Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 67

Biết Ơn Chúa Vì Được Tha Thứ

(Luca 7:36-50)

 

“Một người trong nhóm người Pha-ri-si mời Ðức Chúa Jesus đến nhà dùng bữa. Ngài vào nhà của người Pha-ri-si ấy và ngồi vào bàn. 37 Nầy, một phụ nữ trong thành có tiếng là người tội lỗi nghe tin Ngài đang dùng bữa tại nhà của người Pha-ri-si, bà đem đến một bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm. 38 Bà đứng phía sau chân Ngài mà khóc; nước mắt nhỏ xuống làm ướt chân Ngài. Bà bắt đầu dùng tóc mình lau chân Ngài, rồi bà hôn chân Ngài và lấy dầu thơm xức lên.

39 Khi người Pha-ri-si đã mời Ngài thấy vậy, ông nghĩ thầm, “Nếu người nầy quả thật là đấng tiên tri thì chắc hẳn đã biết bà ấy, người đang đụng đến mình, là ai và thuộc hạng người nào rồi, vì bà ấy là một kẻ tội lỗi.” 40 Ðức Chúa Jesus cất tiếng và nói với ông, “Si-môn, Ta có vài điều muốn nói với ngươi.” Ông đáp, “Thưa Thầy, xin Thầy cứ nói.” 41 “Một chủ nợ kia có hai con nợ. Một người nợ 500 đơ-na-ri, và một người nợ 50 đơ-na-ri. 42 Cả hai đều không có tiền để trả nợ, nên chủ nợ tha hết cho hai người. Vậy ai trong hai người đó thương chủ nợ nhiều hơn?” 43 Si-môn trả lời và nói, “Tôi thiết tưởng, đó là người được tha số nợ nhiều hơn.” Ngài nói với ông, “Ngươi nhận xét đúng lắm.” 44 Ðoạn Ngài quay về phía người phụ nữ và nói với Si-môn, “Ngươi có thấy bà nầy không? Ta vào nhà ngươi, ngươi không cho Ta nước để rửa chân, nhưng bà ấy đã rửa chân Ta bằng nước mắt và lau chúng bằng tóc bà. 45 Ngươi không hôn chào Ta, nhưng từ khi Ta vào đây, bà ấy hôn chân Ta không ngớt. 46 Ngươi không xức dầu trên đầu Ta, nhưng bà ấy đã lấy dầu thơm xức trên chân Ta. 47 Vì cớ ấy, Ta nói với ngươi, tội lỗi của bà ấy tuy nhiều nhưng đã được tha hết, nên bà ấy thương nhiều; còn ai được tha ít thì thương ít.” 48 Ðoạn Ngài nói với bà ấy, “Tội lỗi ngươi đã được tha rồi.” 49 Những người ngồi dùng bữa với Ngài bắt đầu nói với nhau, “Người nầy là ai mà có quyền tha tội?” 50 Ngài nói với người phụ nữ, “Ðức tin của ngươi đã cứu ngươi. Hãy đi bình an.”

When one of the Pharisees invited Jesus to have dinner with him, he went to the Pharisee’s house and reclined at the table. 37 A woman in that town who lived a sinful life learned that Jesus was eating at the Pharisee’s house, so she came there with an alabaster jar of perfume. 38 As she stood behind him at his feet weeping, she began to wet his feet with her tears. Then she wiped them with her hair, kissed them and poured perfume on them. 39 When the Pharisee who had invited him saw this, he said to himself, “If this man were a prophet, he would know who is touching him and what kind of woman she is—that she is a sinner.” 40 Jesus answered him, “Simon, I have something to tell you.” “Tell me, teacher,” he said. 41 “Two people owed money to a certain moneylender. One owed him 500 denarii, and the other 50. 42 Neither of them had the money to pay him back, so he forgave the debts of both. Now which of them will love him more?” 43 Simon replied, “I suppose the one who had the bigger debt forgiven.” “You have judged correctly,” Jesus said. 44 Then he turned toward the woman and said to Simon, “Do you see this woman? I came into your house. You did not give me any water for my feet, but she wet my feet with her tears and wiped them with her hair. 45 You did not give me a kiss, but this woman, from the time I entered, has not stopped kissing my feet. 46 You did not put oil on my head, but she has poured perfume on my feet. 47 Therefore, I tell you, her many sins have been forgiven—as her great love has shown. But whoever has been forgiven little loves little.” 48 Then Jesus said to her, “Your sins are forgiven.” 49 The other guests began to say among themselves, “Who is this who even forgives sins?” 50 Jesus said to the woman, “Your faith has saved you; go in peace.”

