Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 78

Bạn Có Khéo Nghe Không?

(How Well Do You Hear?)

Luca 8:4-15

 

“Khi có đoàn dân đông nhóm lại, và người hết thảy các thành đều đến cùng Ngài, thì Ngài lấy thí dụ mà phán cùng họ rằng: 5 Người gieo giống đi ra để gieo giống mình. Khi vải giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết. 6 Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm. 7 Một phần khác rơi vào bụi gai, gai mọc lên với hột giống, làm cho nghẹt ngòi. 8 Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên, và kết quả, một thành trăm. Đương phán mấy lời đó, Ngài kêu lên rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe. 9 Môn đồ hỏi Ngài thí dụ ấy có nghĩa gì. 10 Ngài đáp rằng: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm nước Đức Chúa Trời; song, với kẻ khác thì dùng thí dụ mà nói, để nó xem mà không thấy, nghe mà không hiểu… 11 Nầy, lời thí dụ đó nghĩa như vầy: Hột giống là đạo Đức Chúa Trời. 12 Phần rơi ra dọc đường, là những kẻ nghe đạo; nhưng về sau ma quỉ đến, cướp lấy đạo từ trong lòng họ, e rằng họ tin mà được cứu chăng. 13 Phần rơi ra đất đá sỏi là kẻ nghe đạo, bèn vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi; nên khi sự thử thách đến, thì họ tháo lui. 14 Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín. 15 Song phần rơi vào nơi đất tốt, là kẻ có lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ và kết quả một cách bền lòng.”

(While a large crowd was gathering and people were coming to Jesus from town after town, he told this parable: 5 “A farmer went out to sow his seed. As he was scattering the seed, some fell along the path; it was trampled on, and the birds ate it up. 6 Some fell on rocky ground, and when it came up, the plants withered because they had no moisture. 7 Other seed fell among thorns, which grew up with it and choked the plants. 8 Still other seed fell on good soil. It came up and yielded a crop, a hundred times more than was sown.” When he said this, he called out, “Whoever has ears to hear, let them hear.” 9 His disciples asked him what this parable meant. 10 He said, “The knowledge of the secrets of the kingdom of God has been given to you, but to others I speak in parables, so that, “‘though seeing, they may not see; though hearing, they may not understand.’ 11 “This is the meaning of the parable: The seed is the word of God. 12 Those along the path are the ones who hear, and then the devil comes and takes away the word from their hearts, so that they may not believe and be saved. 13 Those on the rocky ground are the ones who receive the word with joy when they hear it, but they have no root. They believe for a while, but in the time of testing they fall away. 14 The seed that fell among thorns stands for those who hear, but as they go on their way they are choked by life’s worries, riches and pleasures, and they do not mature. 15 But the seed on good soil stands for those with a noble and good heart, who hear the word, retain it, and by persevering produce a crop.)

 

 

I. Hearing

 

> Bạn có khéo nghe không? (How well do you hear?)

# Mỗi năm ở sở, tôi phải đi thử nghiệm sự nghe, vì có khi phải làm việc trong các công sưởng có nhiều tiếng máy lớn, mà có thể làm tổn hại đến sự nghe của mình. (Each year, at work – my company sends me to do a physical check-up; one of the checklists is the hearing test to make sure it is still good, because I work in many places having loud noises that can damage my hearing.)

> Họ bỏ tôi vào một cái hộp kín, với cái headphone (ống nghe) trên đầu và một máy bấm trên tay. Mỗi lần có một tiếng kêu mà tôi nghe được thì phải bấm nút. Những tiếng động này khác cường độ nhau và khác loại, trổi lên khác thời điểm, kêu từ lớn đến nhỏ. Sau khi thử nhiệm khoãng 10 phút, thì máy sẽ tự động tính độ nghe của hai lỗ tai mình có còn chính xác không? (They put me into an insulated box, with a headphone, and a button device – everytime, I can hear a beep, I push the button. The beeps have different decibels from loud to very soft. And after about 10 minutes, the machine gives my hearing test results.)  

> Đương nhiên là ngồi ở trong cái hộp đó, tôi phải hết sức để ý mà lắng nghe, không đụng đậy, không cựa quậy hay di chuyển, cũng không dám thở mạnh, vì hơi thở của mình cũng có thể làm ác đi tiếng kêu. (Of course, sitting in that box, I have to be very attentive in listening, not moving, or even breath heavily, because my breath could disrupt the beep sound.)

