Indonesia. Lần đầu tiên chúng tôi hầu việc Chúa ở Java, Indonesia thì 95% dân số nước này theo đạo Hồi. Chúng ta đều biết rằng hồi giáo là những nơi rất khó đến. Họ không tin Chúa Jesus là Con của Đức Chúa Trời và không tin Đức Chúa Trờì đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Chúng tôi nhớ hồi ở Ấn Độ, chúng tôi đã thuyết phục họ cách tuyệt vọng làm sao. Tuy nhiên chúng tôi đến thủ đô của đảo Java thì mọi điều đã khác hẳn. Chúng tôi biết làm thế nào để họ tin phép lạ.
Đêm đầu tiên tôi rao giảng cho vô số người, tôi đã làm một điều bất thường vào cuối bài giảng. Tôi bảo họ rằng tôi không muốn họ tiếp nhận Chúa Jesus Christ trừ khi Ngài phải tự chứng tỏ Ngài là Đấng sống bằng những phép lạ không thể chối cãi được. Tôi bày tỏ ý nghĩ của tôi rằng nếu Đấng Christ chết thì Ngài không thể làm điều gì tốt cho họ cả.
Tôi nhấn mạnh rằng Đức Chúa Jesus Christ đã được xác nhận là Con của Đức Chúa Trời bởi những phép lạ cách đây 2000 năm và nếu hôm nay Ngài còn sống thì Đức Chúa Trời sẽ xác nhận điều đó bằng cách làm những phép lạ không thể chối cãi được trong sự hiện diện của họ.
Họ biết về một nhân vật Jesus theo lịch sử. Họ đã từng nghe rằng Ngài là một người tốt, thậm chí là một tiên tri có quyền năng chữa lành để làm các phép lạ. Họ biết Ngài bị đóng đinh và họ cũng tin chắc rằng sự giảng dạy của người Cơ đốc về sự phục sinh của Ngài là giả dối.
Chỉ có một sứ điệp dành cho người Hồi giáo là : Nếu Đức Chúa Jesus Christ còn sống thì hãy để Ngài làm những phép lạ mà Ngài đã làm trước khi Ngài bị giết. Nếu Ngài đã chết, Ngài không thể làm được. Nếu Ngài đã sống lại, Ngài sẽ làm.
Tôi mời những người điếc. Tôi bảo họ rằng tôi sẽ nhơn danh Chúa Jesus mà cầu nguyện cho họ. Nếu Đấng Christ đã chết thì danh Ngài chẳng có quyền năng gì cả. Nếu Ngài đang sống, Ngài sẽ làm giống như Ngài đã từng làm trước khi chịu chết trên thập tự giá.
Người đầu tiên chịu cầu nguyện là một tu sĩ hồi giáo khoảng năm mươi lăm tuổi. Ông ta đội một chiếc mũ đuôi sam màu đen, chứng tỏ rằng ông đã từng hành hương đến thành phố Mecca thiêng liêng của Hồi giáo ở Ảrập. Ông có một lỗ tai bị điếc hoàn toàn từ lúc mới sinh và chẳng nghe được một âm thanh nào ở lỗ tai đó cả.
Tôi làm chứng với ông về Chúa Jesus Christ và bảo với ông là tôi sẽ cầu nguyện như thế nào. Tôi giải thích rằng Đức Chúa Trời đang nhìn xem chúng ta. Tôi làm chứng với ông rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Jesus từ kẻ chết sống lại. Tôi giải thích rằng Đức Chúa Trời muốn mọi người biết rằng Đấng Christ đang còn sống, do đó Ngài sẽ đưa ra bằng chứng về sự phục sinh của Chúa Jesus bằng cách làm phép lạ này.
Sau đó tôi nói với mọi người : "Nếu người đàn ông này không nghe được sau khi tôi cầu nguyện xong thì quí vị có thể nói rằng tôi là một người rao giảng giả dối và Chúa Jesus đã chết rồi. Nhưng nếu người này nghe được, quí vị phải biết rằng Đấng Christ đã sống lại, vì Đấng Christ chết thì không thể làm một phép lạ như thế”.
Tôi nhìn ông ta và nói "Chúng con biết rằng Đức Chúa Jesus Christ là Con của Đức Chúa Trời và Ngài đã khiến Chúa Jesus từ kẻ chết sống lại, chỉ bởi huyết Ngài đã đổ ra mà chúng con mới có thể đến với Đức Chúa Trời để nhận sự sống đời đời theo lời Kinh Thánh, Ngài cho chúng con biết điều đó bằng cách làm cho người điếc này nghe được. Nhơn danh Chúa Jesus Christ. Amen”.Toàn thể đám đông đã sững sốt khi vị tu sĩ hồi giáo này có thể nghe được những tiếng thì thầm nhỏ nhất và ngay cả tiếng gõ nhịp của chiếc đồng hồ đeo tay.
