Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 16

Bà Hoàng Yêu Nước




Ngày xưa có một cô bé nọ, tên là Ê-xơ-tê, thật ngoan ngoãn và xinh xắn nhưng không may bị mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cô bé được một người bà con đem về nuôi. Hai vợ chồng người này không có con nên rất thương yêu cô bé. Họ chăm nom, chìu chuộng cô bé chẳng khác gì con ruột. Thấm thoát Ê-xơ-tê đã lớn và trở nên một thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp.
Một buổi tối nọ, sau bữa ăn, người con gái cùng với cha mẹ nuôi ngồi lại nói chuyện với nhau. Không khí trong gia đình thật yên tĩnh và thân mật, nhưng không hiểu sao ông cha trông có vẻ lo lắng hơn mọi ngày. Bà vợ định hỏi xem ông đang suy nghĩ chuyện gì thì ông nghiêng qua bà nói nhỏ: "Bà biết bữa nay trong tỉnh này có chuyện gì không?" Bà vợ ngạc nhiên nhìn chồng, có vẻ như không biết nên ông nói tiếp: "Sáng nay nhà vua bắt đầu sai sứ giả đi khắp các tỉnh thành trong nước để tìm những cô gái đẹp đem về cung cho nhà vua chọn làm hoàng hậu đó!" Nói xong ông liếc nhìn cô con gái. Bà vợ ông cũng thế nhưng không ai nói gì với ai nữa.
Cô con gái thấy cha mẹ mình hôm nay có vẻ lạ quá nên hỏi: "Sao cha mẹ nhìn con vậy?" Hai vợ chồng yên lặng không trả lời. Nhưng Ê-xơ-tê đã hiểu, vì sáng nay nàng có nghe lính đi rao chiếu chỉ của vua. Nàng nói: "Cha mẹ đừng lo, sứ giả của nhà vua chắc chẳng làm phiền đến con đâu. Con đã không đẹp mà lại là người Do-thái nữa, đời nào vua Mê-đô Ba-tư lại muốn chọn một cô gái Do-thái để làm hoàng hậu!" Ê-xơ-tê nói thế vì nàng biết xưa nay người Ba-tư vẫn khinh rẻ người Do-thái. Nghe con nói, người cha lắc đầu bảo: "Không, cha biết con gái của cha đẹp lắm, nhưng cha mong là người ta sẽ không bắt gặp con. Để được an toàn, từ ngày mai trở đi con ở trong nhà với mẹ chứ đừng đi đâu cả."
Dù đã bàn tính với nhau như vậy nhưng rồi nỗi lo lắng của người cha đã trở thành sự thật. Ê-xơ-tê vâng lời cha, trốn kỹ trong nhà nhưng các sứ giả khi đến làng đó, nghe tiếng đồn về sắc đẹp của nàng, nên đã đến nhà xin đem nàng về cung. Ngày xưa, mỗi khi vua ban lệnh gì là không một người nào dám cãi. Vì thế tuy buồn, hai vợ chồng người cha nuôi đành để cô con gái ra đi. Khi chia tay, người cha căn dặn: "Con đừng bao giờ quên hai điều quan trọng là mỗi ngày nhớ cầu nguyện với Đức Chúa Trời và đừng nói cho ai biết con là người Do-thái."
Khi Ê-xơ-tê đi rồi, căn nhà trở nên vắng vẻ hẳn. Người cha cũng tìm cách theo con lên kinh thành. Mỗi ngày ông giả vờ đi dạo chơi trước sân của các cung phi để hỏi thăm xem con gái của mình có bình an không. Ngày nào không gặp hay không đưa tin vào cho con được thì ông buồn lắm. Thỉnh thoảng Ê-xơ-tê cũng nhờ người nhắn tin cho cha khỏi mong. Nàng cho cha biết, những người làm việc trong cung và những nàng hầu đối xử với nàng rất tử tế. Dù chung quanh nàng có hằng trăm cô gái xinh đẹp khác, nhưng Ê-xơ-tê được ưu đãi và quý chuộng hơn hết.
