Kinh Thánh: Giăng 14: 2, 3, 27, 28; 16: 7, 13
Kính chào quý độc giả,
Trong đạo Chúa có nhiều điều mầu nhiệm mà không có trong bất cứ tôn giáo nào ra từ con người.
Mầu nhiệm chứ không phải huyền thoại. Mầu nhiệm là những điều xảy ra ngoài sự hiểu biết hữu hạn của con người, con người không thể giải thích được bằng đầu óc. Mầu nhiệm của đạo Chúa là những điều siêu nhiên; nhưng có thể tin được, vì đó là những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử con người, ai cũng biết, chỉ có điều là có tin hay không mà thôi.
Sự giáng sinh của Chúa Giê-xu là một điều mầu nhiệm, vì Ngài không sinh ra theo công lệ thiên nhiên của con người, do sự kết hợp giữa người nam và người nữ. Nhưng Ngài sinh ra bởi quyền năng của Đức Thánh Linh tác động trên trinh nữ Ma-ri.
Sự chết của Chúa Giê-xu là một điều mầu nhiệm. Thông thường thì mọi người đều phải chết vì tội lỗi của mình, nhưng Chúa Giê-xu đã không chết vì tội của Ngài, vì Ngài là Đấng vô tội, thì làm sao phải chết? Nhưng Chúa Giê-xu đã chết là chết thay cho tội lỗi của con người chúng ta. Đó là điều chỉ một mình Chúa Giê-xu mới đủ tư cách làm được và Ngài đã tình nguyện làm điều đó cho nhân loại.
Sự sống lại của Chúa Giê-xu là một điều mầu nhiệm. Người xưa nói: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” (nghĩa là người sinh ra đời từ xưa đến nay ai mà không chết); nhưng chết rồi mà sống lại và sống mãi mãi là điều chỉ có trong Chúa Giê-xu mà thôi.
Sau khi sống lại, Ngài ở với các môn đồ bốn mươi ngày, dạy dỗ họ nhiều điều về Nước Đức Chúa Trời. Và rồi, Ngài được tiếp về trời trong vinh quang.
Sự thăng thiên của Ngài cũng là một điều mầu nhiệm. Ngài được tiếp về trời cách vinh hiển trong một đám mây trước sự chứng kiến ngạc nhiên của nhiều người. “Các người đó đương ngó chăm trên trời trong lúc Ngài ngự lên.” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 10)
Tại sao Chúa Giê-xu phải thăng thiên?
Kinh Thánh cho chúng ta những lý do quan trọng sau đây:
+ Vì Ngài vốn từ trên trời xuống thế gian, nên sau khi hoàn thành công việc ở thế gian, thì Ngài trở về nơi Ngài đã ra đi. Chúa Giê-xu phán: “Ta ra từ Cha mà đến thế gian; nay Ta lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha.” (Sách Giăng, chương 16, câu 28). Đó là điều phải lẽ!
Tỷ như, một vị Đại Sứ được đất nước cử đi làm đại sứ ở một nước khác, thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ được giao, vị Đại Sứ đó hiển nhiên phải về lại đất nước đã gởi mình đi.
Đức Chúa Giê-xu khác nào như vậy, Đức Chúa Cha đã sai Ngài đến thế gian để thực thi chương trình cứu rỗi nhân loại. Sau khi đã hoàn thành công việc được giao, “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Sách Giăng, chương 17, câu 4), Ngài phải về lại cùng Cha.
+ Ngài về trời để sắm sẵn chỗ ở cho những người tin nhận Ngài đến ở. “Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở, bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.” (Sách Giăng, chương 14, câu 2). Điều nầy thể hiện sự chăm sóc tuyệt vời của Ngài dành cho những người thuộc về Ngài, đúng như Thánh Phi-e-rơ đã nói: “Vì Ngài hay săn sóc anh em.” (Sách 1 Phi-e-rơ, chương 5, câu 7)
+ Ngài về trời cũng để ban Đấng Yên Ủi đến cùng con cái Ngài. “Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu Ta không đi thì Đấng Yên Ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Ngài đến.” (Sách Giăng, chương 16, câu 7).
Đấng Yên Ủi đến để yên ủi chúng ta thay cho Chúa Giê-xu, hầu cho chúng ta không... mồ côi giữa thế gian nầy. “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các ngươi.” (Sách Giăng, chương 14, câu 18).
Đấng Yên Ủi đến cũng để dẫn chúng ta vào mọi lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.” (Sách Giăng, chương 16, câu 13)
Nếu Chúa Giê-xu không về trời thì Đức Thánh Linh không được ban xuống, và nếu không có Đức Thánh Linh thì con dân Ngài sẽ không thể nào hiểu biết được lời Ngài như đáng phải hiểu biết.
Cảm ơn Chúa Giê-xu đã về trời để ban Đức Thánh Linh xuống cho chúng ta, hầu cho chúng ta được Ngài dẫn vào mọi lẽ thật để hưởng mọi phước lành trong lời Ngài.
Đấng Yên Ủi đến cũng để dạy dỗ con dân Ngài mọi sự và nhắc lại mọi điều mà Chúa Giê-xu đã phán dạy. “Nhưng Đấng Yên Ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh Ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều Ta đã phán cùng các ngươi.” (Sách Giăng, chương 14, câu 26)
Nếu Chúa về trời mà Đức Thánh Linh không được ban xuống thì thật là một điều thiệt thòi lớn biết bao cho chúng ta. Nhưng tạ ơn Chúa, Ngài về trời và ban Đức Thánh Linh xuống để dạy dỗ lời Ngài, và nhắc chúng ta ghi nhớ được những lời Ngài trong Kinh Thánh, hầu cho chúng ta làm theo và được phước.
+ Chúa về trời và Ngài để lại sự bình an cho chúng ta. “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; Ta ban sự bình an Ta cho các ngươi; Ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi.” (Sách Giăng, chương 14, câu 27). Đây thật là một “di sản” quý báu của việc Chúa về trời. Nhờ “di sản” nầy mà con dân Chúa trải qua mọi thời đại được bình an giữa một thế giới đầy bất an.
...
Một điều cuối cùng đáng gẫm suy về chuyện Chúa về trời, ấy là lời hứa quý báu của Ngài đã để lại cho chúng ta. “Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó... Các ngươi từng nghe Ta nói rằng: ta đi, và Ta trở lại cùng các ngươi. Nếu các ngươi yêu mến Ta, thì sẽ vui mừng về điều Ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha tôn trọng hơn Ta.” (Sách Giăng, chương 14, câu 3, 28)
Chúa Giê-xu hứa rằng, Ngài sẽ trở lại cùng chúng ta và đem chúng ta về ở với Ngài, hầu cho Ngài ở đâu thì chúng ta cũng sẽ ở đó.
Lời hứa rất quý nầy cũng là một điều mầu nhiệm nữa của đạo Chúa.
Chúa Giê-xu sẽ tái lâm trong tương lai với tất cả đại quyền đại vinh của Ngài để tiếp rước con cái Ngài về Thiên Đàng ở với Ngài. Không còn gì phước hạnh hơn điều đó! Đây chính là niềm hy vọng vững chắc cho những người tin Ngài.
Các giáo chủ ra từ thế gian chỉ đem đến cho con người một mớ triết lý suông, nghe dường như rất... êm tai, rất... dễ chịu, rất... hấp dẫn; nhưng khi họ bị Đức Chúa Trời rút hơi thở Ngài lại, thì họ ra đi không một lời từ biệt, không một lời hứa hẹn gì hay một hy vọng nào cho những người tin theo.
Chúa Giê-xu thì khác, Ngài chỉ tạm biệt chúng ta để về trời, và Ngài sẽ trở lại với chúng ta trong một tương lai không xa. Đó chính là chân lý mà chúng ta cần đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy.
Chính vì vậy mà Chúa Giê-xu đã khích lệ các môn đồ của Ngài rằng: “Nếu các ngươi yêu mến Ta, thì sẽ vui mừng về điều Ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha tôn trọng hơn Ta.” (Sách Giăng, chương 14, câu 28)
Chúng ta cần phải biết ơn Chúa Giê-xu và vui mừng về việc Ngài về trời. Khi chúng ta vui mừng về việc Ngài về trời là chúng ta đang thể hiện lòng yêu mến Ngài, và “yêu mến sự hiện đến của Ngài” (Sách 2 Ti-mô-thê, chương 4, câu 8) trong tương lai vậy.
Cầu xin Chúa ban thêm cho mỗi một chúng ta lòng tin yêu và hy vọng không chuyển lay nơi việc Chúa về trời, để chúng ta đầy lòng vui mừng đón chờ ngày Chúa trở lại không còn bao xa nữa.
Kính chúc quý vị ngày Lễ Thăng Thiên nhiều niềm vui đến từ Đấng đã thăng thiên và sẽ tái lâm trong nay mai!
Kỷ Niệm Lễ Thăng Thiên Năm 2022!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 272
Chuyện... Thấy Và... Không Thấy
Kinh Thánh: Dân số ký 13: 28, 32, 33; 14: 7-9; Giê-rê-mi 23: 24; Giăng 20: 29
Kính chào quý độc giả,
Cảm ơn Tạo Hóa đã tạo nên con người chúng ta có hai con mắt để nhìn, để thấy được thế giới chung quanh mình. Và qua đó, cảm nhận được cái hay cái đẹp cái tuyệt vời của nó.
Giả sử nếu chúng ta... không có mắt, thì thế giới nầy chắc đâu còn có ý nghĩa bao nhiêu với chúng ta?
Những ai thiếu may mắn mà bị đui một mắt, thì cũng đã cảm nhận được sự thiệt thòi lớn trong đời sống của mình rồi.
Mỗi lần nhìn thấy ai đó bị mù cả hai con mắt là chúng ta không thể không khỏi chạnh lòng và thấy thương cảm cho họ biết bao!
...
Dầu ai cũng có mắt, nhưng không vì thế mà ai cũng nhìn thấy như nhau đâu.
Cùng một cái nhìn, cùng một sự quan sát, nhưng có người chỉ thấy kẻ thù cao lớn và chỉ như chực chờ để ăn tươi nuốt sống mình vậy; ngược lại, có người thì thấy kẻ thù chẳng khác nào như miếng mồi ngon cho mình mà thôi.
Câu chuyện về lãnh tụ Môi se của người Do-thái ngày xưa khi sai mười hai thám tử đi do thám xứ Ca-na-an, và kết quả là:
Có mười người “thấy dân sự trong xứ đó vốn mạnh dạn, thành trì thật vững vàng và rất lớn... Xứ mà chúng tôi đã đi khắp đặng do thám, là một xứ nuốt dân sự mình; hết thảy những người chúng tôi đã thấy tại đó, đều là kẻ hình vóc cao lớn. Chúng tôi có thấy kẻ cao lớn, tức là con cháu của A-nác, thuộc về giống giềnh giàng; chúng tôi thấy mình khác nào con cào cào, và họ thấy chúng tôi cũng như vậy.” (Sách Dân số ký, chương 13, câu 28, 32-33)
Còn hai người là Giô-suê và Ca-lép thì lại thấy ngược lại hoàn toàn: “Xứ mà chúng tôi đã đi khắp đặng do thám thật là một xứ rất tốt; nếu Đức Giê-hô-va đẹp lòng cùng chúng ta, ắt sẽ đem chúng ta vào xứ nầy mà ban cho; ấy là một xứ đượm sữa và mật. Chỉ các ngươi chớ dấy loạn cùng Đức Giê-hô-va và đừng sợ dân của xứ, vì dân đó sẽ là đồ ăn nuôi chúng ta, bóng che chở họ đã rút đi khỏi họ rồi, và Đức Giê-hô-va ở cùng chúng ta. Chớ sợ chi.” (Sách Dân số ký, chương 14, câu 7-9)
Cũng cùng một cái nhìn như nhau, nhưng nhiều khi có người không thấy gì cả, hoặc chỉ thấy những điều tiêu cực, và có người lại thấy nhiều điều rất tích cực.
Tiên Tri Ê-li-sê và người đầy tớ của ông là một ví dụ rất rõ ràng:
Khi vua Sy-ri giao chiến cùng Y-sơ-ra-ên, họ đem theo ngựa, xe và một đạo binh rất đông để vây thành Đô-than là nơi có Tiên Tri Ê-li-sê đang ở. Vì vua Sy-ri muốn bắt Tiên tri của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh ghi lại rằng: “Tôi tớ của người Đức Chúa Trời chỗi dậy sáng sớm đi ra, thấy một đạo binh cùng ngựa và xe đang vây thành. Người nói với Ê-li-sê rằng: Hỡi ôi! chúa, chúng ta sẽ làm sao? Ê-li-sê đáp rằng: Chớ sợ, những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó. Đoạn, Ê-li-sê cầu nguyện mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được. Đức Giê-hô-va mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Ê-li-sê.” (Sách 2 Các Vua, chương 6, câu 15-17)
Cùng một hoàn cảnh như nhau, nhưng tôi tớ của Ê-li-sê thì chỉ thấy kẻ thù đông đúc với ngựa và xe rất đáng sợ. Còn Ê-li-sê thì lại thấy “những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó”, với đầy những ngựa và xe bằng lửa đang bảo vệ mình một cách rất chắc chắn.
Bạn đang nhìn thấy như mười người thám tử và tôi tớ của Tiên Tri Ê-li-sê thấy, hay là nhìn thấy như hai thám tử Giô-suê, Ca-lép và Tiên Tri Ê-li-sê đã thấy?
Bạn muốn cách nhìn thấy nào và quyết định cách nhìn thấy nào? Nhìn thấy những điều tiêu cực với lòng vô tín, hay nhìn thấy những điều tích cực với đức tin đầy trọn đặt nơi Đức Chúa Trời toàn năng?
Hãy quyết định chọn lấy cho mình một cách nhìn thấy, vì cách đó sẽ quyết định cho cuộc đời của bạn mất phước hay được phước đấy!
Vua Sa-lô-môn có để lại một câu châm ngôn rất hay: “Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thế ấy.” (Sách Châm Ngôn, chương 23, câu 7)
...
Kinh Thánh cho biết về cách Đức Chúa Trời nhìn thấy như sau:
“Vì con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian, đặng giúp sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với Ngài.” (Sách 2 Sử Ký, chương 16, câu 9)
“Con mắt Đức Giê-hô-va ở khắp mọi nơi. Xem xét kẻ gian ác và người lương thiện.” (Sách Châm Ngôn, chương 15, câu 3).
“Bảy con mắt của Đức Giê-hô-va trải đi qua lại khắp đất, sẽ vui mà xem thấy dây chuẩn mực ở trong tay Xô-rô-ba-bên.” (Sách Xa-cha-ri, chương 4, câu 10)
Con mắt của con người chúng ta dù có tinh anh, nhìn xa trông rộng bao nhiêu đi chăng nữa, thì cũng không thể nào thấy được toàn diện một vấn đề mà không có một thiếu sót nào, vì con người vốn hữu hạn, và luôn bất toàn. Nhưng... con mắt của Đức Chúa Trời thì khác, Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy tất cả mọi sự mọi việc một cách toàn diện từ đầu đến cuối. Hơn thế nữa, Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy tận bên trong bản chất sâu thẳm nhất của mọi sự mọi việc.
