Trang Chủ :: Chia Sẻ

Bài 47

Nhớ Cha

(Kính tặng cha nơi Thiên đàng)

Sinh ra làm người ai trong chúng ta cũng đều có cha có mẹ. Tôi cũng vậy, tôi được Chúa ban cho có một người cha người mẹ thật bình dân, nhưng thật đáng kính. Không ai có quyền chọn cha chọn mẹ cho mình, nhưng cha mẹ của mình là bởi Chúa ban cho, bởi sự sắp đặt của Ngài, vì nguồn gốc hôn nhân đến từ Đức Chúa Trời (Kinh Thánh sách Sáng thế ký 2: 18 – 25).

Ai trong chúng ta cũng mong muốn cha mẹ mình sống lâu trăm tuổi để được sống với cha mẹ trong yêu thương và vui thỏa. Nhưng sự sống sự chết của con người, chúng ta đâu có tự quyết định được, chỉ một mình Đức Chúa Trời là Đấng nắm giữ sự sống sự chết của con người chúng ta trong tay Ngài. "Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống và hơi thở của cả loài người" (Gióp 12: 10). Lời Kinh Thánh đã khẳng định như thế. Dầu rất muốn cha mẹ sống lâu trăm tuổi với mình, nhưng không được, Chúa đã đem cả cha và mẹ tôi về để ở với Ngài trên trời. Mẹ tôi đã được Chúa đem về Thiên đàng cách đây 44 năm rồi, khi ấy mẹ tôi còn trẻ lắm, chừng 40 tuổi. Còn cha tôi thì Chúa cho sống đến tuổi 78 và rồi cách đây 15 năm, cha tôi đã được Chúa gọi về ở với Ngài. Bây giờ cha mẹ không còn ở với mình, ở bên mình nữa, thương nhớ cha mẹ thật nhiều, nhưng tôi rất vui vì cha mẹ tôi đều được về ở trong Thiên đàng, một nơi phước hạnh vô biên mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn dành riêng cho những ai đã tin nhận Chúa Giê-xu khi còn sống trên trần gian nầy. Tạ ơn Chúa!

Cha toi sống bình dân, giản dị, gần gũi với mọi người. Tôi rất thích cách sống như thế của Người. Cha tôi là một người tin Chúa với một đức tin mà tôi rất kính phục. Và tôi đặc biệt thích cái đức tin ấy của Người. Cha tôi không suy nghĩ gì cao xa trong niềm tin cả. Ông thường nhắc chúng tôi là hết lòng tin cậy Chúa như con tin vào cha vậy. Ông tin Chúa và tin Kinh Thánh là lời của Ngài, không nghi ngờ gì cả, dầu có nhiều chỗ trong Kinh Thánh ông không hiểu được. Cha tôi quan tâm đến việc thực hành lời Chúa hơn là hiểu lời Chúa mà không thực hành.

Chúa dạy con dân Ngài phải sống trong yêu thương và đối xử với nhau bằng tình yêu (Giăng 13: 34; I Cô rinh tô 13). Đó là điều mà mọi Cơ Đốc nhân đều biết và biết rất rõ, nhưng để thực hành điều đó trong cuộc sống của mình thì coi bộ... còn lâu lắm nhiều người trong chúng ta mới làm được. Sống trong yêu thương và đối xử với nhau bằng tình yêu thật là một điều không dễ chút nào, nếu không muốn nói là... thiên nan, vạn nan. Ôi, cực khó! Tôi không thể nào quên được hình ảnh của cha tôi khi quyết định đem một bà cụ tín đồ bị té gãy chân về nuôi trong nhà của mình. Bà cụ nầy tin Chúa một mình, bà con của bà rất đông, nhưng chưa có ai tin Chúa cả. Khi bà cụ bị té gãy chân, bà con bà ai nấy cũng né tránh việc đem bà về chăm sóc, thế là cha tôi quyết định chăm sóc bà. Tuổi già mà gãy chân thì lâu lành lắm và cũng dễ đi về bên kia thế giới lắm. Những ngày đầu chăm sóc bà còn dễ đôi chút, nhưng càng về sau thì càng khó khăn làm sao. Bà không đi lại được, phải nằm một chỗ, đi vệ sinh một chỗ, cha tôi phải dọn dẹp vệ sinh cho bà, rồi lo ăn uống cho bà. Bà nằm hơn cả tháng như thế, vết thương không lành được nên hôi thối vô cùng. Một lần, tôi về thăm nhà, tôi không thể nào chịu nổi cái mùi hôi thật khó chịu ấy ( trong lòng tôi thoáng giận cha tôi, nhưng rồi sau cái thoáng giận đó, tôi kính nể Người vô cùng), vì nếu tôi, thì chắc chắn tôi không đủ tình yêu để có thể làm được một việc như cha tôi đã làm). Nhiều người chung quanh đều nói mắc mớ chi mà làm chuyện như thế, bà con họ biết mấy họ không lo thì thôi, hơi đâu mình lo. Nhưng họ đâu biết rằng cha tôi làm điều đó là vì danh của Chúa, vì yêu thương một bà cụ tín đồ vì đức tin nơi Chúa mà bị bà con bỏ bê và vì lòng yêu kính Chúa của mình. Quả thật, Chúa đã ban cho cha tôi có một trái tim đủ lớn để yêu thương được như vậy. Đến bây giờ, tôi thấy trái tim của tôi vẫn chưa lớn đủ để có thể yêu thương được như cha tôi đã yêu thương. Tôi thật cảm tạ Chúa về việc làm thật khó làm được ấy của cha tôi.