> Muốn khéo nghe, c/ta phải chú tâm để nghe. (So, if you want to listen well; you must pay attention, focus on hearing.)

> Không phải để ý lắng nghe mà thôi, nhưng muốn khéo nghe, bạn phải cố gắng hiểu những lời người ta nói với mình có nghĩa là gì. (But listening well is not just about focusing, but you must understand the spoken words from the other person.)

 

> Quí vị có biết sự nghe mà ông Trời ban cho mỗi người c/ta cũng rất quan trọng cho đời sống tâm linh của c/ta. Vì trong sách Rô-ma 10:17 có chép – “Như vậy đức tin đến bởi những gì người ta nghe, và những gì người ta cần nghe là lời của Ðấng Christ được rao giảng.” (Hearing is a gift from God that is given to mankind; more than that, through hearing, a person can come to have faith, as said in Romans 10:17 – “Consequently, faith comes from hearing the message, and the message is heard through the word about Christ.”)

> C/ta đến nhận biết Đức Chúa Trời có thật, không phải chỉ qua sự quan xát bằng mắt, thấy những sự sáng tạo của Ngài mà thôi, nhưng c/ta còn có đức tin nơi Chúa, vì được nghe và hiểu lời giảng về chương trình cứu chuộc của Ngài trong Cứu Chúa Giê-su nữa. (We come to know God, the great and mighty Creator, not just by seeing His creations, but also by hearing and understanding the message of God’s salvation… that has been completed in Jesus Christ – His Son.) 

> Bởi sự nghe về Tin Lành – c/ta nhận biết được mình là tội nhân, sẽ bị hư mất đời đời trong hồ lửa địa ngục, nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho con đường cứu rỗi không điều kiện, để c/ta thoát khỏi sự đóan phạt của tội lỗi, mà còn được vào nước thiên đàng đời đời một ngày… thì không phải là tin tức tốt lành sao? (Because of hearing about the Gospel of Jesus, we come to acknowledge our sinful nature and the judgment of sins, but also receiving the gift of eternal life for those who believe.)

> Ai khéo nghe lời dạy dỗ của Chúa Giê-su, hiểu, và gìn giữ lấy… thì sẽ được phước, không phải chỉ những phước tạm bợ ở đời này thôi, nhưng Thiên Phước, đó là sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. (Those who listen to God’s words, understand and keep them… will be blessed, not just the things of this world, but also to receive the eternal kingdom of heaven.)

 

> Vì điều này quan trọng, cho nên chính Chúa Giê-su đã có lần dạy một ẩn dụ về “Người Gieo Giống” - để giúp cho c/ta… nghe cho khéo, hiểu cho rõ, và vâng lời làm theo cho kỹ… mà được phước. (Because this is so important – matter of eternal life and death, Jesus taught this parable – The Sower to help us learning to listen well, understanding clearly, and carefully obey… to be blessed.)

 

> Tuần trước trong bài giảng c/ta nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Quyền Năng, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến để cứu chuộc nhân loại, và quyền năng của Ngài được bày tỏ qua phép lạ Chúa chữa lành bệnh sốt nặng cho bà gia của Phiêrơ. (Last week, we have learned about Jesus’ power through His miracle healing Peter’s mother-in-law of a high fever.)

> Quyền năng của Chúa Giê-su còn được bày tỏ bằng những lời dạy dỗ khôn ngoan tuyệt vời, qua ~48 ẩn dụ Chúa đã dung có chép trong 4 sách Tin Lành. (But Jesus’ power and wisdom are also demonstrated by His amazing teachings through recorded 48 parables in the 4 Gospels.)

 

# Ẩn dụ là gì? Là những câu chuyện đơn sơ trong cuộc sống bình thường mỗi ngày Chúa dùng để dạy một ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp, chẳng hạn như về nước Đức Chúa Trời, là điều trừu tượng, khó hiểu, và mắt chưa thấy. (What is a parable? It is an ordinary everyday life-event that Jesus used to teach a spiritual meaning, difficult subject to understand, such as “heaven” that our eye have not seen yet.)

> Ẩn dụ của Chúa có chiều hay tuyệt đỉnh hơn tất cả mọi sự dạy dỗ khác, vì Ngài nhìn biết rõ được tấm lòng bên trong, sự suy nghĩ và nhu cầu của mỗi người c/ta. (Jesus’ parables have a deeper dimension than any other teachings, because when Jesus spoke these parables, He knew what was in the heart of the listeners.) 