“Con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian”, “con mắt Đức Giê-hô-va ở khắp mọi nơi”, “Bảy con mắt của Đức Giê-hô-va trải đi qua lại khắp đất”; những cụm từ ấy miêu tả về cái nhìn toàn diện của Đức Chúa Trời.
Có ai đó đã nói về sự nhìn thấy toàn diện của Đức Chúa Trời thật hay, đại ý như sau: “Con kiến đen nằm trên hòn đá đen, trong đêm tối đen, Đức Chúa Trời vẫn thấy”
Chúa cũng đã từng phán: “Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giê-hô-va phán: Há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?” (Sách Giê-rê-mi, chương 23, câu 24)
...
Tác giả sách Hê-bơ-rơ trong Tân Ước cũng cho biết về cái nhìn toàn diện của Đức Chúa Trời rất đáng sợ: “Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta phải thưa lại.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 4, câu 13)
Con người thường thấy được những gì ở những nơi sáng sủa; nhưng Đức Chúa Trời là Đấng “thấy trong chỗ kín nhiệm” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 4, 6, 18)
Là những người tin Chúa, chúng ta được dạy, không thấy như cách người thế gian thấy, họ chỉ nhìn thấy mọi sự mọi việc bằng con mắt vật lý nầy mà thôi; nhưng chúng ta thì thấy bằng... con mắt đức tin: “vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.” (Sách 2 Cô-rinh-tô, chương 5, câu 7)
Nhờ thấy bằng... con mắt đức tin đó mà chúng ta có thể “thấy Đấng không thấy được” như Môi se ngày xưa đã thấy (Sách Hê-bơ-rơ, chương 11, câu 27), để đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy “Ngài là Đấng anh em không thấy mà yêu mến; dầu bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng tin Ngài, và vui mừng lắm một cách không xiết kể và vinh hiển.” (Sách 1 Phi-e-rơ, chương 1, câu 8)
Còn nhớ lời Chúa Giê-xu phục sinh đã phán với sứ đồ Thô-ma rằng: “Vì ngươi đã thấy Ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy.” (Sách Giăng, chương 20, câu 29)
Chúng ta là những người được phước hơn Thô-ma và các sứ đồ ngày xưa, vì chúng ta chưa từng thấy Chúa Giê-xu bằng xương bằng thịt như họ, nhưng đã mở lòng ra tin Ngài, mời Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời.
Phao-lô cho biết: “bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy.” (Sách 2 Cô-rinh-tô, chương 4, câu 18)
Tạ ơn Chúa đã ban cho con đức tin để tin Ngài và tôn thờ Ngài trong cuộc đời của con! Tạ ơn Chúa đã ban cho con có đức tin để chăm những sự không thấy được như lời Kinh Thánh dạy, vì chỉ có những sự không thấy được mới còn lại đời đời mà thôi!
Cầu xin Chúa cho có thêm nhiều người Việt Nam thân yêu được Ngài ban cho con mắt đức tin để có thể nhìn thấy được Ngài là Đấng không thấy được và tin Ngài, hầu hưởng được sự sống đời đời.
California, Tháng 6/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 273
Chuyện... Vỗ Tay
Kinh Thánh: Thi-thiên 47: 1; 98: 8; Ê-sai 55: 12; Phi-líp 2: 13
Kính chào quý độc giả,
Vỗ tay là một hành động bày tỏ lòng vui mừng, phấn khởi trước một sự kiện nào đó, một sự thành công nào đó của một con người nào đó, hay nhằm chào đón, ca ngợi một nhân vật nào đó.
Vỗ tay là một cách ứng xử có văn hóa trong hầu hết các nền văn hóa trên thế giới từ xưa đến nay.
Tục ngữ, Ca dao Việt Nam chúng ta có những câu nói về sự vỗ tay mà nhiều người thuộc lòng:
+ Đông tay vỗ nên kêu.
+ Vỗ tay cần nhiều ngón
Bàn việc cần nhiều người
+ Khi vui thì vỗ tay vào
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
+ Nhiều tay vỗ nên bộp, có cột mới nên kèo,
Vợ chồng giúp đỡ đói nghèo có nhau.
...
Không biết hành động vỗ tay của con người bắt đầu từ khi nào? Và ai là người vỗ tay đầu tiên?
Kinh Thánh có khá nhiều câu nói đến việc vỗ tay:
“Hỡi các dân, hãy vỗ tay; Hãy lấy tiếng thắng-trận mà reo-mừng cho Đức Chúa Trời.” (Thi-thiên 47: 1)
“Nguyện các sông vỗ tay, Núi non cùng nhau hát vui mừng trước mặt Đức Giê-hô-va!” (Thi-thiên 98: 8)
“Vì các ngươi sẽ đi ra vui vẻ, được đưa đi trong sự bình an. Trước mặt các ngươi, núi và đồi sẽ trổi tiếng ca hát, mọi cây cối ngoài đồng sẽ vỗ tay.” (Êsai 55:12).
Và có lẽ còn nhiều câu khác nữa, nhưng chỉ với ba câu Kinh Thánh trên, chúng ta cũng đủ thấy Kinh Thánh chú ý nhắc nhở muôn vật và con người hãy vỗ tay lên để ca ngợi, chúc tụng Đức Chúa Trời. Vì chính Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo nên con người và muôn loài vạn vật, cho nên con người và mọi vật rất đáng phải ca ngợi Chúa. Một trong những cách để ngợi ca Ngài, đó chính là... vỗ tay.
Khi một vị vua hay Tổng Thống xuất hiện trước mặt dân chúng, thì dân chúng thường vô tay chào đón để bày tỏ lòng kính trọng. Đức Chúa Trời là Vua của mọi vua và Chúa của mọi chúa, thì con người chúng ta càng cần phải đáng thể hiện tấm lòng tôn cao Ngài hơn gấp nhiều lần vậy.
Được biết có một số Giáo Hội “cấm” con dân Chúa vỗ tay để ca ngợi Chúa mỗi khi thờ phượng Ngài trong Nhà thờ vào ngày Chúa Nhật, vì cho rằng thờ phượng Chúa thì phải trang nghiêm, cung kính, mà vỗ tay thì... không được trang nghiêm, cung kính, nên... không được vỗ tay.
Trong Thánh Ca cũ có bài hát rất hay, trong đó có đoạn lời: “Ngày vui hơn hết, ngày tôi tin Chúa, tôn Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình. Từ nay tôi mãi mừng vui, ca múa, đi khắp mỗi nơi truyền bá Tin Lành...” (Thánh Ca 210)
Bài hát có lời hay và đáng quý như thế, nhưng khi con dân Chúa đi thờ phượng Ngài, thì không ai được phép “tay múa” cả, không ai được phép “vỗ tay” cả, chỉ được phép... ”miệng ca” mà thôi.
Nghe thật... bất nhất và khó hiểu quá phải không bạn?
Chúng ta được truyền dạy là phải vâng giữ và làm theo lời Kinh Thánh chứ không phải là vâng giữ và làm theo lời truyền khẩu của loài người.
Chúa Giê-xu phán day rằng: “... và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 20). Chúa Giê-xu không dạy chúng ta “dạy họ giữ hết cả mọi điều... truyền khẩu do con người đặt ra.”
Kinh Thánh cho chúng ta thấy ngay cả sông suối, núi non, cây cối đều phải vỗ tay ca ngợi, chúc tụng Ngài, thì tại sao chúng ta là con người vượt cao hơn muôn loài vạn vật khácrất nhiều lần, mà chúng ta lại không vỗ tay ca tụng Ngài? Chẳng lẽ chúng ta lại... thua các loài vật thọ tạo kia sao? Chẳng hề như vậy! (Nói như Phao-lô thường hay nói).
Ước mong con dân Ngài mỗi khi nhóm lại thờ phượng Chúa, thiết nghĩ rất nên vỗ tay như là một trong những cách để góp phần ca ngợi Chúa kính yêu của chúng ta trong tinh thần “miệng hát lòng hòa”, “miệng ca tay vỗ”một cách vui mừng hớn hở.
“Hãy làm theo lời Kinh Thánh dạy” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 22), chứ đừng để những truyền thống do loài người đặt ra ngăn trở sự thờ phượng Chúa một cách hết lòng của chúng ta.
Cầu xin Đức Thánh Linh cảm động lòng mỗi một chúng ta để mỗi một chúng ta “vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài!” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 13) trong sự ngợi khen, thờ phượng Chúa cao cả, quyền năng của chúng ta. Amen!
Tháng 6/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 274
Chuyện... Không Tiếc Và... Hối Tiếc
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 22: 16, 17; Rô-ma 8: 32
Kính chào quý độc giả,
Không tiếc và hối tiếc là hai trạng thái tình cảm trái ngược nhau trong con người.
Không tiếc là nói đến một việc làm, một sự hy sinh nào đó cho một ai đó hay một việc làm gì đó mà nó xứng đáng để hy sinh.
Còn hối tiếc là nói đến một việc làm, một sự hy sinh nào đó cho một ai đó hay một việc làm gì đó mà nó trở nên uổng phí.
Ca dao Việt Nam có những câu nói về hối tiếc rất đáng nhớ:
+ Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
+ Tưởng giếng sâu em nối sợi gày dài
Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây.
+ Tiếc công anh đắp đập be bờ
Để ai quảy đó mang lờ đến đơm.
...
Còn nhiều câu ca dao khác nữa nói về sự hối tiếc trong kho tàng ca dao độc đáo của người Việt Nam chúng ta.
Bạn chắc đã nhiều lần không hối tiếc về những việc mình đã làm trong quá khứ, vì biết chắc rằng những việc làm đó là đúng và sự hy sinh đó là xứng đáng. Và bạn chắc cũng đã có nhiều lần hối tiếc về những việc làm nào đó, hoặc sự hy sinh nào đó, vì nó không đúng và không xứng đáng.
Kinh Thánh có đề cập đến chuyện... không tiếc và... hối tiếc.
Thánh tổ đức tin của người Do-Thái và của người tin Chúa trải qua mọi thời đại đã được Đức Chúa Trời xác nhận rằng: “Đức Giê-hô-va phán rằng: Vì ngươi đã làm điều đó, không tiếc con ngươi, tức con một ngươi thì Ta lấy chánh mình Ta mà thề rằng, sẽ ban phước cho ngươi, thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, đông như cát bờ biển, và dòng dõi đó sẽ chiếm được cửa thành quân nghịch.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 22, câu 16, 17)
Áp-ra-ham đã không tiếc con một của mình là Y-sác mà đem dâng cho Đức Chúa Trời trên núi Mô-ri-a theo như lời Ngài phán. Bởi hành động đức tin đó, bởi sự hy sinh cao quý đó của Áp-ra-ham dành cho Đấng ông tôn thờ, nên ông đã được Đức Chúa Trời ban phước và trở nên ông tổ đức tin của người tin Chúa từ xưa cho đến nay.
Trong Tân Ước, có đề cập đến việc Đức Chúa Trời không tiếc:
“Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?”(Sách Rô-ma, chương 8, câu 32)
Đức Chúa Trời chỉ có Con độc sanh là Chúa Giê-xu, nhưng vì yêu thương chúng ta là những tội nhân, nên Ngài bằng lòng hy sinh Con ấy để chịu chết đền tội thay cho chúng ta, hầu ban sự cứu rỗi lớn và quý cho chúng ta.
Tạ ơn Đức Chúa Trời về sự hy sinh lớn lao nhất, kỳ diệu nhất đó của Ngài!
Nếu Ngài... tiếc chính Con mình, mà không ban Con ấy cho chúng ta, thì tất cả chúng ta đều phải bị đoán phạt đời đời trong Địa Ngục mà thôi, vì ở dưới trời nầy không còn có một phương cứu rỗi nào khác, ngoài Chúa Cứu Thế Giê-xu (Sách Công vụ các sứ đồ, chương 4, câu 12)
Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng, nếu Ngài đã không tiếc chính Con Ngài vì yêu thương chúng ta, thì Ngài cũng “chẳng tiếc các thiên sứ đã phạm tội, nhưng quăng vào trong vực sâu, tại đó họ bị trói buộc bằng xiềng nơi tối tăm để chờ sự phán xét.”; và “Ngài chẳng tiếc thế gian xưa, trong khi sai nước lụt phạt đời gian ác nầy, chỉ gìn giữ Nô-ê là thầy giảng đạo công bình, với bảy người khác mà thôi.” (Sách 2 Phi-e-rơ, chương 2, câu 4, 5)
Đức Chúa Trời vì sự thương yêu vô hạn của Ngài dành cho chúng ta nên không tiếc chính Con Ngài để ban cho chúng ta, thì Đức Chúa Trời vì sự công bình tuyệt đối của Ngài cũng sẽ không tiếc mà hình phạt bất cứ ai, khi họ chối từ Ngài, chống nghịch Ngài.
Phao-lô sau khi được Chúa cứu trở nên người hầu việc Ngài, thì ông cũng đã không tiếc gì với Chúa cả: “Tôi chẳng kể sự sống mình làm quý, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Giê-xu để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời.” (sách Công vụ các sứ đồ, chương 20, câu 24)
Các Thánh Đồ cũng chẳng tiếc chi sự sống mình với Chúa, vì biết Chúa đã không tiếc gì để cứu mình: “Chúng đã thắng nó bởi huyết Chiên Con và bởi lời làm chứng của mình; chúng chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết.” (Sách Khải Huyền, chương 12, câu 11)
...
Còn về sự hối tiếc, Kinh Thánh cho biết những người chối bỏ Chúa, không tin thờ Ngài sẽ bị hối tiếc vô cùng trong Âm Phủ và trong Địa Ngục: “Người giàu ở nơi Âm Phủ, đang bị đau đớn, ngước mắt lên, xa thấy Áp-ra-ham, và La-xa-rơ trong lòng người; bèn kêu lên rằng: Hỡi Áp-ra-ham tổ tôi, xin thương lấy tôi, sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước đặng làm cho mát lưỡi tôi; vì tôi bị khổ trong lửa nầy quá đỗi.” (Sách Lu-ca, chương 16, câu 23, 24)
Hối tiếc vì mình đã nhiều lần nghe Tin Lành được rao giảng, nhưng lại bỏ ngoài tai, lại chối từ, không tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, vì nghĩ rằng mình giàu có rồi, không cần chi nữa, cũng chẳng cần Chúa đâu.
Trong cõi đời đời nơi Địa Ngục, sẽ có nhiều người đấm ngực trong hối tiếc vì đã chối bỏ Chúa khi còn sống; nhưng tất cả đều đã muộn, vì số phận con người không thể thay đổi được một khi đã nhắm mắt xuôi tay.
