Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 39

Bắt Chước Chúa Giê-xu

Imitating Jesus Christ

1 Giăng 2:6

 

“Người nào nói mình ở trong Ngài (Chúa Giê-xu) cũng phải sống như chính Ngài đã sống.”

(Whoever claims to live in Him (Jesus) must live as Jesus did.)

 

 

I. Imitating

 

> We all know that there are two basic groups of Christians in church: the new believers and the matured disciples. (Ai trong c/ta cũng biết có 2 nhóm người cơ đốc chính trong hội thánh Chúa: Nhóm của những người tín hữu, nghĩa là chỉ mới tin nhận Chúa thôi; và nhóm những môn đồ của Chúa Giê-xu.)

> In these two groups – which group looks more like Christ? How do we know? (Trong 2 nhóm này, thì nhóm nào giống Chúa Giê-xu hơn? Làm sao c/ta phân biệt được?)

> Each of us should not satisfy with just being a believer, but strive to live as a disciple of Jesus… that means “being just liked Him.” (Mỗi người c/ta không nên sống tự thỏa mãn mình là người tin Chúa là đủ rồi, nhưng muốn sống một cuộc đời làm một môn đồ của Chúa Giê-xu, nghĩa là sống giống như Ngài vậy.)

> How can we be liked Jesus Christ? By imitating of what Jesus did… (Làm sao giống Chúa được đây? C/ta giống Chúa Giê-xu bằng cách c/ta bắt chước Ngài.)

 

> Don’t you know that our life is always imitating something or someone… from the hair style we care for, the brandname clothes that we wear, to the kind of cars that we drive. (Bạn có biết là đời sống hằng ngày của mỗi người c/ta đều đang bắt chước nếp sống của một người nào đó không - từ kiểu tóc c/ta cắt, loại quần áo c/ta mặc, cho đến laọi xe hơi nào c/ta lái, phải không?)

> Imitating or copying is a natutal human urge… that can be good or bad… depending on who and why you are doing it. (Bắt chước là một đặc tánh thúc đẩy tự nhiên của loài người; tánh này có thể tốt hay xấu… tùy theo bạn đang bắt chước ai với mục đích để làm gì?)

# A young boy grew his hair long and didn’t keep it clean and orderly; so, his dad told him to go cut it. He reasoned with his dad – “Dad - didn’t Jesus have long hair liked in some of the pictures? I just want to imitate Him.” HWellis dad could not response back, when it came to “being liked Jesus.”

> Few hours later, the boy came home from school and asked his father if he could borrow the car to go to movies with his friends.

> So his dad said: “Well, son – when Jesus was here on earth; he didn’t drive a car; he walked around every where; so, be like Jesus – walk to the movies.”

 

> How a person life will be – depending on what and who that person is imitating everyday. (Cuộc sống của một người sẽ ra như thế nào… tùy theo người đó đang bắt chước ai.)

> How our Christian life will be – depending on what we are imitating Christ everyday. (Cuộc sống của những người cơ đốc sẽ ra như thế nào… tùy vào c/ta đang học biết và bắt chước gì ở Chúa Giê-xu c/ta.)

 

> In fact, that is the meaning of the word “disciple,” that is someone who believes in Jesus Christ, follow Him, learn from Him, and copy His lifestyle. (Thật ra đó chính là ý nghĩa của chữ “môn đồ,” là người đã tin theo Chúa Giê-xu, học ở nơi Ngài và sống bắt chước giống như vậy.)

> Don’t you know that God’s will from the beginning was that we are to be liked His Son? (Quí vị có biết là ý muốn của Chúa từ lúc ban đầu… là mỗi c/ta được trở nên giống như Con Ngài không?)

