Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 11

Đứa Con Cầu Tự




Tuổi ấu thơ là tuổi đẹp nhất trong cả đời người, và các em là người sung sướng nhất, vì các em đang sống trong tuổi đó. Các em có nhớ ngày sinh nhật của mình không? Chắc là nhớ kỹ lắm, và mỗi lần đến sinh nhật là lo nhắc mẹ mua quà phải không? Các em biết mẹ sinh các em ngày nào nhưng có lẽ không bao giờ cảm biết được nỗi vui mừng của cha mẹ trong ngày đó.
Có em ra đời sau nhiều năm cha mẹ chờ đợi, cầu mong. Có em ra đời trong nỗi lo lắng của cha mẹ. Nhưng dù lo lắng hay trông mong, cha mẹ cũng hết lòng yêu thương, chăm sóc và nuôi nấng các em. Người ta thường nói: Công ơn của cha mẹ như trời biển. Điều này thật đúng. Có bao giờ các em nghĩ mình là niềm vui của cha mẹ không? Nếu các em là đứa con ngoan ngoãn, vâng lời, các em thật sự là niềm vui, là niềm an ủi cho cha mẹ. Nhưng ngược lại, nếu các em không vâng lời, không ngoan ngoãn thì các em chỉ làm cho cha mẹ lo lắng, buồn rầu. Thánh Kinh có ghi lại câu chuyện một cậu bé nọ là niềm vui và niềm hãnh diện cho cả gia đình.
Hồi đó có hai vợ chồng nọ lấy nhau đã mấy năm rồi mà không có con. Ông chồng tên là Ên-ca-na, còn bà vợ tên là An-ne. Hai vợ chồng buồn và mong con lắm, nhất là bà vợ, vì đối với người chung quanh bà là người vô phước. Người thì cho rằng vì bà quá độc ác nên không có con, người thì nói bà đã

bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Bà An-ne khổ tâm lắm nhưng chỉ biết chờ đợi và cầu xin Chúa ban cho bà một đứa con.
Hai vợ chồng bà An-ne là người kính thờ Chúa. Mỗi năm hai ông bà đều lên đền thờ để dâng lễ và cầu nguyện. Năm đó cũng như những năm trước, bà An-ne vào đền thờ, hết lòng cầu xin Chúa ban cho bà một đứa con trai, để người chung quanh không chê cười bà nữa. Trong khi cầu nguyện, bà hứa rằng nếu Chúa nhậm lời cầu xin của bà, bà sẽ dâng đứa con đó cho Chúa để nó hầu việc Ngài.
Ngày hôm đó bà An-ne cầu nguyện thật lâu. Bà vừa khóc vừa cầu xin lầm thầm trong miệng nên không ai biết bà nói gì. Thầy tế lễ Ê-li, là người làm việc trong đền thờ, nhìn thấy tưởng bà say rượu nên nói nhảm. Ông gọi bà và nói: "Bà kia ơi, chừng nào bà mới hết say? Đi giã rượu đi!" Ông nói vậy có nghĩa là bảo bà đi tìm cái gì ăn hay uống cho hết say. Bà An-ne trả lời: "Thưa ông, không phải là tôi say đâu, nhưng vì tôi có chuyện buồn nên đến khẩn cầu với Đức Chúa Trời. Tôi trình bày tâm sự của

