Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 7

Hy Vọng Giữa Khổ Đau

(14 tháng 10)

Chủ Đề: Bài học này tuờng thuật đáp ứng của Phao-lô đối với thắc mắc của các tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca về việc các anh chị em trong Chúa của mình chết trước khi Chúa tái lâm. Trọng tâm của bài học bàn đến hy vọng về sự sống lại của hết thảy những người tin Chúa trong ngày Chúa tái lâm.

Kinh Văn: 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18

Câu Gốc: Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài. (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:14)

Những người không tin Chúa có nhiều quan niệm khác nhau về đời sau. Có người nghĩ rằng chết là hết tất cả. Đối với họ cái chết mang lại sự khổ đau, mất mát. Có người tin vào thuyết luân hồi. Đối với họ, mơ ước chỉ làø viễn vông, không tưởng. Bài học này nhằm khuyến khích chúng ta vui mừng trong hy vọng ngay cả khi phải đối diện với sự chết.

Là con cái Chúa, chúng ta cần đối diện với sự chết trong hy vọng bởi vì Chúa đã hứa rằng trong ngày Ngài tái lâm Ngài sẽ làm sống lại những người tin Chúa dù còn sống hay đã chết. Đấng thành tín luôn luôn tôn trọng lời hứa của chính Ngài. Bởi vậy nên, khi phải rời xa cõi tạm này để về quê hương thật trên trời, con cái Chúa có thể xem việc qua đời của mình như là điều phước hạnh chớ chẳng phải là sự khổ đau hoặc mất mát.

I. Người Chết Trong Chúa Sẽ Ở Cùng Chúa (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-14)

Các tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca hy vọng Chúa sẽ trở lại cách mau chóng. Họ mong ước gặp Chúa để được Chúa đưa về Thiên Đàng, và như thế, họ không phải kinh nghiệm sự chết. Họ chờ đợi mãi mà vẫn chưa thấy Chúa trở lại. Trong khi họ chờ đợi Chúa tái lâm, có một số người qua đời. Họ không biết rõ phần số của những người ấy. Họ lo lắng. Họ buồn bã. Họ đánh mất niềm vui và sự bình an trong cuộc sống thường ngày. Phao-lô viết những lời trong phần cuối của đoạn 4 trong thư Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất để trấn an họ. Ông tỏ cho họ biết rõ Chúa Giê-xu đã chết và đã sống lại thể nào thì những người tin Ngài sau khi chết cũng sẽ sống lại để ở bên Chúa mãi mãi. Có thật nhiều bằng cớ minh chứng Chúa thật sự đã sống lại:

1. Nhiều lời dự ngôn trong Cựu Ước cho biết Chúa sẽ sống lại (so sánh Thi Thiên 16:10 với Công Vụ Các Sứ Đồ 2:25-31; 13:33-37)

2. Chính Chúa phán trước rằng Ngài sẽ sống lại (Ma-thi-ơ 16:21; Mác 9:9-10; Giăng 2:18-22).

3. Ngôi mộ trở nên trống và vải liệm cũng không còn. Nếu những người chống nghịch Chúa muốn bịt miệng môn đồ của Ngài, họ chỉ cần đưa xác Chúa ra (Giăng 20:3-9).

4. Nhiều người thấy Chúa sống lại. Họ nhìn thấy mặt Ngài, sờ đến Ngài, nghe tiếng Ngài, và trông thấy Chúa ăn (Ma-thi-ơ 28:16-20; Lu-ca 24:13-39; Giăng 20:11-29; Giăng 21:1-9; Công Vụ Các Sứ Đồ 1:6-11; I Cô-rinh-tô 15:3-8).

5. Đời sống của các môn đồ được thay đổi, được phục hưng. Dù họ đã sợ sệt, đã lẫn trốn khi Chúa bị bắt nhưng sau đó họ đã mạnh dạn rao truyền về sự sống lại của Ngài (Ma-thi-ơ 26:56, 69-75).

6. Sự sống lại của Chúa là sứ điệp chánh yếu của hội thánh ban đầu. Hội thánh ban đầu đã tăng trưởng với niềm tin về sự sống lại của Chúa và về quyền tể trị của Ngài (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:33; 5:30-32; Rô-ma 5:24).

7. Những người theo Chúa ngày nay vẫn còn tiếp tục làm chứng rằng chính quyền năng của Cứu Chúa phục sinh đã thay đổi cuộc đời của họ. Chúng ta biết Chúa sống lại chẳng phải chỉ vì đó là một sự kiện kịch sử, nhưng còn vì quyền năng lạ lùng kỳ diệu của Ngài trên đời sống của mỗi chúng ta.

Việc Chúa sống lại là sự kiện lịch sử chính xác và chắc chắn. Việc con cái Chúa sau khi qua đời được sống lại với Chúa cũng là điều chắc chắn. Được biết như vậy rồi, con cái Chúa không nên lo lắng, không nên buồn bã. Trái lại, con cái Chúa có thể sống cách bình an, vui thỏa.