# Romans 8:29“For those God foreknew He also predestined to be conformed to the image of His Son...” (Rôma 8 – “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài,”)

> Because “the Son is the radiance of God’s glory and the exact representation of His being, sustaining all things by His powerful word,” as said in Hebrews 1:3. (Lý do là vì – “Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài…)

> The reason Jesus, God’s Son… came to this earth… so that human can see that God is real, know God, and believe in Him. (Lý do Con Trời đã giáng thế làm người, để c/ta thấy “ông Trời vô hình” có thật, biết Ngài và tin cậy nơi Chúa.)

# In 1 John 2:6 The apostle John said – “Whoever claims to live in Him (God in Jesus) must live as Jesus did.” (Trong 1 Giăng 2, sứ đồ Giăng dạy – “ai nói mình ở trong Ngài (Chúa Giê-xu) cũng phải sống như chính Ngài đã sống.” - nghĩa là “ai nói mình tin và có Chúa sống trong lòng mình… thì phải sống một cuộc đời giống như Con Ngài đã sống.)

> A clear proof of our faith in God… is to live a life as Jesus did. (Dấu chứng rõ rệt c/ta tin Chúa thật và có Ngài… là c/ta sống giống như Con Ngài… là Cứu Chúa Giê-xu.)

 

> How do we do that? (Làm sao đây?)

# By following the footsteps of Jesus, by imitating Christ. (Bởi cách c/ta đi theo những bước chân của Chúa Giê-xu… và cứ bắt chước Ngài.)

> Why did Jesus come to this earth for 33 years, not 3 seconds? So, He could set an example and pattern of life for us to imitate. (Tại sao Chúa Giê-xu đã đến thế gian, sống trên đất này 33 năm? Để làm gương cho c/ta biết bắt chước sống giống như vậy.)

# So, we should study the Bible, especially the Gospels about Jesus’ life, understand His teachings, learn what Jesus did and said, and imitate his lifestyle. (C/ta phải học lời Chúa Giê-xu, nhất là 4 sách Tin Lành, phải hiểu lời Ngài dạy dỗ, tìm xem Chúa nói gì & làm gì, và bắt chước sống giống như vậy.)

# I really like the new Vietnamese Bible… that has Jesus’ words printed in “red” color, especially in the four Gospels; so, the readers can easily recognize, because His words are important for us.

> Of course, the entire Bible was inspired/breathed by the Holy Spirit, but not all scritpures are equally important; to me Jesus’ words should be the most important words for our life.

 

 

II. Jesus Life

 

> So, what life examples that you have learned from Jesus to imitate Him? (Như vậy, bạn đã học biết gì về đời sống của Chúa Giê-xu để bắt chước Ngài đây?)

> At least three things I have learned from the Lord Jesus: (Tối thiểu 3 điều bạn có thể học biết và bắt chước Chúa.)

 

1) His humility that no one can match. (Sự khiêm tốn, khiêm nhường, khiêm nhu của Chúa Giê-xu mà không ai có thể so sánh bằng.)

> His humility by willing to leave His majestic glory in heaven, to come down to earth, and to be identified with a world of sinners. (Bởi sự khiêm tốn mà Chúa đã bằng lòng tạm lìa sự vinh hiển của mình trên thiên đàng, xuống thế gian, mặc lấy da thịt loài người, để đồng hóa với c/ta là những kẻ tội nhân.)

# In December 2009 – The British royal Prince William spent a night on London street with the homeless, and it became a hot story on the Internet. (Hoàng tử Willima của nước Anh ra ngoài ngủ một đêm với những người homeless.)

> This is what he said – "I cannot, after one night, even begin to imagine what it must be like to sleep rough on London's streets night after night (Đêm này qua đêm nọ); There was no shielding from the bitter cold (lạnh buốt), or the hard concrete floor (nều ximăng cứng), or the fear of being confronted/bothered (quấy rầy) by drug dealers, pimps (những cô gái điếm)…”

> But Jesus, the perfect and holy God spent 33 years with sinners… and later died for us.

