi chôn dấu.)

> The next day, Moses went out and saw two Hebrew people were fighting, he tried to reconcile both of them; but they accused Moses of the yesterday crime; Moses was so afraid, he fled from Pharaoh and went to live in Midian wilderness. (Ngày hôm sau, Môise thấy 2 người Hêbêrơ đánh nhau thì lại nhẩy vào can, nhưng bị họ lên án và vạch tội đã giết người Ai cập ngày hôm qua; Vì quá sợ chết, Môise phải bỏ cung điện, trốn qua đồng vắng xứ Mađian.)

 

> God does not sleep or forget His promises. He is preparing each of our life when we don’t even know it. (Đức Chúa Trời không hề buồn ngủ mà quên lời hứa của mình sao? Ngài đang thức và chuẩn bị đời sống của mỗi người c/ta, kể cả lúc c/ta chưa biết.)

# I never dreamed to become a pastor of a church, neither my parents?

> But I looked back since the event of April 30, 1975, that God prepared my family for an opportunity to come to America.

> Through college, I still never thought to become a pastor, but I was just trying to gain a degree, have a good job, work, and enjoy a family?

> Then I had a chance to visit an American Baptist church, begun to investigate the Bible and came to believe and to love the Lord Jesus; but still never had a thought of becoming a pastor, just wanted to be a Christian, and that was enough.

> Until one night, I woke up about 2 am and seriously prayed to dedicate my life to God.

> About a year later, I pulled out a Baton Rouge map and saw Victoria Baptist church as a good location to begin a Bible study class for the Vietnamese who lived near Tracy, Vinh Phat areas and LSU.

> And now by the grace of God, I am a pastor of a Vietnamese church that God has been set up and prepared for my life for so many years before that I didn’t even know about.

> God is doing the same thing for each of you; if you are aware of it & willing to obey Him. (Chúa đang xếp đặt giống vậy trong đời sống của các bạn; nếu bạn để ý và sẵn lòng vâng phục Ngài.)

> Keep a good log of what’s going on in your life, and 5, 10, 20 years from now when you look back, you will nod your head and say – “Aleluiah! What amazing plan of God for my life!” (Bạn hãy giữ kỹ những lúc được gặp gỡ, được nghe tiếng Chúa gọi và cảm động lòng mình, được biến đổi, rồi 5, 10, 20 năm nữa, khi bạn nhìn lại thì thật sẽ thốt lên: “Ngợi khen Chúa đã xếp đặt một chương trình lạ lùng cho đời sống con và gia đình của con!”)

 

> In those 40 years in the dessert, Moses probably lost hope and felt: “My life is over, it’s done; I did try, but it didn’t work. Oh well! I just get married, hide myself in the wilderness of Midian, take care the sheep, live here until I die one day, and that is the final chapter of my life.” (Trong 40 năm ở nơi đồng vắng, Môise có lẽ đánh mất sự hy vọng và tự nghĩ: “cuộc đời của mình tàn rồi; đã một lần cố gắng nhưng thất bại. Thôi thì mình cưới vợ, trốn ở nơi này, chăn chiên sống qua ngày, rồi một ngày chết, cuộc đời là thế thôi!”)

> Until one day, while caring for the sheep, Moses saw a bush was on fire but it did not burn up. This drew attention for Moses to come near to it and encountered God. (Cho đến một ngày khi đang chăn chiên, Môise thấy một bụi gai cháy giữa đồng vắng, nhưng lại không tàn, lấy làm lạ, Môise tiến đến gần, để rồi được gặp gỡ Chúa.)

> It was clear that the Lord initiated and created an attraction to attract Moses to Himself. (Ở đây c/ta thấy rõ chính Đức Chúa Trời đã bắt đầu bằng sự kỳ lạ này làm dấu để thu hút Môise đến gần Ngài.)

> God seeked Moses – this is always His way; We do not discover God; He reveals Himself to us. God even knew and called Moses by his personal name. (Chính Chúa đã tìm kiếm và khải thị cho Môise; chứ trong c/ta không ai tự biết tìm kiếm Chúa hết. Chính Chúa biết rõ Môise và gọi chính tên ông.)

