Nói đến đời sống đôn hậu tức là nói
đến đời sống yêu thương, phục vụ. Nhà văn Faber viết: Hoàng hôn rực rỡ hay là bầu trời đầy sao sáng, núi
non hùng vi hoặc biển cả bao la, cho đến cả rừng cây đầy hoa thom cỏ lạ cung
đẹp không bằng phân nửa linh hồn hết lòng phục vụ Chúa vì tình yêu giữa cuộc
đời nhọc nhằn không có chút gì tho mộng.
Nhận
xét trên đây giúp chúng ta thấy khá rõ đặc điểm nổi bật của đời sống đôn hậu.
Đó là đời sống đuợc thôi thúc bởi tình yêu thiêng liêng để sẵn sàng phục vụ
cách cao thuợng nhung khiêm nhuờng. Nhờ điều gì mà linh hồn nguời phục vụ Chúa
lại có vẻ đẹp nhu vậy? Là con cái của
Chúa chúng ta nên xem mỗi co hội phục vụ Chúa nhu một đặc ân. Chúng ta cần thận trọng trong tác phong phục
vụ Chúa. Chúng ta cần tìm hiểu guong mẫu
phục vụ của nguời xua. Và chúng ta còn
cần phải chọn cho mình đuờng lối phục vụ cách chánh đáng.
1. Tác Phong Phục Vụ
Nói đến phục
vụ tất phải nói đến sự hiến dâng. Phao-lô nói đến sự hiến dâng thân thể làm của
lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Đó là sự thờ phuợng phải lẽ.
Nguời thờ phuợng Chúa cách tốt lành và phục vụ Chúa cách đầy ý nghia là nguời
không làm theo đời này nhưng biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần và cảm nghiệm
đuợc ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Nguời ấy chẳng cần tu tuởng cao quá lẽ nhung
cần có tâm tình bình thuờng và chăm chỉ làm phận sự riêng của mình. Khi hiệp tác với nguời khác nguời ấy biết quí
mến và tôn trọng bạn đồng lao. Nguời cố
gắng hết sức mình để gìn giữ tình hòa thuận với mọi nguời, nhất là đối với anh
em cùng niềm tin. Khi dạy dỗ nguời chăm
chỉ dạy dỗ. Khi khuyên bảo nguời khuyên
bảo cách siêng năng. Khi hiến dâng nguời
hiến dâng cách rời rộng. Khi yêu thuong
nguời yêu thuong cách tự nhiên, chân thành.
Nguời biết vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc. Nguời ăn ở, cu xử trong tình hòa thuận, với
lẽ kính nhuờng và chăm làm điều thiện. Nguời chẳng để điều dữ hoặc sự ác chi phối tâm
tu mình nhung để Chúa cai quản sự suy nghi, thái độ và hành động của mình.
Nguời phục vụ
Chúa chẳng nên mắc nợ ai, hoặc mắc nợ điều gì.
Nếu có nợ chăng thì chỉ nợ về sự yêu thuong mà thôi. Nguời không để cho sự chi ràng buộc mình
ngoại trừ dây ân tình và xích yêu thuong của Chúa. Nguời chẳng muốn bị lụy về việc đời này hầu
có thể làm đẹp lòng Chúa là Đấng đa chiêu mộ mình. Nhận biết rằng ngày gần tàn, đem hầu đến
nguời quyết tâm lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy áo giáp sáng láng. Bởi cớ đó nguời có thể buớc đi cách hẳn hoi
nhu giữa ban ngày.
Nguời phục vụ
Chúa biết rằng mình sống là sống cho Chúa và chết cung là chết cho Chúa. Bởi lẽ đó hoặc sống hoặc chết nguời đều thuộc
về Chúa cả. Nguời biết nâng đỡ anh em
kém đức tin và chẳng dám để cho ai vì cớ mình mà vấp phạm. Nguời sẵn sàng gánh vác sự yếu đuối cho những
kẻ kém sức và hòa mình với nguời đồng niềm tin trong tình huynh đệ.
