Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 58

Chúng Ta Đựng Gì Trong Bình Đất?

2 Côrinhtô 4:7-18

(What is in our Jars?)

 

“Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi. 8 Chúng tôi bị ép đủ cách, nhưng không đến cùng; bị túng thế nhưng không ngã lòng; 9 bị bắt bớ, nhưng không đến bỏ; bị đánh đập, nhưng không đến chết mất. 10 Chúng tôi thường mang sự chết của Đức Chúa Jêsus trong thân thể mình, hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng tỏ ra trong thân thể chúng tôi. 11 Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Jêsus mà hằng bị nộp cho sự chết, hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi; 12 vậy thì sự chết làm trong chúng tôi, còn sự sống trong anh em. 13 Vì chúng tôi có đồng một lòng tin, y như lời Kinh Thánh rằng: Ta đã tin, cho nên ta nói, cũng vậy, chúng tôi tin, cho nên mới nói, 14 vì biết rằng Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại, cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài. 15 Bởi chưng mọi điều đó xảy đến vì cớ anh em, hầu cho ân điển rải ra cách dư dật, khiến sự tạ ơn nơi nhiều người hơn cũng dư dật, mà thêm vinh hiển cho Đức Chúa Trời. 16 Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. 17 Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, 18 bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy.”

(But we have this treasure in jars of clay to show that this all-surpassing power is from God and not from us. 8 We are hard pressed on every side, but not crushed; perplexed, but not in despair; 9 persecuted, but not abandoned; struck down, but not destroyed. 10 We always carry around in our body the death of Jesus, so that the life of Jesus may also be revealed in our body. 11 For we who are alive are always being given over to death for Jesus’ sake, so that his life may also be revealed in our mortal body. 12 So then, death is at work in us, but life is at work in you. 13 It is written: “I believed; therefore I have spoken.” Since we have that same spirit of faith, we also believe and therefore speak, 14 because we know that the one who raised the Lord Jesus from the dead will also raise us with Jesus and present us with you to himself. 15 All this is for your benefit, so that the grace that is reaching more and more people may cause thanksgiving to overflow to the glory of God. 16 Therefore we do not lose heart. Though outwardly we are wasting away, yet inwardly we are being renewed day by day. 17 For our light and momentary troubles are achieving for us an eternal glory that far outweighs them all. 18 So we fix our eyes not on what is seen, but on what is unseen, since what is seen is temporary, but what is unseen is eternal.)

 

 

I. Christian Life Depends On

 

> How real is our Christian life? (Đời sống cơ đốc của c/ta có xác thực, và có đang tỏa sáng không?)

# I believe real or not - It would depend on how we understand: Who we are… and knowing Who is living inside us? (Xác thực hay không… tùy ở chỗ là c/ta có hiểu mình thật là ai không, và ai thật đang sống trong lòng này?)

# Every morning from Monday to Thursday, I wake up and go to work… knowing that I am an engineer trained by traits, and with all the experiences I have, I am confident… that I can perform my professional works and services to my clients. (Mỗi buổi sáng tôi thức dậy đi làm từ thứ Hai đến thứ Năm, vì xác thực mình là một kỹ sư đã được thậu nhập nền học vấn của ngành mình, và với những kinh nghiệm trong nhiều năm, tôi tự tin là mình có thể thực hiện được những công việc chuyên môn, đáp ứng nhu cầu của những khách hàng của mình.)

> Our confidence inside of us… depends on whether we know - who we are. (Sự tự tin của c/ta lệ thuộc vào điều c/ta biết rõ mình là ai, phải không?)

 

> Unfortunately, many Christians living in the world today are no different than the unbelievers, show no sign of Christ-ianity, demonstrate no living power… I believe that because they do not really know and understand who they are in Christ… and Christ in them. (Nhưng thật tiếc thay, có vô số người cơ đốc ngày nay sống trong thế gian không khác chi với những người ngoại đạo, chẳng giống cơ đốc nhân, chẳng bày tỏ quyền phép nào hết… cũng vì họ thật sự không biết rõ mình là ai… trong Đấng Christ, là Đấng đang sống trong lòng này.)

# You may argue that we go to church, right? We study the Bible, right? Yes, but Christ seems to live outside of our life, because we do not really know… who we are in Christ. (Tại sao vậy? Ủa, c/ta đi nhà thờ, c/ta học Kinh Thánh mà… nhưng Chúa Giê-su vẫn còn sống ở ngoài đời sống của nhiều người, khi c/ta ra khỏi nhà thờ.)