Hỡi những độc giả yêu quý của tôi là những người chưa tin nhận Chúa Giê-xu, tôi ước mong bạn sẽ sớm làm một quyết định tin nhận Chúa ngay hôm nay, để hưởng được sự sống đời đời, và bạn sẽ không bao giờ hối tiếc khi tin nhận Ngài.
Bạn sẽ chỉ hối tiếc là tại sao mình tin Chúa muộn mà thôi, chứ không bao giờ hối tiếc khi mình tin Chúa cả.
Lời Chúa dạy: “Sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (Sách 1 Ti-mô-thê, chương 6, câu 6)
Tin nhận Chúa Giê-xu sẽ đem lại cho bạn sự thỏa lòng chứ không bao giờ là sự hối tiếc!
Tháng 6/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 275
Chuyện... Cha Dưới Đất, Và... Cha Trên Trời
(Kính tặng tất cả những người cha ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 6: 9-13; 7: 9-11; Lu-ca 12: 32; Giăng 17: 3
Kính chào quý độc giả,
Tháng Sáu lại về với chúng ta theo đúng hẹn của nó.
Tháng Sáu về nhắc nhở chúng ta là Ngày Lễ Cha cũng đang về.
Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm là Chúa Nhật người ta dành để những người con bày tỏ lòng biết ơn những người cha. Đó là một việc làm ý nghĩa! Đó là một ngày thật đẹp!
Ai trong chúng ta sinh ra trên trần gian nầy cũng đều có một người cha để yêu thương, để kính trọng. Và người cha đó là người cha... ở dưới đất.
Người cha ở dưới đất là người cha đã sinh thành, dưỡng dục ta nên người, chăm sóc, nuôi nấng ta từ khi còn tấm bé cho tới lúc trưởng thành; dựng vợ gả chồng cho ta, và yêu thương ta cho đến suốt cuộc đời, vẫn không ngừng nghỉ yêu ta.
Người cha dưới đất dù yêu thương ta thật nhiều, có thể làm tất cả những gì cần làm trong khả năng của mình để cho ta được sung sướng, hạnh phúc; nhưng người cha dưới đất, như bất cứ con người nào khác, cũng bất toàn, hữu hạn, và có những sai lầm nhất định, không thể nào tránh khỏi.
Kinh Thánh cho biết: “Trong các ngươi có ai, khi con mình xin bánh mà cho đá chăng? Hay là con mình xin cá mà cho rắn chăng? Vậy nếu các ngươi vốn là xấu, còn biết cho con cái mình các vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt cho những người xin Ngài sao?” (Sách Ma-thi-ơ, chương 7, câu 9-11)
Từ “các ngươi” trong những câu Kinh Thánh nầy nói đến những người cha dưới đất. Những người cha dưới đất thì “vốn là xấu”, nói đến bản chất tội lỗi trong con loài người từ A-đam lưu lại. Nhưng dù “vốn là xấu”, thì những người cha dưới đất vẫn biết dành cho con cái mình những vật tốt, thay vì những vật xấu.
Tôi cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban cho tôi một người cha dưới đất thật quý báu. Cha tôi là một người hiền lành, đơn sơ, chân chất, thương người, nhưng ngay thật, thẳng thắn. Đặc biệt, cha tôi là một người cha tin Chúa với một đức tin sắc son mà tôi rất kính nể. Đức tin nơi Chúa của cha tôi đã ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống theo Chúa của anh em chúng tôi từ thuở nhỏ cho đến tận bây giờ, và có lẽ cho đến mãi sau nữa.
Mãi mãi biết ơn cha kính yêu!
...
Mỗi một người sinh ra đời đều có cha dưới dất, nhưng không phải tất cả mọi người sinh ra đời đều có... Cha trên trời.
Kinh Thánh cho biết ngoài người cha dưới đất, con người còn có một người Cha trên trời nữa.
Nếu người cha dưới đất “vốn là xấu”, thì người Cha trên trời vốn là toàn hảo, tuyệt mỹ, không chỗ trách được, vì Ngài là Đấng thiện lành, trọn vẹn duy nhất.
Làm sao để con người chúng ta nhận biết được người Cha trên trời?
Kinh Thánh bày tỏ: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Chúa Giê-xu, nv), thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Sách Giăng, chương 1, câu 12)
Chúa Giê-xu cũng xác quyết: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.” (Sách Giăng, chương 5, câu 24)
“Nhận Ngài”, “Tin Đấng đã sai Ta”, tức tiếp nhận Chúa Giê-xu, tin Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha, thì được sự sống đời đời.
Một chỗ khác, Chúa Giê-xu cũng xác nhận: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Giê-xu Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Sách Giăng, chương 17, câu 3)
Một người muốn nhận được sự sống đời đời thì phải tin Đức Chúa Trời và tin Đức Chúa Giê-xu, vì Chúa Giê-xu chính là Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và con người chúng ta: “Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Sách Giăng, chương 14, câu 6). Và Chúa Giê-xu cũng chính là Đức Chúa Trời: “Ấy chính Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời.” (Sách 1 Giăng, chương 5, câu 20)
Một khi một người đã tin Đức Chúa Trời, đã nhìn biết Đức Chúa Trời rồi, thì Đức Thánh Linh ấn chứng người đó trở nên con cái Ngài và được kêu Ngài là A-ba! (tức là Cha) (Sách Rô-ma, chương 8, câu 16; và sách Ga-la-ti, chương 4, câu 6). Và Đức Chúa Trời trở thành Cha trên trời của những người tin Ngài vậy.
...
Bạn có muốn có được người Cha trên trời không? Bạn có muốn được gọi Đức Chúa Trời là Cha của mình không?
Cách để được gọi Đức Chúa Trời là Cha trên trời, ấy là bạn mở lòng ra mời Ngài ngự vào cuộc đời mình là bạn trở nên con cái của Ngài và Ngài trở thành Cha trên trời của bạn ngay.
Cha trên trời vượt xa hơn người cha dưới đất nhiều điều lắm, và không một người cha dưới đất nào có thể sánh được với người Cha trên trời cả.
Người cha dưới đất dù có yêu thương ta bao nhiêu đi nữa, thì cũng một thời gian ngắn chừng trên dưới “một trăm năm trong cõi người ta” mà thôi; nhưng người Cha trên trời thì yêu thương ta đời đời mãi mãi. “Đức Giê-hô-va từ thuở xưa hiện ra cùng tôi và phán rằng: Phải, Ta đã lấy sự yêu thương đời đời mà yêu ngươi; nên đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến.” (Sách Giê-rê-mi, chương 31, câu 3), vì Ngài là Đấng đời đời.
Người cha dưới đất vì là hữu hạn, bất toàn, nên không thể nào thấy được, biết được những điều sâu kín trong lòng ta để có thể hiểu biết, thông cảm, yêu thương, và giúp đỡ ta nhiều hơn; nhưng người Cha trên trời thì thấy hết, biết hết, hiểu hết mọi nỗi niềm sâu kín trong cuộc đời ta, nên có thể săn sóc ta một cách tốt nhất và ban thưởng cho ta khi ta làm những việc tốt đẹp nữa. “khi ngươi bố thí đừng cho tay tả biết tay hữu làm việc gì, hầu cho sự bố thí được kín nhiệm; và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 3, 4)
Người cha dưới đất nhiều khi không biết ta cần điều gì, vì sự hiểu biết của người cha dưới đất có giới hạn; nhưng người Cha trên trời là Đấng toàn tri, nên biết ta cần gì, để săn sóc, đáp ứng cho ta theo ý tốt của Ngài. “Cha các ngươi biết các ngươi cần gì trước khi chưa xin Ngài... Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 8, 32)
Người cha dưới đất có thể cho ta những thứ quý giá như tiền bạc, của cải, nhà cửa, đất đai... ; nhưng những thứ đó cũng chỉ có giá trị tạm thời, mau qua và chóng tàn. Người Cha ở trên trời thì rất tuyệt vời, đã bằng lòng cho ta cả nước Thiên Đàng, là một nước không hư đi, không ô uế, không suy tàn bao giờ. “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước Thiên Đàng.” (Sách Lu-ca, chương 12, câu 32)
Một khi chúng ta được làm con cái của Cha trên trời rồi, thì chúng ta phải ghi nhớ và thuộc lòng lời cầu nguyện mà Chúa Giê-xu đã dạy cho những người tin Ngài cầu nguyện với Cha trên trời của mình để cầu nguyện và kinh nghiệm những phước hạnh quý báu ở trong Ngài:
“Lạy Cha chúng tôi ở trên trời
Danh Cha được thánh
Nước Cha được đến
Ý Cha được nên, ở đất như trời!
Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày.
Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghich cùng chúng tôi.
Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác!
Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời. Amen!”
(Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 9-13)
Bạn đã nhận biết Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng trên trời của mình chưa?
Nếu chưa, thì hôm nay, chính là cơ hội thuận tiện nhất để bạn làm điều đó, bằng cách mời Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình, là bạn sẽ trở nên con cái Ngài và được kêu Đức Chúa Trời là Cha!
Mong ước bạn sẽ sớm được làm con cái của Đức Chúa Trời như chúng tôi để chúng ta cùng nhau thờ phượng Cha trên trời và hầu việc Ngài một cách đẹp lòng Ngài!
Kính chúc tất cả những người cha dưới đất nầy một ngày Lễ Cha nhiều niềm vui và hạnh phúc bên gia đình và người thân!
Xin Cha trên trời ban phước dồi dào cho tất cả những người cha dưới đất! Amen!
Mừng Ngày Lễ Cha 2022!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu.
Bài 276
Chuyện... Cha Phần Xác, Và... Cha Phần Hồn
Kinh Thánh: Châm Ngôn 3: 11, 12; Hê-bơ-rơ 12: 5-11
Kính chào quý độc giả,
Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm là một Chúa Nhật đáng yêu, đáng nhớ, vì Chúa Nhật đó là ngày mà người ta dành để bày tỏ lòng biết ơn những người làm cha.
Ngày Lễ Cha đang đến với mọi người trên thế gian này.
Cứ mỗi lần đến ngày Lễ Cha không biết bạn thì sao, chứ tôi cảm thấy trong lòng dâng trào bao cảm xúc trìu mến về người cha đáng kính của mình.
Là người làm con, không nhiều thì ít, ai trong chúng ta cũng có một vài lần bị đòn roi từ cha mẹ của mình, nhất là từ nơi người cha.
Cha mẹ đánh đòn chúng ta không phải vì ghét bỏ chúng ta, nhưng vì yêu chúng ta và muốn chúng ta được tốt hơn, được nên người, được trưởng thành.
Chẳng thế mà ca dao đã từng có nhiều câu nhắc đến vấn đề... roi vọt của cha mẹ dành cho con cái:
+ Mẹ dạy thì con khéo, cha dạy thì con khôn.
+ Thương con thì cho roi cho vọt
Ghét con thì cho ngọt cho bùi
Mai kia con mới nên người
Lớn khôn con nhớ mấy lời răn đe.
+ Cá không ăn muối cá ươn
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
+ Đẻ con chẳng dạy chẳng răn
Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
...
Cha tôi ít đánh con lắm, ông chỉ đánh đòn khi anh em chúng tôi không vâng lời, làm những điều quá sai trái mà thôi. Còn thường thì ông dùng lời khuyên răn để dạy dỗ chúng tôi.
Tôi có vài lần “bị” cha đánh, và đánh khá đau. Mỗi khi anh em chúng tôi bị cha đánh, chúng tôi gọi nhau một cách... hình tượng là bị “ăn cháo lươn” (chẳng là, cây roi mà cha dùng để đánh nó thẳng giống như... con lươn, nên chúng tôi gọi là... ăn cháo lươn vậy.)
Khi mới “bị” đánh, thì anh em chúng tôi đều cảm thấy... ghét cha, và cho rằng cha không thương mình. Nhưng về sau đó, và nhất là khi lớn khôn, chúng tôi mới thực sự biết ơn cha về những lần cho... ăn cháo lươn đáng nhớ đó. Nếu không có những lần... ăn cháo lươn như thế, thì dễ lắm, chúng tôi sẽ trở nên... hư hỏng, chứ không “lớn nỗi thành người” (ý thơ Đỗ Trung Quân) như ngày hôm nay đâu.
Có một câu Kinh Thánh rất sâu sắc nói về giá trị của sự quở trách, khuyên dạy: “Vì điều răn là một cái đèn, luật pháp là ánh sáng. Và sự quở trách, khuyên dạy là con đường sự sống.” (Sách Châm Ngôn, chương 6, câu 23)
Sự quở trách, khuyên dạy đem chúng ta đến con đường sự sống.
Chúng con biết ơn cha thật nhiều, vì thương yêu chúng con mà... đãi chúng con những bữa... cháo lươn khó ăn trong đời, nhưng mà rất giá trị và ích lợi cho chúng con!
Cha đã vâng theo lời Chúa, thương yêu chúng con mà dạy dỗ chúng con cho nên người: “Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình. Song ai thương con ắt cần lo sửa trị nó.” (Sách Châm Ngôn, chương 13, câu 24)
Biết ơn cha nhiều lắm thay!
...
Về phương diện tâm linh, Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng của những người tin Chúa cũng vì ích lợi cho đời sống tin kính chúng ta mà sửa phạt chúng ta những khi có cần, để chúng ta được trở nên ích lợi và giá trị trước mặt Ngài.
Kinh Thánh dạy rằng:
“Vậy, khá nhận biết trong lòng rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sửa phạt ngươi như một người sửa phạt con mình vậy.” (Sách Phục Truyền, chương 8, câu 5)
Hay: “Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va, chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách. Vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy, như một người cha đối cùng con trai yêu dấu mình.” (Sách Châm Ngôn, chương 3, câu 11, 12)
Lại rằng: “Hỡi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa, và khi Chúa trách, chớ ngã lòng. Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu. Hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt. Ví bằng anh em chịu sửa phạt, ấy là Đức Chúa Trời đãi anh em như con, vì có người nào là con mà cha không sửa phạt? Nhưng nếu anh em được khỏi sự sửa phạt mà ai nấy cũng phải chịu, thì anh em là con ngoại tình, chớ không phải con thật. Cha về phần xác sửa phạt, mà chúng ta còn kinh sợ thay, huống chi Cha về phần hồn, chúng ta há chẳng càng nên vâng phục lắm để được sự sống sao? Vả, cha về phần xác theo ý mình mà sửa phạt chúng ta tạm thời; nhưng Đức Chúa Trời vì ích cho chúng ta mà sửa phạt, để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài. Thật các sự sửa phạt lúc đầu coi như một cớ buồn bã, chớ không phải sự vui mừng; nhưng về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 12, câu 5-11)
Cũng giống như người cha phần xác vì yêu thương con cái mà sửa phạt, thì Đức Chúa Trời là Cha phần hồn cũng vì yêu thương chúng ta và vì ích lợi cho chúng ta mà sửa phạt chúng ta vậy.