Lời Chúa cũng dạy chúng ta phải kính trọng những người hầu việc Chúa, phải quan tâm đến họ, phải lấy lòng rất yêu thương đối với họ (I Tê sa lô ni ca 5: 12, 13). Điều đó ai trong chúng ta cũng biết, cũng thuộc, nhưng để thực hiện cho tốt thì cũng không phải dễ dàng chút nào. Một hôm, mấy anh em chúng tôi đi tát cá về, được khá nhiều cá, trong số đó có một con cá tràu (cá lóc) rất to, rất ngon. Khi đổ cá ra để chuẩn bị làm và kho, thì cha tôi liền bắt lấy con cá tràu to, ngon nhất đó bỏ vào bao, những tưởng cha tôi sẽ đem đi bán để kiếm tiền cho chúng tôi, nhưng Người nói cha đem con cá to nầy để biếu cho ông Mục Sư BP., tôi tớ của Chúa. Nói xong là ông xách bao cá đi ngay. Anh em chúng tôi ai nấy đều chưng hửng và hầu như ai nấy cũng đều hậm hực trong người, nhìn theo bóng cha với cả một sự tiếc nuối trong lòng. Ai cũng như muốn nói thầm trong lịng rằng thì ổng đem mấy con cá nhỏ hơn cho cũng được, chứ tát hết hơi, có một con cá to nhất, ngon nhất, không để ăn lại đem cho mất. Thật không hiểu nổi cho ổng.

Lời Chúa trong Giê rê mi 33: 3 dạy rằng: "Hãy kêu cầu ta, ta sẽ trả lời cho; ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết." Đó là câu Kinh Thánh mà hầu như ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng, nhưng để thực hiện theo câu Kinh Thánh đó và kinh nghiệm được những việc lớn và khó như lời của Chúa đã dạy thì không phải ai trong chúng ta cũng có thể làm được. Có một lần, vào mùa mưa lụt ở miền Trung, cha và anh tôi đi dự một đám cưới của một đứa con ông cậu ruột (gia đình cậu tôi chưa tin Chúa). Hôm ấy đúng vào trận lụt lớn, nước ngập hết đường sá và vào tới nền nhà của cậu tôi, xe cộ đều không thể nào lưu thông được. Nhiều người trong gia đình cậu tôi chỉ còn biết khóc và ... kêu Trời mà thôi (dù chưa thờ Trời), vì nước lớn như vậy thì phải hoãn đám cưới thôi chứ làm sao đi lại được để rước dâu, đồ đạc đã chuẩn bị hết rồi, làm sao bây giờ. Thấy tình cảnh đáng thương quá, cha tôi đứng giữa đám đông những người chuẩn bị đi Họ và nói rằng để tôi cầu nguyện với Chúa của tôi. Và rồi ông cầu nguyện lớn tiếng, đại ý "Lạy Chúa của con, Ngài là Đấng làm mưa làm gió làm lụt, xin Ngài thương xót em con đây đang tổ chức đám cưới cho con. Dù em con chưa tin Chúa, nhưng con đã tin Chúa rồi, xin Chúa thương con mà làm ơn cho em con, xin Chúa cho tạnh mưa bây giờ để nước rút đi hầu em con tổ chức được đám cưới sau giờ nầy. Con tin rằng Chúa sẽ nhậm lời cầu nguyện của con. Con cảm tạ Chúa và cầu nguyện nhơn danh Chúa Giê-xu Christ. Amen!" Anh tôi nghe cha tôi cầu nguyện như vậy mà ... sảng hồn. Nếu lỡ mà Trời không tạnh mưa thì còn biết ăn làm sao nói làm sao với những người vô tín đây? Anh tôi thấp thỏm lo âu và thầm nguyện xin Chúa nhậm lời cầu nguyện của cha. Thật kỳ diệu, như một phép lạ, sau lời cầu nguyện của cha tôi, Chúa đã nhậm lời và cho mưa tạnh hẳn, bầu trời quang đãng thấy rõ và nước dần dần rút xuống khá nhanh, xe cộ bắt đầu chạy được. Ai nấy đều ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra ngay trước mắt họ. Cha tôi thì nói cảm tạ Chúa, cảm tạ Chúa; còn anh trai tôi thì như... không tin được dù đó là sự thật, vì phép lạ Chúa làm kỳ diệu quá. Ai đó đã nói rằng "đức tin nhận được nhiều nhất". Quả thật, cha tôi là người có một đức tin chí quyết với Ngài nên Chúa đã ban cho Người những phép lạ thật đáng ngạc nhiên và làm cho danh Chúa được vinh hiển. Tạ ơn Chúa!