 

# Philippians 2 describes Jesus’ humility – “In your relationships with one another, have the same mindset as Christ Jesus: 6 Who, being in very nature God, did not consider equality with God something to be used to his own advantage; 7 rather, he made himself nothing by taking the very nature of a servant, being made in human likeness. 8 And being found in appearance as a man, He humbled himself by becoming obedient to death—even death on a cross!” (Trong Philíp 2 chép – “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7 chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8 Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.”)

> Jesus has full glory as of the Father and the Holy Spirit; it’s a very part of Him, but He was willing to put aside… in order to put on the nature of mankind, entering into this sinful world. (Chúa Giê-xu có đầy sự vinh hiển như Đức Chúa Cha và Thánh Linh, đó là thần tánh của Ngài là Chúa, nhưng đã bằng lòng để qua một bên, mang lấy thân xác loài người, bước vào trần gian tội lỗi này.)

 

> Without Jesus’ humility, we would not have a way of salvation, no hope for the eternal life; because He is the only way to God. (Nếu Chúa không chịu hạ mình, lìa sự vinh hiển trên thiên đàng xuống thế gian, c/ta sẽ không có con đường cứu rỗi nào hết, không có sự hy vọng của sự sống lại và sự sống đời đời; bởi vì chỉ có một con đường cứu chuộc đã định ở nơi Con Đức Chúa Trời mà thôi.)

> Noone on this earth has the humility to be compared with Jesus, simply because none of us has a divine nature and glory as His. (Không có một ai có sự khiêm tốn bằng Chúa Giê-xu, bởi vì trong vòng con người c/ta không ai có thần tánh, vinh hiển sự cao quí từ trên cao như Ngài.)

# Budda left his royal family to come near to the poor, but his humility did not match with Jesus; because Budda was not God; he was not the great Creator; Budda was just a sinner among us.

> It is not just the act of humility, but who is the person that was humbled Himself to come near us. (Không phải sự khiêm tốn là điều đáng nói mà thôi, nhưng điều phải đáng nói - người đó là ai mà đã tự hạ mình… đến gần với loài người c/ta.)

 

2) His perfect obedience that no one can compare. (Sự vâng lời tuyệt đối của Chúa Giê-xu mà không ai so sánh bằng.)

> Jesus life focus was always to do His father’s will. (Cuộc đời của Chúa khi còn ở trên đất này đều để chú tâm đến ý muốn của Chúa Cha sai Ngài.)

> Everything Jesus did and said was to fulfill His Father will. (Mọi việc Chúa Giê-xu nói và làm đều để làm trọn ý muốn của Chúa Cha trên trời.)

# In John 4 – The conversation with a Samaritan woman at the well, after His disciples went into the city to find food. When they came back – what did they urge Jesus to do? “Meanwhile his disciples urged him, “Rabbi, eat something.” 32 But he said to them, “I have food to eat that you know nothing about.” 33 Then his disciples said to each other, “Could someone have brought him food?” 34 “My food,” said Jesus, “is to do the will of him who sent me and to finish his work.” (Trong Giăng 4 có lần Chúa nói chuyện với một người đàn bà Samari tại giếng nước, khi các môn đồ của Ngài vào thành kiếm thức ăn, khi trở lại họ đã thúc Chúa làm gì? “Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn. 32 Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết. 33 Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng? 34 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.”)

 

> What was the Father will for Jesus? (Ý muốn của Chúa Cha sai Ngài đến thế gian này để làm gì?) In one word only – the “cross.” (3 Chữ trong tiếng Việt thôi – “thập tư gía.”)

# Why? Because in John 6:40 said – God’s will “is that everyone who looks to the Son (Who died on the cross for their sins) and believes in Him shall have eternal life…” (Tại sao? Vì sứ đồ Giăng tóm tắt điều này – “Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con (là Đấng đã chết trên cây thập tự gía), thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt.”)