# Kinh Thánh Luca 7 chép… có lần Chúa được ông Simôn người Pharisi, mời đến nhà ăn thì có một người phụ nữ xấu xa đến dưới chân Ngài, rửa chân Chúa bằng nước mắt, lau bằng tóc nàng mà còn lấy một bình dầu thơm quí gía xức chân cho Ngài nữa. Kinh Thánh chép khi Simôn thấy như vậy thì tự nhủ trong lòng, chưa nói ra - nếu Chúa thật là một Đấng tiên tri thì Ngài phải biết người nữ tội lỗi này là ai mà xua đuổi người đi; // Vả lại, bà này thật là phí phạn. Nếu lấy dầu thơm đó bán đi, lấy tiền cho kẻ nghèo thì có tốt hơn không? (Do you remember an event recorded in Luke 7 when Jesus was invited by a Pharisee, named Simon for a dinner. During the meal, there was a sinful woman who came at Jesus’ feet, used her tears to wash His feet, wiped with her own hair, then broke an expensive perfume bottle to pour on His feet. Simon observed and thought to himself – if Jesus is a real prophet, He should know that this woman is sinful and the appropriate action is to prevent her to touch him; Also, Simon thought - it would be better if that expensive perfume bottle could be sold and give the money to the poor.) 

# Chúa biết tấm lòng, sự suy nghĩ bên trong của Simôn, cho nên Chúa bèn kể cho Simôn nghe một ẩn dụ về một người chủ có 2 con nợ. Một đứa nợ ít, đứa kia thì nợ một số tiền khổng lồ rất lớn; và vì cả 2 không trả nổi, người chủ thương xót tha cho cả 2 được hết nợ. Xong rồi thì Chúa hỏi Simôn – trong 2 người nợ này, thì ai là người yêu người chủ hơn? (Knowing Simon’s inner thought, Jesus told him a parable about an owner having 2 debtors: one owned him some small amount of money; the other owned him an enormous debt. And because both of them could not pay back, the landlord acquit both of them to go free, and here comes the question to Simon - Jesus asked: In these two debtors – Now which of them will love the landlord more?)

> Ẩn dụ Chúa dùng rất đơn sơ, dễ hiểu, nhưng đâm sâu trong tấm lòng chai đá của Simôn, để ông biết tự xét lấy chính mình mà ăn năn, thay vì xét đoán người khác, mà chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có quyền mà thôi? (This is a very simple parable, easy to understand, but it had pierced Simon’s heart to exam himself, not to judge others that only God has the right to do.)

 

 

II. Ẩn Dụ Người Gieo Giống  

 

1) Khi muốn tìm hiểu được ý nghĩa của một ẩn dụ Chúa dạy, điều trước tiên, c/ta phải nhận biết những vật và nhân vật trong đó biểu hiệu cho những gì? (To understand a parable, you first must recognize what do the things and people in the parable represent.)

 

a) Trong ẩn dụ đọc sáng nay - Người đi gieo giống đây… là những ai đi ra giảng đạo Tin Lành. (The parable we read this morning – the Sower is anyone who goes out and proclaims the goodnews of God’s salvation.)

 

b) Hạt giống đây… là Đạo, là Tin Lành, là lời của Chúa Giê-su, là Cứu Chúa Giê-su, là Con Đường Cứu Rỗi dẫn về nước thiên đàng. (The scattering seed here is the Gospel, the goodnews, the words of Jesus Christ, the Way that leads to eternal life in God’s heavenly kingdom.)

 

c) Trong ẩn dụ này hạt giống được gieo vào 4 loại đất… biểu hiệu cho 4 tấm lòng hấp thụ Tin Lành khác nhau, mà sanh ra kết quả khác nhau, tùy theo sự nghe đạo của mỗi người như thế nào. (In this parable, there are 4 different kinds of soils… representing 4 different hearts of those who hear the message and response to produce a crop or not.)

 

2) Điều thứ hai c/ta cần nhận biết đó là ai trong c/ta cũng có tai để nghe; và đó là đặc ân Chúa ban; nhưng nghe có hiểu và chịu vâng lời làm theo không là một chuyện khác – đó là điểm Chúa Giê-su muốn dạy dỗ ở trong ẩn dụ này. (We need to understand Jesus’ teaching in this parable is NOT about if we can hear the message, because we all have ears; But how do we hear, understand, and follow up with obedience… to gain a fruitful and effective life for God’s kingdom.) 