tôi trước mặt Chúa chứ không phải tôi là người đàn bà say sưa. Vì trong lòng tôi có chuyện buồn nên tôi cứ cầu nguyện mãi cho đến bây giờ." Nghe vậy, thầy tế lễ Ê-li cảm động và nói: "Thôi, bà hãy yên lòng về đi! Nguyện Chúa nhậm lời cầu xin của Bà." Lời nói của thầy tế lễ làm bà An-ne thấy được an ủi, nhẹ nhàng. Từ giờ phút đó bà tin rằng Chúa sẽ nhậm lời cầu xin của bà. Lòng bà vui vẻ, nét mặt bà không còn ưu sầu nữa.
Qua ngày sau, bà An-ne theo chồng lên đường trở về nhà. Bà ghi nhớ lời thầy tế lễ nói và tin rằng Chúa đã nghe lời cầu xin của bà. Và đúng như thế, Đức Chúa Trời đã thấy tấm lòng thành khẩn của bà An-ne nên Ngài đã nhậm lời bà cầu xin. Trong năm đó bà An-ne có thai và sinh được một đứa con trai. Hai vợ chồng vui mừng tạ ơn Chúa và đặt tên con là Sa-mu-ên, nghĩa là Đức Chúa Trời nhậm lời. Hai ông bà đều biết đây là đứa con đặc biệt mà Chúa đã ban cho họ. Cha mẹ Sa-mu-ên thương yêu Sa-mu-ên vô cùng. Đối với ông bà, trên trần gian này không có gì quý bằng đứa con trai đó.
Tưởng tượng hai vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con, bây giờ được một đứa con trai thì vui và yêu quý con biết là chừng nào. Nhưng dù vui và bận rộn lo cho con, hai ông bà không quên lời đã hứa với Chúa. Thấm thoát lại đến ngày đi lễ hằng năm. Ông Ên-ca-na rủ vợ cùng đi nhưng bà nói năm nay bà không đi vì Sa-mu-ên còn nhỏ quá, đợi khi nào nó thôi bú bà sẽ dẫn lên đền thờ và dâng cho Chúa như lời bà đã hứa. Ông Ên-ca-na thấy vợ nói có lý nên bằng lòng lên đền thờ dâng lễ một mình. Còn bà An-ne ở nhà với bé Sa-mu-ên.
Vài năm sau, khi Sa-mu-ên thôi bú, có lẽ khoảng ba tuổi, vợ chồng bà An-ne sắp cho Sa-mu-ên một ít quần áo và thức ăn, xong cả gia đình cùng đi lên đền thờ. Đến nơi, hai ông bà dâng lễ vật tạ ơn Chúa rồi ở lại đó dự lễ vài ngày. Đến ngày về, hai ông bà vào gặp thầy tế lễ Ê-li. Bà An-ne nói: "Thưa ông, không biết ông còn nhớ không nhưng tôi là người đàn bà mấy năm trước lên đây cầu nguyện xin Chúa cho có một đứa con. Chúa đã nhậm lời cầu xin của tôi, và cho vợ chồng chúng tôi một đứa con trai. Lúc đó tôi có hứa là nếu Chúa ban cho tôi một đứa con trai, tôi sẽ dâng nó cho Chúa để nó phục vụ Chúa trọn đời. Hôm nay con tôi đã lớn, tôi xin gởi nó lại đây cho ông, xin ông nuôi dạy và hướng dẫn cháu, cho cháu làm học trò của ông và phụ giúp ông trong đền thờ." Nghe vậy, thầy tế lễ Ê-li liền nhớ lại hình ảnh người đàn bà vừa cầu nguyện vừa khóc mấy năm trước mà ông tưởng là say. Vì thế ông bằng lòng cho Sa-mu-ên ở lại đền thờ. Cha mẹ Sa-mu-ên từ giã con và lên đường trở về nhà.
Cha mẹ của Sa-mu-ên thật là can đảm và trung tín. Dù thương con, hai ông bà nhất quyết giữ lời đã hứa với Chúa, bằng lòng dâng cho Chúa điều mình yêu quý nhất trên đời. Các em có yêu Chúa đến nỗi bằng lòng dâng cho Chúa

điều quý nhất của các em không? Ai cũng có những điều mà mình yêu quý nhất. Điều quý nhất của các em hiện giờ là gì? Có thể đó là chiếc xe đạp, sách vở, đồ chơi hay tiền bạc. Cũng có thể điều các em quý nhất chỉ là bánh kẹo, quần áo mới... Cũng có thể là các em quý thì giờ, hoặc thích những chương trình trên ti-vi. Nếu bây giờ Chúa bảo các em hãy dâng điều quý nhất của các em cho Chúa, các em có sẵn sàng dâng không? Nếu có người cần mượn xe đạp của các em, hoặc có người cần mượn cây viết, quyển vở, đồ chơi v.v..., các em có bằng lòng cho mượn không? Nếu Chúa muốn các em dâng cả ngày Chúa Nhật hoặc bỏ bớt giờ xem ti-vi để đi nhà thờ, học Kinh Thánh các em có sẵn sàng không? Nếu Chúa muốn các em để cha mẹ đi lo công việc Chúa, đi thăm người đau ốm hoặc đi làm chứng cho Chúa, còn các em ở nhà trông nhà, làm việc nhà, các em có bằng lòng không? Chúa yêu chúng ta và đã hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta cũng nên sẵn sàng dâng điều quý nhất của chúng ta cho Ngài.
CÂU HỎI
1. Bà An-ne lên đền thờ cầu xin Chúa điều gì?
2. Bà đã hứa điều gì với Chúa?
3. Khi được Chúa nhậm lời, bà An-ne đã làm gì?
4. Tên Sa-mu-ên có nghĩa là gì?
5. Các em có yêu Chúa và sẵn sàng dâng điều quý nhất của các em cho Chúa không?