Nếu Cha phần hồn không sửa phạt chúng ta, thì coi chừng chúng ta là... con ngoại tình, chứ không phải là con thật của Ngài đâu! Khi Ngài sửa phạt chúng ta là Ngài quan tâm đến chúng ta và xem chúng ta là con thật của Ngài.
Cha về phần xác sửa phạt mà chúng ta còn sợ để từ bỏ những sai trật hầu được tốt hơn trong cuộc sống, được nên người, được lớn khôn; thì cha về phần hồn sửa phạt, chúng ta càng cần nên vâng lời, không phải chỉ để được tốt hơn trong cuộc sống tạm bợ nầy, mà để hưởng được sự sống và sự sống đời đời, và cũng để chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết của Ngài nữa.
Giống như cha về phần xác khi sửa phạt thì chúng ta buồn bã, giận hờn, thậm chí... ghét cha mình nữa; nhưng sau đó, chúng ta mới hiểu và thấy được giá trị của sự sửa phạt ấy. Cha về phần hồn khi sửa phạt, chúng ta cũng cảm thấy buồn bã, và thậm chí... oán trách Ngài nữa; nhưng về sau, chúng ta mới thấy được phước hạnh của sự sửa phạt đó, chính là bông trái của sự công bình và bình an cho cuộc đời chúng ta.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta người cha phần xác để nuôi nấng, trưởng dưỡng, dạy dỗ chúng ta... lớn thành người như ngày hôm nay. Cảm tạ Chúa hơn nữa, vì Ngài là Cha phần hồn chúng ta, luôn yêu thương chúng ta, và đôi khi sửa phạt chúng ta để cho chúng ta được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời, và được ở trong nhà của Ngài một cách bình an, phước hạnh mãi mãi.
Biết ơn cha phần xác cả đời, và biết ơn Cha phần hồn đời đời!
Ước mong những ai chưa nhận Đức Chúa Trời làm Cha phần hồn, thì hôm nay là cơ hội quý báu để bạn mở lòng ra mời Ngài ngự vào đời sống, thì chắc chắn bạn sẽ được kêu Ngài là A-ba (tức là Cha!) cách thân mật, và sẽ được sống trong sự yêu thương của Ngài!
Kinh chúc tất cả những người cha phần xác trên trần gian nầy một ngày Lễ Cha thật bình an và vui thỏa trong sự ban cho của Đức Chúa Trời!
Ngày Lễ Cha 2022!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 277
Ngày Lễ Cha... Nhớ Về Hai Người Cha
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 13: 8, 9: I Cô-rinh-tô 6: 14
Kính chào quý độc giả,
Ngày Lễ Cha đang về trong nắng ấm của tháng Sáu thật đẹp. Và nhiều người đang chuẩn bị để đón chào ngày Lễ Cha năm nay với tất cả những gì mình có thể chuẩn bị được.
Tôi thật vui mỗi khi ngày Lễ Cha về hằng năm, vì đó là cơ hội để mình có nhiều thời gian hơn nhớ về người cha kính yêu của mình.
Ai trong chúng ta sinh ra trên trần gian nầy cũng đều có một người cha để yêu thương và kính trọng. Bạn cũng vậy và tôi cũng thế!
Nếu cha bạn đang còn sống với bạn thì đó là một trong những niềm hạnh phúc tuyệt vời mà bạn đang có. Hãy trân trọng và tận hưởng niềm hạnh phúc đáng quý ấy với cha của mình.
Nếu cha của bạn không còn trên trần gian nầy nữa thì đó là một trong những sự mất mát, thiếu hụt lớn nhất trong cuộc đời, không gì có thể bù đắp được.
Hai người cha của chúng tôi (đó là thân phụ tôi, người đã sinh ra tôi, và nhạc phụ tôi, là người đã sinh ra mẹ của các con tôi) đã đi xa chúng tôi trên hai chục năm rồi.
Chúng tôi nhớ hai người cha của chúng tôi thật nhiều. Nhân ngày Lễ Cha năm nay, xin được nhắc lại vài kỷ niệm đáng nhớ về hai người cha kính yêu.
Chúng tôi cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng tôi có được hai người cha dưới đất thật quý báu.
Người cha thứ nhất là người cha đã sinh ra tôi. Cha là một người hiền lành, chân chất, nhưng ngay thật, thẳng thắn.
Cha rất thương yêu anh em chúng tôi. Vì mẹ về với Chúa sớm, nên cha hiểu sự thiếu thốn tình cảm của mẹ nơi chúng tôi, và cha đã dành hết trái tim yêu thương của mình cho con cái.
Nhớ về cha, tôi nhớ về lòng thương người của cha. Dù cuộc sống còn nghèo, nhưng cha luôn có lòng thương yêu, giúp đỡ những người góa bụa, kẻ mồ côi trong làng, trong xóm với khả năng của mình. Có ai cho cái gì ngon, lạ, là cha thường hay chia sẻ cho những người nghèo khó, đơn chiếc, mồ côi, chứ không giữ cho riêng mình. Đó là một điều không dễ làm, nhưng cha đã làm được. Chúng tôi học mãi điều đó nơi Người, nhưng cho đến nay, cũng chưa làm được bao nhiêu.
Nhớ về cha, tôi nhớ lối sống đơn sơ, giản dị, thích nhường nhịn của cha. Cha sống không cầu kỳ về áo quần, không se sua khoe khoang, không hơn thua với người khác. Thường khi có tranh chấp điều gì đó với người khác thì cha hay chịu phần thua về mình, chứ ít khi tranh giành.
Đó cũng là điều mà tôi đã, đang học theo cha để có thể sống trong đời sống. Cuộc sống có lắm điều phức tạp, và có nhiều người muốn hơn thua, nên không phải dễ để có thể sống không hơn thua với người ta đâu, nếu không tin cậy Chúa và nhờ cậy Ngài. (Sách Sáng-Thế Ký, chương 13, câu 8, 9)
Cha tôi thường nói “Có phước có phần” mấy con ạ! Đừng lo! Người ta nói “Ông Trời có con mắt”, và “Trời cho không thấy, Trời lấy không hay” mấy con ạ!
Còn nhiều điều nữa để học nơi cha lắm!
Cảm tạ Chúa về tấm gương của cha trong cuộc sống và trong niềm tin!
Cha chúng tôi đã đi trước chúng tôi về trong “Miền Phước Hạnh” trên trời ở với Chúa đến nay đã hơn 21 năm rồi; nhưng hình bóng Người vẫn còn in đậm trong tâm tưởng anh em chúng tôi.
Người cha thứ hai, đó là Nhạc phụ tôi, tức là người cha đã sinh ra mẹ của các con tôi.
Tôi cũng cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban cho tôi có một Nhạc phụ thật tuyệt vời. Nhạc phụ của tôi là một Mục Sư mà tôi rất kính nể trong cuộc đời. Chúa cho Cha mẹ vợ tôi sinh chỉ có... 10 người con thôi, chứ chưa bằng Gia-cốp, tổ phụ của dân Do-thái ngày xưa, sinh đến 12 người con luôn.
Nhớ đến Nhạc phụ của tôi, tôi không thể nào quên được những bữa ăn sum họp gia đình vào những ngày Đông giá lạnh thời bao cấp cực kỳ khó khăn, thiếu thốn vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước.
Vào thời điểm ấy, thỉnh thoảng, gia đình có những bữa ăn sum họp con cháu, dâu rể, trên dưới hai chục người. Má chúng tôi nấu một nồi cơm bự chảng (tiếng xứ Quảng Nam chúng tôi, nghĩa là rất to), rồi dọn lên chiếc bàn màu đen dài thật là dài, với những thức ăn chủ yếu là rau cà, mắm muối đơn sơ, cùng ít cá mặn mà thôi. Vậy mà, chỉ sau một hồi vừa ăn vừa nghe cha mẹ kể chuyện, nồi cơm bự chảng kia hết tiêu hồi nào không hay luôn.
Dù không có gì cao lương mỹ vị cả, chỉ dưa cà, mắm muối; nhưng cho đến bây giờ, anh chị em chúng tôi khó mà quên được những bữa ăn đơn sơ, đạm bạc, nhưng đầy tình thương yêu giữa cha mẹ và con cái ấy. Hèn gì, ông bà mình thường hay nói “Cơm với mắm thắm về lâu” thật là chí lý lắm vậy!
Đến bây giờ, dù cho có tiền muôn bạc triệu, cũng không thể nào có được những bữa ăn đầy yêu thương với đầy đủ con cái, cha mẹ như thế được nữa. Tất cả chỉ còn là trong kỷ niệm mà thôi!
Nhớ đến Nhạc phụ của tôi, tôi cũng nhớ đến tình yêu thương của Người dành cho các con. Cha vợ của tôi rất yêu thương con cái. Tôi luôn nhớ hình ảnh cha ôm từng người con vò đầu, vuốt tóc rồi nói những lời yêu thương, trìu mến; nhưng cha cũng dạy con nghiêm khắc nữa. Có không ít những anh chị em trong gia đình đã bị lãnh những trận đòn khá đau, khi không chịu vâng lời. Nhất là những anh chị em nào đến tuổi lập gia đình mà có ý hướng... ngoại (tức có tình cảm yêu đương với người không cùng niềm tin). Nhờ sự nghiêm khắc ấy mà tất cả những người con của Nhạc phụ tôi đều lập gia đình với những người trong Chúa, yêu mến Chúa, hoặc ít ra cũng đã tin Chúa một thời gian, rồi mới làm đám cưới. Với một đàn con đông đúc như thế, sống trong một xã hội vô tín như thế, nếu không nghiêm khắc đủ, thì dễ lắm sẽ có những người con... đi xa Chúa, và “mang ách chung với kẻ chẳng tin” (Sách 1 Cô-rinh-tô, chương 6, câu 14), chứ không phải chơi. Cho nên, tôi hiểu được sự nghiêm khắc ấy của Nhạc phụ tôi. Và chắc các anh chị em trong gia đình cũng hiểu được sự nghiêm khắc ấy. Tôi tin rằng, ngày nay tất cả những người con của Nhạc phụ tôi đều rất biết ơn Người về tình yêu thương vô bờ bến cùng sự nghiêm khắc có cần của cha mình.
Mãi mãi biết ơn cha kính yêu, người đã sinh ra tôi!
Cũng mãi mãi biết ơn Nhạc phụ kính yêu, người đã sinh ra mẹ của các con tôi.
Vì nhờ tình yêu thương và sự chăm sóc, dạy dỗ bằng cả trái tim mình của hai bên cha mẹ mà anh chị em chúng tôi đôi bên mới được nên người như ngày hôm nay!
Đó là một vài kỷ niệm đáng nhớ về hai người cha dưới đất của chúng tôi.
Biết ơn hai người cha kính yêu của chúng con nhiều thật là nhiều!
Kính chúc tất cả những người cha ở khắp mọi nơi, cũng như những người cha trong đại gia đình hai bên cha mẹ của chúng tôi một ngày Lễ Cha thật nhiều niềm vui và hạnh phúc bên gia đình và người thân.
Happy Father’s Day 2022!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 278
Chuyện... Ngó
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 19: 17, 26; Công vụ các sứ đồ 7: 54-56; Lu-ca 9: 62; 17: 32
Kính chào quý độc giả,
Ngó là một hành động của đôi mắt chúng ta.
Ai đó đã nói “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” thật chí lý. Nhìn vào đôi mắt một người, ta có thể... đoán biết được một phần nào về tấm lòng của người đó.
Ca dao Việt Nam có nhiều câu khá thú vị về chuyện... ngó.
+ Thò tay mà ngắt ngọn ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ.
Ngắt ngọn ngò chỉ là cái cớ để cô gái có cách nhìn được chàng trai mình thương mình yêu mà thôi. “Thương anh đứt ruột” nghĩa là thương không biết bao nhiêu mà kể, nhưng không dám thổ lộ, vì mình là... phận gái mà.
+ Ngó anh như ngó mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.
Anh sáng sủa, anh rạng rỡ, anh đẹp biết bao trong mắt em, đến nỗi làm em không dám ngó, và lại càng không dám ngõ lời yêu anh, vì em là... phận gái anh ơi!
Cách tỏ tình yêu đương của những đôi trai gái yêu nhau trong ca dao của ông cha ta thật vô cùng sâu sắc và ý nhị phải không bạn?
Đó cũng là một trong nhiều lý do khiến tôi luôn thích thú đọc ca dao, dân ca của dân tộc ta.
+ Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.
Đây cũng là câu ca dao có cách... chơi chữ thật hay và dễ thương đến lạ, “chân quê” (tên một bài thơ của Nguyễn Bính) đến lạ: “Bên ni, bên tê; bên tê, bên ni”, “Mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông”. Câu ca dao diễn tả được cái rộng lớn, mênh mông của những cánh đồng lúa miền quê ở miền Trung Việt Nam, chứ không phải một vùng miền nào khác được. Vì những từ “bên ni, bên tê; bên tê, bên ni” đã... khai ra vùng miền đích thị của nó rồi.
...
Kinh Thánh đề cập đến chuyện... ngó cũng khá nhiều, có lẽ vì chuyện... ngó là rất quan trọng, có ảnh hưởng sống còn đến cuộc đời của một con người chăng?
Câu chuyện về vợ chồng ông Lót được đề cập đến trong sách Sáng Thế Ký nhắc nhở chúng ta rất nhiều điều về chuyện... ngó:
Thiên sứ nói với Lót rằng: “Hãy chạy trốn cứu lấy mạng, đừng ngó lại sau và cũng đừng dừng bước lại nơi nào ngoài đồng bằng; hãy chạy trốn lên núi, kẻo phải bỏ mình chăng... Nhưng vợ của Lót quay ngó lại đằng sau mình, nên hóa ra một tượng muối.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 19, câu 17, 26)
Nhờ vâng lời Chúa, làm theo “không ngó lại đằng sau, và cũng không dừng bước lại nơi nào ngoài đồng bằng”, nên Lót và hai cô con gái ông đã cứu được mạng sống mình.
Ngược lại, vợ của Lót vì ham mê thế gian hơn Chúa, nên đã xem thường lời cảnh báo của Ngài mà “ngó lại đằng sau”, và lập tức bà bị hóa ra một tượng muối. Bà đã mất mạng sống mình vì không vâng lời Chúa, vì vừa theo Chúa, vừa yêu đời. Thựa ra, bà chỉ yêu Chúa trên môi miệng, nhưng lòng bà thì thực sự yêu thế gian.
...
