Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 59

"Lạy Chúa, Lạy Chúa..." (1)

Ma-thi-ơ 7:21-23

Chẳng phải những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý của Cha ta trên trời mà thôi. Ngày đó sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao? nhơn danh Chúa mà trừ quỷ sao? và cũng nhơn danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? Khi ấy ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm việc gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!

Đây là những lời nghiêm khắc nhất do chính Chúa Giê-xu phán dạy khi Ngài còn ở trần gian này. Đây là những lời lên án chứ không phải chỉ là phê bình chỉ trích. Thường thường ít khi chúng ta nghe người ta giảng giải nhiều về các câu Kinh-thánh này, có lẽ vì ảnh hưởng của nó quá mạnh, làm dao động ngay những thành phần đứng ra truyền giảng Kinh-thánh. Nhưng khi đã tin Kinh-thánh là Lời Chúa, thì ta phải xem xét, phân tích kỹ, vì mọi người đều sẽ ứng hầu trước tòa của Người phán dạy những lời này.

Phần Kinh-thánh này rõ ràng là Chúa Giê-xu tiếp nối đề tài mà Ngài đã nói đến trong phần trước đó, là phần Chúa cảnh cáo về tiên tri giả. Chúa đã xong bài giảng trên núi là các nguyên tắc sống đạo, các phần sau đó Chúa đem áp dụng bài giảng này vào thực tế. Chúa khuyến khích mọi người vào cửa hẹp và đi trên đường chật. Nhưng Chúa không muốn người nào bị lừa khi chọn lựa theo Chúa. Vì vậy mà Ngài nhắc lại lời cảnh cáo về những kẻ giả mạo.

Sau khi đã vạch cho chúng ta thấy tính cách tinh xảo của tiên tri giả qua hai hình ảnh dẫn chứng, Chúa nói đến vấn đề mạo xưng này một cách đặc biệt hơn nữa.

Trước tiên Chúa dạy: "Chẳng phải những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý Cha ta ở trên trời mà thôi." Sau đó Chúa dẫn chứng và giải thích.

Câu này cần được giải thích chung với các câu còn lại, vì có nhiều người tách rời câu này ra để dạy về việc làm điều phước thiện như là công quả để được cứu. Nhiều người cho rằng phải chú trọng nhiều vào việc lành hơn là chuyên về đạo lý. Vì vậy người ta có thể đi đến cực đoan mà nói rằng ta có thể được cứu nhờ làm nhiều việc thiện lành. Nhưng Kinh-thánh không dạy như vậy. Việc cứu rỗi hoàn toàn do ân sủng của Chúa ban, con người không thêm bớt gì vào đó được và việc thiện lành là do tình thương mà thực hiện, chứ không phải phương tiện để được cứu.

Lời dạy của Chúa ở đây rõ ràng là không thể lấy hành động mà chuộc lấy những điều làm sai ý Cha trên trời. Hay nói khác đi, không thể thay việc làm cho lòng tin Chúa chân thành được. Chúa cảnh cáo về nguy cơ tự dối mình và tự ảo giác mình. Trước đó Chúa dạy về muông sói đội lốt chiên để chỉ trích những người lãnh đạo giả, trong các câu này, Chúa nói trực tiếp cho mỗi người.

Chúa nhấn mạnh lần nữa rằng không có gì quý giá, đáng kể trước mắt Chúa hơn là công nghĩa thật, thánh khiết thật, nghĩa là có lòng tin chân thành và được thánh hóa. nghĩa là dù chúng ta làm gì hay tuyên bố gì chăng nữa, Chúa vẫn xét đến tấm lòng thành và sự thật trong lòng của chúng ta.

Ở đây Chúa chỉ cho chúng ta một số việc làm sai và giả, nhưng người ta thường dựa vào đó như thành tích trước mặt Chúa. Chúng ta điểm qua các việc làm đó và tìm ra những nguyên tắc và bài học Chúa muốn dạy.

Nguyên tắc chính ở đây là việc tự dối mình trong quan hệ với Chúa chủ yếu là dựa vào những bằng chứng giả hiệu về cứu rỗi. Hay nói khác đi, Chúa cho thấy những gì có thể xẩy ra vào lúc cuối cùng của những cuộc đời tưởng rằng đã phục vụ Chúa, nhưng thật sự không phải là môn đệ của Ngài. Đó là điều kinh khủng. Trước mắt ta, một người đã đi xa như thế, đã tạo nhiều thành tích thế mà vẫn hoàn toàn bị phủ nhận vì sai lầm.

