Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 3

2:3-6 BIẾT MÌNH ĐÃ BIẾT NGÀI

3 Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài. 4 Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người. 5 Nhưng ai giữ lời phán Ngài, thì lòng kính mến Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy. Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài. 6 Ai nói mình ở trong Ngài, thì cũng phải làm theo như chính Ngài đã làm.

 

1. Hai chữ “biết” trong cụm từ “Biết mình đã biết Ngài” (c 3a) khác nhau thế nào?

2.  Điều gì chứng tỏ chúng ta “biết Chúa” (c. 3b)?

3. “Giữ lời phán Ngài” (c. 5a) là giữ điều gì?

4. Thế nào là “trọn vẹn” (c. 5b)?

5. “Làm theo như chính Ngài đã làm” (c. 6) là làm điều gì?

 

Thư I Giăng được viết với mục đích giúp người tin Chúa BIẾT mình có sự sống (trang 10) và sứ đồ Giăng lần lượt trình bày điều đó như sau:

Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài (c. 3)

Biết mình đã biết Ngài: chữ biết thứ nhất trong câu nầy nói đến nhận thức, cái biết của tâm trí. Chữ biết thứ hai nói đến mối quan hệ cá nhân riêng tư (động từ biết được dùng trong Cựu Ước trong mối quan hệ vợ chồng, Sáng 4:1). Tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài nghĩa là làm thế nào để nhận thức hay biết rõ mình có mối quan hệ thật với Đức Chúa Trời.

Câu trả lời là:

y là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài (c. 3b)

Điều răn của Chúa, theo câu 7-10, nói đến yêu thương nhau (Giăng 13:34). Dấu hiệu hay bằng chứng của mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa là vâng giữ điều răn hay lời dạy của Chúa, lời dạy về yêu thương. Giăng đặt vấn đề ngược lại để chứng minh:

Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người (c. 4)

Phái Trí Huệ nói rằng họ biết Chúa nhưng đời sống họ thiếu yêu thương, chứng tỏ họ không vâng giữ điều răn của Chúa và do đó cho thấy họ không thật sự biết Chúa, không có mối quan hệ thật với Chúa. Đây cũng là trắc nghiệm cho chúng ta: chỉ cần yêu thương anh em là đủ chứng tỏ mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa. Giăng cho thấy người không vâng giữ điều răn yêu thương của Chúa là người: (1) Nói dối. (2) Không có chân lý.

Tiếp tục khai triển, Giăng viết:

Nhưng ai giữ lời phán Ngài, thì lòng kính mến Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy (c. 5a)

Chữ Lời phán (c. 5) được dùng tương đương với điều răn (c. 4) cho thấy lời phán chính là điều răn về yêu thương (Giăng 13:34): giữ lời phán là vâng giữ điều răn yêu thương của Chúa. Như vậy, yêu thương nhau (giữ lời phán Ngài) là bằng chứng rõ ràng nhất về lòng yêu mến Chúa của chúng ta: Lòng kính mến Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy (c. 5a).

Trọn vẹn mang ý nghĩa “hoàn hảo” (BHĐ). “Lòng yêu mến Chúa của chúng ta đạt đến mức hoàn hảo khi chúng ta vâng giữ điều răn yêu thương nhau của Chúa” (Kruse, 80).

Giăng kết luận phần nầy với câu:

Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài (c. 5b)

Câu nầy lặp lại câu 3a: Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài. Biết Ngài được thay thế bằng ở trong Ngài, cho thấy mối tương giao sâu đậm giữa chúng ta với Chúa.

Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài (c. 5b) cũng nói đến điều trong câu tiếp theo:

Ai nói mình ở trong Ngài, thì cũng phải làm theo như chính Ngài đã làm (c. 6)

Làm theo như chính Ngài đã làm là sống giống như Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu đã vâng giữ điều răn yêu thương của Đức Chúa Trời (Giăng 15:10). Khi chúng ta cũng sống vâng giữ điều răn yêu thương của Chúa như vậy, chứng tỏ chúng ta thuộc về Chúa.