 

a) Tấm lòng nghe của người thứ nhất, khi hạt giống, là đạo của Chúa được gieo vào, là chỗ đường người ta đi không có đất, có thể chỉ là xi-măng, thì chỉ làm cho những hạt giống nằm trơ trên mặt đất, và chim trời thấy bay xuống ăn mất mà thôi. (The first heart to receive the seed is compared as a walking path, having no soil for the seed to penetrate, liked on a cement walkway; So, the seed is just exposed on the surface and the birds come down and eat them.)

> Đây là những người có thể được mời đến nhà thờ - họ thấy không khí tưng bừng vui nhộn, rất thích và chịu nghe đạo… nhưng lại không hiểu, và chỉ có một cảm xúc mạnh, bốc lên một chút như lửa rơm, rồi tắt ngay. (These can be the people who come to the church, feel excited for a moment, hear the words of Jesus preached, but do not understand what they mean.)

 

> Tại sao có những người nghe cùng một ẩn dụ, cùng lời của Chúa Giê-su dạy… mà không hiểu? (Why are there people who hear the same message as others, but do not understand?)

# Là vì trong tấm lòng của họ đã có sẵn những thành kiến về Đạo mà luôn chống cự lại. (Because in their heart, there are bias and prejudice against Jesus and His teachings, that have been building up from their proud self-reliance with no heart of submission to God, as the Pharisees had.)

# Ngày xưa tôi có thành kiến rất ghét những người theo đạo Báptít. Khi đến ngày thứ Bảy, tôi thấy mấy người tín đồ Báptít đi thăm viếng chứng đạo, gõ cửa là tôi thích mời họ vào nhà; không phải để nghe họ giảng đạo, nhưng để cãi lý coi ai đúng; vì trong đầu tôi lúc đó đã có sự suy nghĩ sẵn đây là những người truyền bá đạo dối, mình phải dạy cho họ một bài học.

 

# Tôi tin rằng, đôi khi c/ta cũng có sự suy nghĩ tương tự, nhất là khi đến giờ giảng thì đầu óc của c/ta lại có sự suy nghĩ: “Ông mục sư lại giảng nữa, cứ giảng về một đề tài hoài, nghe thấy mà chán.” (Some of us may have the same prejudice when it comes to the preaching time – you may say to yourself: “It’s that time again; this is boring, same message every week…”)

> C/ta đã tự dựng sẵn một bức tường dầy và cao, cho nên c/ta đâu có chịu nghe; C/ta ngồi đó ngủ gục, vẽ dung nhan của người ngồi bên cạnh, tính toán những việc mình phải làm khi về đến nhà, xem Iphone, tìm tòi trong mạng google, hay nói chuyện với người ngồi bên cạnh.” (You begin to build walls and fences, so you cannot hear the message anymore. Some will sleep during the sermon time, others just think and plan what to do after church today; some draw pictures of the people sitting next to them, look at Iphone, search the webs, or talking.)

 

> Hậu quả là gì khi c/ta chưa chịu lắng nghe, hay nghe mà chưa hiểu? (What happens if you get distracted and do not listen to understand?)

# C/ta sẽ không bắt đầu vâng lời làm theo những lời dạy dỗ, những chân lý… để cho đời sống tâm linh được tăng trưởng. (You will not know to obey Jesus’ teachings; and the result is your spiritual life stays the same, your faith is NOT growing to produce any spiritual fruits.)

# Vì vậy mà có số người khi đi đến nhà thờ, bước vào là một “em bé thuộc linh,” ra về vẫn là một em bé y chang, chẳng thay đổi hay tăng trưởng chi hết. (For that reason, some come into the church as spiritual babies, come out of the church, still stay as babies; and the sad thing is that this happens weeks after weeks.)

> Họ đã để những thứ lo ra, thành kiến cản trở, lấn át… không cho lời của Chúa Giê-su thấm vào lòng của mình, để nghe, để hiểu và được biến đổi đời sống mình. (They allow life distractions, bias, prejudice block the hearing of the message to understand, follow through, and change.)

 

b) Loại đất thứ hai là những người rất thích nghe giảng đạo trong nhà thờ, nhưng khi về nhà, thì quăng ngay những sự nghe và hiểu về đạo Chúa ra ngoài cửa sổ - Tại sao? (The second heart is compared as shallow and rocky soil reflecting those who gladly follow Jesus for miracles, bread, and promises of blessings; but as soon as they get home, they throw away Jesus’ words out of the window. Why?)

