Hãy ra soát lại tất cả những kinh nghiệm của chính mình. Hãy nghĩ đến cách mà Chúa đã dẫn bạn vào đồng vắng thế nào, Ngài đã nuôi nấng và mặc lấy cho bạn mỗi ngày thể nào. Ngài đã chịu đựng sự thô lỗ của bạn, chịu đựng tất cả những sự lằm bằm và ham muốn "những thú vui nhục dục của Ai Cập” của bạn! Hãy nghĩ về ân sủng của Chúa đã đủ cho bạn trong mọi nan đề của bạn ra làm sao. - Charles H. Spurgeon Đức Chúa Trời anh chị em đã dẫn anh chị em băng qua sa mạc; cho anh chị em gặp bao nhiêu gian nan để thử lòng anh chị em, xem anh chị em có vâng giữ các điều răn của Ngài không. - Phục Truyền 8:2 Đối với tôi, kinh nghiệm đầu tiên rơi vào đồng vắng là một cú sốc nặng. Thành thật thì, vài năm đầu học làm môn đồ Chúa giống như tuần trăng mật kéo dài. Lisa và tôi lúc đó sống tại Dallas, Texas, và sau một thời gian làm kỹ sư, tôi nhận một vị trí mục vụ ở hội thánh của chúng tôi. Tôi đã được giao "công việc” phục vụ mục sư quản nhiệm, vợ ông và tiếp đón các diễn giả khách mời tại hội thánh lớn của chúng tôi. Thật vui mừng biết bao! Tôi nghĩ mình đang ở trên thiên đàng. Tôi chăm sóc những vị mục sư đầy ơn nhất đang hầu việc Chúa trên thế giới này, vì hội thánh của chúng tôi là một trong các hội thánh nổi tiếng nhất tại Mỹ. Khi các lãnh đạo đầy ơn tầm cỡ quốc gia và quốc tế này đến sân bay, tôi ở đó để đón họ và chở họ đến nhà thờ hay đến tới nơi họ lưu trú. Trong các chuyến đi của họ, tôi luôn chở họ tới nơi họ cần đi và cùng ăn cơm với họ. Tôi đã dành rất nhiều giờ với vài trong số tôi tớ Chúa đầy ơn nhất trong chức vụ ở thế hệ của chúng tôi. Những năm đầu của tôi trong mục vụ này thật tuyệt vời - đầy sức sống. Nhưng sau đó mọi chuyện đã bắt đầu trở nên khó khăn. Quả thật là vô cùng khó khăn. Vào thời điểm đó tôi đã không biết chuyện này, vì Chúa chưa có mặc khải cho tôi, nhưng tôi đang rơi vào kinh nghiệm đồng vắng. Đây là nơi Chúa huấn luyện chúng ta. Đây là nơi phẩm cách của chúng ta được phát triển và đức tin chúng ta được củng cố. Nên đồng vắng là cần thiết. Hãy hình dung điều này: Bạn là một người Y-sơ-ra-ên, mới vừa được giải cứu sau cả một đời làm nô lệ. Bạn vừa mới kinh nghiệm đi giữa hai vách nước cuồn cuộn dựng đứng lên nhưng bạn đi cách an toàn qua bờ bờ bên kia. Bạn quay lại nhìn khi các vách nước trước đó bảo vệ bạn thì giờ đã chôn vùi kẻ thù của bạn. Những kẻ hành hạ bạn đã bị tiêu diệt, mãi mãi không còn! Còn bạn hân hoan ăn mừng nhảy múa vì sự giải cứu khải hoàn của Chúa. Bạn cảm thấy bất khả chiến bại, biết rằng Chúa ở về phía bạn. Bạn sẽ không bao giờ nghi ngờ năng quyền hay sự thành tín của Ngài nữa! Nhưng bây giờ cảnh trạng đã khác: đó là vài ngày sau – lúc bạn mệt mỏi, khát nước và nóng nực. Bạn chưa tới ngưỡng cửa của xứ hứa, mà bạn đang lang thang vô vọng trong một sa mạc đầy rắn lửa và bò cạp. Bạn không còn nhảy múa và ca hát cho Chúa vì ngựa cùng những kẻ cưỡi ngựa của chúng tôi đã bị quăng xuống biển, mà trái lại bạn than phiền với lãnh đạo bạn rằng, "Tại sao ông lại đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập? Để giết chết chúng tôi, con cái chúng tôi và bầy súc vật của chúng tôi với cơn khát sao?” Nào bây giờ hãy nhìn bản thân bạn...bạn có tin Đức Chúa Trời đã giải cứu bạn một cách quyền năng ra khỏi quyền lực của kẻ thù chỉ để bỏ bạn lang thang vô vọng qua cái sa mạc hỗn độn và vắng vẻ này không? Có phải đây là mục đích của Ngài không? Tất nhiên là không - đây chỉ là một nơi cần thiết để trải qua trên đường bạn đi tới xứ hứa.