 

 

I. The Best English Word

 

> When our family came to US and found a sponsor living in Hawaii, the husband was a Marine Corps officer and his wife was a Japanese; while living with them for about a month, my sponsor taught us the first 2 best English words which are “Please & Thank You.” (Khi gia đình c/tôi di cư đến Hoakỳ, thì tìm được một người bảo trợ - ông là một sĩ quan của Thủy quân lục Chiến, với vợ là người Nhật sống ở bên tiểu bang Hawaii. Gia đình c/tôi sống với họ khoãng 1 tháng, và được ông dạy dỗ, học được 2 chữ quan trọng hay nhất trong tiếng Anh, đó là “Xin vui lòng làm ơn, và cảm ơn.”

# If we say please often, you will get help; and if you say thank you often, you will get help AGAIN. (Nếu c/ta nói chữ “please” thì sẽ được giúp đỡ; nếu c/ta cứ thường nói chữ “thank you” thì sẽ luôn được giúp đỡ tiếp.)

# Rudyard Kipling was a great British poet whose writings have blessed many people.

> One day, a newspaper reporter came up to him and said, ''Mr. Kipling, I just read that somebody calculated that the money you make from your poet writings amounts to over $100 a word.'' Mr. Kipling raised his eyebrows and said, ''Really, I certainly wasn't aware of that.'' The reporter reached into his pocket and pulled out a $100 bill and said, ''Here's a $100 bill Mr. Kipling. Now give me one of your $100 words.'' Rudyard Kipling looked at that $100 bill for a moment, took it and put it in his pocket and said: ''Thanks.'' (Đã có lần người ta phỏng vấn nhà thơ người Anh Quốc nổi tiếng tên là Rudyard Kipling, nói rằng gía trị của mỗi chữ trong những bài thơ ông viết là khoãng 100$. Người phỏng vấn móc ra tờ giấy 100$ đưa cho ông Kipling và hỏi: “Xin ông cho c/tôi biết một chữ nào của ông viết mà có gía trị 100$? Ông Kipling nhìn tờ 100$, với tay lấy, bỏ vào tùi… và trả lời: “Cám ơn.”)

 

> Gratitude is for sure a great virtue – it’s worth more than 100$; It is the mother of many other virtuous “children, meaning it produces: peace, contentment, happiness, joy, humility (Lòng biết ơn là một đức hạnh tuyệt vời, có gía trị hơn là 100$, mà có người đã nói nó giống như một “người mẹ” đẻ ra nhiều đức hạnh khác, như là sự bình an, thỏa lòng, vui mừng, khiêm tốn…)

> We all also know that a true gratitude must naturally be expressed, and that what we will learn from this morning sermon from a woman, in the occasion of this year Thanksgiving. (C/ta cũng biết rằng lòng biết ơn thật thì phải tự nhiên được bày tỏ ra, và đó là điều c/ta sẽ học hỏi sáng nay.)

 

 

II. The Event

 

> In the Scriptures we read - Why did Simon, a religious Pharisee invite Jesus to his house for a dinner? We don’t really know. (Trong đọan Kinh Thánh c/ta đọc - tại sao Simôn, một người theo phái Pharasi lại mời Chúa Giê-su đến nhà mình dùng bữa? Không biết rõ lý do.)

# Maybe because of His curiosity about Jesus, as a prophet - Who had done many miracles… and maybe He would perform a miracle today at his house? (Có thể ông tò mò muốn biết Chúa có thật là một tiên tri đã từng làm nhiều phép lạ chăng, đâu biết Chúa sẽ làm một phép lạ tại nhà ông sao?)

# Maybe Simon thought… he would gain some popularity, because he could invite a famous “celebrity” into his house? (Có thể mời một người nổi tiếng như Chúa đến nhà mình… thì cũng sẽ làm mình được nổi tiếng chăng?)

# Or maybe Simon was seeking an opportunity to accuse Jesus for the crime of blasphemy, to bring about His own execution, because we know that the Pharisees were the law-keepers, legalists, self-righteous, often wanting to trap Jesus for His words? (Có phải Simôn mời Chúa Giê-xu đến nhà mình để tìm cớ bắt bớ, lên án Chúa không, như những người Pharisi trong thời đó thường hay làm?)

> For sure, we knew later that this Pharisee, named Simon did not acknowledge Jesus as the Messiah, even doubted Him as a prophet? (Nhưng chắc một điều, Simôn là người chưa nhận biết Chúa là Đấng Cứu Thế, chính ông cũng còn nghi ngờ Ngài có phải là một vị tiên tri chăng?)