> Vì sự bắt bớ, dèm pha của những người xung quanh, nhất là những người thân trong chính gia đình của mình. (Because they face persecutions from the crowd, even their own relatives, their boy or girl friends, their community, their co-workers.)

# Nghe đạo Chúa Giê-su dạy thì hay vô cùng, nghe rất là có lý, nhưng khi phải trả gía để giữ đạo thì hết còn thú vị nữa. (Hearing Jesus’ words is awesome, but paying a price to live for Jesus is not too good?)

 

> Những người sống trong các nước Hồi Giáo hay cộng sản, họ phải đối diện với những sự bắt bớ kinh khủng mỗi ngày. Mỗi ngày họ phải trốn chui nhủi để mới được thờ phượng Chúa. Tin Chúa là một sự đổi chác, mất mát lớn lao của họ: mất của, mất chức, mất job, có khi mất mạng. (Many Christians living in communist or extreme Muslims countries, they have to pay the prices everyday; to them, believing in Jesus means a trade of faith for their job, their possesions, their freedom, even their life.)

 

# Đi họp với cộng đồng, tôi thấy trong chương trình có mục hát bài – “Thề nguyện không phản bội quê hương…” (Last Sunday, we had an opportunity to celebrate Tet with the Vietnamese Community. In the program, there is a song titled “Swearing never to betray your country.”)

> Tôi thấy người đời mà còn quyết tâm “lời thề trung tín” với tổ quốc đến như vậy, còn những người nghe và tin theo Chúa Giê-su thì sao, c/ta sẽ làm kém hơn sao, c/ta có dám thề nguyện không bỏ đạo Chúa, cho dù chuyện khó khăn hay bắt bớ gì xảy ra không? (Even the non-believers understand the loyalty to our country; I wonder how many of us as Christians living in US would swear never betray Jesus Christ our King, even if we have to face coming persecutions? If next Sunday, anyone wants to go to church and worship will have to pay a fine, even losing your job, shutdown your shop – then how many will be here?)

 

> Có số người nghe lời Chúa ở nhà thờ, nhưng đem về để trên kệ chưng, trì hõan không đem ra thực hành ngay để lời Chúa châm rễ, đến khi đối diện với những “đá sỏi của sự bắt bớ” thì hạt giống bị chết ngộp không còn sống được nữa. (Some hear the words of Jesus, but when they come home, they put what they just heard on the shelves, procrastinate to obey, delaying for the truths to be rooted in the soil, until they face the “rocks” of persecutions, then the seed dies because “Having no root will bear no fruit.”)

 

c) Loại đất thứ ba là loại đất có nhiều bụi gai, là những người rất thích nghe đạo Chúa lắm, nhưng chưa đặt lời nghe của Chúa làm ưu tiên cho đời sống của mình. (The third heart is compared to a thorny soil. These are materialists - who seek only for earthly wealth more important than spiritual riches. They have weak eyesights and cannot see the unseen but eternal treasures. They have not put Jesus’ words as the life priority.)

# Ưu tiên là gì? Là những việc số một, phải có và phải làm… trước khi các việc khác. (What is a priority? It’s the thing that you must have first, you must do first… before all other things.)

> Vô số người thích nghe đạo lắm, nhưng những lời này vẫn chưa phải là việc phải làm trước tiên, làm ngay, thực hiện liền… hơn là những việc làm cho họ được giàu sang, sung sướng, nổi tiếng, có quyền chức; là vì Chúa Giê-su chưa là Vua của đời sống mình. (Many people love to listen to the teaching and preaching of the Word, BUT this is not yet their life priority… more than the things that can make them richer, having more money and power, becoming famous, having a comfortable life; Simply, because Jesus is not yet their Lord and King.)

  

> Đây có thể là tình trạng của vô số con cái Chúa đang sống trong đất nước tự do, tiện nghi và phóng túng này với quá nhiều những sự mời mọc, mua sắm, thú vui và cám dỗ; mà những điều này có thể lấn át. chiếm mất những điều họ đã nghe, làm lời Chúa Giê-su bị ngộp và không sanh ra việc làm được. (This is the condition of a typical Christian living in America where life has so many opportunities to enjoy pleasures and achieve best comforts; but these can choke our hearing of Jesus’ words on how to live an abundant life.)