# The story of a nail tech who just became a Christian, working for a cruel, no-god fearing boss.

> The pastor checked up on him few weeks later at church, and commented that he must face a lot of hardship at the workplace since he became a Christian, right?

> He answered: “No pastor. I have no problem at work place at all, since the day I became a Christian. I am not that dumb to tell my boss that I am now a Christian!” (“Tôi đâu có dại chi mà nói cho ông chủ mình biết là bây giờ tôi đã tin Chúa đâu MS?”)

 

> We need to know who we are… We need to know WHO is living inside us… to live a victorious Christian life and being effective for God’s kingdom. (C/ta cần biết rõ mình bây giờ là ai; c/ta cần biết rõ bây giờ… AI đang sống trong lòng này.)

> The letter from Paul to the church in Corinth’s helps us to answer this question, so we can start living effectively as true Christ-ians, the people that belong to Jesus Christ. (Lá thư thứ hai của Phaolô gởi cho Hội Thánh thành Côrinhtô gíup trả lời câu hỏi này, để c/ta bắt đầu sống một cuộc đời của những người cơ đốc hữu hiệu, làm sáng danh Chúa.)

 

 

II. Clay Jars and Treasure

 

> In v. 7 - What does it mean when Paul talked about the jars of clay which contain a treasure? (Trong c. 7, khi Phalô nói đến những cái bình đất chứa của quí ở trong đó… thì đây có nghĩa là gì?)

# The clay jars represent our earthly body… made up with dust, or for a “chemistry” term – it’s the basic carbon atoms. (Bình đất biểu hiệu cho thân thể… đã được dựng nên từ bụi đất.)

# Last week, I helped my wife digging up some dirt & it reminded me… where I came from!

> “Clay” is a symbolic of a temporary state; something just momentary, passing away quickly. (Đất/bụi là hình bóng của sự tạm thời, của sự chóng qua.)

> What are some signs of our earthly and temporary “clay jars?” (Đâu là những dấu hiệu rõ ràng của bình đất c/ta có?)

# Gray hair, wrinkles, weak knees can’t dunk, shaky teeth could not chew shaky beef, lost memory & hearing – forgetting your spouse name, blur vision… (Tóc bạc, nết da nhăn nheo, răng long, lãng trí, mắt không còn sáng nữa…)

# Some old pictures in the funniest picture contest last week, it reminded when I was once young; people used to call me “a young man” and now an “old man.” (Tuần trước, c/ta có cuôc thi đua những hình ảnh vui, nhìn lại thấy hồi thanh xuân của mình, khi người ta còn gọi “anh Vinh,” mấy năm trước đây – “chú Vinh,” bây giờ nhiều người gọi bác Vinh, vài năm nữa “cụ Vinh?”)

> Dust will return to dust! Because that was what God used to form us. (Cát bụi sẽ trở về với cát bụi, bởi vì từ đó mà Đức Chúa Trời đã nắn lên ông Ađam, là tổ phụ của loài người.)

# Genesis 3:19 – “By the sweat of your brow you will eat your food until you return to the ground, since from it you were taken; for dust you are and to dust you will return.” (Khi Đức Chúa Trời rủa sả loài người, Ngài phán – “Ngươi phải đổ mồi hôi trán mới có cơm bánh để ăn, cho đến khi ngươi trở về cùng bụi đất, vì ngươi đã ra từ bụi đất; Ngươi là cát bụi, nên ngươi sẽ trở về cùng cát bụi.”)

# When we die and people put our bodies in beautiful coffins – would our bodies turn to gold and silver… or soon to dust? (Khi tôi và bạn qua đời và người ta chôn mình trong những cái hòm thì thử hỏi thân thể này biến thành vàng, đồng… hay là đất?)

> One day, all of us will look the samedust! (Một ngày rồi mỗi người c/ta ai cũng giống như nhau hết, khi c/ta trở về với tro bụi.)

> This is the temporary nature of every men… that we should never forget. (Thân thể này chỉ là tạm thời, chóng qua thôi, mà c/ta đừng bao giờ quên.)

 

> But for Christians, in our “jars of clay” Paul said - God stores a beautiful treasure “But we have this treasure in jars of clay.” (Nhưng cho những người tin Chúa, trong bình đất này, Phaolô nói đến một của quí… được đựng ở trong mỗi c/ta.)

# It’s kind of odd, because people always put their treasures in beautiful boxes, some of boxes are carved with jewels outside that look more expensive than the treasure itself inside; Others put their treasures in safety boxes, and NOT in the jars of clay. (Thấy cũng tức cười, thường thì người ta bỏ những vật quí trong ~bình sang trọng, có khi cẩn ngọc ngà nữa, chứ ai lại bỏ vào một chậu bằng đất?)

