Vào năm 2009 một khảo sát được thực hiện với hàng ngàn cơ đốc nhân khắp Hoa Kỳ. Những người được khảo sát là các tín hữu được tái sinh, tin Kinh Thánh từ nhiều hội thánh khác nhau. Đây là câu hỏi được hỏi trong cuộc khảo sát này, "Hãy đưa ra bốn định nghĩa về ân sủng của Chúa.” Đa số trả lời là sự cứu rỗi, là món quà mà con người không có công trạng nào, và là sự tha tội.
Thật tốt khi biết rằng cơ đốc nhân ở Mỹ hiểu được chúng ta được cứu hoàn toàn bởi ân sủng. Sự cứu rỗi không do phép rẩy nước, việc gia nhập hội thánh, giữ các luật lệ tôn giáo, làm các việc lành nhiều hơn làm việc xấu và vân vân... Hầu hết các tín hữu tin lành Mỹ được xây dựng vững vàng trên các lẽ thật nền tảng này về ân sủng của Chúa bởi vì nó đã được giảng dạy nhiều từ các tòa giảng, và tôi tin Chúa đẹp lòng về điều này.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là chỉ có 2% trong số hàng ngàn người được khảo sát nói rằng ân sủng là sức mạnh của Đức Chúa Trời. Trong khi đó đây chính xác là cách Ngài định nghĩa và mô tả ân sủng. Ngài phán :
"Ân sủng Ta đủ cho con rồi, vì quyền năng của Ta trở nên trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cô-rinh-tô 12:9)
Đức Chúa Trời nói đến ân sủng của Ngài như là quyền năng. Chữ sự yếu đuối có nghĩa "không có khả năng.” Chúa muốn nói, "Ân sủng Ta là quyền năng của Ta, và nó sẽ được tối ưu hóa trong những hoàn cảnh vượt quá khả năng của con.”
Sứ đồ Phi-e-rơ định nghĩa ân sủng của Chúa cách tương tự. Ông viết, "Nguyện xin ân sủng và bình an tràn ngập trong anh chị em nhờ sự nhận biết Đức Chúa Trời và Đức Giê-su, Chúa chúng ta. Bởi thần năng, Ngài ban cho chúng ta mọi điều cần để sống và sống tin kính... ” (2 Phi-e-rơ 1:2-3). Một lần nữa ân sủng được nói dến như là "quyền năng thiên thượng của Ngài.” Phi-e-rơ nói mọi tài nguyên hay khả năng cần để sống tin kính và thánh khiết có sẵn cho chúng ta qua quyền năng của ân sủng.
Nhưng thực tế là cuộc khảo sát cho thấy chỉ có 2% cơ đốc nhân Mỹ biết lẽ thật này là một vấn đề nan giải. Cho phép tôi giải thích. Để nhận lãnh nơi Chúa, chúng ta phải tin. Đây là lý do Kinh Thánh Tân Ước được gọi là "lời đức tin” (xem Rô-ma 10:8). Nói đơn giản, nếu không tin thì không thể nhận lãnh.
Đây là một ví dụ cơ bản về điểm này. Chúa Giê-su đã chịu chết vì tội lỗi của cả thế giới. Tuy nhiên, chỉ có người tin mới được cứu mà thôi. Cho nên đây là một nan đề lớn : ta không thể tin điều mà ta không biết. Nếu 98% cơ đốc nhân không biết ân sủng của Chúa là quyền năng của Ngài, thì 98% số người đó đang cố sống cuộc đời thánh khiết bởi khả năng riêng của mình. Điều này dẫn tới thất vọng và thất bại. Bản chất mới của họ không được tăng cường; nói cách khác, không có nhiên liệu trong "bình xăng” của họ.
Nào hãy đào sâu hơn bằng cách xem xét tiếng Hy Lạp. Từ được dùng thường xuyên nhất trong Tân Ước để nói về ân sủng là charis. Từ điển Strong’s Exhaustive Concordance định nghĩa từ này là "món quà, lợi ích, ân huệ, tử tế và rộng rãi.”
Nếu bạn lấy định nghĩa ban đầu này và kết hợp với các câu Kinh Thánh được chọn từ sách Rô-ma, Galati, và Ê-phê-sô, bạn sẽ xác định rõ định nghĩa ân sủng mà đa số người Mỹ quen thuộc. Tuy nhiên, từ điển Strong’s nói tiếp định nghĩa của ân sủng : "Ảnh hưởng thiên thượng tác động lên tấm lòng và được phản ánh trong cuộc sống.” Chúng ta thấy có một sự phản ánh bên ngoài của những điều được thực hiện trong lòng, nói về quyền năng của ân sủng.
Trong sách Công Vụ, Banaba đến hội thánh An-ti-ốt, khi đến nơi ông, "chứng kiến ân sủng của Đức Chúa Trời” (Công Vụ 11:23). Ông không nghe về ân sủng, mà ông chứng kiến bằng chứng của nó. Hành vi bên ngoài của dân sự xác minh quyền năng của ân sủng trong lòng họ.
Đây là lý do sứ đồ Gia-cơ viết, "Anh hãy chỉ cho tôi đức tin (ân sủng) không có hành động của anh, rồi tôi sẽ cho anh thấy đức tin (ân sủng) bằng hành động của tôi” (Gia-cơ 2:18). Tôi đã chèn chữ ân sủng thay cho đức tin bởi vì ấy là bởi đức tin (tin Lời Đức Chúa Trời) mà chúng ta có thể vào ân sủng của Chúa. "Nhờ Ngài chúng ta có thể cậy đức tin bước vào trong ân sủng nầy” (Rô-ma 5:2). Không có đức tin – không tin – thì không có quyền năng (ân sủng). Gia-cơ nhấn mạnh, "Hãy cho tôi thấy bằng chứng của quyền năng.” Bằng chứng đó là dấu chỉ đích thực rằng chúng ta đã nhận lãnh ân sủng bởi việc tin.
Ân sủng là một món quà. Áp dụng những gì chúng ta đã học ở trên, nào hãy mở rộng cái nhìn này. Sự cứu rỗi là một tặng phẩm ân sủng. Sự tha thứ là một tặng phẩm ân sủng. Sự chữa lành là một tặng phẩm ân sủng. Sự cung ứng là một tặng phẩm ân sủng. Nhận lãnh bản chất của Chúa là một tặng phẩm ân sủng. Việc mặc lấy quyền năng là một tặng phẩm ân sủng. Tất cả những điều này là những sự bày tỏ về ân huệ của Chúa trên cuộc đời chúng ta, mỗi tặng phẩm chúng ta đều không xứng đáng nhận và không đến bởi công đức của chúng ta.
Liên quan đến quyền năng, ân sủng ban cho chúng ta khả năng để sống vượt trên khả năng tự nhiên. Trước đây chúng ta không có khả năng để giải cứu bản thân khỏi hỏa ngục; nhưng ân sủng thì có khả năng đó. Chúng ta không thể sống trong tự do, nhưng ân sủng đã ban cho chúng ta khả năng đó. Chúng ta không thể thay đổi bản chất của mình, nhưng ân sủng làm được. Chúng ta không có khả năng để sống thánh khiết, nhưng ân sủng thêm sức cho chúng ta. Nên không lạ gì khi chúng ta gọi đó là ân sủng lạ lùng !
JOHN BEVERE (Theo Đời hay Đạo)