 

> During the old time, when someone invited a “celebrity” to his house, it was an opened” door custom, and anyone in that local village could come, see, and hear the discussion to learn from it; So, it was not unusual to have all kinds of people surrounding Simon’s house. (Phong tục tập quán ngày xưa lúc đó, khi một người nổi tiếng được mời đến nhà của một người, thì dân chúng trong làng đó có thể bu đông ở ngoài cửa mở toang, để xem, thấy, nghe hết được những chuyện xảy ra.)

 

a) Then what happened? (Rồi chuyện gì đã xảy ra?)

# v. 37 says, "And behold." Now the word "behold" indicates something startling, or something shocking is taking place here. (Trong c. 37 có chữ “này,” nói đến sự chú ý của một điều căng thẳng, khó chịu bất thình lình đã xảy ra trước mặt mọi người.)

> It wasn't shocking for a stranger, a local neighbor or even for a poor person to come, but behold, it was shocking that there was a woman in the city… who was a sinner that shouldn’t be there. (Điều không khó chịu mấy, nếu có một kẻ lạ, nghèo đói, đau ốm vào xem, nhưng “này” điều khó chịu, chướng mắt đó là có một người phụ nữ tội lỗi cũng ở đó nữa, mà không được phép vào.)

> This woman lived there.  Everybody knew her immoral life, she most likely was a prostitute.  She was known to all. She slipped into the crowd and came near Jesus. (Người đàn bà này sống ở làng đó, là một kẻ tội lỗi ai cũng biết những thành tích của bà, có lẽ là một cô gái điếm, bà lẻn vào giữa đám đông và đến gần Chúa Giê-su.)

# The old time custom did not allow a woman to approach a Jewish man publicly; even worse, a sinful woman could come near a Rabbi and that was a “no/no?” (Phong tục tôn giáo thời đó không cho phép một người phụ nữ đến gần sát một người đàn ông không phải là chồng mình, một cách lộ liễu ở chỗ công cộng như vậy, huống gì một người đàn bà tội lỗi được đến gần với một thầy Do Thái giáo, đây là chuyện không được phép làm.)

 

> The woman stood there, she begun weeping; And naturally she looked down and saw that the host did not provide a servant to wash the feet of Jesus… and His feet were dirty. (Bà đứng gần đó, bắt đầu khóc lóc thảm thiết, và bà nhìn xuống thấy chân Chúa Giê-su dơ, mà người chủ nhà đã không rửa cho sạch theo phong tục thời đó.)

> And so since her tears were freely running down her face and she had no water nearby, she just allowed them to fall on the feet of Jesus. (Nước mắt của bà đầm đề tuôn ra và rớt xuống chân của Chúa Giê-su.)

# The Greek word brechō, which means rain, literally she “rained” her tears on Jesus’ feet. She had no water, but her “heart” water, and it was enough to wash His feet. (Đây là những giọt nước mắt từ đáy lòng của một người yêu mến Chúa, đổ xuống như “mưa,” đủ để rửa sạch chân cho Ngài.)

 

> And then it says, "She kept wiping Jesus’ feet with the hair of her head," because she had no towel. (Vì không có khăn lau, bà dùng chính mái tóc của mình mà lau khô chân Chúa.)

# The reason she took her hair down because all Jewish women in public were required to wear their hair up; And what she was doing is a sign of shame for a woman doing that in the public. But she had no choice, except to use her hair to dry His dirty feet. (Thường thì người phụ nữ Do Thái đứng đắn đi ra ngoài đường phải che tóc lên; bỏ tóc hạ xuống là một dấu hiệu hổ thẹn, ô nhục cho một người nữ, mà chồng của người nữ đó có thể lấy cớ mà li dị.)  

# Some of the religious rabbis said… if a woman did this in public, she would be divorced

 

> Once Jesus’ feet were clean, she was kissing His feet, as an expression of affection; And then comes the final act of generosity, anointing them with the perfume from an alabaster bottle. (Chưa hết, người nữ hôn chân Chúa để bày tỏ lòng cảm xúc yêu kính Ngài, và rồi còn lấy ra một bình bạch ngọc dầu thơm, xức cho chân Chúa.)

# The perfume indicated here is not a cheap oil, but costly. It's in an alabaster container, made up from a very refined kind of marble.