Nhờ tình yêu
thiêng liêng của Chúa mà nguời có thể phục vụ trong tu cách của một nguời đầy
tớ. Nhờ sức lực toàn năng của Ngài mà
nguời chẳng mệt nhọc về sự làm lành. Nhờ
sự thôi thúc của Chúa mà nguời tỉnh thức trong sự nguyện cầu, mạnh dạn trong sự
chiến đấu. Lại nhờ sự an ủi của Chúa mà nguời có thể vuợt qua những
chặng đuờng thử thách cam go. Nếu có ai
luu tâm đến những nghịch cảnh nguời phải trải qua nguời không dám xem đó nhu là
điều buồn tủi nhung nhu cớ vui mừng.
Chính nhờ những hoạn nạn nhẹ và tạm đó mà nguời thấu hiểu đuợc phần nào
sự chịu đựng và hy sinh của Chúa. Dù
giàu có hay nghèo khó, dù du hay thiếu, dù mạnh khỏe hay ốm đau . . . nguời
cung vân phục nhận lãnh. Không gì có
thể lay chuyển lòng biết on sâu xa, chân thành của nguời.
Nếu có ai thắc
mắc về động lực khiến nguời dốc lòng phục vụ nguời ấy có thể nhìn thấy noi
nguời tấm lòng kính chúa yêu nguời hon là bất kỳ điều gì khác.
Nếu có ai tìm
hiểu về đối tuợng mà nguời phục vụ nguời
ấy có thể chứng nhận rằng nguời hết lòng phục vụ Chúa và tha nhân hon là chính
bản thân.
Nếu có ai hỏi han
nguời về điều kiện của sự phục vụ nguời sẽ có thể trả lời rằng vì Chúa yêu
nguời cách vô điều kiện nên nguời chẳng dám đòi hỏi điều gì.
Nếu có ai nhắc
nhở về phuong tiện nguời dùng để phục vụ thì nguời có thể thua rằng mình chẳng
có gì ngoài tấm lòng thành và chính bản thân.
Nếu có ai nói đến
phần thuởng của sự phục vụ thì có lẽ nguời cần tự nhắc nhủ rằng chẳng có phần
thuởng nào lớn hơn phần thuởng trên thiên đàng.
Trong đời này cũng như trong đời sau sự phục vụ chỉ có ý nghĩa khi nguời
luôn luôn qui vinh hiển về Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân.
2. Guong Mẫu Phục Vụ
Với tu tuởng trên
đây, chúng ta hãy cùng nhau so sánh cách sơ luợc hai nhân vật Phạm Lãi và
Phao-lô; một nguời tận trung với vua đời này còn một nguời tận trung với Vua
trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa; một nguời không thể cậy vào ai ngoài tài
đức của chính mình, còn một nguời có thể nuong tựa vào năng lực và sự yêu
thương của Đấng Chí Cao; một nguời phải kết thúc đời mình bằng sự cay đắng, còn
một nguời cho đến cuối cuộc đời lúc nào cung thấy Chúa thật hết sức ngọt ngào.
Điển tích Nằm
Gai Nếm Mật nói lên phần nào ý nghia của sự phục vụ. Quí vị có thể tìm đọc chuyện này trong sách
Điển Tích Chọn Lọc do Mộng Bình Son biên soạn và Xuân Thu Thu Quán tái bản năm
1990.
Nguyên là vào
thời Chiến Quốc vua nuớc Ngô và vua nuớc Việt xung khắc với nhau. Phù Sai là
vua nuớc Ngô. Câu Tiễn là vua nuớc
Việt. Bên nuớc Ngô có hai vị đại quan là
Bá Hi có lòng tham và Ngu Viên rất cuong trực.
Bên nuớc Việt có Phạm Lãi và Văn Chủng, cà hai đều là nguời tài
đức. Hai vị quan này là hai nguời tài ba
lỗi lạc, muu kế quán thông, ngoại giao khôn khéo. Hon thế nữa họ dám coi thuờng phú quí bổng
lộc, xem nhẹ an toàn cá nhân, hết lòng vì vua vì dân. Nhờ họ mà Câu Tiễn có thể khôi phục giang
son.