> C/ta sống ở bên đây không bị bắt bớ như những người tín hữu sống ở bên các nước cộng sản, hay hồi giáo, nhưng c/ta rất dễ bị dụ dỗ, bị thôi miên, bị đóng khung vào một nếp sống bên ngoài trông thật khỏe mạnh, sang trọng, giàu có, nhưng con người thuộc linh bên trong đang “ốm tong teo,” như đức tin không có ruột, vì mỗi tuần đến nhà thờ nghe giảng đạo, nhưng chỉ lấy nghe mà làm vừa lòng mình. (Christians living in this country is different from those who face persecutions in a communist or Muslism country – from outside, we all look very healthy and wealthy with Iphone 10, expensive cars, big & nice homes; But from inside, it can be a spiritual “skinny skeleton” full of bones, because we perfectly satisfy only with what we hear each week.)

# Nếu đếm, không biết c/ta nghe được bao nhiêu bài giảng, học được bao nhiêu bài học Kinh Thánh? Nếu mỗi Chúa Nhật bạn đến nhóm thường xuyên học lớp TCN, nghe 1 bài giảng, và giữa tuần đi học thêm Kinh Thánh nữa, thì một năm bạn đã nghe được đến khoãng 156 sứ điệp – nhưng câu hỏi là c/ta đã áp dụng được mấy điều rồi, đếm được trên đầu ngón tay của mình không? (If you count how many sermons, how many Bible lessons, how many devotions you absorb in a year, it can be more than 156 messages, but the real question is – how many of these messages, we have heard that we have put into actions, meaning to obey God?)

# Có người nói rất đúng: “Một sự vâng lời vẫn tốt hơn… là được nghe 1,000 bài giảng.” (Someone said so true – “An act of obedience is worth more than listening to 1,000 sermons.”)

 

 

III. Đất Tốt - Nghe Lời và Làm theo

 

> Loại đất thứ tư là đất tốt, hạt giống gieo vào, sanh nụ, nở hoa, sai trái xum xuê – 30, 60, 100. (The fourth heart is compared to a good soil that helps the seed to grow, later producing fruits – 30, 60, and even 100.)

> Đây là những người không chỉ lắng tai nghe lời Chúa, nhưng họ còn hiểu rõ được ý Chúa muốn dạy gì, mà khi ra về còn đem lời Chúa ra thử nghiệm vâng giữ làm theo. (These are the one who not just hear the words, but understood God’s will, and test them… as soon as they get out of the church.)  

 

> Quí vị có kinh nghiệm những lời dạy dỗ mầu nhiệm của Chúa Giê-su không vì đã đem ra thực hành không? (Have you experienced the truths of Jesus’ teachings, because you have tested them?)

a) Quí vị có kinh nghiệm lời của Chúa Giê-su đã nói: “Người nào ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh” không? (Have you experienced Jesus’ words – “It is more blessing to give… than to receive?”)

 

b) Quí vị có kinh nghiệm lời Chúa hứa ban phước và giữ của cải cho c/ta, trong Malachi 3:10-12 – “Hãy đem tất cả phần mười vào kho để có lương thực trong nhà Ta. Từ nay các ngươi khá lấy điều nầy thử Ta,” Chúa các đạo quân phán, “xem Ta có mở các cửa sổ trên trời, đổ phước xuống cho các ngươi, đến nỗi không chỗ chứa chăng. 11 Vì các ngươi, Ta sẽ ngăn cấm côn trùng, không cho chúng cắn phá hoa màu trong ruộng rẫy các ngươi, không để nho ngoài đồng của các ngươi rụng khi trái còn non,” Chúa các đạo quân phán. 12 “Bấy giờ mọi nước sẽ khen các ngươi là có phước, đất nước các ngươi sẽ là đất nước đẹp tươi,” Chúa các đạo quân phán.” (Have you experienced God’s promise to bless us and protect our possesions in Malachi 3:10-12 if we tithe? “Bring the whole tithe into the storehouse, that there may be food in my house. Test me in this,” says the Lord Almighty, “and see if I will not throw open the floodgates of heaven and pour out so much blessing that there will not be room enough to store it. 11 I will prevent pests from devouring your crops, and the vines in your fields will not drop their fruit before it is ripe,” says the Lord Almighty. 12 “Then all the nations will call you blessed, for yours will be a delightful land,” says the Lord Almighty.”)

