"Lạy Đức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu" (câu 7).
Câu hỏi suy ngẫm: Tác giả viết Thi-thiên này trong hoàn cảnh nào? Tại sao trong hoạn nạn tác giả xin "sự sáng rực rỡ mặt Ngài", "mặt Chúa chói sáng"? Tác giả tả những nỗi đau nào mà đồng bào ông phải trải qua? Ông xin Chúa làm điều gì? Và ông sẽ làm điều gì? Bạn có thường cầu nguyện cho đồng bào mình không? Cầu nguyện thế nào?
Thi-thiên 80 được viết khi tác giả nghe tin vương quốc phía Bắc sụp đổ, vì thế đây là một bài ai ca, mô tả những nỗi đau đớn người Y-sơ-ra-ên phải chịu. Ép-ra-im và Ma-na-se (c.2) là tên các chi tộc trong vương quốc phía Bắc, tức là nước Y-sơ-ra-ên. Vì tội lỗi của người Y-sơ-ra-ên, Chúa để nước họ rơi vào tay người A-sy-ri vào năm 722 trước công nguyên.
Nếu để ý chúng ta thấy bài thơ này có một phần điệp khúc nhắc đi nhắc lại ba lần (c.3, 7,và 19) và do đó chia bài thơ làm ba phần như sau:
1. Lời mở đầu (câu 1-13). Tác giả gọi Chúa là Đấng chăn giữ và Đấng dẫn dắt Y-sơ-ra-ên. Đối với người Do Thái, hình ảnh người chăn chiên là hình ảnh đẹp nhất để mô tả người lãnh đạo. Ông cũng gọi Chúa là "Đấng ngự trên chê-ru-bin" (chữ này viết là "chê-ru-bim" thì đúng hơn). "Chê-ru-bim" là những thiên sứ có cánh. Tượng của thiên sứ này đặt trên chiếc rương giao ước, nơi Chúa hiện ra với con dân Chúa ngày xưa (Xuất Ê-díp-tô Ký 37:6-9). "Đấng ngự trên chê-ru-bim" nghĩa là Đấng thánh khiết, cai trị và hướng dẫn con dân Chúa. Câu "làm cho mặt Chúa sáng chói" nghĩa là hãy chiếu sáng mặt Ngài trên chúng tôi. Trong giờ phút đen tối của cuộc đời, con dân Chúa chỉ mong được nhìn thấy ánh sáng nơi mặt Ngài, vì đó là hy vọng duy nhất của họ. Hình ảnh này tương tự với hy vọng chúng ta đặt vào ngày Chúa trở lại trần gian. Trong đời sống đầy thử thách và khó khăn hiện nay, hy vọng về ngày Chúa trở lại trần gian làm Vua là niềm an ủi và khích lệ lớn nhất cho chúng ta.
2. Lời cầu xin tha thiết (câu 4-7). Dù biết lời cầu xin của mình làm Chúa nổi giận, tác giả vẫn không nản lòng vì ông biết lòng nhân từ của Chúa rất lớn. Hai câu 5 và 6 mô tả nỗi đau khổ lớn lao của dân Chúa: ăn bánh giọt lệ, uống nước mắt đầy đấu, thành bia tranh cạnh (làm cái đích cho các dân tộc khác tranh giành, xâu xé), bị kẻ thù nhạo cười. Trong tình thế cấp bách, tuyệt vọng, tác giả nhắc lại lời khẩn xin như một điệp khúc: "Xin hãy đem chúng tôi lại ("hãy tiếp nhận chúng tôi"), và làm cho mặt Chúa sáng chói thì chúng tôi sẽ được cứu" (c.7).
3. Lời cầu nguyện xin Chúa giải cứu (câu 8-19). Lời cầu xin này gồm hai phần: (a) Hình ảnh cây nho tươi tốt, c.8-16. (b) Cầu xin Chúa giải cứu, c.17-19. Cây nho được Chúa dời từ Ê-díp-tô (c.8) chính là đoàn người Y-sơ-ra-ên được Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và đưa vào sống trong miền đất Ca-na-an. Câu "Tượt nho tay hữu Chúa trồng, chồi Chúa đã chọn" chỉ về tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Tác giả tha thiết xin Chúa cứu nước Y-sơ-ra-ên và thay mặt đồng bào, ông hứa với Chúa rằng nếu Ngài cứu vớt, đồng bào ông sẽ không phạm tội cùng Chúa nữa (c.18).
Lời cầu nguyện của Thi-thiên 80 nói lên lòng yêu nước của tác giả. Vì thấy sự tang tóc xảy ra cho đồng bào miền Bắc, ông đã khẩn thiết cầu nguyện cho họ. Đây là điều chúng ta cần bắt chước, chúng ta không chỉ cầu nguyện cho chính mình và gia đình của mình nhưng cũng hãy cầu nguyện cho đất nước và đồng bào, để xin Chúa tha thứ tội và cứu đồng bào chúng ta.
Lạy Chúa xin giúp con luôn nhớ cầu nguyện cho đồng bào con, vì đó cũng là trách nhiệm Chúa giao cho con.
(c) 2024 svtk.net