Chúa đã ban cho cha tôi có một đức tin sắc son với Chúa như thế, nên Chúa cũng ban cho Người có một tinh thần dạn dĩ đáng nể. Không biết là cha tôi có biết và có thuộc câu Kinh Thánh trong II Ti mô thê 1: 7: " Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình thương yêu và giè giữ." Không, nhưng tôi thấy Người dạn dĩ quá. Dù không học một phương pháp chứng đạo nào, chỉ thuộc một số câu Kinh Thánh về chứng đạo mà thôi, ấy vậy mà khi ra đi chứng đạo, cha tôi không có một chút nhút nhát, sợ sệt nào, dù đối tượng làm chứng là ai, dân thường hay cán bộ, bình dân hay trí thức, hễ cứ gặp người là cha tôi nói về Chúa và mời họ tin Chúa. Có lần, tôi đi cùng Người để chứng đạo, gặp một đám đông người xem có vẻ sang trọng lắm, tôi cảm thấy e dè, không muốn nói về Chúa cho họ, thì cha tôi lại dừng lại chào hỏi và giới thiệu về Chúa cho họ, không một chút do dự. Người lắng nghe thì nhiều, mà người hỏi chế nhạo cũng có và người chống đối cũng có. Cha tôi cứ bình tĩnh dùng Kinh Thánh trả lời một cách vui vẻ, nhẹ nhàng, nhưng rất mạnh mẽ làm tôi thầm cảm phục tinh thần dạn dĩ của Người vô cùng. Tạ ơn Chúa!

Cha tôi là một người bình thường, rất đổi bình thường, nhưng về phương diện niềm tin đặt nơi Chúa của Người thì thật đặc biệt và không bình thường chút nào. Với tôi, đức tin nơi Chúa của cha tôi thật phi thường mà tôi khó có thể theo kịp. Tôi đang học tập đức tin ấy của Người để theo Chúa và hầu việc Ngài. Cảm tạ Chúa đã cho cha tôi có một trái tim biết yêu thương một cách chân thật, một tấm lòng kính yêu người hầu việc Chúa thật đáng quý, một đức tin đơn sơ nhưng thật son sắc và một tinh thần dạn dĩ đáng nể. Mỗi khi nhớ về Người là tôi nhớ đến tấm gương đức tin mà Người đã để lại cho anh em chúng tôi. Tấm gương đức tin ấy mãi mãi tôi không bao giờ quên và tôi cũng thường kể lại cho vợ con tôi nghe để cùng cảm tạ Chúa và học theo.

Tôi thật vui mừng khi có được một người cha như thế trong cuộc đời của mình. Với tôi, đó là một phước hạnh lớn mà Chúa đã ban cho! Không một phước hạnh nào lớn hơn thế!

Mục Sư Nguyễn Đình Liễu.