> This sinful woman did not just come near Jesus, but also touched Him – a “taboo?” (a prohibited religious practice); more than that, she wiped His feet with her hair and pour perfume on them – that was very disturbing and wasteful; because people put perfume on the head, neck, hands, not on the dirty feet? (Việc mà người đàn bà này đến gần Chúa, đụng đến Ngài là một điều cấm kỵ, còn xức dầu thơm quí trên chân Chúa thật là một việc làm phí phạn.)

 

> Note that Jesus did not stop her, He did not withdraw His feet, or told her to leave the place; and everyone in that place saw it. (Chú ý là Chúa Giê-su không có cản người đàn bà này, cũng không kéo chân Ngài lại, và đuổi bà ra khỏi chỗ đó.)

 

b) v. 39 says… When Simon saw that - What did he say to himself? (Khi Simôn thấy vậy thì ông đã tự nhủ trong lòng điều gì?)

> Simon’s reason was – If Jesus was a prophet, He should know about this sinful woman and acted appropriately meaning asking her to stop and get out of his house, right? (Simôn tự suy luận, nếu Chúa Giê-su thật là một tiên tri, tại sao Chúa không biết người đàn bà tội lỗi xấu xa, mà để người đụng đến mình, thay vì phải xử lý cho đúng cách, nghĩa là phải lên án và đuổi người ra xa khỏi mình?)

> Simon concluded that… Jesus didn't know who the woman was; therefore, He's not a prophet, but Simon didn’t know that Jesus knew about this sinful woman – He came there for her; but Jesus also knew his heart - what he was thinking, and about to teach Simon a parable of gratitude, by asking "Simon, I have something to say to you," (Simôn nghĩ như vậy và tự xét - ông Giê-su này đâu phải là một đấng tiên tri, nhưng Simôn không biết Chúa biết rõ về người đàn bà tội lỗi này – Ngài đến nơi đó vì người, mà Chúa còn biết rõ Simôn nghĩ gì trong lòng, cho nên Chúa nói: “Simôn - Ta có vài điều muốn nói với ngươi”.)

 

> How did Jesus know Simon’s heart? (Làm sao mà Chúa biết lòng của Simôn nghĩ vậy?)

# Acts 15:8 says God, who knows the heart…” not satan or even angels. (Trong Công Vụ 15:8 có chép” “Đức Chúa Trời biết rõ lòng con người…” chứ ma quỉ và kể cả thiên sứ cũng không biết được.)

> If Jesus knew Simon’s heart… then it proves that He is God in the flesh. (Nếu Chúa Giê-su biết Simôn nghĩ gì thì chứng tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời trong thể xác con người.)

> Not just knowing what is going now, but in eternity. (Chúa không chỉ biết những điều hiện tại thôi, nhưng cả mọi điều trong tương lai đời đời nữa.)

# I have not planned to preach for new year 2019 yet - but the sermon that I will preach in January 2019, Jesus already knew and He is already there, but He is also here with us today.

 

c) What was the parable that Jesus told Simon about? (Chúa nói cho Simôn ẩn dụ gì?)

# About a moneylender and 2 debtors. One of the debtors owned 500 denarii, the other owned 50. (Về một chủ nợ có 2 con nợ. Một đứa thì nợ chủ 500 denarii, đứa kia thì nợ 50.)

> How much is a denarii? About a payday wage. (Đơn vị deranii bằng khoảng một ngày lương.)

# Average Lousiana wages are from 10 to 40$/hr; So, let’s just say a day wage is about 200$.

> One debtor owned 500 denarii or 100,000$; the other 50 or 10,000$ (10 times less) – (Theo định gía lương trung bình tại Louisiana, c/ta có thể tính ra một đứa nợ chủ khoảng 100K$, còn đứa kia thì 10k$.)

 

> Were both the debtors able to pay their debts? No. (Cả 2 con nợ có thể trả hết nợ của mình không?)

> What did the money lender graciously do for both of them? (Người chủ nợ đã làm gì? Tha cả hai.)

# He forgave both of them to go free.

> Now come a question from Jesus to Simon? Which of them will love the moneylender more?” (Bây giờ Chúa Giê-su mới hỏi Simôn: “Trong 2 người nợ đó, ai là kẻ yêu chủ nợ hơn?”)

> Did Simon answer the question correctly? (Simôn có câu trả lời đúng không?)

> Yes - Jesus said to Simon, "Hey, you judge correctly."  That's the right answer, that is “Whoever got forgiven the most… is going to show the most love.” (Đúng, Simôn đoán xét và trả lời đúng – ai được tha nhiều thì yêu nhiều hơn.)

> The first debtor should love the moneylender 10X more than the first one, right? Pretty simple, isn't it? (Người nợ đầu tiên phải yêu kính chủ nợ mình hơn gấp 10 lần, vì nợ nhiều hơn mà được tha.)