II. Người Chết Trong Chúa Sẽ Sống Lại (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:15-16)

Phao-lô quả quyết cùng những tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca rằng sự tái lâm của Chúa là điều chắc chắn. Ngoài ra, Phao-lô còn xác định rằng sự sống lại của những tín nhân đã ngủ yên trong Chúa cũng là là điều chắc chắn. Nếu Chúa tái lâm khi những người tin Chúa còn đang sống trên đất thì Chúa sẽ đưa những người ấy về cùng Ngài trên Thiên Đàng. Tuy nhiên, ưu tiên được hội diện cùng Chúa vẫn dành cho những tín nhân đã ngủ yên trong Chúa. Người đã tin Chúa và đã qua đời trước sẽ được gặp Chúa sớm hơn. Người tin Chúa mà qua đời sau người khác thì được gặp Chúa sau.

Khi được gặp Chúa trong Nước của Ngài thì sẽ chẳng còn khóc lóc, kêu ca hay là than vãn nữa vì chính Chúa sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng ta. Không có giá trị nào có thể so sánh được với phước hạnh của những người qua đời trong Chúa. Có chuyện vui về một người giàu có kia trong cơn mơ năn nỉ Chúa cho mình mang tàu sản về thiên quốc. Cả một đời ký ca ký cóp góp nhặt thâu trữ mà không giữ lại được thì tiếc quá. Người đó nghĩ như vậy nên nhất định năn nỉ, ỷ ôi với Chúa. Lúc qua đời, ông mang theo cái bao nặng đựng đầy vàng. Gặp mặt người giữ cửa thiên đàng, người nhà giàu thấy mình bị chặn lại, vì đâu có ai vào nước Chúa mà còn mang theo của cải bao giờ! Ông phân trần cùng người giữ cửa rằng ông đã xin phép từ trước. Quả có như vậy. Khi ông bước qua ngưỡng cửa thiên đàng thì mới biết là mình khờ dại vì cái mà ông ta tưởng là quí thì lại được dùng để lót đường. Người nhà giàu tỉnh mộng, từ đó về sau không còn nghĩ đến việc mang gia tài sự sản về Nước Chúa nữa nhưng mỗi khi có cơ hội đều san xẻ cho người khác một phần tiền Chúa đã cho mình tạo được.

Lại có người nhà giàu khác nữa dâng hiến cách rất trung tín, rời rộng đến nỗi có người cảm thấy tiếc giùm cho ông ấy. Nhân khi có nạn khủng hoảng kinh tế xảy ra hồi thời 1929, người ta nói phải chi ông đừng dâng hiến nhiều đến như vậy thì ngày nay đâu đến nỗi nghèo xác nghèo xơ, nghèo rớt mùng tơi, nghèo rơi manh chiếu. Ông trả lời: Nếu trước đây tôi không dâng như thế, ngày nay tôi cũng mất hết. Nhưng vì trước đây tôi đã dâng và điều tôi dâng được cất giữ trên Nước Chúa cho nên bây giờ tôi vẫn còn.

Nếu có thể tin tưởng cách mãnh liệt rằng cuộc đời chúng ta đang sống chỉ là đời tạm và quê hương thật của chúng ta là quê hương trên trời, đến khi lìa đời chắc chắn chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn, thì mỗi con cái Chúa sẽ muốn dùng đời tạm này để chuẩn bị cho tương lai lâu dài với Chúa trong đời sau.

III. Người Chết Trong Chúa Sẽ Tề Tựu Bên Chúa (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4: 17-18)

Kinh Thánh trình bày cách rõ ràng sự sống lại của Chúa Giê-xu. Ngài là Đấng sống lại trước tiên. Kinh Thánh gọi Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ: Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, nhưng mỗi người theo thứ tự riêng của mình: Đắng Christ là trái đằu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại (I Cô-rinh-tô 15:22-23).

Kinh Thánh cũng nói rõ về sự sống lại của những người thuộc về Chúa. Kinh Thánh gọi họ là những kẻ chết trong Đấng Christ: Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ sẽ sống lại trước hết (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16-17).

Kinh Thánh còn nói về sự sống lại của hết thảy những người tuẫn đạo. Kinh Thánh gọi họ là những kẻ chết vì đã làm chứng cho Chúa: Tôi lại thấy những ngai và những người ngồi trên ngai được quyền xét đoán. Kế đó tôi thấy linh hồn những kẻ đã phải chết chém vì sự làm chứng cho Đức Chúa Giê-xu và vì lời Đức Chúa Trời, linh hồn những kẻ chẳng thờ lạy con thú cùng hình tượng nó, chẳng nhận dầu hiệu nó, hoặc trên trán hoặc trên tay. Các người ấy được sống và trị vì với Đấng Christ trong một ngàn năm (Khải Huyền 20:4)

Và ngoài ra Kinh Thánh còn xác định sự sống lại của cả những người không được cứu sau một ngàn năm: Còn những kẻ chết khác chẳng được sống cho đến khi đủ một ngàn năm. Ấy là sự sống lại thứ nhứt (Khải Huyền 20:5). Trong khi những người tin Chúa cùng sống với Chúa cách phước hạnh thì những người ấy cũng sẽ sống lại để bị đoán xét.