Giúp vua xong rồi
Phạm Lãi vào chào từ giã: Tôi nghe
nói hễ vua nhục thì tôi phải chết. Ngày
truớc Đại Vuong bị nhục ở Cối Kê mà tôi không chết là ẩn nhẫn để báo thù Nuớc
Ngô. Nay Nuớc Ngô đã bị diệt rồi, xin
Đại Vuong gia ân cho thân già này đuợc an nghỉ. Câu Tiễn có nói gì Phạm Lãi cung nhất định ra
đi.
Đuợc lệnh vua
đuổi theo, Văn Chủng đi đến nửa đuờng đọc đuợc bức tho của Phạm Lãi: Vua nuớc Việt là nguời chịu nhẫn nhục mà
ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì
đuợc, chớ chung huởng lúc phú quí cao sang thì không an toàn. Nay Ngài không tính truớc ắt mang họa.
Văn Chủng buồn
rầu ngao ngán trở về dinh. Còn Câu Tiễn
vốn biết tài Văn Chủng nên tự nhủ thầm: Nay
nuớc Ngô đã diệt xong, còn dùng nguời tài làm gì nữa. Nếu một mai nó làm phản thì lấy ai trị nó? Từ đó Câu Tiễn tính cách hại Văn Chủng nhung
chua tìm ra duyên cớ...
Trong chuyện tích
trên đây ai là nguời đáng cho ta khâm phục?
Phải chăng đó là nguời đã từng nằm gai nếm mật? Câu Tiễn tuy giỏi chịu nhục, giỏi khắc khổ
thật, nhung lại là nguời kém tài, kém đức.
Không có Phạm Lãi với Văn Chủng thì Câu Tiễn chẳng ra gì. Đuợc Phù Sai tha chết cho nhung Câu Tiễn lại
nhẫn tâm tàn diệt Quân Ngô, và bức bách vua Ngô phải chết. Ông chỉ biết có oán nhung lại chẳng biết
on. Đuợc Phạm Lãi phò tá đến như thế mà
Câu Tiễn dám dọa giết cả vợ con nếu không tiếp tục việc triều chính; trong khi
Văn Chủng tiếp tục phục vụ thì ông lại
tìm cách hãm hại!
Nguời tài đức
trong chuyện này không phải là Câu Tiễn nhung là Phạm Lãi. Điều không may cho ông và cho Văn Chủng là
hai nguời đã phải hy sinh nhiều. Cuối cùng Phạm Lãi cay đắng còn Văn Chủng thì
thất vọng.
Về phần Phao-lô,
ông đa phục vụ Chúa thế nào? Truớc hết
ông minh định rằng ông phục vụ trong tu cách sứ đồ không phải bởi loài nguời
hoặc nhờ một ai nhung bởi Đức Chúa Giê-xu Christ và Đức Chúa Trời (Ga-la-ti
1:1). Luong tâm ông làm chứng rằng ông
lấy sự thánh sạch và thật thà đến bởi Đức Chúa Trời mà ăn ở trong thế gian
này. Ông
không cậy vào sự khôn ngoan đời này nhung cậy vào on của Đức Chúa Trời
(II Cô-rinh-tô 1:12). Ông có lời khuyên
và chúng ta có thể hiểu chính ông đã trở
nên huong thom (2:14), bức tho (3:3), và hình ảnh của Chúa (3:18).
Ông xem đời mình
nhu cái bình bằng đất chứa đựng quyền phép của Đức Chúa Trời. Ông bị ép đủ cách nhung không đến cùng; bị
túng thế nhung không ngã lòng; bị bắt bớ nhung không đến bỏ; bị đánh đập nhung
không đến chết mất và thuờng mang sự chết của Đức Chúa Giê-xu Christ trên thân
thể mình (4:7:11). Biết bao lần ông đa
phải chịu khó nhọc, tù đay, đòn vọt; đôi phen gần chết, năm lần bị đánh ba muoi
chín roi, ba lần bị đòn nặng, một lần bị ném đá, ba lần bị chìm tàu, lại có lần
cả ngày đem trong biển sâu. Nhiều lần
ông đi đuờng nguy trên sông bến, nguy với trộm cuớp, nguy với giữa dân mình,
nguy với dân ngoại, nguy trong các thành, nguy trong các đồng vắng, nguy trên
biển, nguy với anh em giả dối; chịu khó chịu nhọc; lắm lúc thức đem, chịu đói
khát, thuờng khi phải nhịn ăn, lạnh lẽo, rách ruới. Thế nhung lòng ông lúc nào cung lo lắng về
các hội thánh và nếu có ai yếu đuối thì lòng ông nhu nung nhu đốt (11:23-29).
