Trang Chủ :: Chia Sẻ

Ngày 14

Quá Khứ – Hiện Tại – Tương Lai

Thi-thiên 85

"Lạy Chúa, xin cho chúng tôi thấy sự nhân từ Ngài và ban cho chúng tôi sự cứu rỗi của Ngài" (câu 7).

Câu hỏi suy ngẫm: Khi nhìn lại quá khứ tác giả thấy Chúa đã làm cho con dân Ngài điều gì? Nhìn vào khó khăn hiện tại tác giả cầu xin Chúa điều gì? Khi bạn nhìn lại quá khứ, hiện tại bạn nghĩ về Chúa thế nào? Suy tư đó có khích lệ bạn tiến bước trong tương lai không?

Thi-thiên 85 được viết trong lúc con dân Chúa gặp khó khăn. Chúng ta không rõ khó khăn này là gì, tuy nhiên, qua những chi tiết ghi trong bài thơ có thể đoán đây là thời gian người Do Thái đã ra khỏi đất nô lệ Ai Cập (c.1). Bài thơ nói lên suy tư của một người kính sợ Chúa trước nỗi khó khăn chung của đất nước. Ba ý chính trong niềm suy tư đó là:

1. Nhắc lại những phước lành trong quá khứ (c.1-3). Ba điều Chúa đã làm cho dân Ngài là: (a) Ban cho họ một lãnh thổ, (c.1.) (b) Tha thứ tội của họ, (c.2). (c) Cho họ được thông công với Ngài, (c.3). Một trong những bí quyết giúp ta chịu đựng hoạn nạn trong hiện tại là nhớ lại ơn lành Chúa đã ban trong quá khứ. Bạn đang gặp thử thách trong đời sống vật chất, những đau buồn bất ngờ? Xin hãy nhớ lại những phước lành Chúa ban trong qua khứ, hãy đếm các phước lành Chúa đã ban, bạn sẽ thấy được phấn khởi và an ủi. Lòng phấn khởi đó sẽ giúp chúng ta can đảm đối diện khó khăn vì biết rằng Chúa sẽ can thiệp như Ngài đã can thiệp trong quá khứ.

2. Nhìn vào khó khăn hiện tại (c.4-7). Điều làm tác giả buồn hơn hết là thấy như Chúa đang nổi giận với mọi người trong nước, họ không còn cảm thấy ơn thương xót Chúa đối với họ như trước kia. Ba điều tác giả cầu xin Chúa là: (a) Xin Chúa tha thứ và đừng giận con dân Ngài nữa. (b) Cho họ được phục hưng để họ tìm thấy niềm vui nơi Chúa. (c) Cho họ kinh nghiệm được tình yêu của Chúa qua sự cứu rỗi. Mỗi khi lỡ phạm tội và bị Chúa trừng phạt hoặc gặp thử thách, chúng ta đến với Chúa và xin Chúa tha thứ, ban cho chúng ta tấm lòng tươi mới và cho ta kinh nghiệm được lòng nhân từ của Chúa.

3. Trông chờ lời hứa cho tương lai (c.8-13). Tác giả thầm nhủ với chính mình những hy vọng ông đặt nơi Chúa: (a) "Chúa sẽ phán bình an cho dân Ngài" (c.8), nghĩa là Chúa sẽ cho con dân Ngài được sống trong bình an, với điều kiện là họ phải trung thành với Chúa và thật lòng ăn năn tội. (b) "Sự cứu rỗi thật gần những kẻ kính sợ Ngài": Chúa sẽ giải cứu những người kính sợ Ngài. Câu 10 và 11 mô tả tinh thần hòa hợp trong một đất nước có Chúa ngự trị. Câu "Sự chân thật nứt mộng từ dưới đất, sự công bình từ trên trời ngó xuống" nói lên sự hòa hợp tốt đẹp trong liên hệ giữa Đức Chúa Trời và loài người. (c) "Chúa sẽ ban vật tốt, đất sẽ sinh sản hoa lợi": Chúa sẽ cho con dân Ngài được no ấm. Tuy nhiên, điều tác giả trông mong hơn cả là Chúa sẽ bày tỏ đức công bình của Ngài cho mọi người noi theo. Dù đang đối diện với khó khăn, tác giả vẫn lạc quan, hy vọng những ơn phước tốt đẹp Chúa sẽ ban cho đất nước ông trong tương lai. Đây là điều chúng ta cần bắt chước. Đừng để thử thách, hoạn nạn dìm chúng ta xuống hoặc khiến chúng ta mất đức tin và oán trách Chúa, nhưng hãy nhìn lên Chúa, trông mong Ngài làm những việc lớn trên đời sống chúng ta cũng như cho đồng bào chúng ta.

Lạy Chúa, xin giúp con vững tin vào sự thương xót, công chính của Ngài để con tiến bước mỗi ngày.

(c) 2024 svtk.net