Tôi kiệt sức đến nỗi không thể đi được mười bước mà không nghỉ, tôi phải nhờ người đàn ông đó đưa đi đến cơ sở truyền giáo. Khi chúng tôi đến nơi, người ta đang ca hát, gương mặt của mọi người đầy vẽ hân hoan. Vị tu sĩ người Mỹ đứng lên để giảng dạỵ. Tôi ngạc nhiên vì ông không mặc áo dài như những tu sĩ Phật giáo. Ông giảng qua một thông dịch viên, những lời giảng làm tôi cảm động. Khi ông mời những tội nhân bước lên phía trước, tôi là người đầu tiên đến gặp ông. Vị tu sĩ đưa tôi vào văn phòng, giải thích cho tôi biết chương trình cứu rỗi và hướng dẫn tôi cầu nguyện ăn năn tội.
Trong khi tôi cầu nguyện ăn năn tội với Đức Chúa Trời và quyết định tiếp nhận Đức Chúa Giê-Xu làm Cứu Chúa của chính tôi, thì một niềm bình an tràn ngập trong tôi. Tôi cảm thấy tất cả tế bào trong thân tôi đều nhận được một sức mới. Có một năng lực đang dâng trào lên trong người tôi và tôi tưởng rằng tôi sắp ói ra máu. Nhưng không phải, tôi nhận ra rằng đó là niềm vui! Tôi muốn hát vang lên, nhưng lại không biết hát như thế nào.
Tôi hỏi vị tu sĩ, đó là ông Louis Richards, một giáo sĩ thuộc giáo hội Phúc Âm Ngũ Tuần: "Đây là sự thực? Tôi đang bị thôi miên phải không?"
Ông trả lời: "Anh không bị thôi miên đâu. Đức Chúa Giê-Xu, nguồn nước hằng sống, đang chảy trào vào cuộc đời của anh. Đây là bằng chứng mà anh đang cảm thấy."
Tôi trở về nhà mang theo niềm vui sướng cùng sự bình an. Tôi kể lại cho gia đình nghe những điều đã xảy ra. Ở Đại Hàn, người thờ phượng Đức Chúa Giê-Xu có nghĩa là chấm dứt thờ cúng vong linh của tổ tiên. Sự kiện này thường dẫn đến sự đoạn giao của gia đình. Chị tôi, người mà tôi kính yêu, đã thuyết phục tôi: "Em yêu mến Giê-Xu hơn gia đình sao? Em có thể bỏ hết gia đình vì Ngài sao?" Còn cha tôi thì bảo rằng ông không còn quan tâm đến sự sống chết của tôi nữa, và bảo tôi phải rời khỏi gia đình ngay. Tôi lấy một ít đồ dùng và đi đến nhà ông bác tôi. Gặp tôi ở ngưỡng cửa, bác tôi liền bảo: "Con chó Cơ-đốc bẩn thỉu, mày không được đón tiếp nơi đây đâu. Hãy đi chỗ khác."
Tôi không còn nơi nào khác để đi, nhưng niềm vui sướng và sự bình an vẫn tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi quyết định đi lên núi đặng chờ chết. Lúc bấy giờ một ý nghĩ khác đến với tôi. Tôi phải đến nói vài lời cám ơn cuối cùng với người Mỹ đã hướng dẫn tôi gặp Đức Chúa Giê-Xu.
Gặp ông ở ngoài cửa, tôi nói: "Anh Richard, tôi thành thật cám ơn lòng tốt của anh đã hướng dẫn tôi đến với Đấng Christ. Từ khi tiếp nhận Ngài, gia đình đã từ bỏ tôi, cho nên tôi sắp lên núi để chờ chết. Tuy nhiên, tôi muốn anh biết rằng tôi biết ơn anh."
Mục Sư Richard kéo tôi vào trong nhà và đọc Kinh Thánh cho tôi nghe: "Khi cha mẹ từ bỏ tôi, Chúa sẽ đón tiếp tôi." Ông bà Richard dọn một chỗ cho tôi trong căn nhà của họ. Bà Richard nấu những món ăn ngon và chúng tôi cùng ngồi ăn.
Tôi đã khóc trong lúc ngồi ăn và nói rằng: "Anh Richard, tôi không biết rằng anh yêu thương tôi. Anh không liên hệ gì với tôi, sao anh có thể yêu thương tôi như thế này? Ông trả lời: "Bởi vì Đức Chúa Giê-Xu cũng đã cứu tôi."
Lương tâm không cho phép tôi ở chung trong nhà của họ mà tạo những tai hại cho họ vì chứng lao phổi của tôi. Cho nên nhờ sự giúp đỡ của Chúa, tôi thuê được một căn phòng nhỏ bên cạnh.
Mục sư Richard tiếp tục dạy Kinh Thánh cho tôi. Ông bảo tôi: "Lời Chúa có quyền năng sáng tạo phi thường. Lời Chúa sẽ chữa lành cho anh." Điều này hầu như quá siêu phàm đối với thực tế, nhưng Mục sư Richard đã chỉ tôi nhiều đoạn Kinh Thánh. Tôi học thuộc những câu Kinh Thánh này và một ngày kia tôi đem ra thí nghiệm.
Tôi khóa cửa phòng và bắt đầu cầu nguyện: "Kính lạy Đức Chúa Giê-Xu, con muốn được gặp Ngài, xin cho con biết rõ tương lai của con." Tôi chờ đợi, nhưng Đức Chúa Giê-Xu Christ không đến. Sau đó tôi nhắm nghiền mắt lại, hy vọng Ngài có thể hiện ra trong một sự hiện thấy. Nhưng không có một sự hiện thấy nào. Tôi cầu nguyện suốt ngày. Đêm đến ngực tôi đẩm ướt mồ hôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện. Quá nửa đêm, tôi không còn sức lực và nằm xuống nghỉ.