Thấm thoát mà đã một năm trôi qua. Suốt một năm, Ê-xơ-tê ở trong cung, chuẩn bị và trông chờ mà vẫn chưa thấy đến ngày được ra mắt nhà vua. Trong suốt thời gian ấy, vua Ba-tư tổ chức nhiều buổi yến tiệc để các cô gái đẹp vào trình diện cho nhà vua chọn, nhưng chưa có cô nào vừa ý nhà vua cả. Cho đến một hôm, có tin đưa vào bảo Ê-xơ-tê phải chuẩn bị để ra mắt vua. Nàng con gái vừa sợ vừa lo, may là có người cha nuôi ở ngoài cung điện lúc nào cũng nhắn lời an ủi, khích lệ. Sau khi trang điểm cho Ê-xơ-tê, các nàng hầu đều trầm trồ: "Cô đẹp quá, chắc là nhà vua sẽ chọn cô rồi!" Nhưng Ê-xơ-tê chẳng để ý đến những lời khen tặng đó, tâm trí nàng chỉ nghĩ đến người cha thân yêu đang chờ đợi ở bên ngoài. Vàng bạc, châu báu hay ngôi hoàng hậu cũng chẳng làm nàng vui. Nàng chỉ mong được trở về nhà, sống bên cha mẹ, trong căn nhà nhỏ nhưng êm ấm và đầy tình thương, như những ngày trước.
Nhưng việc phải đến đã đến. Ngày hôm đó, đến đúng giờ, nàng Ê-xơ-tê theo mấy ông hoạn quan đi qua nơi vua ở để vào chầu vua. Nhà vua thấy nơi nàng có những điểm đặc biệt, khác tất cả những cô gái khác. Vì thế, nàng được nhà vua yêu mến hơn và được ơn trước mặt vua. Cuối cùng, vua Ba-tư quyết định chọn Ê-xơ-tê làm hoàng hậu. Tin đó được lan truyền nhanh chóng. Người thì mừng cho Ê-xơ-tê nhưng cũng có người ganh tị hoặc buồn vì thất vọng. Trong lễ cưới, nhà vua lấy vương miện hoàng hậu đội lên đầu cho Ê-xơ-tê và sau đó, yến tiệc được tổ chức tưng bừng khắp nơi để ăn mừng nhà vua đã chọn được người vợ xứng đáng. Nhân địp này nhà vua đã tha thuế cho dân và thưởng cho những người có công với đất nước. Dù được lên ngôi hoàng hậu, nàng con gái xinh đẹp vẫn không quên người cha yêu dấu. Ngày ngày hai cha con vẫn tìm cách đưa tin cho nhau để xem có cách nào cứu giúp dân tộc của họ, là người Do Thái.
Sau một thời gian, cơ hội đã đến để bà hoàng hậu trẻ có dịp bày tỏ lòng yêu thương đối với những người cùng dòng giống. Trong triều đình lúc bấy giờ có một ông quan tên là Ha-man. Ông là người ham danh lợi và hống hách với mọi người. Ông Ha-man được vua thăng chức, cho đứng đầu tất cả các quan trong triều đình. Từ đó ông ta lại càng hống hách hơn. Mỗi lần ông ra vào cung điện, tất cả mọi người đều phải cúi đầu chào. Riêng ông Mạc-đô-chê, là cha nuôi của hoàng hậu Ê-xơ-tê không chịu chào, cũng không quỳ lạy Ha-man. Ha-man thấy vậy thì giận dữ và sinh ra thù ghét Mạc-đô-chê. Khi biết Mạc-đô-chê là người Do Thái, ông ta liền lập mưu để giết hại tất cả người Do Thái đang sống dưới quyền cai trị của vua Mê-đô Ba-tư.
Một ngày kia, Ha-man vào gặp nhà vua và nói: "Tâu bệ hạ, có một dân tộc đang sống rải rác trong các tỉnh của nước ta. Dân tộc này có luật lệ riêng và không chịu tuân theo luật lệ mà bệ hạ đã ban ra. Nếu cứ để đám dân đó tự do như vậy tôi thấy sẽ có hại cho nước ta. Vậy, nếu bệ hạ đồng ý, xin ra chiếu chỉ tiêu diệt hết đám dân đó. Bệ hạ chỉ cần truyền lệnh, còn tôi sẽ thi hành mọi việc." Vua Mê-đô Ba-tư không biết thâm ý của Ha-man nên bằng lòng làm theo lời đề nghị của ông. Thấy nhà vua sẵn sàng làm theo dự tính của mình, Ha-man sung sướng lắm. Ông ta liền họp các quan lại và bảo họ sai sứ giả đi đến khắp các tỉnh trong nước, truyền lệnh rằng: Vào ngày mười ba tháng mười hai sắp đến, người Ba-tư phải tiêu diệt tất cả người Do Thái, từ trẻ đến già, đàn ông cũng như đàn bà, không để cho một người nào sống sót.