> We should never forget - It’s not the jars, but the treasure inside the jars. (Mặc dầu vậy, c/ta đừng bao giờ quên của quí ở trong là điều quí gía hơn… là cái bình đất ở ngoài.)

# The world looks from the outside, but our God values what inside. (Thế gian thường chỉ đánh gía bên ngoài, nhưng Đức Chúa Trời thì nhìn thấy gía trị quí ở bên trong.)

> So, what is this treasure that Paul was taking about that all Christians have inside their earthly bodies? (Như vậy của quí gì đây mà Phaolô nói đến mà mỗi con cái Chúa đều có trong bình đất này?)

 

> When reading the Bible in doubt, I recommend backing up few verses. (Khi đọc Kinh Thánh thấy khó hiểu, một cách hay đó là quí vị trở lại đọc vài câu trước đó.)

# In vs. 4 & 6, Paul talked about the light shines in darkness – “The god of this age has blinded the minds of unbelievers, so that they cannot see the light of the gospel that displays the glory of Christ, who is the image of God... 6 For God, who said, “Let light shine out of darkness,” made his light shine in our hearts to give us the light of the knowledge of God’s glory displayed in the face of Christ.” (Trong c. 4 & 6 có chép - “vì thần của đời nầy đã làm mù tâm trí những kẻ không tin để họ không trông thấy ánh sáng của Tin Mừng đang tỏa rạng vinh quang của Ðấng Christ, là hình ảnh của Ðức Chúa Trời...  6 vì Ðức Chúa Trời là Ðấng đã phán, “Ánh sáng hãy chiếu ra từ cõi tối tăm,” đã chiếu sáng lòng chúng tôi, ban cho chúng tôi ánh sáng của trí tuệ để nhận biết vinh hiển của Ðức Chúa Trời đang rạng ngời trên gương mặt Ðức Chúa Jesus Christ.”

> Who is the light? The glory of Christ, Himself in our heart. (Bạn có thấy được của quí đó là ai không? Chính là sự vinh quang rạng ngời của Chúa Giê-su sống trong lòng này.)

# In John 8:12 – “Jesus once said, “I am the light of the world. Whoever follows Me will never walk in darkness, but will have the light of life.” (Chính Chúa Giê-su đã phán gì về mình trong Giăng 8:12 – “Ta là ánh sáng của thế gian. Người nào theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”)

# No one wants to live in the dark; Do you want to drive your car in the dark? You won’t go too far. (Bạn có thích sống luôn trong bóng tối không? Bạn có lái xe được khi không có ánh sáng không? Được, nhưng mà không đi xa được đâu?) For sure, we will fall in the ditches or hit something and hurt ourselves, because we cannot see. (Bạn sẽ bị lọt hố, đụng vào cây, bị thương… bởi vì không thấy đường được.)

# Darkness is where crimes and evil acts are carried out plans to harm people. (Bóng tối cũng biểu hiệu cho những việc làm gian ác, tội lỗi chỉ để hãm hại những người khác.)

# All the street lights near Vinh Phat area were destroyed even the county people kept fixing them – why? The drug dealers shot and took them out, so they can deal drugs easier at night.

> Long time ago, our heart was dark, but from the day we came to repent our sins and trust Jesus, every believer has the light of the world – Who is Jesus living inside us. That is the Treasure! (Ngày xưa, lòng c/ta đầy dẫy sự tối tăm, những mầm móng của tội ác, nhưng từ lúc c/ta tin nhận Cứu Chúa Giê-su, c/ta có sự sáng dập tắp dần bóng tối, vì nay có Ngài sống trong c/ta, đó là của quí trong bình đất này.)

 

> The glowing of the Light is the Gospel of Jesus Christ that Paul explained beautifully in vs. 10-11“always carrying in the body the death of Jesus, so that the life of Jesus may also be manifested in our bodies. 11 For we who live are always being given over to death for Jesus' sake, so that the life of Jesus also may be manifested in our mortal flesh.” (Phaolô diễn tả sự tỏa sáng của sự Sáng Lớn là Tin Lành thật gọn trong c. 10-11 – “Chúng tôi luôn mang sự chết của Ðức Chúa Jesus trong thân thể mình, để sự sống của Ðức Chúa Jesus cũng được thể hiện trong thân thể chúng tôi.  11 Dù chúng tôi đang sống, nhưng vì cớ Ðức Chúa Jesus lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng chết, để sự sống của Ðức Chúa Jesus được thể hiện trong thân thể sẽ chết của chúng tôi.”)