 

> Jesus obedience was perfect, even at a time when all of His disciples deserted Him in the garden of Gethsemane; but couple hours before that they committed to die for Him. (Chúa vâng lời tuyệt đối cho dù tất cả các môn đồ đã chối bỏ Ngài trong đêm Chúa bị nộp và sau đó chịu chết.)

> Jesus obedience was perfect, because in His mouth… there is power to destroy the whole sinful world at an instant; but He chose to die and finish His Father will. (Chúa vâng lời tuyệt đối cho dù bởi một lời Ngài phán lúc đó… có quyền năng để thiêu hủy cả dòng giống con người; nhưng Ngài chọn làm theo ý Cha.)

> Jesus obedience was perfect on the cross – when He said, It is finished,” bowed His head and gave up His spirit.” (Chúa Giê-xu vâng lời tuyệt đối trên cây thập tự, cho đến hơi thở cuối cùng và nói: “mọi việc đã trọn.”)

> If Jesus came down the cross, not perfectly obedient; we would not have a way to go back to God, but eternally perish. (Nếu Chúa Giê-xu đã xuống khỏi thập tự, không làm trọn sự vâng lời, c/ta ngày nay không có con đường cứu rỗi nào hết, và vẫn còn sống trong tuyệt vọng.)

 

3) His priority that no one can disturb. (Sự ưu tiên trong cuộc sống của Chúa… mà không ai phá rầy được.)

> Our life is saturated with many distractions… from all kinds of noises: music, TV, news, media, text messages, facebook chats… (Đời sống của c/ta đầy dẫy nhiều thứ làm c/ta hay bị lo ra… từ nhạc lý, tin tức, TV shows, texting cho đến… công ăn việc làm hằng ngày.)

> These can cause us to mix up our life priorities of not pursuing the most important things. (Những thứ này dễ làm cho c/ta bị lẫn lộn… đâu là ưu tiên của đời sống.)

> But not with Jesus, who did not let anyone to deter from His daily priority… and that is His relationship with His heavenly Father. (Nhưng Chúa Giê-xu thì không bao giờ bị lo ra, vì Ngài biết rõ mục đích ưu tiên của đời sống… là mối tương giao gần gũi với Chúa Cha luôn.)

# The Bible said how Jesus dealed with the distraction of the crowd who disturbed His priority - “But Jesus Himself would often slip away to the wilderness and pray… often withdrew to lonely places and prayed.” (Kinh Thánh chép, Chúa đối phó với đám đông như thế nào, để giữ điều ưu tiên của mình – “Song Ngài (Chúa Giê-xu) lánh đi nơi đồng vắng mà cầu nguyện.)

 

> Jesus set a great example of life priority… that is the relationship with God, the Father through praying often. (Đời sống của Chúa Giê-xu là một tấm gương của sự ưu tiên – đó là mối liên hệ với Chúa Cha… qua sự cầu nguyện luôn.)

> The Bible recorded Jesus prayered all the times. (Kinh Thánh chép Chúa thường cầu nguyện luôn trong mọi lúc.)

# In Mark 1:35 - “And rising very early in the morning, while it was still dark, He (Jesus) departed and went out to a desolate place, and there he prayed.” (Trong Mác 1:35 - “Sáng hôm sau trời còn mờ mờ, Ngài (Chúa Giê-xu) chờ dậy, bước ra, đi vào nơi vắng vẻ, và cầu nguyện tại đó.”)

# In Matthew 14:23“After he had dismissed them, he went up on a mountainside by himself to pray. Later that night, he was there alone,” (Xong rồi, Ngài lên núi để cầu nguyện riêng; đến chiều tối, Ngài ở đó một mình.)

# In Luke 6:12“One of those days Jesus went out to a mountainside to pray, and spent the night praying to God.” (Trong lúc đó, Đức Chúa Jêsus đi lên núi để cầu nguyện; và thức thâu đêm cầu nguyện Đức Chúa Trời.)

