Từ bài giảng luận "Đức Tin Sống Động"
CN July 24, 2016 - Hội Thánh North Hollywood
Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết. (Gia-cơ 2:17)
[đọc Gia-cơ 2:14-26]
Nếu Hê-bơ-rơ 11:1 định nghĩa thế nào là đức tin, thì phân đoạn Gia-cơ 2:14-26 này là một bổ sung nhằm định rõ tính chất thực tế của một đức tin thật. Phân đoạn đưa ra những hình ảnh rõ nét để minh chứng cho vấn đề, nhưng phải nói thật lòng là không hề dễ để hiểu trọn vẹn. Tuy vậy, trong giới hạn của một suy nghĩ tầm thường, tôi cũng cố gắng để tìm học những điều mà mỗi khi được nhắc đến lại thấy chưa thể cảm nhận đến nơi đến chốn.
Điều gây khó khăn cho tôi là bài giảng luận nào cũng làm tôi lầm tưởng về vấn đề đức tin sanh ra việc làm hay có việc làm mới bày tỏ được đức tin. Mục đích của phân đoạn Kinh Thánh này không phải như vậy. Đây được gọi là thần học ứng dụng, nghĩa là đem những điều ngoài tầm hiểu biết của tôi đặt vào những việc bình thường trong cuộc sống để tôi dễ dàng tiếp cận với Lời Chúa.
Từ câu 14 đến câu 17, "nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? " "nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết". Đức tin không phải là lý thuyết, là lời nói suông, là đạo đức chỉ xuất hiện trên môi miệng. Đức tin phải sanh ra việc làm, việc làm là bằng chứng để xác nhận có đức tin và đức tin đem lại lợi ích thiết thực cho đời sống của cá nhân đó với người khác. Tôi nói mình có đức tin, điều đó không có gì chứng thực cả, kết quả mà mọi người thấy được trong đời sống tâm linh thường ngày của tôi mới định chuẩn cho tôi là hàng thật hay chỉ là một thứ giả mạo nào đó. Đức Chúa Giê-xu có phán rằng: "Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi".(Ma-thi-ơ 7:21)
Từ câu 18 đến câu 20, nêu lên một thách thức để chứng minh ai là người có đức tin. Lần này, tôi được đặt lên cân với hai mẫu đức tin: đức tin của ma quỉ, và đức tin của người vô tri. Nếu đức tin tôi chỉ là kinh điển, lý thuyết, chẳng có biểu hiện ích lợi nào trong thực tế, thì đức tin đó chẳng hơn gì với những kẻ phản nghịch, hay những người ngu muội, sống trong tối tăm, chưa được đổi mới trong Chúa. Đức tin đó là đức tin chết, và tôi cũng chỉ là kẻ đã bị định tôi chết chứ không thật sự nhận được ân điển sống trong Đấng Christ.
Và cuối cùng, từ câu 21 đến câu 25, hai nhân vật lịch sử được nêu tên để xác quyết với tôi rằng đức tin là có thực chứ không phải chỉ là tiêu chuẩn công bình quá xa vời mà tôi không thể nào với tới. Hai đức tin này được ghi vào bản danh sách những gương đức tin thời Cựu Ước trong thư Hê-bơ-rơ đoạn 11. Tôi nào dám sánh mình với những tổ phụ có tên trong gia phả Đức Chúa Giê-xu, nhưng đó là những gương sáng mà tôi phải nhờ Chúa bước theo. Nếu tôi vẫn luôn luôn biết rằng Đức Chúa Thánh Linh đang ở bên cạnh tôi, Ngài chỉ dẫn và bổ sức để tôi bước theo Ngài trong những việc lành đã định sẵn thì đức tin của tôi đâu phải là một thứ đức tin chết, mà là đức tin có ích và cứu tôi khỏi tối tăm của đời này (câu 14).
Tóm lại, vẫn không thể nói lên những điều gì mới hơn, nhưng Lời Chúa hôm nay nhắc tôi phải cẩn thận sống đúng như những gì Chúa muốn, Chúa cần trong cuộc sống mỗi ngày của riêng tôi. Tôi thuộc dòng dõi đức tin, tôi đang sống trong, sống với, sống bằng đức tin; tôi phải nhận biết phải làm sao cho xứng đáng. "Tôi chẳng hề hổ thẹn vì biết tôi đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự tôi đã phó thác cho đến ngày đó".(2Ti 1:12)