# Today we see that the cross is a greatest attraction God uses to pull many to Himself, because people understood that God in Jesus on the cross is the only way their sins can be erased forever. (Ngày nay c/ta thấy Đức Chúa Trời làm một dấu lạ đó là thập tự gía, nơi Con Ngài chịu chết để thu hút nhiều người đến với Chúa Giê-xu mà được cứu, vì họ nhận biết đó là con đường duy nhất tội lỗi của mình được xóa sạch.)

 

> Moses was just liked us. He was afraid to face the perfectly holy God. (Môise giống như c/ta, khi đối diện với Đấng Thánh Khiết vẹn toàn thì ông rất sợ hãi, che mặt lại.)

> And when Moses heard that God was sending him back to Pharaoh to bring His people the Israelites out of Egypt, Moses worried about his limited ability to do the job; He feared the enemy – king Pharaoh who sought his life but Moses didn’t know the old Pharaoh was already dead. (Và rồi khi Môise nghe Chúa phán và sai mình trở về xứ Aicập để giải cứu dân sự Chúa ra khỏi vòng nô lệ thì Môise rất bối rối, sợ hãi vì biết rằng họ còn đang truy nã mình vì tội sát nhân.)

> Moses felt lonely; He had no army with him; He had doubt, Moses feared of failure again? (Môise lo sợ vì thấy cô đơn có một mình, không có một đội quân nào hết thì sao dám trở lại Ai Cập; Môise sợ mình sẽ bị thất bại lần nữa, kỳ này dám mất mạng chăng?)   

# Are we many times felt the same way, when there is a calling of God for our life? (Môise phản ảnh đời sống của mỗi c/ta cũng vậy, mỗi khi nghe tiếng Chúa phán và sai mình làm điều gì?)

 

> But God taught Moses two principles of success to overcome this fear: (Nhưng Đức Chúa Trời dạy Môise 2 điều căn bản để ông có thể thành công và thắng sự sợ hãi:)

 

1) First, knowing well the God Who has called you, and (Hiểu biết rõ Đấng gọi mình là ai, và)

 

2) Secondly, having an assurance that God’s presence is always with you. (Có sự an tâm vì biết Chúa luôn hiện diện và ở cùng với mình trong mọi lúc là đủ rồi.)

 

 

III. Knowing God Through His Names

 

> Moses was being asked to go to Egypt to die; So, he would want to be sure to know the God and His name, Who spoke to him was worth of dying for? (Môise nghe Chúa sai mình trở về Aicập và biết mình sẽ bị giết chết, nhưng ông muốn biết rõ Đấng đã sai ông là ai, để coi sự hy sinh của mình có xứng đáng không?)

> There are at least two names that Moses learned about the Lord that are the names “God” and “I AM.” (Có tối thiểu hai tên của Chúa mà Môise học biết được trong cuộc gặp gỡ này: đó là danh “Đức Chúa Trời,” và “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu.”)

# In the Old Testament, to know someone’s personal name was to know something about his character and his nature. (Trong Cựu Ước, khi một người biết về tên riêng của một người khác là biết về đặc tánh của người đó nữa.)

> A personal name was revealed only to personal friends or to a family member. (Tên riêng chỉ bày tỏ qua cho những người bạn thân hay cho những người trong gia đình biết mà thôi.)

> God personally revealed Himself to Moses by His names. (Trong cuộc gặp gỡ này, chính Chúa đã bày tỏ riêng cho Môise biết tên của Mình.)

 

1) The personal God’s name in Hebrew scriptures does not have a vowel – “YHVH” or the closest English equivalent as “YHWH.” (Trong ngôn nghữ tiếng Hebrew, tên Chúa là “YHVH,” không có nguyên âm; Khi phiên âm ra, người Mỹ thường dùng chữ W thay cho chữ V, từ đó có tên “YHWH.”)

> For that reason, the exact pronunciation of God’s name - “YHWH” is uncertain. (Vì vậy mà tiếng phát âm của tên Chúa không ai rõ là phải như thế nào.)