 

> This is a principle that even Simon accepted, came out from his mouth, right? (Đây là yếu tố mà chính Simôn cũng hiểu và chấp nhận, nói ra từ chính miệng của ông.)

> What's the principle? Great love comes from great forgiveness for greater gratitude. (Yếu tố rõ ràng đó là lòng yêu thương biết ơn của một người cho Chúa đậm đà, nhiều hay ít… tùy theo người đó cảm nhận được Chúa tha thứ mình nhiều hay ít.)

 

> In v. 44, Jesus looked to the woman, who was at His feet and then said to Simon, "See that woman and her great love and affection for me?" (c. 44 – Chúa nhìn người đàn bà tội lỗi đang ở dưới chân Ngài, mà nói với Simôn: “Anh có thấy tấm lòng yêu mến của người cho Ta không?”)

> Simon probably still wondered – “What do you mean?” (Có lẽ Simôn vẫn còn ngẩn ngơ chưa hiểu?)

> Jesus explained - "I entered your house. You gave me no water for my feet; but she has wet My feet with her tears, and wiped them with her hair. You gave me no kiss, but since the time I came in, she hasn't ceased to kiss My feet. You didn't anoint My head with oil, but she anointed My feet with her costly perfume. For this reason, I say to you, her sins which are many… have been forgiven, because she loved much; but for somebody who has forgiven little, loves little." (Chúa Giê-su giải thích: Ta vào nhà ngươi, người lại không rửa chân cho Ta, nhưng người đàn bà này không ngừng rửa chân Ta bằng chính những gịot nước mắt và còn lau khô bằng chính mái tóc của người; Ta vào nhà ngươi, ngươi không xức dầu trên đầu Ta, nhưng người đã không ngừng hôn chân ta và xức dầu thơm cho. Vì đó mà Ta nói cùng ngươi - tội của người đàn bà này rất nhiều, nhưng được tha hết, bởi vì người yêu mến nhiều; còn ai được tha thứ ít… thì yêu mến ít.)

 

 

III. Gratitude Expressed

 

> So, what should we learn about the lesson of gratitude? (C/ta học được gì về lòng biết ơn, và bày tỏ sự cảm tạ?)

> Who was the moneylender in this parable? Obviously – God/Jesus. (Ai là người chủ nợ trong ẩn dụ này? Đức Chúa Trời nhơn từ và Cứu Chúa Giê-su.)

> Who were the two debtors? You and me. (Ai là 2 người nợ? Bạn và tôi.)

 

> Does this lesson teach that Simon, the religious Pharisee was righteous and perfect? Not at all. (Đây có phải là bài học Chúa dạy ông Simôn có đạo “Tin Lành,” là người công chính không?)

# Simon was not a dumb person, but he was spiritually blinded, and just didn’t see himself as one of the debtors? (Simôn đâu phải là người kém hiểu biết, nhưng ông bị mù loà thuộc linh, mà không thấy chính mình là một trong 2 người nợ đó.)

> Simon didn’t think he was a bad sinner as compared to this woman that needed Jesus, so didn’t have to express any gratitude. (Simôn tự nghĩ mình đâu đến nỗi tệ như người nữ này, nên đâu cần Chúa cứu, thì cần chi để bày tỏ lòng biết ơn Ngài?)

# Simon answered the question correctly, but missed the truth about himself. (Simôn có câu trả lời đúng, nhưng lại hiểu sai về chính mình.)

# Don’t you know now that - Self-righteousness is such a terrible kind of blindness. (Sự kiêu ngạo thánh thật là một căn bệnh mù loà nguy hiểm, mà nhiều người không nhận biết.)

 

# The parable teaches that everyone of us are debtors to God … because all have sinned. How’s that? (Mọi người trong c/ta ai nấy đều là những con nợ với Chúa… vì mọi người đều đã pham tội. Đây nghĩa là sao?)

 

1) First, Who created us? Who gives us life? Who provides air to fill our lungs, sunlight to warm our body, and seasons/harvest for food to feed our stomach? (Trước hết – ai là Đấng đã dựng nên c/ta? Ban cho không khí để thở, những tia nắng sưởi ấm đời sống, mùa màng thực vật để c/ta ăn?)

# We own the Creator a lot – someone said every breaths, estimated to be about 23,000 times/day, but then WHO are we worshippingthe Creator or creations? (Mỗi người trong c/ta nợ Đấng Tạo Hóa rất nhiều điều, có người nói tối thiểu 23,000 điều mỗi ngày, vì trung bình đó là bao nhiêu lần c/ta thở ra hít vào – nhưng ai là Đấng c/ta đang thờ lạy? Đấng Sáng Tạo hay là những tạo vật?)