Khi chính thân sinh của mình qua đời và về với Chúa, một tôi tớ Chúa đã viết những lời này:

Thế là Bố đã về với Chúa được hai hôm rồi.

Ôi sao mà xa xôi diệu vợi, tưởng chừng như quá tầm tay với.

Chừ thì chúng con một nẻo, Bố một nơi.

Chúng con thương nhớ Bố như muốn rụng rời.

Hôm ra đi, Bố thưa cùng Chúa:

Ôi Chúa ôi, con mệt quá đỗi,

Con mong được ở cùng Chúa mà thôi.

Chỉ trong phút chốc Chúa nhậm lời.

Khi nhà tạm trên đất này đổ nát,

Chúa đón Bố vào cõi đời đời.

Bố mỉm cười, lệ tràn khóe mắt,

Nhìn mẹ rồi, hồn Bố thảnh thơi.

Giờ này con tin Bố đang cười,

Con mường tượng Bố cười thật tươi.

Ôi chốn này vui lắm con ơi,

Nước Chúa thật vinh hiển rạng ngời.

Tiễn đưa Bố sao khỏi cảnh ngậm ngùi,

Nhưng thương Bố ai thương bằng Chúa.

Ngay cả Má đã sáu mươi năm bảy tháng,

Thương chồng mình đến thế là cùng.

Thích cảnh đẹp Bố về chốn thiên cung,

Nơi chẳng có sầu đau than vãn,

Nơi chẳng còn đói rách cơ hàn,

Chờ đón Má, chờ đón con cháu, linh hồn Bố bình an vô cùng.

Gần kề Chúa, miệng Bố luôn chúc tụng,

Bố bước đi, mỗi bước thật vững vàng.

Sống bên Chúa, hào quang rực rỡ,

Thỏa thích thay cảnh trí huy hoàng.

Bố có kể cho chúng con nghe,

Năm xưa khi Bố còn tấm bé,

Bố mất Mẹ, tuổi trẻ mồ côi,

Bố lớn lên bên cạnh Ông Nội.

Nội thương Bố không cho Bố khổ

Nhà dù nghèo nhưng Bố được ấm no

Tay chẳng có gì nhưng lòng luôn giàu có

Bố lớn lên trong tình người gắn bó.

Bố chẳng phiền, chẳng giận, chẳng buồn ai,

Bố chỉ muốn mọi người được thư thái.

Bởi vậy nên ai ai khi quen Bố,

Đều muốn Bố làm bạn lâu dài.

Trọn cả đời Bố thường phấn đấu

Bao nhọc nhằn Bố không e ngại

Yêu nước thương nhà Bố xây dựng tương lai

Bài thơ cũ Bố luôn giữ mãi:

Mỗi độ Xuân về cảnh đổi thay,

Non Sông thiên cổ vẫn còn đây,

Đồng tâm hiệp ý lo xây dựng,

Gắng sức ra công cố đắp xây.

Lời Sống truyền rao cùng mọi giới,

Tin Lành phổ biến cả Đông Tây.

Tái lâm ngày ấy bao hy vọng,

Nguyện Chúa ban ơn Đất Nước nầy.

Lòng đong đầy tình quê hương yêu dấu,

Bố nguyện cầu cùng Chúa không thôi:

Mong ơn Chúa tuôn tràn trên Đất Việt,

Cho muôn người đều hưởng ơn cứu rỗi.

Ngày Bố về với Chúa hoa nhiều lắm Bố ơi.

Quí hóa thay đầm ấm tình người.

Bố thích hoa chắc chắn Bố đang vui.

Càng vui hơn nữa khi gặp lại người.

Mong gặp Bố là lẽ tự nhiên.

Trong phút chốc tiếng kèn sẽ trổi.

Con mong sao ai nấy đều tin,

Để hưởng phước Thiên Đàng miên viễn.

Áp Dụng:

Không ai có thể tránh khỏi sự chết. Đã sinh ra đời, ai lại không chết. Chỉ có một mình Chúa mới có thể chiến thắng sự chết và ban chiến thắng đó cho những người tin nhận Ngài. Khi Chúa Giê-xu nghe tin La-xa-rơ chết, Chúa đau lòng vô cùng. Ngài cảm thương nỗi đớn đau, sự mất mát của thân nhân người quá cố. Ngài đứng bên phần mộ của La-xa-rơ, chứng kiến nỗi khổ của Ma-thê, Ma-ri cùng những người quanh đó, và Chúa khóc. Tuy nhiên, khi an ủi những người thân yêu trong gia đình trước đó Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dù đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Sau đó Chúa hỏi: Ngươi tin điều đó chăng? (Giăng 11:25-26).

Việc Chúa dựng La-xa-rơ sống lại chứng tỏ quyền năng phi thường của Chúa. Lời Chúa hứa cùng những người tin nhận Ngài là lời chắc chắn và chân thật, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lãnh. Ngày nay phải khi có người thân yêu trong gia đình qua đời, hoặc khi chính mình phải đối diện với sự chết, chúng ta nên tin cậy Chúa và quyết tâm nương tựa vào lời hứa quí báu của Chúa.