> Don’t you know that Jesus’ ministry started with prayer - when He was baptized by John the Baptist in Luke 3:21“When all the people were being baptized, Jesus was baptized too. And as he was praying, heaven was opened.”… and ended with prayer - on the cross, calling out to His Father “Eli, Eli, lema sabachthani?” (which means “My God, my God, why have you forsaken me?”) in Matthew 27:46. (Công cuộc cứu rỗi nhân loại của Chúa bắt đầu bằng sự cầu nguyện ngay từ khi Chúa nhận lễ Báptêm bởi Giăng – “Vả, khi hết thảy dân chúng đều chịu phép báp-tem, Đức Chúa Jêsus cũng chịu phép báp-tem. Ngài đang cầu nguyện thì trời mở ra,”kết thúc bằng sự cầu nguyện trên cây thập tự - “Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li lam-ma sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! sao Ngài lìa bỏ tôi?”)

 

> Have you wondered if Jesus is God, then why did He have to pray liked that? (Bạn có bao giờ thắc mắc tại sao Chúa Giê-xu là Chúa rồi… mà Ngài phải cầu nguyện như vậy?)

> One of our basic doctrines is that we all believe in Trinity - One God in three different but equal persons: The Father, the Son, and the Holy Spirit. (Một trong những giáo lý căn bản của niềm tin Cơ Đốc của c/ta đó là c/ta tin chỉ có một Chúa duy nhất, nhưng ba Ngôi khác nhau; Chúa Cha, Chúa Giê-xu và Thánh Linh.)

> All three Persons of God are “spirits,” except the Son has also the human nature… just liked any of us. (Cả 3 ngôi đều là “Thần (vô hình),” ngoại trừ ngôi Hai là Chúa Giê-xu có bản tánh của “con người” nữa, giống như mỗi c/ta.)

> The only difference of His human nature from us is that Jesus never sins. (Bản tánh con người của Chúa chỉ khác với c/ta tối thiểu một điểm… đó là Chúa không bao giờ phạm tội.)

> Jesus divine and human natures would never change, because God does not change. (Thần tánh và nhân tánh của Chúa Giê-xu không hề thay đổi, vì Đức Chúa Trời không thay đổi.)

> So with His human nature, Jesus needs a constant relationship with His Father through prayer; and teaches us an example… that we also need to pray always as a top priority in our life…  to maintain a relationship with God. (Với bản tánh con người, Chúa Giêsu luôn cần có mối liên hệ với Cha Ngài qua sự cầu nguyện – và đây cũng là một tấm gương dạy dỗ cho chính mỗi người c/ta cũng phải đặt sự cầu nguyện làm ưu tiên trong cuộc sống mình, để có mối liên hệ với Chúa.)

> Praying should be like our “heart beats,” they cannot stop; for that reason, Paul taught in 1 Thessalonians 5:17 that we must learn to “pray without ceasing;” (Cầu nguyện giống như là nhịp tim đập của thân thể c/ta, mà không thể ngừng được; vì vậy mà Phaolô dạy trong trong 1 Têsalônica 5:17 – “cầu nguyện không thôi.”)

> Praying should be one of the greatest means that God can displace His power; but sadly, it is the thing we do the least. (Cầu nguyện là một trong những phương cách hay nhất để Đức Chúa Trời bày tỏ quyền phép của Ngài; nhưng điều đáng buồn… lại là điều mà con cái Chúa thường làm ít nhất.)

 

a) Many Christians tend to pray the least, and miss many opportunities to really know God, and experience His power. (Vô số con cái Chúa thường hay ít cầu nguyện, và đánh mất biết bao nhiêu cơ hội để biết Chúa và kinh nghiệm được quyền năng của Ngài.)