 

# A story about a dad who gave his son 5$ to buy candies and said: “Don’t forget to thank God?”

> The boy puzzled “Dad, why thank God when you are the one who gave me 5$?”

> His father explained: “Where do I get the money to give you?” “Well, you work and your Exxon company pays you, and you have the money to give me.”

> His father continued: “How does Exxon make the money to pay me?” “Well, they discover the oil underground, refine it to gasoline, sell it, and people who pump gas pay them.”

> His father asked his son further: “Where does the oil come from for them to explore?”

> The boy finally understood: “Now, I understand why I have to thank God, even though you are the one who gave me 5$.”

> We own nothing, because God created everything for us! So, we must be grateful to Him. (C/ta không có chi thuộc riêng của mình, vì Đức Chúa Trời dựng nên mọi thứ, cho nên c/ta phải biết ơn Chúa.)

 

2) Secondly, God saved us from the eternal judgment of sin, by sending Jesus Christ, His Son into this world to die for our sins on the cross, and restores our relationship with Him, so that one day, we can live in heaven with God. (Thứ hai, Chúa đã cứu c/ta khỏi sự phán xét của tội lỗi, bằng cách sai Con Ngài đến thế gian, để chết thay thế cho c/ta ở trên cây thập tự, hầu cho c/ta có lại mối liên hệ với Đức Chúa Trời, và được ở trong nhà Ngài một ngày.)

> Jesus died in our place, so we don’t have to die. (Chúa Giê-su đã chết thế chỗ cho c/ta, hầu để không một ai phải chết nữa.)

> You would not understand this until you understand that - anytime somebody forgives a debt, he himself incur that debt in full. (Bạn sẽ không thể hiểu điều này, cho đến khi bạn hiểu… khi một người tha nợ cho một người khác, thì người ấy phải chịu, phải gánh lấy số nợ của người đó.)  

# If I lend you 100k$ and you can't pay, and I say, "I forgive your debt," that means now I have to incur that debt completely. That debt is now mine. The 100k$ cost is transferred to me, charged to my account. I have to pay it. (Nếu tôi cho bạn mượn 100K4, mà bạn không thể trả nổi, và tôi nói: “tôi tha nợ cho bạn,” nghĩa l; à bây giờ tôi phải gánh lấy số nợ 100k$ đó, phải trả số nợ đó đàng hoàng, phải không?)

> When God forgave your sins and mine, He then incurred/charged the debts on Jesus Christ - Who died to pay it. The debt doesn't go away. It still has to be paid, but the forgiver incurs it and pays it. So, it's not just forgiveness and it's done. It's forgiveness and then the debt is transferred to the forgiver. (Khi Chúa tha thứ tội lỗi của c/ta, Ngài đổ mọi món nợ tội lỗi đó trên Con Ngài, Chúa Giê-su phải gánh lấy trên cây thập tự. Món nợ đó không tự nhiên biến mất; nhưng Đấng tha tội cho c/ta đã phải gánh lấy trên thân thể của Ngài.)

 

> What would make somebody as this sinful woman so loving, and so grateful to Jesus? Why is this so much love being poured out?  (Điều gì đã cảm động người phị nữ yêu mếu Chúa Giê-su quá vậy?)

# The simple answer is, "this woman whose sins were many have been forgiven, for she loved much.” (Câu trả lời đơn giản thôi, vì người nữ này tội nhiều, được tha nhiều, thì yêu mến Chúa nhiều.)

# No one accepted her because of what she did - but Jesus welcomed her as she was. (Chẳng có ai tiếp nhận bà vì lối sống tồi bại của mình, nhưng Chúa Giê-su chấp nhận người khi đến với Ngài.)

# No one could forgive her sins, worse than many other people, but Jesus graciously could. (Không ai có thể xóa hết tội lỗi của bà, nhiều hơn mọi người khác, nhưng Chúa Giê-su có thể làm được.)

# No one could have the power to restore her relationship with God – only Jesus could. (Không ai có quyền năng để hàn gắn lại mối liên hệ của bà với Đấng Tạo Hóa, nhưng chỉ một mình Chúa Giê-su có thể làm được.)

# No one could promise and give her the hope of the eternal life in heaven - only Jesus did. (Không ai hứa cho bà sự bình an và hy vọng của sự sống đời đời, chỉ có Chúa Giê-su có thể mà thôi.)