> The Gospel is the death of Jesus on the cross to redeem us from the judgment of sins, and His  resurrection to give us the hope of the eternal life in heaven, for those who believe in God’s Son – Jesus Christ. (Tin lành chính là sự chết của Chúa Giê-su trên cây thập tự để chuộc tội cho mỗi c/ta, và sự sống lại của Ngài đang ở trong c/ta, ban cho sự trông cậy của nước thiên đàng, cho những ai tin vào Con Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa Giê-su.)

 

> Today, the Light is the Spirit of Jesus that He sent – Who is living in us. (Bây giờ, Ánh Sáng Lớn đó chính là Thần Linh của Chúa Giê-su đã sai xuống và đang ngự trong lòng c/ta.)

# Romans 8:11“And if the Spirit (God the Holy Spirit) of Him (God the Father) who raised Jesus (God the Son) from the dead is living in you, He who raised Christ from the dead will also give life to your mortal bodies because of his Spirit (Holy Spirit) who lives in you.” (“Nếu Ðức Thánh Linh của Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus sống lại từ cõi chết ở trong anh chị em, thì Ðấng đã làm cho Ðấng Christ sống lại từ cõi chết cũng sẽ ban sự sống cho thân thể sẽ chết của anh chị em qua Ðức Thánh Linh của Ngài, Ðấng đang ngự trị trong anh chị em.”)

> At the moment when someone repented his sins and confessed to believe in Jesus Christ, the Bible said, His Spirit enters and dwells in that person heart and life.

 

> If that is true then Jesus’ church must be alive, that mean we, as the body of Jesus must glow for Him, because He lives in us. (Nếu đúng như vậy thì Hội Thánh của Chúa Giê-su phải sống động, Ngài phải được tỏa sáng, vì Chúa thật đang sống trong lòng mỗi c/ta, là Hội Thánh của Ngài.)

> How to recognize a church alive or dead? (Làm thế nào c/ta nhận diện ra một Hội Thánh chết?)

# How do you know if a body dead or alive? You just kick it and if it moves – you know it’s alive!

# A church is dead when the truth of God is preached… but there is no conviction, no commitment, no decision to change, and nothing moves – it’s just the same “old” Sundays; but the living church is the opposite. (Hội Thánh ở trong tình trạng chết thuộc linh, khi lời lẽ thật của Chúa giảng ra… nhưng không có sự cáo trách, không có sự cam kết, không có một sự quyết định thay đổi nào hết… không có sự di động lòng nào hết; nhưng Hội Thánh sống thì không có như vậy.)

> We must be a living church, because we have the Light of the world living inside us. We are NOT “zombies.”

 

 

III. The Power

 

> Knowing who we are, and Christ’s Spirit is living inside us, we can now live a victorious life, overcoming all kinds of troubles. (Biết rõ mình là ai trong Chúa và Chúa sống trong c/ta, c/ta bây giờ có năng quyền để sống một cuộc đời chiến thắng.)

 

> First, our life is NOT free of troubles. (Cuộc sống của c/ta không phải lúc nào cũng được an lành.)

# Don’t listen to those who preach a Christian life is only blessings and trouble-free.

> Our God often uses troubles in our life that are needed… to show the surpassing power of Jesus’ Spirit living inside us. (Nhưng Chúa thường dùng những hoạn nạn để bày tỏ quyền năng lớn của Ngài đang sống trong lòng này.)

> What were some of troubles that Paul had to face in these verses? (Phaolô đã đối diện với những khó khăn nào?)

# … hardship pressed on every side, perplexed, persecuted, struck down, even facing death… (bị áp lực đủ mọi mặt, bị nghiền nát, bị bối rối, bị bách hại, bị quật ngã…)

> But in vs. 8-9, in all these troubles, Paul did NOT what? (Nhưng c. 8-9, thì Phaolô không bị gì?)

# Not crushed; not in despair; not abandoned; not destroyed, not yield, not giving up, not losing heart… (nhưng không bị nghiền nát, nhưng không hề tuyệt vọng, nhưng không bị bỏ rơi, nhưng không bị tiêu diệt, không ngã lòng…)

> It is easy to show off your power in blessings, but the power of the “treasure” is even greater during the “storms of life.” (Lúc c/ta được phước thì dễ cho c/ta nói về quyền năng của Chúa, nhưng quyền năng ấy càng được phóng đại lớn hơn nữa, trong lúc c/ta gặp giông tố trong cuộc sống.)