Chẳng phải những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta trên trời mà thôi. Ở đây Chúa không chỉ trích những người nói: Lạy Chúa, lạy Chúa. Ai cũng có thể nói: Lạy Chúa được. Đây là những người biết giáo lý căn bản về Chúa, tin những điều thuộc về Chúa. Nhưng không phải tất cả những người nói như thế đều sẽ được vào thiên đàng.

Dĩ nhiên là người không tin Chúa, không nói lạy Chúa, sẽ chẳng bao giờ vào thiên đàng. Vì không ai có thể làm môn đệ Chúa mà không xưng Chúa là Chúa của mình. Phao-lô dạy rằng, nếu không do Thánh Linh thì không ai có thể xưng Chúa Giê-xu là Chúa của mình được. Tin Chúa là một điều thiết yếu. Nhưng nếu chỉ nương cậy vào sự tin Chúa mà thôi, ta có thể vẫn bị bỏ. Vì tin Chúa thật sự nghĩa là tin Giê-xu người Na-xa-rét là Con Đức Chúa Trời, đã trở thành xác phàm và từng sống giữa nhân loại, tin rằng Ngài là cứu tinh của nhân loại, đã hi sinh chịu chết chuộc tội, đã sống lại và hiện đang sống. Người nói: Lạy Chúa, lạy Chúa phải là người thật sự biết Chúa, kinh nghiệm Chúa trong đời mình.

Nhưng điều làm mọi người ngạc nhiên là khi Chúa nói: Chẳng phải những ai nói cùng ta: Lạy Chúa, lạy Chúa đều được vào nước thiên đàng đâu. Gia-cơ giải thích rõ hơn về điều này khi ông bảo rằng: Ma quỷ cũng tin như vậy và run sợ. Nhiều lần ma quỷ gặp Chúa trên trần gian cũng vẫn tôn Chúa, vẫn nói lạy Chúa, nhưng chúng vẫn là quỷ chứ không thành môn đệ Chúa được. Nhiều người vẫn thường rơi vào cạm bẫy này. những người ấy đọc Kinh-thánh, tin lời dạy của Chúa, bênh vực chân lý, cãi lại những người theo tà thuyết, nhưng toàn thể cá tính và lối sống của những người ấy phản lại tất cả những gì người ấy nói rằng mình tin.

Một người không tin Chúa, không được tái sinh có thể chấp nhận Kinh Thánh là một loại triết lý, những lời dạy trừu tượng, nhưng vẫn chưa phải là người tin Chúa. Người có thông minh trung bình và có học thức, biết rõ rằng việc Chúa Giê-xu vào đời là một sự kiện lịch sử có thật không chối cãi được. Vì sự có mặt của Giáo Hội Cơ-đốc không thể nào giải thích được, nếu không nhận rằng có Chúa Giê-xu thật sự. Vì thế một người có học có thể xác nhận: Tôi nhận Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, nhưng vẫn chưa phải là người tin Chúa. Công nhận chưa phải là tin nhận. Người công nhận có Chúa có lẽ cũng đông đảo bằng số người vô thần trên đời này, nhưng công nhận không, không đi đến đâu cả. Nhiều điều chúng ta công nhận nhưng không ảnh hưởng gì đến mình cả, vì công nhận hay không công nhận thì Chân Lý vẫn là Chân Lý, Chúa vẫn là Chúa, không có gì thay đổi cả. Những người phủ nhận Chúa hay những người vô thần dù có chống Chúa và bài bác Chúa đến đâu chăng nữa cũng không thay đổi sự kiện Chúa có thật được, mà còn ngược lại nữa. Vì không khi nào chúng ta phải bài bác một điều gì không có thật. Công nhận cũng vậy, không có giá trị gì cả. Vì nhiều người tự cho rằng mình có lòng tin, nhưng thực sự vẫn ở ngoài con đường hẹp, chưa thực sự kinh nghiệm Chúa mà chỉ công nhận.

Nhiều người được sinh ra trong gia đình cha mẹ hay họ hàng là người tin Chúa, cũng đi nhà thờ, cũng đọc Kinh-thánh, cũng cầu nguyện và tưởng rằng như thế là tin Chúa, thật ra những người ấy chỉ làm những việc của một người tin Chúa, nhưng chưa tin Chúa cho đến khi người ấy bằng lòng tự đến với Chúa và được Chúa thay đổi. Tin Chúa không phải là sống trong một môi trường tin Chúa hay là công nhận những gì người khác tin, nhưng là đích thân kinh nghiệm gặp Chúa và được thay đổi.