> Later, the vast majority of Hebrew and Christian scholars believe the name to be pronounced “Yahweh.” (Phần đông những người khảo cứu Kinh Thánh tiếng Hêbêrơ đều đồng ý tên của Chúa được phiên âm là “Yêh-vah.”)

> Beyond “YHWH,” God chose to reveal Himself throughout both the Old and New Testaments using many other generic names and titles, such as “God, Lord, Adonai, El, Elohim; and Theos and Kurios (Greek).” (Ngoài ra trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, những tên hay danh xưng thông thường khác của Chúa cũng được xử dụng.)

 

2) The second God’s name that Moses came to know is “I AM,” when Moses asked God His name. (Tên thứ hai Chúa bày tỏ cho Môise biết mà tiếng Việt dịch ra là “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu,” khi Môise hỏi tên Ngài là gì.)

> The name “Yahweh or God” in v. 15 seems to be linked to God’s name of “I AM WHO I AM” in v. 14 that God told Moses that “this is my name forever, the name you shall call me from generation to generation.” (Tên “Yêh-vah” của Chúa trong c. 15 có liên hệ đến tên “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu,” trong c. 14, mà đó là danh đời đời của Ngài trải qua các đời.)

> Our Vietnamese language translates the name “I AM” as “self-existed and eternal God,” even so it cannot express fully all of Who God is, as the great Creator, all-powerful, all-knowing, all-present, Almighty God, the Beginning and the End...” (Tiếng Việt dịch tên “Ta là Ta” của Chúa ra là “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu,” thì cũng không thể diễn tả được hết Chúa là ai, làm giới hạn đi ý nghĩa của Chúa còn “là Đấng Tạo Hóa Chí Cao Chí Thánh, là Đấng đầu tiên và cuối cùng, là Đấng toàn tri, Đấng toàn tại, toàn năng, là Alpha và Omega …v…v)

> The nature of an infinite God can never be contained in finite human words. (Thần tánh vô hạn của Chúa thì không thể nào được diễn tả trọn vẹn trong ngôn nghữ giới hạn của loài người được.)

> You see that Moses was asking not to just know God’s names; but for an understanding of His nature. (Môise trong cuộc đối thoại này, không chỉ biết tên Chúa mà thôi, nhưng còn hiểu thần tánh của Ngài là gì, mà phân biệt Đấng Tạo Hóa và mọi loài tạo vật.)

 

> This is the first lesson - The more you know God, the clearer His will for your life is, and the greater success you will fulfill His calling. (Đây là bài học tâm linh thứ nhất – c/ta càng thông biết Chúa thì c/ta càng rõ ý của Ngài cho mình là gì, và càng thành công hơn để làm trọn điều Ngài sai c/ta làm.)

> That’s why a Christian cannot skip studying Bible and praying every day to know God and experience Him thoughout the day. (Vì lý do đó mà đời sống của một người cơ đốc không thể nào thiếu sự học lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày, để nhận biết Chúa và kinh nghiệm Ngài đang hành động trong cuộc sống.)

> If we come to church without a quest to know God, a desire to encounter God in discovering His characters and nature, then church going will surely be boring. (Nếu c/ta đi nhà thờ mà không có một lòng ước mong tìm kiếm để thông biết Chúa, để khám phá ra những đặc tánh của Ngài thì sự đi nhà thờ của c/ta chắc sẽ trở nên chán chường mà thôi.)

 

 

IV. God Promised His Presence with Moses  

 

> God did not forget His promises, but the scriptures said He saw, He heard, He knew… and now He would act to rescue His people out of slavery and bring them to the promised land, Canaan as He had promised to their ancestors more than 500 years ago. (Đức Chúa Trời không có quên lời Ngài hứa, nhưng Chúa thấy, Chúa nghe, Chúa biết nỗi khổ của dân sự mình ở xứ Aicập, và bây giờ Ngài ra tay giải cứu họ và dẫn dắt họ đến đất hứa Canan mà Chúa đã hứa với tổ phụ của họ hơn 500 trước đó.)