Chấp Sự Ê-tiên là một con người đặc biệt, đến nỗi sách Công vụ các sứ đồ dành gần như hai chương nói về ông, trong đó có đoạn: “Chúng nghe những lời đó, thì giận trong lòng, và nghiến răng với Ê-tiên. Nhưng người được đầy dẫy Đức Thánh Linh, mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, thì người nói rằng: Kìa, ta thấy các từng trời mở ra, và Con người đứng bên hữu Đức Chúa Trời.” (Sách Công vụ các sứ đồ, chương 7, câu 54-56)
Chấp Sự Ê-tiên đang ở trong một hoàn cảnh mạng sống mình sắp sửa bị đoàn dân hung hăng ném đá cho chết, nhưng Ê-tiên có một sự bình tỉnh kỳ lạ, không hiểu được theo thế thường của con người. Đoàn dân thì đang cực kỳ giận dữ, đến nỗi phải nghiến răng; còn đầy tớ của Đức Chúa Trời thì “mắt ngó chăm lên trời và thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, thấy các từng trời mở ra, và thấy Con người (Chúa Giê-xu, nv) đang đứng bên hữu Đức Chúa Trời.”
Tôi học được bài học: Khi chúng ta quay lại đằng sau, “ngó chăm thế gian”, thì lòng chúng ta sẽ đầy bối rối và sợ hãi. Nhưng khi chúng ta hướng về phía trước, “nhìn xem Chúa Giê-xu là cội rễ và cuối cùng của đức tin”(ý từ sách Hê-bơ-rơ, chương 12, câu 2), “mắt ngó chăm lên trời”, thì lòng chúng ta sẽ được bình an, chúng ta sẽ chỉ thấy sự vinh hiển tuyệt vời trên Thiên Đàng, nơi có Chúa Giê-xu ngự bên hữu Đức Chúa Trời mà thôi.
Chúa Giê-xu có nói một câu nói rất nổi tiếng rằng: “Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.” (Sách Lu-ca, chương 9, câu 62)
Ai đã từng làm một người nông dân, đều biết khi cầm cày để cày, thì luôn nhìn tới phía trước để cày cho ngay hàng thẳng lối, chứ không ai ngó lại đằng sau, vì nó sẽ làm cho đường cày bị chệch hướng, hỏng cả ruộng cày.
Một người theo Chúa mà còn luyến tiếc quá khứ, mà còn lưu luyến thế gian, không sớm thì muộn cũng sẽ quay về ... đường xưa lối cũ, cũng sẽ trở về... “con đường xưa em đi” mà thôi.
Một khi đã quyết định tin Chúa và theo Ngài thì phải dứt khoát không... ngó lại đằng sau, mà chỉ bươn theo sự ở đằng trước, giống như Thánh Phao-lô đã làm: “nhưng tôi cứ làm một đều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 14)
...
Bạn đang ngó hướng nào? Hướng đằng sau hay hướng đằng trước? Ngó dưới đất hay ngó lên trời?
Hướng bạn ngó nói lên tấm lòng bạn đang thuộc về hướng ấy.
Hãy “nhìn xem Đức Chúa Giê-xu, là cội rễ và cuối cùng của đức tin” (ý từ sách Hê-bơ-rơ, chương 12, câu 2) mà bước đi tới theo Ngài, đừng để “sự mê tham của xác thịt, sự mê tham của mắt và sự kiêu ngạo của đời” (ý từ sách 1 Giăng, chương 2, câu 16) làm bạn ngó lại đằng sau như vợ của Lót ngày xưa mà sẽ... hỏng cả một cuộc đời theo Chúa đó bạn.
Bất cứ khi nào bạn và tôi cảm nhận được sự yếu đuối, sa sút của mình trên linh trình theo Chúa; bất cứ khi nào bạn và tôi cảm thấy mình đang “theo Chúa xa xa”; bất cứ khi nào bạn và tôi cảm thấy lòng mình dường như đã yêu thế gian nhiều hơn yêu Chúa, thì hãy nhớ đến lời cảnh báo của Chúa Giê-xu: “Hãy nhớ lại vợ của Lót” (Sách Lu-ca, chương 17, câu 32), mà kịp thức tỉnh, kịp ăn năn, quay lại cùng Ngài để được Ngài thương xót và cứu giúp.
Nguyện xin Chúa ban ơn cho bạn và tôi, cho chúng ta lấy lòng thành tâm, kính sợ mà bước đi tới trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài một cách đẹp lòng Ngài.
California, Ngày đầu tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 279
Chuyện... Miệng Và... Lòng
Kinh Thánh: Thi-thiên 19: 14; Ê-sai 29: 13; Giê-rê-mi 12: 2
Kính chào quý độc giả,
Miệng và lòng là hai bộ phận trong thân thể con người. Miệng ở bên ngoài và ai cũng thấy được, còn lòng thì ở bên trong, không ai thấy được. Chính vì vậy mà người Việt mình có câu ca dao: “Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”
Miệng thường thể hiện ra bên ngoài những gì lòng nghĩ bên trong.
Có người thì miệng có đó, nhưng không nói được, nên người ta thường gọi người như thế là người có... miệng ăn, nhưng không có... miệng nói. Cũng có người thì vừa có miệng ăn, vừa có cả miệng nói; người ta gọi người như thế là người... lanh miệng.
Có một số câu nói và câu ca dao về miệng và lòng như sau:
+ Vạ từ miệng ra, bệnh từ miệng vào.
+ Miệng nhà quan có gang, có thép.
+ Miệng cười mà mắt không cười thì chớ có tin.
+ Miệng nói tay làm.
+ Rối tơ, rối chỉ gỡ xong
Rối đầu có lược, rối lòng khó phân
+ Ở chi hai dạ ba lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chua
+ Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
...
Sau đây là một số điều mà cái miệng có thể tiết lộ cái lòng:
• Cái miệng khắc nghiệt nói lên tấm lòng giận dữ
• Cái miệng tiêu cực cho thấy tấm lòng sợ hãi.
• Cái miệng khoe khoang biểu lộ tấm lòng bất an.
• Cái miệng nói nhiều thể hiện tấm lòng bất ổn.
• Cái miệng phán xét nói lên tấm lòng tội lỗi.
• Cái miệng phê bình cho thấy tấm lòng cay đắng.
• Cái miệng dẻo ngọt biểu hiện tấm lòng không thật.
...
Kinh Thánh cũng có đề cập đến chuyện... miệng và... lòng:
“Chúa có phán rằng: Vì dân nầy chỉ lấy miệng tới gần Ta, lấy môi miếng tôn Ta, mà lòng chúng nó thì cách xa Ta lắm. Sự chúng nó kính sợ Ta chẳng qua chỉ là điều răn của loài người, bởi loài người dạy cho..” (Sách Ê-sai, chương 29, câu 13)
Sự cảnh cáo, lên án rất mạnh mẽ của Chúa dành cho dân sự của Ngài, khi họ chỉ đến với Ngài như là một nghi thức tôn giáo của loài người đặt ra, chứ chẳng phải do lòng kính sợ Ngài thật sự. Họ chỉ... có Chúa trên môi miệng, mà không có Chúa thực sự trong tấm lòng.
Nghiệm lại đời sống theo Chúa của bạn và tôi, chắc không ít lần, chúng ta cũng giống hệt như dân sự Ngài ngày xưa, chứ chẳng khác chút nào. Chúng ta đến với Chúa, đi thờ phượng Chúa chỉ như là một thông lệ cần phải làm, cho lương tâm khỏi... cáo trách, chứ chẳng phải vì lòng yêu Chúa đâu cả.
Tiên tri Giê-rê-mi cũng có lần đã than thở về sự giả dối của dân Ngài: “Ngài đã vun trồng họ, họ đã đâm rễ, lớn lên và ra trái. Miệng họ ở gần Ngài, song lòng họ cách xa Ngài.” (Sách Giê-rê-mi, chương 12, câu 2)
Đức Chúa Trời đã chăm sóc dân Ngài, nhưng rồi cuối cùng họ chỉ yêu Chúa trên chót lưỡi đầu môi, chứ không có lòng yêu Chúa thật sự.
Vua Đa-vít đã từng cầu xin: “Hỡi Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi và là Đấng cứu chuộc tôi. Nguyện lời nói của miệng tôi, sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài.” (Sách Thi-thiên, chương 19, câu 14)
Vâng, đó là lời cầu xin đáng quý và rất cần có trong cuộc đời theo Chúa của vua Đa-vít cũng như của mỗi một chúng ta vậy.
Miệng và lòng của mỗi chúng ta phải hòa hợp nhau. Lòng như thế nào thì bày tỏ ra trên môi miệng như thể ấy. Đó là lối sống chân thật mà Đức Chúa Trời muốn nơi con cái Ngài.
Còn nếu lòng chúng ta chứa đầy xấu xa, ô uế, mà chúng ta nói ra trên môi miệng toàn những lời nghe rất tốt đẹp, mỹ miều, thì đó là một lối sống giả hình, mà Đức Chúa Trời rất ghét. Và những người sống theo lối sống nầy chắc sẽ không tránh khỏi sự đoán phạt của Chúa. Vì không ai trong chúng ta có thể đánh lừa được Chúa cả, bởi Ngài là Đấng “nhìn thấy trong lòng.” (ý từ sách 1 Sa-mu-ên, chương 16, câu 7)
...
Có một số câu Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta cần cẩn thận về... miệng và... lòng của mình:
+ “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy giữ miệng tôi, Và canh cửa môi tôi.” (Sách Thi-thiên, chương 141, câu 3)
+ “Ai giữ lấy miệng và lưỡi mình, giữ linh hồn mình khỏi hoạn nạn.” (Sách Châm-ngôn, chương 21, câu 23)
+ “Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến.” (Sách Ê-phê-sô, chương 4, câu 29)
+ “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra.” (Sách Châm Ngôn, chương 4, câu 23)
+ “Hỡi con, hãy dâng lòng con cho cha. Và mắt con khá ưng đẹp đường lối của cha.” (Sách Châm Ngôn, chương 23, câu 26)
...
Nguyện xin Chúa ban cho lời nói của miệng chúng ta, và sự suy gẫm của lòng chúng ta đều được đẹp ý Ngài. Được như thế thì Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ rất vui lòng vì đời sống của mỗi một chúng ta. A men!
Tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 280
Chuyện... Mau Và... Chậm
Kinh Thánh: Thi-thiên 103: 8; Gia-cơ 1: 19; Khải Huyền 22: 12
Kính chào quý độc giả,
Mau và chậm là hai trạng thái trái ngược nhau mà chúng ta thường thấy nơi con người.
Ca dao, tục ngữ nói về về mau và chậm, chúng ta thường nghe như:
+ Trâu chậm uống nước đục.
+ Nhanh như thỏ, chậm như rùa.
+ Chậm mà chắc.
+ Thời giờ ngựa chạy tên bay,
Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm.
+ Đi đâu mà vội mà vàng,
Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây.
Tôi có đọc ở đâu đó một câu chuyện kể về một người nổi tiếng... chậm chạp như sau:
“Một anh nọ tính tình rất chậm chạp, nên bị sở làm sa thải. Một người bạn thấy anh thất nghiệp, thương tình bèn giới thiệu anh đến làm nhân viên bảo vệ cho một công ty chăn nuôi rùa. Được đâu vài ngày sau, người bạn được biết anh lại bị công ty mới sa thải. Hỏi lý do vì sao người ta cho nghỉ việc? Anh... chậm chạp trả lời:
-Dạ, có một con rùa bị sổng chuồng bò ra ngoài, tôi đuổi theo để bắt nó, nhưng đuổi... không kịp, rùa bò đi mất, và thế là người ta cho tôi nghỉ việc ạ!”
Chậm như thế thì đúng là... chậm nhất thế giới rồi, chứ còn ai chậm hơn. Chậm như thế không phải là... chậm như rùa nữa, mà là... chậm hơn rùa mất rồi phải không bạn?
Chuyện về... chậm như câu chuyện nầy không biết là... thiệt bao nhiêu phần trăm, nhưng quả là... đáng ghi nhớ bạn nhỉ?
Kinh Thánh đề cập đến việc... mau và... chậm cũng khá nhiều.
Thánh Gióp cho biết cuộc đời con người sống trên trần gian nầy thật chóng qua:
“Các ngày tôi qua mau hơn thoi dệt cửi. Tiêu đi, chẳng có trông cậy gì.” (Sách Gióp, chương 7, câu 6)
Mấy ngàn năm sau, Thi Hào Cao Bá Quát của Việt Nam cũng có cùng một ý như thế:
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy?
Cảnh phù du trông nghĩ cũng nực cười.
Vua Đa-vít khẳng định rằng kẻ dữ sẽ không tồn tại lâu, nó sẽ mau qua đi mà thôi: “Chớ phiền lòng vì cớ kẻ làm dữ. Cũng đừng ghen tỵ kẻ tập tành sự gian ác. Vì chẳng bao lâu chúng nó sẽ bị phát như cỏ. Và phải héo như cỏ tươi xanh.” (Sách Thi-thiên, chương 37, câu 1, 2)
Thánh Gia-cơ thì cho biết có một điều cần mau và hai điều phải chậm, đó là: “Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó:Người nào cũng phải mau nghe, mà chậm nói, chậm giận.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 19)
Một điều cần mau đó là mau... nghe.
Thế thường con người chúng ta hay mau nói, mau giận, mà lại... chậm nghe, nên có nhiều nan đề đến với chúng ta là vậy.
Hãy ghi nhớ lời Kinh Thánh dạy là chúng ta cần phải... mau nghe. Khi chúng ta mau... nghe thì chúng ta sẽ tránh đi được nhiều nan đề trong đời sống.
Có một điều Kinh Thánh muốn chúng ta... mau mau tìm kiếm, đó là gì bạn biết không? Đó chính là tình yêu thương! “Hãy nôn nả (tức mau mau-nv) tìm kiếm tình yêu thương.” (Sách Cô-rinh-tô 1, chương 14, câu 1). Thế mà chúng ta lại thường hay... chậm chạp tìm kiếm tình yêu thương! Đó là một... sai lầm cần điều chỉnh lại trong đời sống mỗi một chúng ta.
Chúa Giê-xu có phán một lời phán mà chúng ta cần ghi tâm khắc cốt: “Nầy, Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với Ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.” (Sách Khải Huyền, chương 22, câu 12)
Chúa Giê-xu sẽ đến mau chóng để ban thưởng cho những người nào hầu việc Ngài một cách đẹp lòng Ngài.
Chúng ta thường có tâm lý cho rằng Chúa sẽ đến chậm trễ, chứ không mau đâu, đừng lo! Nhưng hãy nhớ lời Chúa Giê-xu phán trên đây để “đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy”, và tin chắc rằng Ngài sẽ trở lại mau chóng trong một tương lai không xa để đón rước chúng ta về trong Nước Trên Trời ở với Ngài.
Đó là chuyện... mau.
Còn đây là chuyện... chậm.
Vua Đa-vít cho biết Đức Chúa Trời là Đấng chậm... giận: “Đức Giê-hô-va có lòng thương xót, hay làm ơn, chậm nóng giận và đầy sự nhơn từ.” (Sách Thi-thiên, chương 103, câu 8)
Có người cho rằng Đức Chúa Trời không có... giận. Vì nếu Chúa mà... giận là Ngài không tốt.
Đó là ta đã suy nghĩ sai về Đức Chúa Trời.