# Why some of the stories we heard from MS Lam van Minh that made us cried, such as a woman who lost her husband, lost her daughter, and found out that she had breast cancer, but still wanted to sing praise to God? Because they demonstrate the surpassing power of Jesus’ Spirit inside us.

> The treasure inside us is shown most beautifully, not during the blessings, but in the midst of life troubles; So, others can see the surpassing/great power of God in Christ Jesus.

> I do not ask God for troubles, but I do pray to God for maturity… and you know what He said? “Here comes troubles!” (Tôi không có cầu nguyện mỗi ngày xin Chúa gặp hoạn nạn, nhưng cầu nguyện cho sự trưởng thành đức tin, thì nghe Chúa nói gì: “Hoạn nạn sắp đến đó nhe con.”)

 

> Are we growing? Are our clay jars glowing for Jesus Christ? (C/ta có đang tăng trưởng không? Những bình đất của c/ta có đang tỏa sáng quyền phép của Thần Linh Chúa Giê-su không?)

# Paul said in v. 16: “… yet inwardly we are being renewed day by day.” (Phaolô nói gì trong c. 16 – “… nhưng con người bên trong vẫn mỗi ngày một đổi mới.”)

> We need some troubles once a while… to grow and to glow for Christ! C/ta có khi cần chút hoạn nạn, khó khăn… để c/ta tỏa sáng quyền năng lớn của Chúa cho nhiều người thấy.)

# Some Christians are being “spiritually stucked” in one place too long, they are getting old from outside and inside… (Vô số cơ đốc nhân sống ngày hôm nay đang bị dậm chân một chỗ, bên ngoài càng gìa nua, bên trong càng cũ kỹ, chẳng tăng trưởng trong sự hiểu biết Chúa hơn.)

> No, we have the treasure, Jesus Christ, even the outside keeps getting old, but the inside continuously growing in maturity, in the knowledge of Him, in un-movable faith… glowing the Light of Jesus. (Không đâu! c/ta có của quí là Cứu Chúa Giê-su, mặc dầu bên ngoài cứ gìa đi, nhưng bên trong đổi mới luôn, thêm sự hiểu biết Chúa, đức tin không bị lay động, càng tỏa sáng đến thế gian.)

> Our heart and mind are renewed and changing everyday, even when we deal with disasters, that we will say: “It’s not trouble; it is an opportunity for witness.” (Tấm lòng và tâm trí bên trong đổi mới luôn, kể cả lúc c/ta đối diện với những tai họa, không còn than thở - “hoạn nạn, xui xẻo nữa,” nhưng là cơ hội, để tỏa sáng quyền năng lớn của Chúa đang sống trong c/ta.)

# Paul said what in Phillippians 1 - “I want you to know, brothers, that what has happened to me has really served to advance the gospel, 13 so that it has become known throughout the whole imperial guard and to all the rest that my imprisonment is for Christ.” (Không phải Phaolô đã nói về sự xiềng xích của mình sao? “Hỡi anh em, tôi muốn anh em biết rằng điều xảy đến cho tôi đã giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin Lành, 13 đến nỗi chốn công đường và các nơi khác đều rõ tôi vì Đấng Christ mà chịu xiềng xích. 14 Phần nhiều trong anh em nhân tôi bị xiềng xích mà có lòng tin rất lớn trong Đấng Christ, dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì.”)

 

> We no longer say “I cannot do it! But I can...” because Jesus Christ is living in me! (C/ta không còn thái độ “Không làm được,” nhưng bây giờ nói “Tôi có thể làm được,” vì Chúa đang sống ở trong tôi.)

# Don’t we often quote the Bible verse - “I can do everything through him who gives me strength?” (Không phải c/ta hay nói câu Kinh Thánh – “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.") But it seems that we say this verse a lot, but we cannot do a thing? (Nhưng hình như c/ta nói câu này thì nhiều, nhưng chẳng làm được bao nhiêu?)

# Why everytime the church calls you for help and serving for a need, you kept saying “cannot do? Ask someone else, I am busy. I don’t have the gift?” (Tại sao mỗi lần Hội Thánh có nhu cầu đưa ra cần giúp đỡ, thì c/ta cứ nói: “Tôi không làm được đâu, không có ơn, bận lắm, nhờ người khác đi.”)

> If we keep saying we cannot do; indirectly, we are wasting the surpassing power of the treasure! (Nếu c/ta cứ nói “không thể được,” thì c/ta đang phí phạn quyền phép lớn đang ở trong c/ta.)

> Are we being doctrinated by the devils for so long with the mentality of “cannot do?” (Có phải c/ta đang bị ma quỉ dỗ dành mà đang sống trong thái độ “không thể làm được” không?)