Thình lình căn phòng sáng rực. Những luồng ánh sáng thoạt đầu tôi tưởng là khói đang cuộn vào. Tôi kinh hoàng, tưởng căn nhà đang bốc cháy. Tôi kêu la, nhưng không có âm thanh nào toát ra.
Tuyệt vọng, tôi ngó chung quanh và thấy hai bàn chân đứng bên cạnh tôi. Tôi nhìn lên cao hơn và thấy một chiếc áo dài trắng. Rồi tôi thấy một gương mặt giống như mặt trời sáng rực, đang phát chiếu những tia sáng. Tôi vẫn không biết Đấng đó là ai, cho đến khi tôi nhận ra chiếc mão bằng gai. Những gai nhọn đâm vào thái dương, đầu Ngài, và những giọt máu đang chảy dài xuống. Lúc bấy giờ tôi nhận biết Ngài là Đức Chúa Giê-Xu Christ. Tình yêu của Ngài tràn ngập tâm hồn tôi.
Trước kia những vị thần của tôi là những thần của sợ hãi và tai ương. Tôi thường đến đền thờ của những vị thần này để xin khỏi bị trừng phạt. Nhưng Đức Chúa Giê-Xu thì lại khác hẳn. Tôi cảm nhận tình yêu của Ngài và tất cả sợ hãi đều tan biến.
Một niềm hân hoan tuyệt vời phát xuất từ đáy lòng của tôi. Môi và lưỡi tôi bắt đầu nói. Tôi thở ngắn lại và dường như có một Đấng đang điều khiển và bắt phục môi lưỡi tôi. Tôi không biết điều đó là gì, nhưng tôi nhận thật rằng tôi càng nói, càng cảm thấy thoải mái hơn. Cho nên tôi cứ nói và tiếp tục nói.
Khi tôi ý thức ngó lại sự vật chung quanh, Đức Chúa Giê-Xu đã biến dạng, nhưng sự vinh hiển vẫn còn tràn vào tâm hồn tôi. Tôi quên hẳn sự đau nhức trong tim, trong phổi tôi và chạy đến cơ sở truyền giáo. Tôi bảo Mục Sư Richard rằng tôi đã thấy Đức Chúa Giê-Xu và đã nói một thứ tiếng lạ. Ông mở Kinh Thánh đoạn 2 của sách Công vụ các sứ đồ và giải thích cho tôi biết: tôi đã được báp têm trong Đức Thánh Linh như các môn đồ đầu tiên. Chúng tôi khóc lên vì vui sướng.
Sự từng trải mới mẽ này khiến tôi muốn làm chứng về Chúa. Tôi đi ra ngoài đường phố và nói về Đức Chúa Giê-Xu với mọi người đang khi sức khoẻ tôi khả quan hơn. Tôi đã đi từ nhà này sang nhà khác.
Một hôm tôi nhận thức rằng tôi không còn đau đớn trong tim và cũng không còn khó thở nữa. Tôi đi đến bịnh viện, sau khi khám nghiệm và chiếu quang tuyến X, y sĩ bảo tôi buồng phổi của tôi rất tốt, không còn vết tích bịnh lao. Tim của tôi cũng bình thường.
Được sự khuyến khích của các giáo sĩ giáo hội Phúc Âm Ngũ Tuần, tôi ghi danh học thần đạo ở Hán Thành. Thường thì tôi không có tiền. Vào những lúc thời tiết lạnh thì các giáo sĩ cho tôi mượn áo choàng để tôi không bị lạnh. Nhưng tôi có Đức Chúa Trời, có Kinh Thánh và có sự bình an.
Sau đó, tôi bắt đầu rao giảng đạo Chúa trong một căn lều vải rách rưới, trên một khu đất bỏ hoang. Một nhóm tín hữu nghèo khổ nhóm họp tại đó. Tôi kể cho họ những điều mà Đức Chúa Giê-Xu đã làm cho tôi, và bảo rằng Ngài sẽ làm những điều đó cho họ. Chẳng bao lâu căn lều đầy người và họ phải đứng ở bên ngoài.
Chúng tôi cần có một chỗ để thờ phượng Chúa lâu dài vì sự phát triển của Hội Thánh, và chúng tôi đã mua được một cơ sở trung tâm ở Hán Thành. Cuộc phấn hưng tiếp tục. Chẳng bao lâu hàng trăm giáo hữu nhóm chật thánh đường. Chúng tôi phải nới rộng phòng họp và phải tổ chức hai thánh lễ mỗi buổi sáng Chúa Nhật, rồi ba lễ, bốn lễ. Ngôi thánh đường mới của chúng tôi có 10.000 chỗ ngồi đã được hoàn tất. Trong năm vừa qua có 1.000 tín hữu mới thêm vào Hội Thánh.
Hội Thánh chúng tôi tăng trưởng bởi vì chúng tôi giảng về Đức Chúa Jesus Christ hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi. Ngài tiếp nhận tôi khi tôi sắp chết, cứu tôi, chữa lành cho tôi và báp têm trong Đức Thánh Linh cho tôi. Đó là những điều mà nhân loại hiện đang khao khát. Triết lý và tôn giáo không đáp ứng được nhu cầu của nhân loại. Thế giới cần sự hiện diện của Đức Chúa Jesus Christ.
(Ngày nay, hội thánh của MS Yonggi Cho đã có đến 1 triệu tín đồ )
Tiến sỉ Paul Yonggi Cho (Khi Thượng Đế Trả Lời)