 

> So God commanded Moses to go back to Egypt and demanded the new Pharaoh to grant freedom for His people to journey to a land and serve their God. (Cho nên Chúa sai Môise trở lại Aicập và đòi vị vua Pharaôn mới phải trả tự do cho dân sự Ngài, đi đến một chỗ đặng họ thờ lạy và phụng sự Chúa.)

> This was a very difficult task for Moses for many reasons: (Đây là một đại sự không thể làm được.)

 

1) First, Moses was a “wanted man,” the Egyptians were looking to kill him; Moses’ coming back may just be a sure execution. (Thứ nhất, Môise đang bị người Êdíptô truy nã; việc trở về lại Ai cập này chỉ nộp mình vào sự chết mà thôi);

 

2) Secondly, Moses had no army, no weapon, no horse chariot with him; in fact, he was just alone with few sheep? (Thứ hai, Môise có một mình, không lính, không vũ khí; nhưng chỉ có vài con chiên với mình thôi?)

> For that reasons, in v. 11 Moses said to God, “Who am I that I should go to Pharaoh and bring the Israelites out of Egypt?” “Am I a superman?” (Vì vậy mà Môise thốt lên cùng Chúa – “Tôi là ai, mà dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô?”)

 

> And in v. 12 God just responsed and promised to give Moses one thing - I will be with you.” (Nhưng trong c. 12, Chúa đáp lời và chỉ hứa ban cho Môise một điều thôi đó là “Ta sẽ ở cùng ngươi.”)

> God didn’t say I will give an army of heavenly angels to fight for you, but Himself – the “I AM;” and that is more than enough. (Chúa không có hứa ban cho Môise một đội binh các thiên sứ trên trời đến tiếp trợ ông, nhưng chỉ chính Ngài là “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu,” thì điều đó là quá đủ rồi, mà không cần chi nữa.)

> God was just asking Moses for his commitment to obey and be sent by Him. (Chúa chỉ đòi hỏi ở nơi Môise một tấm lòng cam kết và sẵn sàng vâng phục mà thôi.)

 

> This is the second lesson – when we recognize that we cannot do it, and we need God’s help; that is when God can begin to use us. (Bài học thứ hai – Khi c/ta nhận thức sự yếu đuối của mình mà biết nhờ cậy Chúa, thì từ lúc đó Chúa mới bắt đầu có thể xử dụng c/ta.)

> God allowed Moses to live in the wilderness for 40 long years to humble him; So, Moses could see his weakness and learn to lean on God alone for strength. (Chúa cho phép Môise đi vào đồng vắng 40 năm để dạy ông biết hạ mình, thấy được năng sức bất toàn của mình mà biết nhờ cậy Chúa trong mọi sự.)

# There are many people too wise that God cannot use them yet, until they are willing to let go their wisdom and trust God. (Có nhiều người Chúa chưa có thể xử dụng được, cho đến khi nào họ bằng lòng buông ra sự khôn ngoan hiểu biết của mình, mà tin cậy Ngài hết lòng.)

> Who are you now? Still trust in your wisdom, your ability or trusting in God? (Bạn đang là nhóm người nào? Vẫn còn cậy vào sự khôn ngoan, năng khiếu, sự hiểu biết đạo của mình hay nơi Chúa?)

 

 

V. God Calls You

 

> Why are we here this morning? (Tại sao bạn đến đây làm chi?)

> This morning before you come to worship, do you expect that God will speak to you directly? (Trước khi bước vào nhóm, bạn có mong được Chúa phán riêng cùng mình điều chi không?)

> Do you have a desire to be encountered with Him in His words and in prayer? (Bạn có đang hết lòng muốn được gặp gỡ Chúa không, trong lời của Ngài và trong sự cầu nguyện?)

> Do you want to know God’s will for your life? (Bạn có thật muốn biết ý Chúa cho đời sống của mình là gì không?)

> Do you really want to experience God’s presence and power in your daily life? (Bạn có thật muốn kinh nghiệm Chúa hành động, thấy được quyền năng của Ngài trong đời sống của mình không?)

> Do you want to know God the “I AM” in a personal way? (Bạn có thật muốn biết Chúa là Đấng quyền năng cách riêng tư không?)