# Câu chuyện về con voi khi nó còn nhỏ, bị xiềng xích vào 1 cái cọc lớn... mỗi lần nó muốn đá chân, bứt cọc đi, nhưng không đủ sức mạnh làm được.

> Nhiều ngày trôi qua, voi con ý thức rằng mình không thể bứt cọc đi được (cannot kick the chain off).

> Và rồi 1 ngày voi đã lớn lên... nó vẫn bị xiềng cùng một loại giây xích mà nay nó có dư khả năng để bứt giây xích bỏ đi... nhưng không làm được.

> Không phải vì nó không có sức năng làm được... nhưng vì sự giới hạn của trí óc, cứ nghĩ rằng mình không thể làm được điều này... từ khi nó còn là một voi con.

> This is how the devil controls us; it begins in our mind that “I cannot do it!” for so long. (Mánh khóe của ma quỉ cũng vậy... nó thắng được c/ta bắt đầu từ ở trong trí óc của mình, làm c/ta lo lắng, nghi ngờ quyền năng của Chúa, và rồi nó đem vào lòng c/ta một thái độ tự nghĩ rằng “Tôi không làm được,” để rồi cả cuộc đời c/ta sống trong sự thất bại.)

 

> Because Christ is living in us through His Spirit, we can do! (Bởi vì Chúa sống trong mỗi c/ta, c/ta có thể làm được mọi sự.)

# We can forgive those who trespass us. (Nhờ Chúa Giê-xu, Đấng có quyền năng tha thứ – c/ta có thể nói với những người phạm nghịch cùng mình: "Tôi nay có thể tha thứ cho anh chị em được.”)

# We can bury all our past bitterness in the ground. (Nhờ Đấng quyền năng ở trong tôi – tôi có thể chôn vùi mọi nỗi đau thương, cay đắng trong quá khứ… đang xiềng xích cuộc đời của tôi.)

# We can overcome all temptations for Christ gives me strength. (Nhờ Thánh Linh đang sống trong tôi, tôi có thể thắng mọi sự cám dỗ trong đời sống.)

# We can fulfill all our responsibilities, starting at home, to church, work, and in the society... because “In Christ… I Can.” (Nhờ Chúa tôi có thể làm trọn những bổn phận, trách nhiệm của mình từ sự thờ phượng trong ngày thánh, dâng hiến, tĩnh tâm mỗi ngày.)

# We can boldly give testimony of our hope, defend our faith, standing at the market to give out Christian tracks. (Nhờ Chúa tôi không còn nhút nhát, nhưng dạn dĩ làm chứng cho Chúa khi cơ hội đến.)

 

> That was why Paul said in v. 13: Because “I believe; therefore, I have spoken.” (Vì vậy mà Phaolô nói trong c. 13 – “Tôi tin nên tôi nói,” hay có nghĩa là “vì tôi tin, tôi không thể không nói được.”)

> Nothing can stop me to speak out my faith, because I know I have the treasure of Jesus Christ living in me. I cannot stop to “show and tell.” (Không có điều chi có thể cản trở tôi nói điều tôi có xác thực ở trong tôi, tôi phải bày tỏ và nói ra.)

# When my children were young I usually got involved in the “Show and Tell” activity at school. (Hồi con tôi còn nhỏ tuổi, hay giúp c/nó trong chương trình “Bày tỏ và nói ra” ở trường học.)

> Each week, each student brings something to “show” and to “tell” about it to the whole class… may be a picture, a pet, a toy… that the children know and relate to. (Mỗi học sinh mỗi tuần phải đem một thứ gì đó đến trường, và tập đứng trước lớp bày tỏ ra vật đó là gì cho cả lớp nghe.)

> What do you and I do… to show and tell the treasure inside us? (Bạn và tôi đang làm gì để bày tỏ và nói ra của quí c/ta có trong bình đất của mình?)

> Trust Christ, know Him, have His Spirit, and shine the Light to show off our Treasure! (Hãy tin cậy Chúa hết lòng, và nhờ cậy Thánh Linh để khoe của quí của mình đi!)

# We always try to find opportunities showing off our treasures: a diamond ring, a new necklace, a new perfume, a new stylish jean, a new car (Electric Tesla) … what’s about our treasure – Jesus and His words living in your heart through good works and kind words? (C/ta lúc nào cũng muốn khoe những thứ quí mình có: nhẫn kim cương, dây chuyền vàng, xe hơi mới… nhưng còn của quí ở trong lòng này thì sao?)