Điểm thứ hai ta nhận thấy ở đây là có thể lắm những người này mặc dù không phải là người tin Chúa thật, nhưng lại rất sốt sắng và nhiệt thành. Chúa Giê-xu không nói: những người ấy nói Lạy Chúa mà thôi, nhưng Chúa nói, họ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa. Trong nguyên ngữ chỉ có một chữ Chúa chứ không có chữ lạy, trong Việt ngữ ta phải nói Lạy Chúa mới đúng nghĩa. Khi nói Lạy Chúa, lạy Chúa chứng tỏ rằng có vấn đề xúc cảm trong đó. Những người này tỏ vẻ bén nhậy, và sốt sắng. Người nhiệt thành nhiều khi vào bất cứ tổ chức nào hay tôn giáo nào mà họ thích, họ cũng nhiệt thành như vậy, không nhất thiết tôn giáo hay tổ chức đó có chân chính hay không. Chúa bảo rằng, dù nhiệt thành vì Chúa, nói hay và nói đúng về Chúa, nhiều người vẫn không hội đủ điều kiện vào nước Chúa.

Điều ta cần nhận định là: mỗi người tin Chúa cần phân biệt rõ nhiệt thành do lòng tin chân thật, xuất phát từ cuộc đời tái sinh đổi mới Chúa ban cho và nhiệt thành, sốt sắng của một con người thông thường đối với bất cứ việc gì. Bản năng tự nhiên và tính khí của ta có khi đưa ta đến chỗ nhiệt thành để thỏa mãn ý thích của mình.

Một người soạn một bài nói cẩn thận, có thể thích thú và thỏa mãn với lối sắp xếp tư tưởng và hình thức trình bầy của mình. Nếu người ấy có bản tính nhiệt thành sốt sắng, có thể đứng lên nói lưu loát và thu hút người nghe. nhưng có thể tất cả chỉ là công việc của con người chứ chưa quan hệ gì đến sức mạnh và quyền năng của Chúa. Vì bài nói ấy nếu với đề tài nào khác, chuẩn bị kỹ cũng thu hút người nghe tương tự. Người đứng lên giảng truyền lời Chúa hay cầu nguyện giữa công chúng đều biết rõ điểm này. Vì nhiều khi ta nói hay cầu nguyện trước đám đông, mà biết rõ rằng mình chỉ làm phận sự, chỉ đóng một vai trò cho tốt chứ không thực sự được Chúa vận hành và quyền năng Chúa bao bọc. Có những người hễ cầu nguyện là phải than khóc, nước mắt tuôn đổ, nhất là trước công chúng, nhưng không biết ở nhà riêng, người ấy có cầu nguyện nhiệt thành và khóc lóc như thế không? Người cầu nguyện là hét lớn tiếng hay khóc chỉ vì xúc cảm và gây xúc cảm, không thiêng liêng gì hơn những người khác. Bài Giảng Trên Núi Chúa đã vạch rõ, cầu nguyện sẽ được nhậm lời ở chỗ âm thầm, yên lặng, vì nơi đó Chúa nghe và ban cho những gì ta cầu xin.

Trong đời có những người rất dễ xúc động nhưng cảm xúc không chứng tỏ lòng tin chân thành và đời sống thật sự đổi mới.

Trong bài học lần sau, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu lời dạy này của Chúa. Tuy nhiên, áp dụng những gì chúng ta nói hôm nay, tôi xin tóm tắt mấy điểm:

1. Tin Chúa nghĩa là nhận mình là người có tội, không có phương cách nào tự giải thoát khỏi cuộc trừng phạt của Chúa, và hết lòng tin vào công lao hi sinh cứu chuộc ủa Chúa Giê-xu để được tha tội, tái tạo nên người mới và phát sinh những quả trái tốt đẹp trong tính tình và cách sống trong đời đối với Chúa, đối với người và với bản thân.

2. Tin Chúa với ý chí và quyết tâm chứ không phải chỉ bằng xúc cảm, vì cảm xúc chỉ là nhất thời, sẽ qua đi, nhưng quyết tâm là cam kết sống chết với niềm tin cho đến cuối cùng.

3. Nhiệt thành chưa chắc đã là tin Chúa thật, vì ngoài đời nhiều người cũng nhiệt thành còn hơn người tin Chúa, nhưng họ vẫn là người vô tín. Ta phải cẩn thận, vì chỉ nhiệt thành không, sẽ gãy đổ khi gặp sóng gió, nhưng sống thâm trầm sâu nhiệm với Chúa, sẽ giữ đức tin vững bền.

4. Chúa không quan tâm nhiều về sự sốt sắng nhiệt thành của ta, nhưng Chúa để ý đến tấm lòng chân thành và thuận phục Chúa với tinh thần khiêm nhường phục vụ.

Cầu Chúa soi dẫn anh chị em trên đường theo Chúa.