Cũng như Chúa đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập để vào đồng vắng thế nào thì Ngài cũng dẫn dắt bạn như thế. Ma quỷ không dắt bạn vào đó mà là Đức Chúa Trời. Có một mục đích – một kế hoạch thiên thượng - cho thời kỳ khô hạn này. Trước tiên, Ngài hạ chúng ta xuống rồi sau đó thử chúng ta. Ngài làm điều này để chúng ta biết bản chất thật của lòng chúng ta. Ngài hạ chúng ta thế nào? "Ngài để cho anh chị em khổ sở vì đói rồi nuôi anh chị em bằng ma-na... ” (Phục 8:3). Ngài hạ dân Y-sơ-ra-ên bằng cách cho họ đói. Nhưng câu tiếp theo tuyên bố Ngài đã nuôi họ bằng mana. Nghe như mâu thuẫn. Làm sao Ngài có thể làm cho họ đói trong lúc nuôi họ bằng mana? Nào mana là thức ăn ngon nhất bạn có thể ăn - nó có trong thực đơn của thiên sứ! Ê-li được thêm sức trong hành trình bốn mươi ngày chỉ nhờ hai miếng bánh. Còn dân Y-sơ-ra-ên có nó dư dật. Họ nhận thức ăn tươi, gửi từ thiên đàng một tuần sáu buổi sáng, vào sáng ngày thứ sáu mana còn dư cho đến ngày thứ bảy một cách kỳ diệu. Họ không bao giờ thiếu một bữa ăn nào từ ngày đầu tiên Chúa ban mana cho họ cho tới khi họ đóng trại trên bờ Xứ Hứa. Vậy tại sao Chúa phán, "Ta đã làm cho các ngươi đói?” Ngài đang nói về cái đói nào? Để hiểu rõ, hãy xem hoàn cảnh của họ. Giả dụ bữa sáng nào của bạn toàn là một ổ bánh mì, và mỗi bữa tối của bạn cũng là một ổ bánh mì. Không có bơ, không có mứt chấm, không có thịt nguội với pho-mát, không có thịt cá ngừ, chỉ có bánh mì thôi. Chúng ta không chỉ nói đến vài ngày hay vài tuần, mà nói về chế độ ăn này trong bốn mươi năm! Khi tôi là một mục sư thanh niên, chúng tôi đã dẫn bốn mươi sáu thanh niên tới nước Trinidad trong chuyến đi truyền giáo tám ngày. Hội thánh tại Trinidad đã chuẩn bị thức ăn cho chúng tôi, và người tiếp đón vô cùng tử tế. Chúng tôi ăn thịt gà mỗi ngày. Họ làm món thịt gà theo nhiều cách khác nhau và đem ra dùng với cơm và rau, nhưng lúc nào cũng là thịt gà. Sau tám ngày ăn thịt gà, chúng tôi thèm món gì đó khác. Khi về nhà, một thanh niên trong nhóm chúng tôi đã hỏi mẹ anh tối đó ăn món gì, bà đáp, "Gà!” Anh ta la lên và sau đó nài xin bà dẫn anh đi ăn hamburger. Tại Trinidad chỉ mới sau tám ngày mà chúng tôi đã càm ràm rồi, bạn có tưởng tượng được bốn mươi năm thì sao? Không phải bốn năm mà bốn mươi năm ăn cùng một loại thức ăn! Giờ chúng ta thấy được cách Chúa khiến cho dân Y-sơ-ra-ên đói. Ngài đã không cho họ thứ mà họ thèm muốn mà ban cho họ cái mà họ thật sự cần để sống còn và khỏe mạnh. Còn điều nào khác về hoàn cảnh của họ mà khiến họ phải đói, phải thèm khát thứ họ không có? Khi chúng ta đọc câu chuyện này, có thể chúng ta nghĩ chuyện hơi lạ là vì quần áo của họ không cũ mòn - tiết kiệm được nhiều cho ngân sách gia đình. Thôi nào, bạn muốn mặc cùng một bộ quần áo suốt bốn mươi năm không? Chán vô cùng! Chẳng hề đi tới trung tâm mua sắm hay tìm hiểu phong cách mới trên mạng. Cùng một đôi giày cũ mòn suốt bốn mươi năm. Vâng, các nhu cầu căn bản của họ đã được cung ứng- được che chở khỏi cái nóng, cái lạnh - nhưng quá nhiều điều họ muốn mà không có. Và hãy suy nghĩ về sự đơn điệu của quang cảnh ấy, hết ngày này qua ngày kia, không chỉ trong vài tuần, mà suốt bốn mươi năm. Làm sao mà chúng ta thích xem cùng một lùm cây xương rồng, cùng một đám cỏ, cũng một vùng đất khô khan - không có suối nước chảy êm, khu rừng xanh tươi, vườn nho đẹp đẽ và ao hồ trong vắt –mà đây chỉ là sa mạc hết ngày này qua ngày khác đây?
Họ đã có điều họ cần nhưng không có cái mà họ muốn. Theo ánh sáng này, chúng ta hãy xem xét lại câu Kinh Thánh này: "Ngài để cho anh chị em khổ sở vì đói rồi nuôi anh chị em bằng ma-na là thứ anh chị em và tổ tiên chưa hề biết, để dạy cho anh chị em biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời từ miệng CHÚA phán ra.” (Phục Truyền 8:3). Đức Chúa Trời đã khiến cho họ đói bằng cách loại bỏ bất cứ thứ gì thoả mãn tham dục và xác thịt của họ, trong khi đó vẫn đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ.
Cơn đói đó đem đến bài thử này: Chúa muốn xem thử liệu họ có khao khát Ngài thay vì thèm khát những thứ mà họ đã bỏ lại phía sau hay không. Họ có tìm kiếm Ngài hay tìm kiếm những gì mà xác thịt của họ thèm muốn? Họ có đói khát sự công chính hay sự thoải mái và khoái lạc?
John Bevere (Chúa ơi Ngài Ở Đâu)