# If you don’t believe me then check yourself to see how many minutes you pray each day, versus how many hours you spend in enjoying pleasures… from watching TV/movies/sports, playing video games, chatting on Facebook, texting, surfing the Internet, and exercising? (Nếu quí vị không tin thì tự xét lấy chính mình coi xem thời gian bao nhiêu phút mỗi ngày mình để ra cầu nguyện, đem so sánh với bao nhiêu tiếng đồng hồ mỗi ngày c/ta dành cho sự vui chơi, như là coi TV, chơi video games, xem phim, nghe nhạc hay texting?)

> In Psalm 46:10a, the author said - Be still, and know that I am God...” (Trong Thi Thiên 46:10a dạy c/ta điều gì để biết rõ Chúa? “Hãy yên lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời.”)

> In order to know Who God is, His power, His majesty - we need to “be still” in prayer, in quiet time; because God often speaks in stillness and not in a crowd. (Để thông biết Chúa, c/ta phải tập “yên lặng” trong sự cầu nguyện, vì Chúa thường phán và nói trong chỗ yên lặng… hơn là ở giữa đám đông người.)

 

b) In prayer, we have a sense of the fear of God, then we would not fear anything else. (Trong sự cầu nguyện, c/ta cảm nhận sự kính sợ Chúa, mà không còn sợ điều gì nữa.)

# Daniel life of prayer helped him to fear God more than the king Darius or even death. (Đời sống cầu nguyện của tiên tri Đaniên giúp ông kính sợ Chúa hơn là vua Đariút, hay kể cả sự chết.)

> In Daniel 6 - After hearing the decree of king Darius that enforced everyone who would pray to any god or human being than the king himself, shall be thrown into the lions’ den. (Trong Đaniên đoạn 6 có chép sau khi nghe lệnh không ai được cầu xin một thần nào khác ngoại trừ vua, nếu không sẽ bị quăng vào hang sư tử.)

# What did Daniel do in Daniel 6:10? – “Now when Daniel learned that the decree had been published, he went home to his upstairs room where the windows opened toward Jerusalem. Three times a day he got down on his knees and prayed, giving thanks to his God, just as he had done before.” (Thì Đaniên đã về phòng mình làm gì? Mở cửa sổ hướng về Giêrusalem và tiếp tục cầu nguyện y như thường làm mỗi 3 lần một ngày, vì ông kính sợ Chúa hơn sợ người ta.)

 

c) In prayer, we know God’s will and His plan, just as Jesus did. (Trong sự cầu nguyện c/ta biết rõ được ý Chúa và những chương trình của Ngài muốn c/ta dự phần, giống như Chúa Giê-xu đã biết.)

# An example of this was in the life of the prophet Isaiah when he was in the temple worshipping and praying to God. (Một thí dụ đó là đời sống của tiên tri Êsai khi vào đền thờ cầu nguyện.)

# In Isaiah 6:8 said – “Then I heard the voice of the Lord saying, “Whom shall I send? And who will go for us?” And I said, “Here am I. Send me!” (Thì ông thấy sự vinh hiển của Chúa và tiếng Ngài phán phải đi nói cho dân sự Chúa, thì liền sẵn sàng vâng phục Ngài.)

> Prayer is the time that we take a break and affirm in making important decisions according to God’s will, and not to please men. (Cầu nguyện là khi c/ta lắng lòng, dừng bước, để biết rõ những quyết định sắp làm… luôn được theo ý của Chúa, chứ không phải làm vui lòng người ta.)

 

---------------------

> Our life aim must want to be more liked Christ each day; (Đời sống của c/ta phải muốn giống như Chúa Giê-xu hơn mỗi ngày.)

> Our living must be to imitate what Jesus did and said. (Lối sống của c/ta phải bắt chước những gì Chúa Giê-xu đã làm và đã nói, khi Ngài còn ở trên trần gian này.)

 

# Many years ago, there was a famous basketball player that many sport fans admire. (Nhiều năm trước đây có một lực sĩ thể thao nổi tiếng về môn bóng rổ mà nhiều người yêu chuộng.)