Vấn đề không phải là Ngài không giận; nhưng là... chậm giận.
Giận đúng, giận trong sự công bình và... chậm giận là điều Kinh Thánh dạy.
Đức Chúa Trời không... mau giận như con người chúng ta; nhưng Ngài... chậm giận, và đầy sự nhân từ. Nếu Ngài... mau giận như con người tội lỗi chúng ta, thì chắc không ai trong chúng ta còn đứng nổi trước mặt Ngài.
Tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài là Đấng... chậm giận! Không những thế mà Ngài còn có lòng thương xót và đầy sự nhân từ nữa!
Vua Sa-lô-môn cho biết ích lợi của việc chậm giận: “Kẻ nào chậm nóng giận, có thông sáng lớn. Nhưng ai hay nóng nảy tôn lên sự điên cuồng.” (Sách Châm Ngôn, chương 14, câu 29)
Một chỗ khác, Vua Sa-lô-môn cũng khuyến cáo chúng ta trong việc chớ... mau nói: “Chớ vội mở miệng ra, và lòng ngươi chớ lật đật nói lời trước mặt Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời ở trên trời, còn ngươi ở dưới đất. Vậy nên ngươi khá ít lời.” (Sách Truyền Đạo, chương 5, câu 2)
Hãy ghi nhớ lời nầy để cẩn thận về lời nói của chúng ta mỗi khi thờ phượng Chúa ở trong nhà của Ngài!
Gia-cơ nhắc nhở con dân Ngài rằng: “Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó: Người nào cũng phải mau nghe, mà chậm nói, chậm giận.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 19)
Hai điều... chậm mà người tin Chúa phải biết, đó là chậm... nói, và chậm... giận.
Chậm... nói sẽ giúp ta tránh được nhiều điều sai trật đáng tiếc; còn chậm... giận, sẽ giúp ta sáng suốt, thông sáng hơn trong khi giải quyết công việc, tránh được tác hại nguy hiểm cho mình và cho người khác.
Thưa bạn,
Trên đây là những điều... mau và... chậm mà Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta cần ghi nhớ và làm theo để cuộc đời chúng ta được phước ở trên đất nầy, và được phước ở trong cõi đời đời trong tương lai nữa.
Có một điều... mau rất quan trọng dành cho những ai chưa tin Chúa Giê-xu, được thể hiện qua lời một bài hát như sau: “Mau đến theo Giê-xu, sao trễ nải hoài. Kìa lời Kinh Thánh cứ luôn luôn khuyên nài. Giê-xu đương chờ đợi ta chính hôm nay. Dịu dàng gọi: “Con đến đây!...” (Thánh Ca “Mau Đến Theo Giê-xu!”)
Nếu bạn chưa phải là tín đồ của Chúa Giê-xu thì hôm nay là cơ hội tốt nhất để bạn mau mở lòng ra tiếp nhận Ngài vào đời sống, hầu hưởng được phước hạnh trường sinh như chúng tôi đã được hưởng.
Nào, xin mời bạn hãy mau đến với Chúa Giê-xu ngay hôm nay bạn nhé! Đừng chậm trễ nữa!
Tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 281
Chuyện... Hiền Và... Dữ
Kinh Thánh: Ê-sai 48: 22; Ma-thi-ơ 7: 24, 26; 13: 49, 50
Kính chào quý độc giả,
Hiền và dữ là hai tính khí trái ngược nhau.
Ai cũng thích... hiền, và muốn gần người hiền; chẳng ai thích... dữ và muốn gần người dữ cả.
Người hiền được yêu thương bao nhiêu thì ngược lại, người dữ bị ghét bỏ bấy nhiêu.
Bạn là... người hiền hay... người dữ?
Có người nhìn thì thấy... hiền; nhưng thực ra rất... dữ. Còn có người thì thoạt nhìn thấy... dữ; nhưng khi tiếp xúc, thì ra lại khá... hiền. Cho nên, nhìn bề ngoài thì ta cũng khó mà đoán cho trúng một trăm phần trăm người nào đó là hiền hay dữ được phải không bạn? Bởi vậy, Đại Thi Hào Nguyễn Du mới có câu thơ:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao
(Kiều)
Tiếng Việt mình thiệt hay và... độc đáo. Xin đơn cử một vài câu... độc đáo ấy như sau:
+ Cô ấy hiền dữ (hiền dữ nghĩa là rất hiền, chứ không phải vừa... hiền, vừa... dữ; hay là cô ấy... dữ gì cả)
+ Cô ta đẹp ghê (đẹp ghê nghĩa là rất đẹp, chứ không phải là... xấu (ghê) chút nào)
...
Một số câu ca dao về... hiền và... dữ:
+ Ở hiền thì lại gặp lành,
Những người nhân đức trời dành phuớc cho.
+ Ở hiền thì lại gặp lành,
Ở ác gặp dữ tan tành như tro.
+ Cây xanh thời lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con
+ Ở hiền gặp lành. Ở ác gặp dữ.
...
Kinh Thánh cho biết trước mặt Đức Chúa Trời chỉ có hai hạng người, đó là người người khôn hay người dại, người công bình hay kẻ gian ác, người hiền hay kẻ dữ, người tin hay kẻ không tin.
Người khôn hay kẻ dại không nói đến kiến thức hay sự hiểu biết của người đó, mà nói đến việc người đó có tin Chúa và làm theo lời Chúa hay không:
“Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá... Kẻ nào nghe lòi Ta phan đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 7, câu 24, 26)
Cũng một lẽ đó, người công bình hay kẻ gian ác; người hiền hay kẻ dữ, cũng không nói đến việc làm thiện lành, ngay thẳng, hay việc làm gian ác, cong quẹo của một người, mà nói đến việc người đó tin Chúa hay không tin Ngài mà thôi.
“Đến ngày tận thế cũng như vậy: Các thiên sứ sẽ đến và chia kẻ ác (kẻ dữ) với người công bình (người hiền) ra, ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 13, câu 49, 50)
“Hỡi đầy tớ ngay lành (hiền) trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, Ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi... Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết Ta gặt trong chỗ Ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ Ta không rải ra. Vậy thì ngươi phải đưa bạc của Ta lại cho người buôn bạc, rồi khi Ta trở về sẽ lấy vốn và lời... Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 25, câu 21, 26, 27, 30)
...
Kinh Thánh khẳng định, người hiền thì sẽ nhận được ơn Chúa ban cho, còn kẻ ác thì sẽ bị Đức Chúa Trời định tội: “Người lành (người hiền) được ơn của Đức Giê-hô-va. Nhưng Đức Chúa Trời định tội cho người toan mưu ác.” (Sách Châm Ngôn, chương 12, câu 2)
Kinh Thánh cũng dạy người tin Chúa đừng để lòng ghen tỵ với kẻ ác làm chi, vì chúng nó sẽ qua đi mau chóng trước mặt Ngài:
“Chớ phiền lòng vì cớ kẻ làm dữ, cũng đừng ghen tỵ kẻ tập tành sự gian ác. Vì chẳng bao lâu chúng nó sẽ bị phát như cỏ, và phải héo như cỏ tươi xanh.” (Sách Thi-thiên, chương 37, câu 1, 2)
Cũng Kinh Thánh cho biết, kẻ ác (kẻ dữ) chẳng thể nào hưởng được sự bình an: “Những người ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ, Đức Giê-hô-va phán vậy.” (Sách Ê-sai, chương 48, câu 22)
Bạn đang thuộc vào trong số những người hiền hay người dữ? Người công bình hay kẻ gian ác?
Cảm tạ Đức Chúa Trời, vì Ngài đã ban cho tôi được địa vị làm con cái Ngài, khi tôi mở lòng ra tin nhận Ngài mấy chục năm trước đây như lời Chúa đã phán: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Chúa Giê-xu, nv) thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Sách Giăng, chương 1, câu 12)
Tôi cầu xin Chúa ban cho bạn sớm nhận biết Chúa Giê-xu để được trở nên người hiền lành, người công bình trước mặt Ngài; hầu tránh được sự đoán phạt kinh khiếp mà Đức Chúa Trời đã sẵn dành cho kẻ dữ, kẻ gian ác trong ngày cuối cùng.
Kinh Thánh khẳng định một cách chắc chắn rằng, Đức Chúa Trời sẽ tha thứ mọi tội lỗi của bạn, nếu bạn ăn năn, quay về với Ngài:
“Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết, dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên.” (Sách Ê-sai, chương 1, câu 18)
Hãy đến với Chúa Giê-xu ngay hôm nay để nhận được sự tha thứ tội lỗi và được hưởng địa vị làm con cái của Ngài.
Trở thành Thiên Tử là một phước hạnh lớn nhất cuộc đời đó bạn!
Muốn thật hết lòng!
Tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 282
Chuyện... Yêu Và... Ghét
Kinh Thánh: Thi-thiên 11: 7; Châm Ngôn 8: 17; Khải Huyền 2: 6
Kính chào quý độc giả,
Yêu và ghét là hai trong nhiều trạng thái tình cảm trong con người chúng ta.
Đức Chúa Trời tạo nên chúng ta và ban cho chúng ta có trái tim biết yêu thương và ghét bỏ.
Ca dao Việt Nam chúng ta dành khá nhiều câu cho đề tài yêu và ghét nầy:
+ Yêu nhau xé lụa may quần,
Ghét nhau kể nợ, kể nần nhau ra
+ Yêu nhau xa cũng nên gần,
Ghét nhau kề gạch liền sân chẳng chào
+ Yêu nhau mọi thứ mọi cho,
Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi
+ Yêu nhau thời ném miếng trầu,
Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra
+ Yêu nhau cau sáu bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
+ Khi thương thương hết cả nhà,
Khi ghét ghét hết cả bà cả con
+ Thương nhau trái ấu cũng tròn,
Ghét nhau trái bồ hòn cũng méo
Còn nhiều, nhiều những câu ca dao nói về yêu và ghét nhu thê nữa.
...
Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời cũng có... “trái tim” biết yêu và ghét rất rõ ràng.
Ngài yêu ai và yêu như thế nào? Ngài ghét ai và ghét ra làm sao?
Hãy xem Kinh Thánh nói gì về việc Đức Chúa Trời yêu:
Đức Chúa Trời là Đấng công bình, cho nên Ngài yêu sự công bình:
“Vì Đức Giê-hô-va là công bình; Ngài yêu sự công bình.” (Sách Thi-thiên, chương 11, câu 7)
Ngài chẳng những yêu sự công bình, mà Ngài còn yêu mến người công bình nữa:
“Đức Giê-hô-va yêu mến người công bình.” (Sách Thi-thiên, chương 146, câu 8)
Đức Chúa Trời cũng yêu mến những người yêu mến Ngài:
“Ta yêu mến những người yêu mến Ta.
Phàm ai tìm kiếm Ta sẽ gặp Ta.” (Sách Châm Ngôn, chương 8, câu 17)
Hơn thế nữa, Ngài còn yêu mến người nào đi theo sự công bình: “Đường lối kẻ ác lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va; nhưng Ngài thương mến người nào theo sự công bình.” (Sách Châm Ngôn, chương 15, câu 9)
Tiên Tri Giê-rê-mi cho biết những điều Đức Chúa Trời yêu thích, đó là sự thương xót, sự chánh trực và công bình: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình. Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực và công bình trên đất; vì Ta ưa thích những sự ấy, Đức Giê-hô-va phán vậy.” (Sách Giê-rê-mi, chương 9, câu 23, 24)
Chúa Giê-xu khẳng định Ngài yêu những người thuộc về Ngài bằng một tình yêu vĩnh cửu:
“Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng.” (Sách Giăng, chương 13, câu 1)
...
Và đây là những điều Đức Chúa Trời ghét.
Vua Đa-vít khẳng định: “Đức Giê-hô-va thử người công bình. Nhưng lòng Ngài ghét người ác và kẻ ưa sự hung bạo.” (Sách Thi-thiên, chương 11, câu 5)
Không những Chúa ghét người ác, mà Ngài còn ghét những kẻ làm điều ác nữa: “Kẻ kiêu ngạo chẳng đứng nổi trước mặt Chúa. Chúa ghét hết thảy những kẻ làm ác.” (Sách Thi-thiên, chương 5, câu 5)
Vua Sa-lô-môn cho biết những điều Đức Chúa Trời ghét là:
“Có sáu điều Đức Giê-hô-va ghét, và bảy điều Ngài lấy làm gớm ghiếc:
Con mắt kiêu ngạo, lưỡi dối trá.
Tay làm đổ huyết vô tội.
Lòng toan những mưu ác.
Chân vội vàng chạy đến sự dữ.
Kẻ làm chứng gian và nói điều dối,
Cùng kẻ gieo sự tranh cạnh trong vòng anh em.”
(Sách Châm Ngôn, chương 6, câu 16-19)
Đức Chúa Trời rất gớm ghiếc (ghét) kẻ gian tà (kẻ ác):
“Vì Đức Giê-hô-va gớm ghiếc kẻ gian tà.” (Sách Châm Ngôn, chương 3, câu 32)
Một chỗ khác cũng lặp lại điều ghét nầy của Chúa: “Kẻ có lòng gian tà lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va; Nhưng ai có tánh hạnh trọn vẹn được đẹp lòng Ngài.” (Sách Châm Ngôn, chương 11, câu 20)
Đức Chúa Trời cũng ghét luôn cả đường lối của kẻ ác nữa: “Đường lối kẻ ác lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va.” (Sách Châm Ngôn, chương 15, câu 9)
Kinh Thánh cũng cho biết, Chúa ghét sự kiêu ngạo, xấc xược, con đường ác và môi miệng gian tà:
“Sự kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là ghét điều ác. Ta ghét sự kiêu ngạo, xấc xược, con đường ác, và miệng gian tà.” (Sách Châm Ngôn, chương 8, câu 13)
Tiên Tri Ma-la-chi xác nhận Đức Chúa Trời ghét sự bỏ vợ cũng như sự hung dữ: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán rằng Ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình. Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.” (Sách Ma-la-chi, chương 2, câu 16)
Hội Thánh Ê-phê-sô ngày xưa được Chúa khen điều nầy, ấy là họ ghét những việc làm tội lỗi của đảng Ni-cô-la, mà chính Ngài cũng ghét: “Song ngươi có điều nầy khá, là ngươi ghét những việc làm của đảng Ni-cô-la, mà Ta, Ta cũng ghét nữa.” (Sách Khải Huyền, chương 2, câu 6)
...
Bạn có muốn được Chúa yêu không?
Hãy yêu những điều Chúa yêu, và ghét những gì Ngài ghét.
Nếu bạn yêu những điều Chúa ghét, và ghét những gì Ngài yêu, là bạn đang chống lại Chúa đó. Và nếu bạn đang chống lại Ngài thì có nghĩa là bạn đang... đá vào ghim nhọn vậy (Sách Công vụ các sứ đồ, chương 26, câu 14).