Tối hôm đó, hàng ngàn người đã đưa tay lên để bày tỏ rằng họ muốn tiếp nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa của họ. Điều này thật khác với sự lúng túng mà chúng tôi phải chịu khi cố gắng thuyết phục những người hồi giáo ở Ấn Độ cách đây bảy năm.Những người hồi giáo cũng giống như những người Nhật Bản. Khi họ thấy được bằng chứng của tin lành rằng Chúa Jesus Christ hiện đang sống thì họ tin.
Cơ đốc giáo mà không có phép lạ thì không thể chứng minh rằng Chúa Jesus còn sống. Nếu cất phép lạ ra khỏi Cơ đốc giáo thì những gì bạn còn lại chỉ là một tôn giáo không có sự sống như bao tôn giáo khác. (Còn tiếp).
Người hồi giáo biết tiên tri Mohammed của họ đã chết nhưng chúng ta biết Cứu Chúa Jesus của chúng ta vẫn còn sống. Khi điều đó được phép lạ chứng minh thì người ta sẽ bỏ vị tiên tri đã chết của họ và đi theo Đấng đang sống. Không có phép lạ thì không có bằng cớ. Đây là lý do tại sao Chúa Jesus ra lệnh cho mỗi tín đồ phải rao giảng khắp thế giới và Ngài còn hứa rằng những dấu lạ sẽ cặp theo "trong muôn dân... cho đến khi tận thế”. Ngài biết rằng luôn phải cần đến phép lạ để chứng tỏ một cách thực sự với thế giới này rằng Chúa Jesus vẫn còn sống. Khi chúng tôi còn là những giáo sĩ trẻ ở Ấn Độ, những người Hồi giáo đã thách thức chúng tôi rằng : "Hãy chứng minh rằng Đấng Christ của anh còn sống đi”.
Chúng tôi tuyệt vọng và lúng túng. Chúng tôi phải rời khỏi Ấn Độ, hoặc chấp nhận hiện trạng mà người ta đã tin rằng "đức tin và kiên nhẫn mà vẫn không kết quả”. Chúng tôi không thể tự mình làm điều đó.
Nhưng ở Indonesia thì khác. Một buổi tối nọ trong một chiến dịch truyền giảng lớn, một tu sĩ Hồi giáo trẻ, rất cuồng đạo, giận dữ bước lên những bậc tam cấp để ngăn tôi lại khi tôi đang giảng. Daisy, vợ tôi, phát hiện ra ông ấy đang đi đến và ngăn ông ấy lại ở bậc tam cấp. Ông ta nói : "người đàn ông này nói dối. Jesus đã chết rồi. Ông ấy không phải là Con Đức Chúa Trời. Hãy để tôi nói với dân chúng về Mohammed, vị tiên tri thật của Đức Chúa Trời”. Vợ tôi giải thích với ông ta nhưng ông ta quá kích động.
Cuối cùng vợ tôi bảo "Ông hãy nghe đây. Tôi là một Cơ đốc nhân và đây là điều tôi sẽ làm. Tôi sẽ ngắt lời chồng tôi với một điều kiện : ông và tôi phải cùng đi đến chỗ micro. Chúng ta không tranh luận. Chúng ta phải chứng minh được vị tiên tri nào là thật và đang sống bằng cách mời một người điếc hoàn toàn bước lên.
Ông cầu nguyện cho người đó trước mặt dân chúng và nhơn danh Mohammed. Nếu ông làm được, chúng tôi sẽ tin ở vị tiên tri của ông. Nếu không có phép lạ nào xảy ra, tôi sẽ cầu nguyện cho người ấy nhơn danh Chúa Jesus. Nếu Ngài làm được thì ông và nhân dân của ông phải biết rằng những gì Kinh Thánh đã nói về Đấng Christ là thật, rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại để làm Cứu Chúa của thế gian”.
Vị tu sĩ hồi giáo trẻ đó đã từ chối lời thách thức của vợ tôi, bỏ đi trong tức giận. Đây là điều chúng tôi đã không làm được ở Ấn Độ khi còn là những giáo sĩ trẻ.