So với Phạm Lãi,
chúng ta thấy Phao-lô dù khổ sở nhọc nhằn nhu vậy nhung lại đuợc phuớc vô
cùng. Phuớc hạnh lớn nhất của ông là co
hội tôn thờ và phục vụ Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa. Tài năng và đức độ của ông có nhiều đến mấy
cung không cứu đuợc ông hoặc giúp ông phục vụ cách hiệu quả toàn vẹn. Duy chỉ có ân điển và tình thuong của Chúa
mới có thể khiến ông sống, động và hiện hữu cách đầy ý nghia. Và đến cuối cuộc đời Phao-lô đa có thể huởng
trọn niềm vui sung mãn sau khi đa đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy và đa giữ
đuợc đức tin (II Ti-mô-thê 4:6-8)..
3. Đuờng Lối Phục Vụ
Chúa Giê-xu phán
rằng Ngài đến thế gian không phải để đuợc phục vụ nhung để phục vụ và phó sự
sống mình làm giá chuộc nhiều nguời. Ai
nấy trong chúng ta không nhiều thì ít đều phải phục vụ. Theo lời dạy của Chúa chúng ta nên lấy lòng
vui mà làm. Thuận theo ý Chúa thì chúng ta dễ có lòng vui mừng bình an và hạnh
phúc ngập tràn. May mắn lớn nhất của chúng ta là chúng ta hiện đang nguỡng vọng
và tôn thờ Đấng vô cùng xứng đáng. Khi
đã ý thức cách rõ ràng điều này thì đuong nhiên động lực phục vụ Chúa trong
lòng chúng ta cung phải trong sạch, lý tuởng phục vụ của chúng ta phải cao thuợng
và phuong pháp phục vụ Chúa của chúng ta cung phải tốt hon thói thuờng của nhân gian.
Hết lòng phục vụ
Chúa trong cách ăn ở cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã kêu gọi mình thì
thật là quí hóa biết bao nhiêu! Vừa
khiêm nhuờng đến điều, mềm mại đến điều, lại vừa nhịn nhục, lấy lòng yêu thuong
mà chìu nhau và dùng dây hòa bình mà gìn giữ sự hiệp một của Thánh Linh thì
thật không có gì đẹp đẽ hon. Đó là điều
mỗi con cái Chúa cần thực hành trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ lúc nào mình
thích hoặc khi có co hội thuận tiện.
Nhà văn Faber
nhận xét thật đúng: Hoàng hôn rực rỡ
hay là bầu trời đầy sao sáng, núi non hùng vi hoặc biển cả bao la, cho đến cả
rừng cây đầy hoa thom cỏ lạ cung đẹp không bằng phân nửa linh hồn hết lòng phục
vụ Chúa vì tình yêu giữa cuộc đời nhọc nhằn không có chút gì tho mộng.
Có
một bà mẹ nọ cả đời vất vả, lam lu để nuôi con.
Cho đến khi già yếu mà bà vẫn còn đẩy xe than đi bán dọc theo các đuong
phố. Hôm bà gần qua đời bà thì thào nói
với vị mục su của mình: Mục su oi,
tôi lấy gì mà ra mắt Chúa đây? Mục
su nâng đôi bàn tay sần sùi của bà lên mà nói:
Thua bà, xin hãy để Chúa nhìn rõ đôi tay này, chạm đến đôi tay
này, đôi tay đã đuợc tận dụng để truởng
duỡng những đứa con ngoan. Nghe xong
lời ấy mắt bà long lanh ngấn lệ rồi bà mỉm cuời mà qua đời.
Học Ôn
Trong quan niệm của bạn, điều gì là
điều quan trọng trong tác phong, guong mẫu và đuờng lối của nguời hầu việc
Chúa?
Tươi Tỉnh
Tăng Tiến
Tịnh Tâm