 

c) Quí vị có kinh nghiệm nhận được “mọi điều khác nữa,” vì mình trước hết tìm kiếm vương quốc Ðức Chúa Trời và sự công chính của Ngài” không? (Have you received “all other things,” because you “seek first God’s kingdom and His righteousness,” as promised in Matthew 6:33?)

 

d) Quí vị có kinh nghiệm lời dạy của Chúa trong Châm Ngôn 21:23 về bí quyết để sống một đời sống yên ổn không - “Ai canh giữ miệng mình và lưỡi mình là giữ mình khỏi những rắc rối.” (Have you tested God’s word teaching about how wisely to control your tongue to experience a peaceful life? “Those who guard their mouths and their tongues, keep themselves from calamity.”)

 

e) Quí vị có kinh nghiệm khi mình cứ trao mọi nỗi lo âu của mình cho Chúa,” thì luôn được Ngài chăm sóc, yên ủi, ngủ ngon giấc, sống nhẹ ách không, như lời hứa trong 1 Phiêrơ 5:7? (Have you experienced God’s comfort because you “cast all your anxiety on Him” as promised in 1 Peter 5:7?)

[I don’t hear many “Amen’s” – is that because we are satisfying with only what we hear in church, and not test them yet?]

 

> Kinh Thánhlời hằng sống của Đức Chúa Trời, có biết bao nhiêu những lời hướng dẫn để gặt hái được một đời sống phước hạnh mà c/ta phải đọc, nghe, hiểu và vâng lời làm theo… thì hạt giống mới tăng trưởng, một ngày sanh trái tốt tươi, 30, 60 và 100; nếu không c/ta sẽ chỉ mắc bệnh “đầu to,” nhưng chân tay teo tắt trông quái dị lắm sao? (The Bible is a book of instructions, that if we read it, understand God’s will, and put them into practices, your life will bear fruits – 30, 60, and 100.)

 

> Đời sống của nhà lãnh đạo Giôsuê, sau này thay thế Môise dẫn dân sự Chúa vào chiếm đất hứa, luôn thành công mỹ mãn - Tại sao vậy? Trong Giôsuê 1:8 chép – “Quyển sách luật pháp nầy chớ rời xa miệng ngươi, nhưng ngươi phải suy gẫm những điều trong đó ngày và đêm, để cẩn thận làm theo; vì như thế ngươi sẽ làm cho đường lối ngươi được thịnh đạt, và ngươi sẽ thành công.” Và Giôsuê đã làm trọn cả 2 phần: suy gẫm và cẩn thận làm theo. (One of my Bible heroes is Joshua who lived a very successfulful life for God – do you know why? Because he “keeps this Book of the Law always on his lips; meditate on it day and night, so that he may be careful to do everything written in it. Then (God promised) he will be prosperous and successful.”)

 

> Dấu chứng rõ rệt của một cây sai trái là những trái của nó, qua những việc làm vâng lời Chúa, chứ không chỉ nghe và hiểu thôi. (The evidence of fruitful-ness is the fruits, and the fruits are good works of obedience.)

> C/ta phải sống với đức tin sống, không chỉ nghe rồi để đó mà thôi, nhưng phải hiểu lời Chúa và vâng lời làm theo. (We must live with a living faith, not just hearing the words, but to understand God’s will for our life, and obey them.)

 

# Câu chuyện của một tên đệ tử đến hỏi thầy mình, xin thầy dạy con hiểu đức tin sống nghĩa là sao?

> Ông thầy chẳng nói một lời, nhưng chỉ đưa cho tên để tử một cái thúng, rồi nói nó đi xuống sông, múc nước đem lên đây, để đổ vào hồ.

> Tên đệ tử vâng lời làm theo đi múc nước, nhưng cái thúng có những cái lỗ thủng nhỏ; khi mà nó đem thúng về đến nhà, thì nước rỉ ra hết, không còn một chút nào hết.

> Ông thầy bảo tên đệ tử làm nhiều lần nữa, và mỗi lần nó trở về rất là bực mình và thất vọng, là vì thấy việc múc nước này thật là vô ích, vì cái thúng bị lủng nhiều lỗ, chẳng giữ được nước.

> Đến mốt lúc thì ông thầy mới dạy tên để tử mình: “Con à! đức tin sống nghĩa là không phải chỉ lấy nghe làm đủ mà thôi, nhưng phải thực hành những chân lý mình đã nghe; nếu không thì giống như cái thúng có nhiều lỗ thủng này, không giữ được nước, và sự nghe của mình chỉ vô ích mà thôi.”