6) Bắc Ấn Độ. Cuối cùng chúng tôi đã kinh nghiệm được niềm vui khi quay lại Bắc Ấn Độ sau mười bốn năm, đến đúng thành phố mà chúng tôi đã thất bại thảm hại. Chúng tôi đã quay lại trường đại học của thành phố Lucknow nơi chúng tôi đã không thể chứng minh cho người Ấn Độ giáo và Hồi giáo biết rằng Đức Chúa Jesus Christ là Đấng sống, là Con Đức Chúa Trời đã phục sinh, là Cứu Chúa của thế gian.
Lần này chúng tôi đã khác hẳn ! Có 20.000 đến 40.000 người tập trung trước sân vận động lớn. Chúng tôi giảng rằng : "Đức Chúa Jesus Christ hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi” (hêbơrơ 18:8). Sau đó chúng tôi cầu nguyện. Người điếc được nghe. Người què được đi. Người mù được thấy. Người phung được sạch. Hàng ngàn người đã tiếp nhận Chúa.
Chúa Jesus bày tỏ chính Ngài cho người Ấn Độ qua chúng tôi. Sự tìm kiếm Lẽ thật của chúng tôi đã được trả giá. Đây là cách mà sự truyền giáo thế giới phải tiến hành. "Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống” (Công vụ 1:3).
Một thanh niên thuộc Ấn giáo là sinh viên đại học, đứng lên giữa đám đông nhạo báng đủ điều. Khi chúng tôi cầu nguyện, đột nhiên Chúa Jesus hiện ra với anh ta, mặc áo điều. Ngài giơ đôi bàn tay bị đinh đóng ra và nói : "Hãy nhìn xem tay ta đây. Ta là Jesus”. Người thanh niên té xuống đất, khóc lóc, ăn năn, nức nở. Sau đó anh ta chạy đến chỗ micro với khuôn mặt đầy nước mắt, anh kể lại những gì mình đã thấy và giục giã đồng bào mình tin Chúa. Thật khác làm sao so với những buổi nhóm của chúng tôi cách đây mười bốn năm ! Với phép lạ thì Ấn Độ cũng giống như những quốc gia khác.
7) Châu Phi. Sau đó chúng tôi đến Châu Phi. Ở đó chúng tôi cũng chứng minh với dân chúng như đã làm ở mọi nơi. Một người ăn xin Hồi giáo ở Châu Phi bị què vì bịnh sốt bại liệt, đã bò trên mặt đất trong mười ba năm. Ông đã bò lê trong sự dơ bẩn cho đến khi đến được chỗ truyền giảng. Ông ta lắng nghe tin lành và khi ông ta tin Chúa Jesus Christ thì được chữa lành ngay. Ông chen qua đám đông và bước lên phía trên và làm chứng cho dân chúng về phép lạ ông đã nhận được.
Khi ông đứng trên diễn đàn, nước mắt ràn rụa và la lên rằng : "Đức Jesus Christ đang còn sống, nếu không làm thế nào Ngài có thể chữa lành cho tôi được ? Mohammed đã chết nhưng Chúa Jesus vẫn còn sống. Hãy nhìn xem tôi đây. Quí vị đã biết tôi. Tôi đã ăn xin trên các đường phố của quí vị. Bây giờ tôi có thể đi được. Hãy nhìn đây ! Chúa Jesus đang sống !”.
Có bài giảng nào hay hơn bài giảng này chăng ? Điều đó giống như sách Công vụ đang được tái lập ngày hôm nay. Chúng tôi thấy rằng người ta khắp trên thế giới này rất cần Đấng Christ. Họ tìm kiếm thực tế và tin khi họ có bằng chứng rằng Chúa Jesus đang còn sống và rất thực tế.
Đức Chúa Trời dựng nên toàn thể nhân loại giống như nhau. Con người được tạo nên để bước đi với Đức Chúa Trời. Theo bản năng, họ đang tìm kiếm Ngài. Đây là lý do tại sao mọi chi tộc chưa được nghe truyền giáo đều làm theo một nghi thức tôn giáo nào đó để tìm kiếm Đức Chúa Trời. Bằng những lời nói thẳng thắn và đơn giản, không cần phải giải thích mà chỉ tuyên bố, phúc âm chính "là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rôma 1:16).
Con người đang cần phúc âm. Và nhiệm vụ của chúng ta là rao giảng làm chứng và công bố phúc âm ở mọi nơi, cho những đám đông hoặc cho những cá nhân, ở nơi công cộng hoặc tại nhà riêng. Người ta đang cần những gì mà chúng ta có. Chúng ta làm chứng điều này cho cả thế giới. Đây là lý do tại sao chúng ta trở thành những người chinh phục linh hồn - bởi vì những gì chúng ta đã chứng kiến.
RALPH MAHONEY và T.L. OSBORN (Theo Cây Gậy Của Người Chăn Bầy )