 

> How long have you been hidden in the wilderness of your routine church going? (Bạn đang ở trong đồng vắng bao lâu rồi, qua sự đi nhà thờ mỗi tuần như “có lệ” mà thôi?)

> Are you losing your hope as a Christian? (Bạn có đang thất vọng không?)

> Do you want to meet God at the “burning bush” this morning? (Bạn có muốn được gặp gỡ Chúa ở bụi gai cháy không tàn không?)

> Are you willing to obey, to let go the things of this world and to follow Jesus, His Son? (Bạn có sẽ bằng lòng vâng phục, từ bỏ một số những điều thuộc thế gian này mà theo Chúa Giê-xu không?)

> Open your heart to God’s presence and seeking His will for your life. (Hãy mở lòng mình trước sự hiện diện của Chúa sáng nay và cầu xin Chúa cho mình biết ý muốn của Ngài cho đời sống mình.)

 

> Maybe you know what God wants you to do, but liked Moses, you ask – “Can I do the job?” (Có thể bạn biết ý Chúa cho đời sống của mình, nhưng giống như Môise, bạn tự hỏi: “Làm sao tôi làm trọn ý Chúa được?”)

> Yes, you can. (Bạn có thể làm được qua bài học hôm nay.)

> There are only two things that you need: Knowing God personally in Christ Jesus, and having the assurance of His presence through the Holy Spirit lives inside of you as He promised to give. (Bạn chỉ cần 2 điều mà thôi: thông biết Chúa càng hơn, và có sự an tâm rằng Chúa luôn ở cùng bạn.)

 

> You never know that today may be the day your Christian life will be changed like never before, because you have encountered with the God of “I AM,” in Christ Jesus. (Đâu biết được, có thể ngày hôm nay chính là ngày bạn được gặp gỡ “Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu” trong Cứu Chúa Giê-xu, và cuộc đời của bạn được biến đổi lạ lùng như chưa bao giờ hết.)

 

> Just come and response to God saying “Lord! Here I am.” (Chỉ hãy đến với Chúa giờ phút này và nói: “Lạy Chúa! Có con đây!”)

 

 

---------------------------- Invitation

 

> Does your Christian life have any meaning?

> Does your church going become boring?

> Are you losing the hope of Jesus’ promise to return as what He promised in the Bible?

 

> We are just like Moses, losing hope because of the failures in life.

> He did try using his own strength. But Moses failed.

> But God still seeked him because his life was not over yet.

> God revealed His will to Moses to go back and rescue His people.

> God promised to Moses His presence.

> And there, at the burning bush, the climax of Moses’ life begun liked never before.

> Moses led God’s people over 2 millions through the deserts for 40 years before entering the promised land.

> His journey, Moses came to know God liked never before and experienced His presence and power.

 

> Do you want that experience? Do you want to find a true meaning of this life?

> Meet God at the “burning bush” and hear His calling for you.

> Know Him through His Son Jesus Who died on the cross for your sins.

> Knowing that Jesus once promised to His disciples (and to us) at the mountain after he resurrected, appeared to them, and about to be ascended to heaven - “… And surely I am with you always, to the very end of the age.” (Nhớ điều Chúa đã một lần hứa với các môn đồ của mình và nay với c/ta – “Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.”)

> And with Jesus, the God of “I AM,” you can do anything as the Bible promised in Philippians 4:13“I can do all this through Him (Jesus) who gives me strength.” (“Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.”)

 

> Are you willing to let God to bother you today, to meet with you today?

> Bring all your life messes to Jesus.

> Is there anything preventing you to come to Jesus.

> Is there any sin that carries you into slavery so long, that you need to be delivered?

> Just say to Jesus: “Lord Jesus! Here I am coming to You. Please deliver me from all these troubles. I want to know You, I want to experience Your power. Please guide me to be faithful in following You.”

 

 

Encounter with God at the Burning Bush

(Exodus 3:1-14)

 

·        Have you met someone who is so ________ and changed your life?

·        What’s about an encounter with _____ – Do you have a desire to meet Him?