 

> She had been forgiven, the guilt and shame were gone; And her life was different now, longings after holy and righteous things that began to occupy her heart, with gratitude, with affection and love for the One who had forgiven her. (Tội lỗi của người phụ nữ đã được xóa sạch, giờ đây đời sống biến đổi, tấm lòng của bà tràn đầy lòng biết ơn Chúa là Đấng Cứu Chuộc của mình.)

> Her act of approaching to Jesus with tears was an expression of her repentance, and faith. (Việc người phụ nữ đến gần Chúa mà khóc… biểu lộ lòng ăn năn thống hối và đức tin của người.)

> Her act of wiping Jesus’ feet with her hair and perfume was an expression of her gratitude for Jesus Who forgave her sins. (Hành động bà lau chân Chúa với chính nước mắt mình và xức dầu thơm cho chân Chúa biểu lộ thực tế lòng biết ơn Chúa đã tha tội cho người.)

> That was the exact reason why the sinful woman did what she did to express her gratitude for Jesus Who forgave her sins.

 

3) In v. 49, those who were reclining at the table with Him began to say to themselves, "Who is this man who even forgives sins?" (c. 49, những người ngồi cùng bàn khi nghe như vậy thì tự hỏi: “Người nầy là ai mà có quyền tha tội?”)

> They knew Jesus could teach, preach, heal, and cast out demons; But could this man Jesus even forgive sins? For who can forgive sins alone? But God. (Họ từng biết Chúa có thể giảng dạy, chữa bệnh, đuổi quỉ, nhưng việc tha tội thì chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm được thôi?)

> This was the second evidence that Jesus is God… for He can forgive our sins. (Một lần nữa, Chúa Giê-su chứng tỏ cho mọi người biết chính Ngài là Đức Chúa Trời thành nhân đang ở trước mặt họ, có quyền năng tha tội.)

 

4) Because the woman’s faith that saved her, and her love was expressed, all her sins are forgiven - Jesus said to the woman - "Go in peace," literally, "Go into peace, Go into God's Shalom and live there forever." (Bởi đức tin, tội lỗi của người phụ được tha, và Chúa Giê-su phán cùng người: “Ðức tin của ngươi đã cứu ngươi. Hãy đi bình an,” nghĩa là hãy đi và ở trong sự bình an của Chúa ban cho, vì nay người đã được hòa thuận lại với Ngài.)

 

---------------------

> Why so many people still not believing in Jesus? (Tại sao vẫn còn rất nhiều người chưa tin nhận Chúa Giê-su và kinh nghiệm sự bình an thật trong thế giời đầy những biến động/sóng gío?)

# Because they have not recognized that they are the hopeless sinners and cannot save themselves. (Bởi vì họ chưa nhận thức sự bất an trong tấm lòng do tội lỗi mình gây ra, và sự bất toàn vì không có cách nào để cứu mình khỏi sự phán xét cuối cùng.)

 

a) Until you and I know who we are (the real us) – we would not know what gratitude is. (Cho đến khi nào bạn hiểu mình là ai, con người thật của mình là ai, thì bạn mới biết ơn Chúa.)

> Unless, you and I recognize where we are heading eternally in the lake of fire – you would not know what gratitude is. (Cho đến khi nào bạn hiểu mình sẽ đi về đâu đời đời trong hồ lửa địa ngục, thì bạn mới hiểu sự biết ơn Chúa Giê-su là gì.)

> Biết bao nhiêu người, kể cả cơ đốc ngày hôm nay đang sống không tự “soi mặt mình trong gương” mỗi ngày để thật sự thấy “con người thật của mình” là ai trước sự công bình của Chúa, để thấy những tội lỗi thầm kín phần linh của mình, ấy là sự dâm dục trong ý tưởng mà không ai biết, kiêu căng, ghen tương, tham lam, thù hằn, cay đắng, oán giận… đang nằm tìm ẩn bên trong lòng mình.

 

b) Until you and I understand what God has done for us and promised to us, gratitude would never come or be expressed? (Cho đến khi nào c/ta nhận biết Chúa Giê-su đã làm và hứa gì cho mình, thì bạn sẽ không bao giờ biết bày tỏ lòng biết ơn Ngài.)

> If Jesus doesn’t come to die on the cross and pull us out the condemnation of sins, restore our relationship with God, and promise to bring us in heaven, we have no hope. (Nếu Chúa Giê-su đã không bằng lòng chết trên cây thập tự cho tội lỗi của c/ta, hàn gắn lại mối liên hệ với Đức Chúa Trời, ban cho lời hứa của nước thiên đàng, c/ta sẽ không có sự hy vọng.)