Xin Chúa ban cho bạn và tôi cũng có trái tim có cùng nhịp đập với... trái tim của Ngài, để chúng ta có thể yêu điều Chúa yêu và ghét những gì Ngài ghét; hầu cho đời sống của chúng ta được đẹp lòng Ngài.
Cầu xin Đức Chúa Trời, Đấng đã “yêu thương chúng ta, lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Sách Khải Huyền, chương 1, câu 6) đặt để trong lòng chúng ta Lời của Ngài, và giúp chúng ta làm theo; đừng để chúng ta “lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 19)
Tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 283
Cái Ôm Của Chúa
Hỡi trời, hãy hát! Hỡi đất, hãy vui mừng! Hỡi các núi, hãy lên tiếng hát xướng! Vì Đức Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài, cũng thương xót kẻ khốn khó (Ê-sai 49:13)
Cái ôm của Chúa là một món quà đúng lúc. Những cái ôm của Chúa xoa dịu, an ủi và yên bình. Ngài không bao giờ trễ trong việc dâng hiến tình yêu của Ngài hoặc quá bận rộn để đứng yên và đón nhận tạo vật loài người. Thần nhẹ nhàng vuốt ve đôi vai nặng trĩu và xoa dịu nỗi đau còn nguyên trên lưng chúng ta. Lòng nhân ái Chúa chưa bao giờ thất bại. Lòng thương xót Chúa tươi mới mỗi ngày. Giống như một loại kem mát làm dịu mẩn ngứa trên da, vì vậy, sự ban ơn của Ngài làm dịu đi những lo lắng buồn phiền. Một cái ôm của Chúa sẽ tiếp tục cho đến khi sự chữa lành xảy ra. Chúa giữ chặt chúng ta.
Chúng ta là bởi tay Ngài làm ra, được thiết kế diệu kỳ từ buổi sáng thế. Vui mừng được chọn vào công trình của Ngài trên đất và thiên đàng. Chúa sẽ chẳng bao giờ quên con mình, dầu đàn bà quên cho con mình bú, ta chẳng quên ngươi. Nầy ta đã chạm ngươi trong lòng bàn tay ta. Chúa chẳng hề quên chỉ có chúng ta quên tình yêu và xa cách ân điển mà thôi. Dù xa cách Chúa yêu cho đến cuối cùng ấy là lời hứa đời đời Ta đã yêu những kẻ thuộc về mình trong thế gian thì cứ yêu cho đến cuối cùng. Ôi! Lòng tốt của Chúa! Đã bao lần Chúa lấy dây nhơn tình và xích yêu thương kéo chúng ta lại. Đã bao lần Chúa giận trong một lát lấy lòng thương xót quá lớn thâu chúng ta lại gần lòng từ ái Chúa. Tình yêu Chúa đã chạm vào chúng ta cho đến khi chúng ta yên nghỉ.
Cái ôm của Chúa không xảy ra trên hành trình chúng ta đang chạy, mà là khi chúng ta đứng yên. 'Chậm lại con nhé'! Im lặng! Cha có cái này. Nằm yên, để Cha ôm con. Hãy yên nghỉ trong vòng tay của Cha'. Vì vậy, chúng ta học cách đứng yên bằng niềm tin và tin tưởng rằng các hoạt động phù hợp sẽ được thực hiện vào đúng thời điểm. Khi lên lịch hẹn mỗi ngày để được Chúa yêu thương, chúng ta được tiếp thêm sức mạnh cho cuộc hành trình. Nếu không, chúng ta cạn kiệt khả năng khích lệ nếu không có sự can đảm của Đấng Christ. Những cái ôm của Chúa thật hạnh phúc.
Hãy reo lên vui sướng khi ngợi khen Đấng Tạo Hóa vì sự an ủi và lòng trắc ẩn của Ngài. Hãy khoe danh Ngài và cầu xin Ngài vì tình yêu thiêng liêng của Ngài. Giống như cha của đứa con hoang đàng đã về nhà, Cha trên trời không thể chờ đợi để ôm chúng ta vào lòng trong nỗi xấu hổ, áp lực của chúng ta. Thành công hay thất bại, vui hay đau buồn. Dù chúng ta ra sao! Cha chạy đến giang tay chào đón chúng ta với sự tha thứ chấp nhận nồng nhiệt, vì vậy hãy buông mình vào vòng tay của Chúa. Hãy quan tâm đến Chúa Giê-xu Christ và từ bỏ mạng sống của mình cho Chúa. Mời tình yêu của Ngài trở thành tình yêu của chúng ta. Vâng, hãy tận hưởng vòng tay ngọt ngào của Ngài! Hỡi gái đồng trinh, người trẻ tuổi hãy nhảy múa vui mừng vì Chúa đã đổi sự sầu thảm ra vui mừng, khiến trái tim chúng ta hớn hở ca hát không dứt.
Cái ôm của Chúa rộng lớn như chiếc áo trải dài các từng trời. 'Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng khác nào bằng cái áo. Giương các từng trời ra như cái trại' (Thi thiên 104:2) Hai người bạn ngồi bên ngoài tận hưởng không khí mát mẻ buổi tối. Khẽ run rẩy, một người kéo một chiếc khăn choàng cầu nguyện vừa khít quanh vai cô. "Lạnh?" người kia hỏi. “Không, chỉ là cô đơn,” là câu trả lời nhẹ nhàng. "Tôi rất nhớ anh ấy." Đối với những người cảm giác trống vắng khi bị bỏ lại một mình có thể khiến chúng ta rung động theo những cách không ngờ. Chúng ta có thể cảm thấy ớn lạnh của sự cô đơn, rùng mình khi nhận ra rằng những người thân yêu của chúng ta không còn ở bên chúng ta nữa. Tất cả những gì họ muốn là được chạm và nghe giọng nói của họ một lần nữa. Khăn choàng cầu nguyện, được tạo ra bởi người Do Thái tượng trưng cho sự bao bọc và tình yêu của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta đeo nó quanh mình, chúng ta có được sức mạnh nhờ sự đồng hành và lời cầu nguyện của bạn bè cũng như hội thánh. Một chiếc khăn choàng quanh vai chúng ta giống như cánh tay mạnh mẽ của Chúa Giê-xu đang ôm chúng ta. Bám chặt vào lời hứa của Ngài về sự sống vĩnh cửu, chúng ta một lần nữa cảm thấy sự ấm áp của hy vọng tràn ngập trái tim tan vỡ của chúng ta.
Cái ôm của Chúa giữ chúng ta lại gần trong nỗi đau và thấu hiểu nỗi đau. Sự hiện diện của Ngài sưởi ấm khi Ngài quấn lấy chính Ngài để bảo vệ chúng ta khỏi giá lạnh. Những cái ôm của Chúa an ủi như một tấm chăn quấn em bé. Vòng tay của Ngài bao bọc chúng ta bằng tình yêu của Ngài. Ôm lấy Chúa, chúng ta cần ôm Chúa. Cần phải cảm thấy vòng tay của Chúa bao phủ bảo vệ khỏi giá lạnh. Chúng ta từng cảm thấy thật cô đơn và trống rỗng. Chỉ có Chúa mới có thể sưởi ấm trái tim chúng ta. Cái ôm của Chúa chứng tỏ chúng ta được chấp nhận. Vòng tay của Ngài không cần lời nói cho chúng ta biết rằng Ngài không quay lưng lại với chúng ta. Ngài ôm khi Ngài cảm thấy chúng ta sợ hãi hoặc bối rối, khi thế giới của chúng ta trở thành một nơi xa lạ.
Cái ôm của Chúa theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi đó là một cảm giác bình yên khi không nên có bất kỳ điều gì. Những lần khác, Ngài ôm chúng ta qua Lời của Ngài, nói với một nhu cầu cụ thể mà chúng ta đang cần vào lúc đó. Chúa được biết đến là người ôm chúng ta thông qua một lời chúc bất ngờ, đến từ một nơi khác mà thậm chí chúng ta không biết. Nhưng hầu hết thời gian, những cái ôm của Chúa đến với chúng ta từ một người khác. Tôi tin rằng một số công việc tốt nhất của Chúa là đưa chúng ta vào màn hình radar, thậm chí có thể không biết những gì chúng ta đang trải qua. Chúa nói với họ rằng chúng ta cần một cái ôm và chúng ta ngạc nhiên khi cánh tay của họ bao quanh và họ kéo chúng ta lại gần.
Và rất có thể, họ vừa nhận được cái ôm từ Chúa trong một khoảnh khắc nào đó. Và khi họ nhận được sự an ủi, sức mạnh sự khích lệ, họ nghe thấy Chúa thì thầm: 'Bây giờ hãy vượt qua nó. Khi chúng ta trải qua sự trải nghiệm này, chúng ta đã được Chúa 'ôm ấp'! Chúng ta có thể ngẩng cao đầu cho dù có chuyện gì xảy ra và biết rằng tất cả đều ổn. Chúa yêu tha thiết như thế nào, chúng ta cảm nhận được tình yêu ấm áp này ở khắp mọi nơi trong chúng ta vì Đức Chúa Trời đã ban Đức Thánh Linh để tràn đầy tâm hồn chúng ta với tình yêu bền vững.
Không gì sánh được với việc được Chúa ôm, ngay cả khi Ngài sử dụng vòng tay của người khác! Ray Stedman, mục sư của Nhà thờ Kinh thánh ở bán đảo khu vực Bay trước khi ông qua đời, đã kể một câu chuyện thú vị. Một người đàn ông đi ngang qua một cửa hàng sách và nhận thấy một cuốn sách có tựa đề 'Cách ôm'. Là một người yêu sách, ông mua cuốn sách chỉ để khám phá ra rằng đó là một tập của bộ bách khoa toàn thư bao gồm các từ 'làm thế nào ôm?'
Có bao nhiêu người xung quanh chúng ta đang cần một cái ôm. Họ đang tìm kiếm một minh chứng của tình yêu. Những gì họ cần có thể không là một bài báo bách khoa toàn thư về thần học! Khi Chúa cho một cái ôm, đó là ý định 'cái ôm một nhóm.' Một số người thực sự không thích ôm kiểu nhóm hay kiểu lạ bất kỳ. Đối với họ, đó là điều khó xử và xâm lấn. Nhưng bất kể bạn có cảm thấy thoải mái hay không khi trao hay nhận một cái ôm, thông điệp mà nó muốn truyền tải luôn là một thông điệp tích cực.
Ngợi khen Đức Chúa Trời và Cha của Chúa chúng ta là Chúa Giê-xu Christ, Cha của lòng từ bi và là Đức Chúa Trời của mọi sự an ủi, Đấng an ủi chúng ta trong mọi khó khăn, để chúng ta có thể an ủi những người gặp khó khăn bằng sự an ủi mà chúng ta nhận được từ Đức Chúa Trời. (2 Cô-rinh-tô 1: 3-4). Tình yêu từ Đấng Christ khiến chúng ta trở nên hấp dẫn đối với những người cần chúng ta từ bi chăm sóc. Những cái ôm của Chúa buộc chúng ta phải ôm người khác với tình yêu thương vô điều kiện. Chúng ta có thể nhận được một phước lành tài chính bất ngờ, vì vậy chúng ta có thể thể hiện sự hào phóng trước thách thức chi tiêu của người khác. Một cái nhìn sâu sắc từ Kinh thánh hoặc một lời nói tử tế từ một người bạn, có thể gửi đến một người cần được khuyến khích. Chúa an ủi chúng ta, để chúng ta có thể an ủi người khác.
KIM HÂN
Bài 284
Chuyện... Buông Bỏ Và... Nắm Chặt
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 12: 11-13; Ma-thi-ơ 26: 14-16; Phi-líp 3: 8
Kính chào quý độc giả,
Nói đến chuyện buông bỏ hay nắm chặt là nói đến một sự chọn lựa, một sự quyết định trong cuộc đời.
Bạn cũng như tôi chắc chắn chúng ta đã từng không ít lần băn khoăn khi đứng trước quyết định buông bỏ hay nắm chặt một điều nào đó.
Để quyết định buông bỏ một điều nào đó là một quyết định không dễ dàng chút nào. Và để quyết định nắm chặt một điều nào đó cũng là một điều rất khó khăn. Bởi vì chúng ta phải biết được điều chúng ta cần buông bỏ là có giá trị nhỏ hơn, ngắn hạn và tạm thời hơn so với điều chúng ta quyết định nắm chặt.
Nếu không nhận chân ra được điều chi có giá trị đích thực và điều chi chỉ có giá trị ảo, thì chúng ta dễ buông bỏ điều đúng ra phải nắm chặt, và nắm chặt điều đúng ra cần buông bỏ.
Buông bỏ hay nắm chặt lầm là điều rất tai hại cho cuộc đời chúng ta.
Ca dao có những câu thể hiện sự buông bỏ hay nắm chặt lầm như thế:
+ Tưởng giếng sâu em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây.
+ May thay chút nữa em lầm
Khoai lang khô xắt lát em tưởng cao ly sâm bên Tàu
+ Một tay hai trái khó bưng
Muốn bưng trái nọ thì đừng trái kia
+ Chàng ràng bắt cá hai tay,
Con trong cũng mất con ngoài cũng không
+ Từ nay giã quán bánh canh
Giã trầu hai ngọn, giã anh hai lòng
...
Kinh Thánh có cho chúng ta những bài học giá trị về việc buông bỏ và nắm chặt.
Câu chuyện về Áp-ra-ham và Lót là hai bác cháu. Khi họ cùng đi đến Nam phương, thì vì xứ đó không đủ chỗ cho cả hai người ở, bởi họ có tài vật rất nhiều. Và thế là có sự tranh giành nhau giữa những người chăn bầy chiên của cả hai bên. Áp-ra-ham đã khuyên cháu mình là Lót rằng, chúng ta là cốt nhục, nên xin đừng tranh giành nhau nữa. “Toàn xứ há chẳng ở trước mặt ngươi sao? Vậy, hãy lìa khỏi ta; nếu ngươi lấy bên tả, ta sẽ qua bên hữu; nếu ngươi lấy bên hữu, ta sẽ qua bên tả.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 12, câu 9)
Nghe bác mình nói vậy, Lót ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh thảy đều có nước chảy rất tươi tốt. Và thế là “Lót bèn chọn lấy cho mình hết cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh và đi qua phía đông. Vậy, hai người chia rẽ nhau. Áp-ra-ham ở trong xứ Ca-na-an, còn Lót ở trong thành của đồng bằng và dời trại mình đến Sô-đôm. Vả, dân Sô-đôm là độc ác và kẻ phạm tội trọng cùng Đức Giê-hô-va.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 12, câu 11-13)
Lót đã buông bỏ một đời sống đức tin gần gũi với Chúa để nắm chặt những sự tham muốn của mắt thấy mà sẵn sàng chung sống cùng một dân độc ác và phạm tội trọng cùng Đức Chúa Trời; nên kết cuộc, gia đình ông đã tan nát. Vợ ông vì ham muốn thế gian hơn là Chúa nên đã bị chết, hóa thành tượng muối (Sách Sáng Thế Ký, chương 19, câu 26). Hai con gái của ông đã loạn luân với ông và đẻ ra hai thứ dân đầy lòng vô tín chống nghịch Chúa là dân Mô-áp và dân Am-môn (Sách Sáng Thế Ký, chương 19, câu 30-38)
Một nhân vật khác trong Kinh Thánh Tân Ước là Đê-ma, chỉ vì ham mê thế gian tạm bợ mà sẵn sàng buông bỏ đức tin nơi Chúa để nắm chặt phù phiếm của trần gian mờ tối nầy: “Hãy cố gắng đến cùng ta cho kíp, vì Đê-ma đã lìa bỏ ta rồi, tại người ham hố đời nầy, và đã đi qua thành Tê-sa-lô-ni-ca.” (Sách 2 Ti-mô-thê, chương 4, câu 9, 10)
Câu chuyện về Giu-đa, một sứ đồ của Chúa Giê-xu cũng vì tham tiền bạc mà đã sẵn sàng bán thầy của mình một cách không thương tiếc, để lại cho hậu thế một sự nguyền rủa muôn đời về một con người lường thầy phản bạn mỗi khi người ta nghe đến tên hắn: “Bấy giờ, có một người trong mười hai sứ đồ, tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, đến tìm các thầy tế lễ cả, mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc. Từ lúc đó, nó tìm dịp tiện để nộp Đức Chúa Giê-xu.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 26, câu 14-16)
Có những điều đáng ra cần buông bỏ thì có người lại nắm chặt; ngược lại, có những điều cần nắm chặt thì nhiều người lại buông bỏ một cách dễ dàng.
