Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 3

1 Ti-mô-thê 1:3-11

Mở đầu của bức thư gửi cho người truyền đạo trẻ tuổi, Phao-lô dường như có ý thúc đẩy Ti-mô-thê can đảm hơn, hăng hái hơn trong việc ngăn ngừa phong trào tà giáo nổi lên tại Ê-phê-sô trong lúc đó.

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu các điểm sau đây:

1. Nguy cơ tà giáo tại Ê-phê-sô là gì ?

2. Tiêu chuẩn của chính giáo là gì?

3. Giải thích của Phao-lô về vấn đề luật Chúa.

4. Phần áp dụng cho chúng ta.

1. Trước tiên, nguy cơ tà giáo tại Ê-phê-sô là gì?

Phao-lô đi Ma-xê-đoan vào thời gian nào không ai rõ, nhưng ông đã ủy nhiệm cho Ti-mô-thê làm một việc tại Ê-phê-sô, đó là răn bảo nhưng người rao truyền một đạo sai lạc. Phao-lô lúc ấy vừa được trả tự do và đến Ê-phê-sô là nơi ông đã truyền giáo, ông nhạn thấy giáo hội tại đó có nhiều điều không theo đúng đường lối dạy đạo của ông, nên đã cử Ti-mô-thê, người truyền đạo trẻ tuổi và thân tín nhất ở lại để giải quyết vấn đề.

Vấn đề mà Phao-lô nhìn thấy ở đây là Ti-mô-thê phải đối diện ghi trong câu:3 và 4:

“Ta nay nhắc lại mạng lịnh mà ta đã truyền cho con, khi ta đi sang xứ Ma-xê-đoan, con phải ở lại Ê-phê-sô, để răn bảo những người kia đừng truyền dạy một đạo giáo khác, đừng nghe phù ngôn và gia phổ vô cùng, là những điều gây nên sự cãi lẫy, chớ chẳng bổ sự mở mang công việc của Đức Chúa Trời, là công việc được trọn bởi đức tin.”

“Truyền dạy một đạo khác, và theo những phù ngôn và gia phổ vô cùng” là hai điều Phao-lô đề cập đến ở đây.

Đạo khác là đạo gì? Đạo đây không phải là một tôn giáo, vì nếu một tôn giáo khác thì không phải phần việc của Ti-mô-thê phải răn dạy. Đây là một giáo lý khác với phúc âm của Chúa Giê-xu. Nghĩa là khác với phương pháp tin Chúa thì được cứu mà không phải làm một công đức nào.

Giáo lý khác hay phương pháp cứu rỗi khác này không căn bản trên lời Chúa và các giáo lý do các sứ đồ của Chúa truyền lại, nhưng theo những phù ngôn và gia phổ vô cùng.

Phù ngôn là những chuyện ngụ ngôn người ta đặt ra để dạy đời. Dân tộc nào cũng có những chuyện ngụ ngôn này. Các giáo sư giả tại Ê-phê-sô đã cố gán ghép những câu chuyện ngụ ngôn chung với lời dạy của Chúa, làm cho người ta thấy rằng đạo Chúa và văn hóa truyền thống cũng có nhiều chỗ xứng hợp. Như kiểu ngày nay người tin Chúa mà vẫn có thể lập bàn thờ thờ cúng tổ tiên. Đây là điều sai lạc và một cuộc dung hòa không đúng và không cần thiết.

Riêng gia phổ vô cùng trong câu này là liên quan đến niềm kiêu hãnh của người Do-thái. Họ cho rằng mình thuộc về một dòng dõi thánh để phân biệt mình với các dân tộc khác. Những người Do-thái đã tin Chúa tại Ê-phê-sô đã bị các giáo sư giả lôi kéo trở lại niềm kiêu hãnh này và cho rằng người Do-thái tin Chúa Giê-xu có nhiều đặc quyền hơn mọi dân tộc khác. Thật ra điều này hoàn toàn sai lầm, vì Chúa thương yêu tất cả mọi dân tộc và ra tay cứu vớt tất cả những ai bằng lòng tin Chúa. Ai dạy khác hơn là không theo căn bản.

Đạo Chúa không phải là truyền thống dân tộc, và cũng không bao giờ nên sáp nhập những điều mà ta cho là hay đẹp trong lối thờ phượng truyền thống vào đạo Chúa, vì không thích hợp và không đúng cách.

Phao-lô nói ngay về một nguy cơ trong lối tìm cách dung nạp và sáp nhập này là “chỉ tạo nên cãi lẫy chứ không góp phần mở mang công việc của Đức Chúa Trời là công việc được trọn bởi đức tin.” Khi nào người ta muốn đem những tư tưởng hay thói tục của truyền thống loài người vào việc thờ Chúa thì chỉ tạo tranh cãi, chứ không giúp thêm cho đức tin của ai cả, đó là tinh chất của lời Phao-lô dạy.

