Từ bài giảng luận "Tình Yêu Thương Anh Em"
CN July 26, 2015 - Hội Thánh North Hollywood
7 Hỡi kẻ rất yêu dấu, ấy chẳng phải là điều răn mới mà ta viết cho anh em, bèn là điều răn cũ anh em đã nhận lấy từ lúc ban đầu; điều răn cũ nầy tức là lời anh em đã nghe. 8 Song le, ta cũng viết cho anh em điều răn mới, là điều chân thật trong Chúa và trong anh em, vì sự tối tăm đã tan rồi, và sự sáng thật đã soi sáng. 9 Kẻ nào nói mình trong sự sáng, mà ghét anh em mình thì còn ở trong sự tối tăm. 10 Ai yêu mến anh em mình, thì ở trong sự sáng, nơi người đó chẳng có điều chi gây cho vấp phạm. 11 Nhưng ai ghét anh em mình, thì ở trong sự tối tăm, làm những việc tối tăm, và không biết mình đi đâu, vì bóng tối tăm đã làm mù mắt người. (1 Giăng 2:7-11)
Đề tài của bài giảng luận là một cụm từ được trích xuất từ câu Kinh Thánh này: "thêm cho tin kính tình yêu thương anh em, thêm cho tình yêu thương anh em lòng yêu mến" (2Phi 1:7). Tôi thử cắt năm chữ "Tình Yêu Thương Anh Em" này ra thành hai phần: "Tình Yêu Thương" và "Anh Em". Hôm nay, thêm một lần nữa, "tình yêu thương" lại được đề cập đến để nhắc nhớ tôi phải thường xuyên kiểm định lại chính mình trước điều răn vô cùng quan trọng mà Đức Chúa Giê-xu đã truyền lại cho các môn đệ trong bữa ăn cuối, nhân dịp giữ lễ trọng Vượt Qua năm xưa: "Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy" (Giăng 13:34). Tôi vẫn cứ phải học hoài, học mãi, học mỗi ngày để thấm nhuần một tình yêu giống như Chúa đã dành trọn cho tôi. Điều đó không có gì phải xác định lại, cái mà có lẽ cứ gây khó dễ cho tôi trong môn học kéo dài suốt đời này hình như nằm ẩn giấu bên sau hai chữ "anh em".
Có lẽ tôi đã định nghĩa "anh em" một cách chung chung như mọi người vẫn đồng ý với nhau. Người ta hãnh diện lắm và tạo một mối liên kết đầy tự hào, khoe với nhau là đồng bào, đồng hương, đồng môn, đồng chí, đồng đạo ... Hạnh phúc của những ngày đầu đầy phấn kích sẽ nhạt phai dần theo năm tháng, bởi vì niềm vui tồn tại lâu bền phải định nghĩa theo Thánh Kinh: "anh em hãy hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng mà làm cho tôi vui mừng trọn vẹn" (Phi-líp 2:2). Sống trong tập thể những người Cơ-đốc, tôi có tất cả các cái "đồng" bên trên; nhưng nếu không "đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng", không có "đồng một tâm tình như Đấng Christ" thì tình yêu thương của tôi chỉ "như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng".
Tôi sẽ tự bào chữa cho mình rằng tôi đã vượt trên những định chế bình thường đó rồi. Chúng ta là những người có đồng một đức tin, nên tôi mới gọi những đối tượng thân yêu trong Hội Thánh là "anh em trong Chúa", phải không? Vẫn còn đôi điều phải suy nghĩ, vì ngay chính anh em ruột thịt mà có mấy gia đình hoàn toàn sống với nhau hòa thuận đâu? Trong Chúa, anh em càng đáng quý trọng. Chúng ta là những chi thể liên kết nên thân thể của Đấng Christ, là những người mà Thánh Kinh căn dặn rằng: "anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em, phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau, dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh" (Ê-phê-sô 4:1-3). Vì vậy, nếu tôi định nghĩa anh em mình không đúng như Thánh Kinh quy định, tình yêu thương của tôi đối với anh em cần phải duyệt xét lại. Tôi không bao giờ dám nói rằng mình "ghét" anh em, nhưng không có nghĩa là điều này không hề xuất hiện trong tâm trí và sinh hoạt của tôi.
Tôi đọc lại phân đoạn Kinh Thánh bên trên. Tôi có thể lọt vào một trong hai trường hợp được nêu ra. "Kẻ nào nói mình trong sự sáng, mà ghét anh em mình thì còn ở trong sự tối tăm" (câu 9); tôi nói năng thiêng liêng y như mọi người, nhưng trong lòng không phải thương mà là ghét; kết quả: ai mà biết, nhưng tôi bị liệt vào hàng "trật phần ân điển". Ngược lại, "ai yêu mến anh em mình, thì ở trong sự sáng" (câu 10); chẳng cần phải rình rang đánh trống thổi kèn, tình yêu thực sự đã tiếp nhận từ Chúa trong tôi sẽ phát sáng tự nhiên để nói lên rằng tôi đang ở trong vinh quang Thiên Chúa. Tôi không dám ghét anh em, nhưng mà nghỉ lại cho cùng, đâu phải anh em mình người cũng dễ thương. Coi chừng! Chúa có cái cân, tình yêu thương trong tôi không thể ở mức "Tê-ken" (xem Đa. 5:27). Tôi sợ lắm khi đọc cẩn thận lại bản án đã định sẵn này: "ai ghét anh em mình, thì ở trong sự tối tăm, làm những việc tối tăm, và không biết mình đi đâu, vì bóng tối tăm đã làm mù mắt người" (câu 11). Không đơn giản như tôi nghĩ, nếu tôi ghét anh em, tôi mất Sự Sáng. Đau đớn thay khi tôi cứ tưởng mình đi trong Ánh Sáng, tôi lại quờ quạng mò mẫm trong tối tăm. Tôi cứ ngỡ mình làm những công việc ích lợi cho Chúa, cho anh em, nhưng lạc mất phương hướng và mọi việc đổ sông đổ biển. Tôi tự làm cho mình trở nên khiếm thị, mắt vẫn mở mà lòng tràn ngập tối tăm, không phân biệt phải trái, trắng đen.
Tình yêu thương phải thật sự chiếm hữu tấm lòng và cả cuộc đời tôi. Tôi không thể cố gắng để đạt được ân tứ đó, chỉ phải hạ mình trước Chúa và trước anh em để tình yêu nẩy nở dần bởi Chúa Thánh Linh quản lý tôi. Cho dù bây giờ tình yêu thương của tôi đối với anh em chưa thỏa hết mọi điều kiện, nhưng đó vẫn có thể được chấp nhận là tình yêu thương chứ không phải là ghen ghét, thù ghét, ghét bỏ; hay tệ hơn nữa, tôi cứ luôn diễn tuồng yêu thương anh em mình trước mặt Chúa Toàn Tại Toàn Tri.