> So it came out with a famous slogan: “Be like Mike!” (Anh nổi tiếng đến nỗi người ta đặt ra một khẩu hiệu… đó là bắt chước “Giống như Mike.”)

> Every basketball players know and want to imitate Michael Jordan – play like him, move like Mike, wearing the clothes, hats and shoes that Mike wear. (Ai chơi bóng rổ lúc đó cũng muốn giống như cầu thủ Michael Jordan - muốn chơi giỏi như anh, muốn được mặc những bộ quần áo, mang dày dép có nhãn hiệu của anh.)

> But Mike doesn’t compete basketball anymore, he is getting old and will surely die one day; His legend will be forgotten and nobody cares about anymore. (Nhưng cầu thủ Michael Jordan nay đã gìa, không còn đấu bóng rổ nữa, một ngày anh cũng sẽ qua đời như mọi người khác; sự nổi tiếng của anh một ngày sẽ đi vào qúa khứ và chẳng ai còn biết nữa.)

> Many people don’t even know about the slogan “Be like Mike” anymore; (Nhiều người sẽ không còn biết đến khẩu hiệu “Giống như Mike” nữa.)

> But Christians, we pursue a greater image of the eternal Son of God – Jesus Christ. (Nhưng Cơ (Đốc Nhân thì đeo đuổi một ảnh tượng của Con Đức Chúa Trời, Đấng Sống Đời Đời – đó là Cứu Chúa Giê-xu.)

 

> We need to change the slogan, no longer “be like Mike, be like Me…” but “LIVE like Christ!” (Như vậy c/ta cần đổi khẩu hiệu lại, không còn “giống Mike, giống tôi, giống bạn” nữa, nhưng – “Live like Christ! - Giống Chúa Giê-xu.”)

> We must “be like Christ” by learning from Him and live a life… as He did. (Hãy học ở nơi Chúa Giê-xu và sống bắt chước Ngài.)

> We must live with humility, meaning always being submissive and depended on God; (Sống trong sự khiêm tốn, nghĩa là chịu đầu phục và lệ thuộc vào Chúa luôn trong mọi sự.)

> We must imitate Jesus’ obedience, always seek and follow after God’s will, and not our selfish desires; (Sống bắt chước tấm gương vâng lời của Chúa Giê-xu, luôn tìm kiếm và làm theo ý Cha, chứ không theo ý mình.)

> We must guard our priority which is the relationship with Jesus daily, not allowing anything to interfere the time we spend in prayer with Him. (Sống giữ mình khỏi những lo ra ở đời này… để luôn giữ mối liên hệ ưu tiên với Chúa… trong sự cầu nguyện.)

 

> That is the life we should pursue on this earth – imitating our Lord Jesus Christ! (Đó là một cuộc đời c/ta mỗi người phải đeo đuổi - một cuộc sống bắt chước Chúa Giê-xu!) Amen!

 

 

-------------- Invitation

> Who are you imitating, following, and copying?

> Do you know clearly the values of things that you are imitating?

> How long do these things last?

> What if… something bad happens – would you still have what you go after?

 

> What should be our life priority?

# “Seek first the kingdom of God…” because we are the people of God’s kingdom.

> We belong to God – Who purchased us with the precious blood of His Son.

> God’s will is that whosoever believes in His Son will be saved.

> God’s will is that we should live a life as Jesus did.

> So, we need to “be like Christ! Live like Christ!”

> We need to learn and imitate Jesus’ life.

a) Learn humility form Jesus… and serve God and others, and not only about “myself.”

b) Commit to obey God by doing His will… and not just pursue our ambitions and desires.

c) Keep our life priority straight and that is our relationship with God in prayer – do not let anything, or anyone disturb our time spending with Jesus in prayer everyday.

 

> So the world has no doubt that… we are truly His disciples.

> Apply these into our daily life: Serve, obey, and pray always.

> Be blessed in the Lord Jesus… today!