Trong Hội Thánh của Chúa thỉnh thoảng cũng có những người thích đưa ra những điều xa Kinh Thánh hay lời dạy của giáo hội, phối hợp với một số triết lý của đời hay là cái gọi là truyền thống dân tộc cốt để làm cho đạo Chúa thích hợp với mọi người. Tuy nhiên Phao-lô cảnh cáo là làm như thế chỉ tạo chia rẽ và tranh cãi, vì niềm tin của chúng ta căn cứ vào lời Chúa không bao giờ biến dạng và cần thêm bớt điều gì. Tất cả đều chỉ do lòng tin chứ không do bất cứ một điều gì khác.

Ta vừa nói đến nguy cơ của tà giao tại Ê-phê-sô, xin sang điểm thứ hai, đó là:

2. Tiêu chuẩn của chính giáo là gì?

Câu 5 ghi: “ Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự yêu thương, bởi lòng tinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra.” Bản Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ đã dịch câu này là: “Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình.”

Tiêu chuẩn của chính giáo là đưa con người đến một lòng kính thờ yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại.

Làm thế nào có được tình yêu này? Câu Kinh Thánh này nêu lên ba nguồn phát sinh ra tình yêu đó:

a. Lòng tinh sạch hay là tâm hồn trong sạch. Tình yêu này phải phát xuất từ lòng tinh sạch. Đây không phải là những nghĩa cử bên ngoài, nhưng chính là từ trong tâm hồn đã được tha thứ tội lỗi và lánh xa trần tục nhơ bẩn. Lòng tinh sạch đây còn mang nghĩa là chỉ tin Chúa mà thôi chứ không pha trộn Chúa với điều gì khác. Chỉ khi ấy ta mới mong thấy được nước Chúa và gặp được Ngài để mà yêu quý.

b. Nguồn thứ hai là lương tâm tốt hay lương tâm ngay thẳng. Đây là lương tâm không còn mang mặc cảm phạm tội vì biết rõ Chúa tha thứ và tái tạo cuộc đời của mình rồi.

c. Thứ ba là do nơi đức tin thật hay là đức tin không giả hình. Đây là sự chân thành của lòng tin có căn bản chứ không phải chỉ là hình thức.

Trên đây là căn bản của chính giáo, tức là hết lòng yêu Chúa và thương yêu đồng loại, như chính Chúa Giê-xu từng dạy.

3. Giải thích của Phao-lô về vấn đề luật Chúa. Câu 6 viết: “Có vài kẻ xây bỏ mục đích đó, đi tìm những lời vô ích;” Câu này Bản Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ diễn tả là: “Vì đi trệch đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch” Có hai động từ quan trọng trong câu này: một là xây bỏ hay đi trệch và hai là đi sang đường khác hoặc là sa vào.

Vì không đặt tiêu chuẩn là tình yêu đối với Chúa và đối với người căn cứ trên đức tin chân chính mà một số người đã đi lạc hay đi sai lạc. Những người giảng tà giáo là những kẻ chú trọng vào những luật lệ, những thói tục, hay lễ nghi mà bỏ qua lòng kính mến Chúa và tình thương đối với người. Khi bỏ các căn bản này thì chỉ còn những lời rỗng tuếch như triết lý của con người mà thôi.

Các câu sau đó Phao-lô nói về luật hay luật pháp. Đây không phải là luật lệ trong hệ thống pháp lý của loài người, nhưng là luật đạo đức của Chúa ban hành cho dân tộc Do-thái đời xưa. Luật của Chúa lúc nào cũng phải tôn trọng. Nhưng những người thời ấy đã dùng việc tuân giữ các luật này như là phương cách để được cứu rỗi khỏi tội là sai, và họ không hiểu việc dạy luật như thế là vô ích. Luật Chúa đặt ra là để lên án những kẻ phạm pháp. Vì thế những ai đã tin nhận Chúa Giê-xu, được tha tội thì không còn bị luật lệ này lên án nữa. Những người theo Do-thái giáo, về sau sang Cơ-đốc-giáo nghĩ rằng phải mang cả tôn giáo cũ của họ sang. Nhưng Phao-lô dạy là họ không cần phải làm như thế. Vì luật Chúa là thước đo tội phạm còøn chúng ta được Chúa tha tội là nhờ lòng tin nơi Ngài.

4. Chúng ta áp dụng bài học này ra sao?

Chúng ta nên nhớ rằng, chỉ nhờ đức tin nơi Chúa, do lòng trong sạch, lương tâm được thanh tẩy bằng máu Chúa Giê-xu và thực hành lòng kính yêu Chúa chân thành và thương yêu đồng bào mà ta được cứu. Ta không cần thêm gì vào căn bản này. Những người thêm bớt vào lời dạy của Chúa chỉ làm cho người tin Chúa hoang mang và tạo nên tranh cãi không cần thiết.

Ta nên hết lòng tin Chúa và danh nhiều thời giờ học biết về Ngài để không bao giờ bị các lý thuyết của loài người làm cho hoang mang và dao động.