·        The climax in a Christian journey is to know God & His _____ for your life.

·        God’s universal will is to save the ______ from sin’s judgment.

·        He sent His ____, Jesus into this world “to seek and to save the lost.”

·        His salvation ________ was announced after Adam & Eve sinned against God.

·        Almost 2,000 years later until God made His rescue mission clear by making a covenant with Abram, because through his generations, a ______ would be born.

·        In the history, this nation is the ________ people - Israelite nation.

·        Through the Abraham’s descendants – Isaac, Jacob, & Joseph, the Jewish people were carried into Egypt being under slavery for about _____ years.

·        Did God forget His promise? Did God go to sleep?

·        God does not ______; He does not forget; But God will act in His own timing.

·        But sometimes we feel that God takes so long and we may lose _____.

·        This may be the case of ______ as we read in Exodus 3.

 

·        Who was Moses?

·        Moses was a Hebrew baby who was saved by the Egyptian ________ during the time that his people were under the slavery.

·        God did not forget; but He set up for this little baby to be _________.

·        Because Moses killed an Egyptian, he was _______ & fled to live in Midian.

·        In those ___ years in the dessert, Moses lost hope & felt: “My life is done!”

·        Until one day, Moses saw a _____ was on fire but it did not burn up.

·        This drew attention for Moses to come near to it and ____________ with God.

·        Moses was just liked us, he was afraid to face the perfectly ____ God.

·        And when Moses heard that God was sending him back to Pharaoh to bring His people out of Egypt, Moses worried about his limited ________ to do the job.

·        But God taught Moses ____ principles of success to overcome this fear:

·        First, ________ well the God Who has called you, and

·        Secondly, having an assurance that God’s __________ is always with you.

 

·        There are at least 2 names that Moses learned about the Lord: “God” & “_____.”

·        The personal God’s name in Hebrew does not have a vowel – “YHVH” or the closest English equivalent as “______.”

·        The majority of Hebrew scholars believe the name to be pronounced “_______.”

·        God also chose to reveal Himself using many other generic names and titles, such as “God, _____, Adonai, El, Elohim; and Theos and Kurios (Greek).”

·        The second God’s name that Moses came to know is “______.”

·        Our Vietnamese language translates it as “self-existed and ______ God.”

·        Even so it cannot express fully all of Who God is, as the great _______, all-powerful, all-knowing, all-present, Almighty God, the Beginning and the End…

·        Moses was asking not to just know God; but for an understanding of His ______.

·        First lesson: The more you know God, the clearer His will for your life is, and the greater ________ you will fulfill His calling.

·        God did not forget His promises, but He saw, heard, knew… and now He would act to rescue His people out of slavery & bring them to the _________ land.

·        God commanded Moses to go back to Egypt and demanded the new Pharaoh to grant _________ for His people.

·        This was a very difficult task because Moses was ____, and had no army.

·        God just responded & promised to give Moses one thing - “___ will be with you.”

·        God basically said to Moses – You have “I AM” & that is _____ than enough for you to do your job.

·        Second lesson – when we recognize our weakness, and need God’s help; that is when God can ______ to use us.

 

·        Before you come to worship, do you expect that God will speak to ____ directly?

·        Do you have a desire to be encountered with Him in His ______ and in prayer?

·        Do you want to know God’s _____ for your life?

·        Do you really want to experience God’s presence and ______ in your daily life?

·        How long have you been ______ in the wilderness of your routine church going?

·        Are you losing your _____ of a Christian?

·        Do you want to meet God at the “_____________” this morning?

·        Are you willing to let go the things of this world & to believe in _____, His Son?

·        Open your _______ to God’s presence and seeking His will for your life.

·        Maybe you already know God’s will, but you ask – “Can I ____ the job?”

·        ____, you can.

·        There are only 2 things you need: Knowing God personally in ______ Jesus, and having the assurance of His presence through the Holy _____ lives inside of you.

·         _____ may be the day your Christian life will be changed like never before, because you have encountered with the God of “I AM,” in Christ Jesus.

·        Just come and response to God by saying “Lord! Here I ____.”