> Do you understand what Paul said in Ephesians 2:10“For we are God’s handiwork, created in Christ Jesus to do good works, which God prepared in advance for us to do.” (Quí vị có hiểu Êphêsô 2:10 không? “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.”)

> God prepares opportunities for us to “show and tell” everyday, the only problem is – do we see them and act on it? (Chúa luôn chuẩn bị sẵn những cơ hội mỗi ngày cho c/ta khoe của quí bên trong của mình, nhưng vấn đề là c/ta có thấy và hành động, bắt lấy những cơ hội đó không?)

 

 

IV. The Unseen Hope

 

> The beauty of the treasure is not just to overcome life troubles, but also the revelation of the unseen hope of the resurrection and the eternal life inside us. (Điều đẹp đẽ của của quí không chỉ quyền năng vượt qua khỏi mọi trở ngại/khó khăn trong cuộc sống mà thôi, nhưng còn là bày tỏ được sự trông cậy chưa thấy, về sự sống lại và sự sống đời đời nữa trong Cứu Chúa Giê-su.)

# John 11:25“Jesus said…, “I am the resurrection and the life. Whoever believes in me, though he die, yet shall he live,” (Trong Giăng 11:15 - Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi.”)

> And in v. 14 – Paul said it again – “knowing that He (Holy Spirit) Who raised the Lord Jesus will raise us also with Jesus and bring us with you into his presence.” (Và trong c. 14, Phaolô nói lần nữa – “vì chúng tôi biết rằng Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Giê-su sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Ðức Chúa Jesus và sẽ đem chúng tôi và anh chị em đến trình diện trước mặt Ngài.”)

> The resurrection is coming; It is in the future, and unseen yet – but this is the hope for the world, that we must glow; so that many can know, believe Jesus and be saved before the endtime. (Sự sống lại là điều trong tương lai, c/ta chưa thấy bây giờ, nhưng đây là sự trông cậy cho thế giới mà c/ta phải tỏa ra, để nhiều người được biết, tin và được cứu trước ngày tận thế.)

# We die, people put us in the coffin and buried under the ground; our body will be disintergrate to dust, but we will not lay down there forever; we will be raised to new glorious bodies, because Jesus will come again – Maranatha! (Khi c/ta chết, người ta bỏ xác mình vào cái hòm, đem chôn, xác thịt rã tan, nhưng c/ta không có nằm ở đó mãi, c/ta sẽ được sống lại một ngày với thân thể mới vinh hiển, khi Chúa Giê-su trở lại lần nữa. Ôi! Xin Ngài hãy đến!)

> Keep this hope, keep looking up to the clouds; don’t let it die in you! Jesus will return. (Hãy giữ kỹ sự trông cậy này, cứ ngắm nhìn lên mây cao, Chúa Giê-su sẽ trở lại… y như lời Ngài đã hứa.)

 

> How do you know that this hope is alive in you? (Làm sao một người biết rõ sự trông cậy này đang có trong c/ta?)

# When you see everything else in this world is just momentary – all will pass away, but the faith waiting for Jesus return will live on. (Khi c/ta xem mọi thứ trên đời này chỉ là tạm bợ mà thôi, những hoạn nạn/tai họa chỉ là nhẹ mà thôi, vì biết mọi sự sẽ trôi qua, chỉ chờ đợi vào sự Chúa sẽ trở lại mà thôi.)

# Paul said in v. 17-18“For this light momentary affliction is preparing for us an eternal weight of glory beyond all comparison, 18 as we look not to the things that are seen but to the things that are unseen. For the things that are seen are transient, but the things that are unseen are eternal.” (Phaolô nói rõ về dấu này trong c. 17-18 – “Vì hoạn nạn tạm và nhẹ của chúng ta hiện nay sẽ đem lại cho chúng ta vinh hiển đời đời vô lượng vô biên, 18 bởi chúng ta không nhìn chăm vào những gì thấy được, nhưng vào những gì không thấy được, vì những gì thấy được chỉ là tạm thời, còn những gì không thấy được mới là đời đời bất diệt.”)

> This means we should not trust in our bank account, our 401K retirement, our career, our girlfriend, our pleasures, our power, our sins any more… for the life to come, but we trust in the name of God and His promises. (Nghĩa là c/ta không còn tin cậy vào nhà bank của cải, ngân quỹ về hưu, nghề nghiệp cho sự sống đời đời nữa, nhưng tin cậy vào danh Đức Chúa Trời và lời hứa của Ngài.)