Nghe tin đó, tất cả người Do Thái sống tại Ba-tư đều lo sợ. Họ kiêng ăn, khóc lóc, và cầu nguyện xin Chúa giải cứu. Ông Mạc-đô-chê, cha nuôi của hoàng hậu Ê-xơ-tê cũng lo buồn vô cùng. Ông xé áo, lấy bao mặc thế vào và kiêng ăn, cầu nguyện. Bà hoàng hậu thấy người cha nuôi không mặc áo mà lại trùm cái bao thì gởi áo quần đến cho ông nhưng ông không nhận. Bà liền nhờ người liên lạc và hỏi thăm cho biết lý do. Lúc đó người cha nuôi mới nói cho Ê-xơ-tê biết về lệnh tàn sát người Do Thái mà quan Ha-man đã đưa ra.
Hoàng hậu Ê-xơ-tê thương đồng bào của mình và muốn cứu họ nhưng không biết làm sao. Bà không thể tự nhiên vào gặp nhà vua, vì theo luật của triều đình thời đó, chỉ khi nào được phép của vua hay có lệnh vua gọi, người ta mới được vào gặp nhà vua. Nếu người nào tự ý vào, có thể sẽ phải chết, dù người đó là ai, ngoại trừ khi nhà vua đưa cây phủ việt ra, tức là ban ơn đặc biệt thì người đó mới khỏi phải chết.
Đã hơn một tháng nay, hoàng hậu Ê-xơ-tê không được vua gọi đến, nhưng bây giờ bà cần vào gặp nhà vua để xin ông cứu người Do Thái. Bà nói cho người cha nuôi biết luật lệ trong cung nghiêm khắc như vậy nên bà không biết tính làm sao. Người cha liền nhờ người nhắn lại với bà rằng: "Con đừng tưởng ở trong cung vua con sẽ được thoát khỏi tay người Ba-tư. Nếu con không tìm cách cứu dân tộc của con, họ sẽ được giải cứu bằng cách khác, nhưng con và cả gia đình con sẽ bị hư mất." Nghe cha nói như vậy, hoàng hậu Ê-xơ-tê liền xin ông kêu gọi người Do Thái tại kinh thành Su-sơ kiêng ăn, cầu nguyện cho bà. Bà và các nàng hầu cũng kiêng ăn cầu nguyện trong suốt ba ngày. Sau đó, bà sẽ liều mình, phạm luật của nước Ba-tư, tự ý vào chầu vua. Bà nói: "Nếu có phải chết, con cũng sẵn sàng."
Đến ngày thứ ba, bà Ê-xơ-tê mặc triều phục, tức là bộ áo đặc biệt để vào gặp vua, và ra đứng chầu ở phòng trong. Vua Ba-tư đang ngồi trên ngai, vừa nhìn thấy bà, nhà vua đưa cây phủ việt ra, tức là cho bà được phép vào gặp vua. Không những thế, nhà vua còn hỏi: "Nàng muốn gì? Cầu xin điều gì? Dầu xin đến phân nửa nước, ta cũng ban cho!" Nhà vua hỏi như thế nhiều lần. Cuối cùng, hoàng hậu Ê-xơ-tê thấy nhà vua thật lòng để ý đến lời cầu xin của mình nên bà thưa với nhà vua tất cả mọi việc. Bà nói về việc người Do Thái sắp bị giết hại. Bà cũng nói cho vua biết bà là người Do Thái, và xin nhà vua cứu giúp người Do Thái.
Khi vua Ba-tư nghe vậy, ông hỏi: "Ai mà dám ra lệnh độc ác như vậy? Người đó ở đâu?" Bà hoàng Ê-xơ-tê liền chỉ quan Ha-man. Thế là nhà vua ra lệnh trừng phạt Ha-man. Cũng trong ngày đó, ông ra lệnh hủy bỏ lệnh tàn sát người Do Thái mà Ha-man đã rao truyền cho các tỉnh trong nước.
Hoàng hậu Ê-xơ-tê sẵn sàng hy sinh tính mạng, danh dự và chức vị hoàng hậu để cứu dân tộc của mình. Chính vì thế, Chúa đã giúp bà cứu tất cả người Do Thái mà không phải hy sinh một điều gì. Từ đó, ngày mười ba tháng mười hai, ngày mà đáng lẽ tất cả người Do Thái bị tiêu diệt, đã trở thành một ngày lễ vui mừng. Ngày lễ này gọi là lễ Phu-rim, và vẫn còn được người Do Thái kỷ niệm hằng năm cho đến ngày nay.
CÂU HỎI
1. Cô gái được phong làm hoàng hậu nước Ba-tư tên là gì?
2. Bà hoàng hậu này vốn là người nước nào?
3. Ha-man định hại người Do Thái bằng cách nào?
4. Bà hoàng Ê-xơ-tê đã phải làm gì để cứu người Do Thái?
5. Bà có cứu được họ không? Bằng cách nào?