 

--------------------

> Quí vị và tôi đã nghe gì hôm nay? Nghe bao nhiêu lần rồi? (What have we heard today? How many times have we heard the words of Jesus?)

> Nhưng câu hỏi thật đáng hỏi đó là - mỗi người c/ta sẽ là loại đất nào? Có phải là đất tốt sẽ sanh trái không – 30, 60, 100, vì mình sẽ không lấy nghe làm đủ, nhưng vâng giữ làm theo lời Chúa? (But the real question is what kind of soil am I? Is it a good soil… that produces a crop of 30, 60, even 100; because we are not satisfied with what we heard, but obey them?)

> Sự nghe đạo dẫn c/ta đến đức tin nơi Chúa, và sự vâng lời làm theo lời Ngài giúp đức tin c/ta châm rễ và tăng trưởng sanh trái cho nước Trời, cho dù thời kỳ khó khăn đến đi nữa thì “hoa quả vẫn đầy cành, Lá vẫn xanh chứ chẳng hề héo úa, cây không tróc gốc.” (By hearing and believing we have faith in God, but by keeping His words, putting them to practices, our spiritual life yields its fruit in season and whose leaf does not wither.)

 

> Quí vị có tin rằng tương lai tốt đẹp của Hội Thánh Chúa ở đây sẽ lệ thuộc vào loại đất tốt không, khi mỗi người c/ta đến đây, nghe lời Chúa giảng, hiểu ý muốn của Chúa cho chính mình, và cam kết ra về thực hành làm theo không? (Do you believe that VHBC future will exalt Jesus, it depends on the good soil, when each of us comes to church, hears the words, understands God’s will for our life, and makes a commitment to obey when going home?)

> Chỉ riêng mỗi người trong c/ta mới có thể trả lời câu hỏi này mà thôi? (No one can answer this question for us, but only ourselves.)

> Nguyện xin Thánh Linh Ngài giúp đỡ hết thảy c/ta nghe, hiểu, gìn giữ lời Chúa luôn… để kết quả cho nước Đức Chúa Trời. (May the Holy Spirit help us all… to hear, to understand, to obey, and to produce a good crop for His kingdom. Amen!)


 

---------------------- Lời mời Gọi

> Quí vị có tai không? Ai mà không có - hỏi gì lạ quá?

> Có tai, nhưng chưa chắc thật sự nghe những điều cần nghe… cho đời sống tâm linh của mình?

> Mỗi tuần c/ta đến đây nghe được gì? Muốn nghe những gì?

> C/ta có hiểu những điều mình nghe không? Hay chỉ đến lỗ tai này… thì lọt qua lỗ tai kia không?

> C/ta có đang bị lo ra bởi những điều lo lắng của cuộc đời này, mà lời Chúa chưa “chạm vào lòng mình” không?

> C/ta có đang để sự giàu sang, sung sướng ở đời này lấn át, làm ngộp những điều mình nghe không?

> C/ta có khéo nghe không, đến nỗi sự nghe của mình sẽ sanh trái cho nước Chúa – 30, 60, và 100?

> Sự nghe của c/ta có chỉ là “thùng rỗng kêu to” không?

# Nếu c/ta xem nhan sắc bên ngoài của mình mỗi ngày vài lần, bao nhiêu lần c/ta xem xét sự nghe của mình, coi xem có ra trái thường xuyên không, nhất là khi mình đối diện với những khó khăn, giông tố, thử thách trong cuộc sống?

> Thời kỳ khó khăn sẽ đến là điều c/ta cần nghe và biết, không phải vậy thôi, c/ta cần luyện tập một đức tin sống để đứng vững vàng cho đến ngày Chúa Giê-su trở lại… ban sự cứu rỗi trọn vẹn?

> Đức tin phải được châm rễ, không phải chỉ những điều c/ta nghe và biết mỗi Chúa Nhật, nhưng bởi sự vâng lời làm theo lời Chúa dạy mỗi tuần.

 

> Vấn đề luôn là tấm lòng c/ta yêu mến Chúa Giê-su đến mức nào?

> Vì càng yêu Chúa, c/ta càng thích nghe lời Ngài và cam kết làm theo.

 

> Câu nguyện xin Chúa đặt trong tấm lòng mình sự yêu mến Chúa, tìm khát lời Ngài… như nai tìm kiếm khe nước mát mỗi ngày.