# One of the hymns I love to sing is No. 173 – “Turn your eyes upon Jesus.” This hymn speaks about the unseen hope waiting to see Jesus’ glory face-to-face when He returns again, and that hope would make – “the things of earth will grow strangely dim,” no longer the “main thing” of our life.”  (Tôi thích một bài Thánh Ca, số 173 – “Ngắm nhìn Chúa Giê-su.” Đây là bài hát nói về sự trông cậy sống của c/ta chưa thấy được, đó là sự vinh hiển của Chúa Giê-su khi Ngài trở lại, thì nếu c/ta có sự trông cậy đó… thì mọi thứ c/ta thấy ở trên đời đều mờ dần, và phai nhạt đi.)

> Oh! How I long for that day when Jesus returns! Oh! How I wish VHBC long for that day!

 

-------------------------

# When queen Elizabeth of England was a teen, she was very stubborn and disobedient. (Khi nữ hoàng Êlizabét còn nhỏ, cô là một đứa bé rất là nghịch ngợm và phá phách.)

> The keeper just got frustrated and said to Elizabeth: “Don’t you know that one day you will sit on a throne, and be the royal symbol of England? Oh! Only if you know that?” (Người vú giữ cô, nhiều khi mệt mỏi và có lần nói: “Phải chi cô Êlizabét biết mình một ngày sẽ được ngồi trên ngai, làm dấu tượng trưng cho sự huy hoàng của nước Anh… thì may ra cô sẽ biết sống ngoan như sao?”)

> Somehow, the teen Elizabeth woke up and changed her life by being obedient and respectful, because she begun to understand who she is… and who she will be.” (Không biết vì sao, cô nghe được và từ đó đổi tánh tình trở nên ngoan ngoãn, vì hiểu được mình sẽ là ai trong tương lai.)

 

> Do you know – who you are in Christ… and His Spirit is living in you… right now? (Bạn có biết mình là ai không trong Chúa Giê-su, và Thần Linh của Ngài đang ở trong bạn?)

> Oh! Only if we know! (Chỉ nếu c/ta biết rõ điều này!)

 

> May God help us All! (Xin Thần Linh của Chúa giúp đỡ c/ta hết thẩy hiểu được chân lý này, ngay sáng hôm nay!)

 

 

-------------------- Invitation

> How real is our Christian life?

> Do you know… who you are… and Who is living inside of you?

 

# Can we really say - “I can… do everything through Him who gives me strength” and really do it?

> Can you forgive?

> Can you overcome temptations?

> Can you bury all bitterness behind?

> Can you fulfill your responsibilities?

> Can you show and tell your treasure by living out your faith at home and in work places?

 

> Are you living as a victim… or a victor in the world today?

# One day - I was driving to work early in the morning, and heard a pastor said something that makes my tears coming out. “We as Christians are not a group of “wimpy” people.”

> Do you know why I cried? Because at that monment I realized that I am a “wimpy” Christian. And I prayed - “Please Lord, help me. I don’t want to be a “wimpy, weak, cowardly” Christian!” I want to show off Your treasure, I want the people living around me to know your surpassing power and the offering of hope, the eternal life. Help me Lord. Help me Holy Spirit.”

> Are you wimpy Christians? Then you need to pray at this moment as well.

 

> We need to pray for one another so that we can do everything through Jesus Who lives inside us and gives us strength.

# Every morning, I wake up & pray a simple prayer for VHBC members… that the Holy Spirit will protect them away from the wicked ones, and I pray that every member will live… as the salt of the earth and the light to the world for Jesus Christ.

> The Light is the Gospel about Jesus that we shine through our words and acts of kindness.

> The Salt is the boldness to defend the Gospel of Jesus through our testimonies of faith, and the answer for the hope we have in Christ.

 

> Are we caring too much for the outside, the things of this world… then less for the Treasure inside?

# The things we see from outside will pass away, but the unseen hope inside will last forever.

> How are we building the relationship with Jesus, our Treasure everyday?

> Does the world surrounding us see and taste the glowing of Treasure in our jars? Or does the world is molding us into its lifestyle?

 

> So what is your conviction and commitment today?

> Are you sold out for Jesus Christ?

> That should be the question we all must ask ourselves every time we come to church?

> Is there anything holding you back to be sold out for Christ?

> Confess your sins, repent, and live for Christ!

# It cannot be a feeling anymore everytime we go to church, but it must be a reality that Christ’s Spirit is living inside us, and we can do everything through Him who gives us strength.

 

> Every Sunday is the time of commitment, a time of re-dedication, a time of change from the inside out, a time of renewal, a time of decision for Jesus…

> What is your commitment today?