> But you must acklowedge that and ask Jesus for it. (Nhưng muốn được sự cứu rỗi, bạn phải đến với Chúa, như người phụ nữ trong câu chuyện này, với tấm lòng ăn năn và tin nhận Ngài.)

 

> There is a beautiful Vietnamese word… that expresses gratitude is “Cảm Ơn.” (Người Việt c/ta có một chữ rất hay để diễn tả lòng biết ơn – “Cảm Ơn.”)

# This is really a double-word: “Cảm” means heart-felt, deeply, sincerely, strongly felt; and “Ơn” means to express gratitude. (Thật ra đây là 2 chữ kép: chữ “Cảm” liên hệ đến cảm xúc từ bên trong đáy lòng, mà từ đó xuất ra chữ “Ơn,” có nghĩa là “tạ ơn, lòng biết ơn.”)

> You would not know what gratitude is and express it out… until you experience a heart-felt, knowing of what God has done for you in Jesus Christ. (Bạn sẽ không bao giờ biết bày tỏ “Ơn,” cho đến khi nào trước hết bạn “Cảm” nhận được trong đáy lòng mình những gì Chúa đã làm cho mình trong Đức Chúa Giê-su Christ?)

 

> So, are you a heart-felt and grateful… or an UN-thankful person today? (Nhân mùa lễ Tạ Ơn năm nay và sau khi nghe lời Chúa chia xẻ, mỗi người hãy tự xét, tôi là ai trong sự kiện này? Tôi có đang sống phản ảnh giống như người Pharisi, không nhận biết mình là một kẻ tội nhân cần được Chúa cứu để “Cảm Ơn Ngài không? Hay là mình sẽ như người đàn bà xấu nết, một kẻ tội nhân đã được Chúa Giê-xu cứu, mà nay muốn dâng của lễ thờ phượng để bày tỏ lòng biết ơn Ngài?)

 

> Believe in Jesus and be grateful for what He has done for you and me! May you experience all God’s blessing and His peace (shalom) this Thanksgivng season. (Hãy tin nhận Chúa Giê-su và bày tỏ lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. Thành thật kính chúc mọi người nhận được một mùa lễ Tạ Ơn bình an, như người phụ nữ trong sự kiện này đã kinh nghiệm, sau khi người đã gặp được Chúa Giê-xu ở tại nơi chân Ngài!)

------------------------------ Invitation

 

> The sermon this morning is not really about the immoral woman, or Simon… but about you and me

> Because Jesus came to seek and to save the lost, and we are all lost

> He is the Savior for all. He came to die on the cross for all our sins.

> Jesus has the power to forgive all your sins, just as the moneylender in the parable graciously forgave the 2 debtors.

> He already did it, and completed on the cross.

 

> Jesus was a friend of immoral sinners like the prostitute, as well as the religious sinners like the Pharisee, Simon.

> Jesus wants to be your friend; He wants to save you from the guilt and shame of sins, and bless you with the peace of God.

 

> Come to Jesus as an expression of your faith and follow Him as an expression of your gratitude… and you will find the perfect peace, that the world cannot give you.

> Bring all you guilt and shame to Jesus, put at His feet and go home with peace – God’s shalom.

 

----------------------

> Come to Jesus, repent your sins, and just say “Thank you, Jesus… for saving me!”

> Do you see yourself in the Scriptures today?

> Are you more like the repented and grateful woman or self-righteous Simon – the Pharisee?

> Do you want to go home in peace today, or continue to carry your burden of sins?

> Why not take the easiest and only road that Jesus has provided for all of us?

> The road of repentance and faith in Jesus?

> No one ever comes to Jesus with a sincere heart that He rejects.

 

> It maybe difficult for you to come to Jesus, because some people (maybe even your loved ones) will not be happy with your decision, but for sure - they cannot save you, forgive your sins, and give you eternal life in heaven, and peace today, but only Jesus can.

 

> How many are willing to say to Jesus – “Lord Jesus! Save me today?

 

---------------------------

> Have you experienced the total transformation of forgiveness that fills your life with peace, joy, contentment and gratitude?

> It is that gratitude of love for Christ that is the greatest proof visible to people of the power of the gospel of Jesus.

> Let us put on display our gratitude and love for our Lord; So, the world will take note that our sins have truly been forgiven. 

> Offer Him your best!

# You may not have an expensive alabaster jar of perfume to express your gratitude to Him, but you can offer your life to show your gratitude to the One Who died for you.

> Make a commitment to serve Him and others today.