Thật đáng tiếc làm sao!
...
Vua Đa-vít của người Do-thái ngày xưa rất khôn ngoan, đã biết nắm chặt lấy Đức Chúa Trời, vì ông biết chắc chỉ một mình Ngài mới là nguồn phước duy nhất cho cuộc đời ông mà thôi (Theo ý trong sách Thi-thiên, chương 16, câu 2). Vua Đa-vít đã tuyên bố:
“Linh hồn tôi đeo theo Chúa, tay hữu Chúa nâng đỡ tôi.” (Sách Thi-thiên, chương 63, câu 8)
“Đeo theo Chúa” có nghĩa là nắm chặt lấy Chúa, không rời xa Ngài, như một em bé đeo theo mẹ của mình vậy.
Thánh Phao-lô cũng đã có một quyết định rất táo bạo và khôn ngoan cho cuộc đời của mình:
“Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ là quý hơn hết. Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 8)
Ông dám buông bỏ mọi sự ông đang có ở thế gian nầy (quyền lợi, địa vị, danh tiếng) để nắm chặt lấy Đức Chúa Giê-xu Christ, vì ông biết những gì ở thế gian chỉ là tạm bợ, và Chúa Giê-xu Christ mới là phước hạnh lâu dài, trường cửu cho cuộc đời ông.
Phao-lô đã tuyên bố rất rõ ràng: “Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự.” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 11)
Bạn đang buông bỏ hay đang nắm chặt điều gì cho mình?
Mỗi khi nói đến việc buông bỏ hay nắm chặt điều gì đó, tôi thường được nhắc nhở bởi câu ca dao thật sâu sắc của cha ông ta:
May thay chút nữa em lầm.
Khoai lang khô xắt lát, em tưởng cao ly sâm bên Tàu.
Có những thứ mới xem qua tưởng như là... cao ly sâm giá trị lắm; nhưng xem kỹ, hóa ra đó chỉ là... khoai lang khô xắt lát chẳng có giá trị bao nhiêu cả.
Chúa Giê-xu đã từng cảnh báo chúng ta: “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 26)
Nếu bạn đang buông bỏ những giá trị vĩnh cửu cho linh hồn, mà nắm chặt lấy những gì tạm bợ thuộc về thế gian nầy, thì quả thật, bạn là người đáng thương hơn hết!
Nếu bạn đang buông bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian tạm bợ nầy, và nắm chặt lấy Chúa Giê-xu, Đấng đã chết thay cho bạn trên thập tự giá và sống lại để ban cho bạn sự sống đời đời, thì quả thật, bạn là người ở trong số những người được phước nhất trong cuộc đời nầy.
Cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn ơn và sự khôn ngoan từ Ngài để biết buông bỏ những điều cần buông bỏ, và nắm chặt lấy những điều cần nắm chặt cho linh hồn mình. A men!
Tháng 7/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 285
Chuyên... Thay Đổi Và... Không Thay Đổi
Kinh Thánh: Thi-thiên 102: 27; Ma-la-chi 3: 6; Hê-bơ-rơ 13: 8
Kính chào quý độc giả,
Vua nhà Ân là Thang Vương đã từng nói: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân” (Nghĩa là Ngày ngày mới, lại một ngày mới)
Mọi vật và con người đều luôn luôn muốn được thay đổi từ xấu cho đến tốt hơn, từ cũ cho đến mới. Không ai muốn mình... dậm chân tại chỗ.
Nói chung một điều là mọi vật đều thay đổi và cần phải thay đổi.
Con người sinh ra từ nhỏ cho đến lớn, rồi về già, đều có những thay đổi qua từng giai đoạn trong cuộc đời; từ một em bé yếu đuối cho đến một thanh niên mạnh mẽ, rồi dần dần lão hóa và... ra đi về... miền xa xăm. Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật mà Đức Chúa Trời đã đặt để nơi con người, kể từ khi con người phạm tội xa cách Ngài.
Có một số câu danh ngôn nói về sự thay đổi mà tôi thích, xin chia sẻ cùng bạn:
+ Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc.
Con người có thể thay đổi cuộc đời mình bằng cách thay đổi thái độ của mình.
+ Thay đổi chẳng bao giờ dễ, nhưng luôn luôn có thể.
+ Người không thể thay đổi cách nghĩ chẳng thể thay đổi bất cứ điều gì.
Nhạc Sĩ Nguyễn Ánh 9 có bài hát “KHÔNG” khá nổi tiếng hầu như ai cũng biết, trong đó có đoạn lời có đề cập đến sự thay đổi như sau:
“Không ! Không ! Tôi không còn yêu em nữa. Không ! Không ! Tôi không còn yêu em nữa. Không ! Không ! Tôi không còn yêu em nữa em ơi. Tình đời thay trắng đổi đen. Tình đời còn lắm bon chen. Tình đời còn lắm đam mê. Nên tình còn lắm ê chề... ”
Chắc chắn bạn cũng như tôi đều đã chứng kiến nhiều sự thay trắng đổi đen trong cuộc sống con người đầy xấu xa, tội lỗi nầy.
Nhạc Sĩ Lê Mộng Bảo trong bài hát rất quen thuộc với nhiều người là bài “Đập Vỡ Cây Đàn”, cũng có đề cập đến sự thay đổi của lòng người:
“Đập vỡ cây đàn, giận đời đập vỡ cây đàn. Người ơi người ơi! Tình ơi tình ơi! Đập vỡ cây đàn, giận đời bạc trắng như vôi, giận người điên đảo quên lời. Đập vỡ cây đàn ,giận người con gái yêu đàn. Buồn ơi buồn ơi! Làm sao để nguôi. Đập vỡ cây đàn, giận người đổi trắng thay đen, giận đời trở như bàn tay... ”
Giận cuộc đời bạc trắng như vôi, giận người đổi trắng thay đen, và giận đời tráo trở như sấp ngữa bàn tay. Cho nên, phải... đập vỡ cây đàn cho... hả giận vậy!
Lòng con người luôn thay đổi, và mọi sự, mọi vật trong vũ trụ nầy, tất cả đều cũng thay đổi!
...
Vua Sa-lô-môn của người Do-thái ngày xưa đã từng viết một cách rất đúng và rất... triết lý rằng: “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định. Có kỳ sanh ra, và có kỳ chết; có kỳ trồng, và có kỳ nhổ vật đã trồng; có kỳ giết, và có kỳ chữa lành; có kỳ phá dỡ, và có kỳ xây cất; có kỳ khóc, và có kỳ cười; có kỳ than vãn, và có kỳ nhảy múa; có kỳ ném đá, và có kỳ nhóm đá lại; có kỳ ôm ấp, và có kỳ chẳng ôm ấp; có kỳ tìm, và có kỳ mất; có kỳ giữ lấy, và có kỳ ném bỏ; có kỳ xé rách, và có kỳ may; có kỳ nín lặng, có kỳ nói ra; có kỳ yêu, có kỳ ghét; có kỳ đánh giặc, và có kỳ hòa bình.” (Sách Truyền Đạo, chương 3, câu 1-8)
Ai là Đấng định kỳ cho muôn vật?
Câu trả lời chắc chắn không bao giờ sai, đó chính là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa của muôn loài vạn vật.
Bạn và tôi đều muốn mình có những thay đổi càng ngày càng tốt đẹp hơn. Ngày hôm nay phải cố gắng cho tốt hơn ngày hôm qua, và ngày mai cũng phải cố gắng làm sao cho tốt hơn ngày hôm nay. Lý do, là vì bạn và tôi đều là những con người bất toàn, hữu hạn và đầy những thiếu sót. Cho nên, chúng ta ai nấy đều muốn mình được hoàn thiện hơn mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm trong cuộc đời cho đến khi... trở về với Ông Trời.
Cầu mong cho bạn ngày càng có nhiều đổi mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời của mình để cuộc đời được thỏa vui và hạnh phuc.
...
Nhưng thưa bạn, bạn có biết có một Đấng không bao giờ cần sự thay đổi như con người chúng ta không?
Đấng đó chính là Ông Trời, chính là Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất trong toàn cõi vũ trụ nầy không cần đến sự thay đổi, bởi vì Ngài là Đấng Toàn Mỹ từ ban đầu cho đến vô cùng vô tận.
Vua Đa-vít đã khẳng định về sự bất biến của Đức Chúa Trời: “Song Chúa không hề biến cải. Các năm Chúa không hề cùng.” (Sách Thi-thiên, chương 102, câu 27)
Ngài đã phán trong Kinh Thánh rằng: “Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi.” (Sách Ma-la-chi, chương 3, câu 6)
Thánh Gia-cơ cho biết về sự không thay đổi của Đức Chúa Trời: “Mọi ân điển tốt lành và sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 17)
Đức Chúa Trời là Đấng vô cùng tốt lành. Đức Chúa Trời là Đấng không thay đổi và cũng chẳng hề có bất kỳ sự biến cải nào.
Trong thơ Hê-bơ-rơ, tác giả thơ nầy cũng khẳng định sự không thay đổi của Đức Chúa Giê-xu: “Đức Chúa Giê-xu Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 13, câu 8)
Hôm qua là nói đến quá khứ, ngày nay là nói đến hiện tại, và cho đến đời đời là nói đến tương lai. Đức Chúa Giê-xu Christ vẫn y nguyên. Tình yêu của Ngài không thay đổi! Sự nhơn từ của Ngài không thay đổi! Sự thành tín của Ngài cũng không bao giờ thay đổi!
...
Đức Chúa Trời là Đấng không thay đổi, không biến cải. Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng không hề thay đổi. Muôn đời, Ngài vẫn y nguyên. Cho nên, nếu bạn đặt đức tin nơi một Đấng không hề thay đổi như thế, thì bạn sẽ không có gì phải lo sợ cả. Bạn sẽ rất yên tâm khi trao trọn đời sống mình cho Đức Chúa Giê-xu khi mời Ngài làm Chúa, làm Chủ đời sống.
Chúa Giê-xu đã tuyên bố cách mạnh mẽ: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa.” (Sách Giăng, chương 14, câu 1)
Tôi đã đặt lòng tin trọn vẹn nơi Chúa Giê-xu mấy chục năm đã trôi qua, và lòng tôi tràn đầy niềm tin yêu và hy vọng ở trong Ngài, không một chút băn khoăn, lo lắng. Tôi thật sự cảm nhận được một đời sống bình an và thỏa nguyện.
Xin mời bạn hãy làm một quyết định một lần đủ cả cho cuộc đời của mình, ấy là quyết định tin nhận Chúa Giê-xu để cuộc đời của bạn sẽ không còn băn khoăn, bối rối hay lo sợ nữa, vì Chúa Giê-xu là Đấng không bao giờ thay đổi!
Tháng 8/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 286
Chuyện... Yếu Đuối Và... Mạnh Mẽ
Kinh Thánh: Ê-sai 40: 28-31; Lu-ca 22: 54-62; Gia-cơ 5: 17
Kính chào quý độc giả,
Bạn là người yếu đuối hay mạnh mẽ?
Có lẽ, ai trong chúng ta cũng muốn mình là một người mạnh mẽ chứ chẳng ai muốn mình yếu đuối cả.
Người ta thường gọi phái nữ là... phái yếu, còn phái nam là... phái mạnh. Nhưng lịch sử chứng minh cho thấy... phái yếu thường sống... thọ hơn phái mạnh nhiều năm.
Thế mới lạ!
Có những câu thành ngữ Việt Nam về... yếu và... mạnh mà chắc có lẽ nhiều người quen thuộc:
+ Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
+ Mạnh dùng sức, yếu dùng chước.
...
Và đây là những câu danh ngôn hay:
+ Phụ nữ tương tự như pha trà túi lọc, khi pha vào nước sôi bạn sẽ cảm nhận họ mạnh mẽ.
+ Một trái tim mạnh mẽ sẽ giúp mỗi con người đương đầu với tất cả những khó khăn trong cuộc sống.
+ Phụ nữ là phái yếu của hình thể nhưng mạnh mẽ trong tâm hồn.
...
Kinh Thánh nói về yếu đuối và mạnh mẽ như sau:
Ê-li được xem như là một Tiên Tri lớn của Đức Chúa Trời, một con người rất can đảm và mạnh mẽ, đã dám lên tiếng... chỉ tội Vua A-háp của Y-sơ-ra-ên là “người làm rối loạn Y-sơ-ra-ên” (ý từ Sách 1 Các Vua, chương 18, câu 18), và là người dám đối đầu với bốn trăm năm mươi Tiên Tri của Ba-anh (ý từ Sách 1 các Vua, chương 18, câu 22); nhưng Kinh Thánh cũng cho biết: “Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta...” (Sách Gia-cơ, chương 5, câu 17)
Mới vừa mạnh mẽ lên tiếng... chỉ tội Vua A-háp; rồi mới vừa can đảm đương đầu với bốn trăm năm mươi Tiên Tri của Ba-anh đó; nhưng chỉ sau khi nghe Hoàng Hậu Giê-sa-bên muốn tìm giết mạng sống mình, thì ông trở nên mềm... như bún, và yếu đuối, sợ hãi một cách không ngờ: “Vì vậy, Ê-li sợ hãi, đứng dậy chạy đi đạng cứu mạng sống mình.” (Sách 1 Các Vua, chương 19, câu 3)
Sứ Đồ Phi-e-rơ được xem như là một phát ngôn nhân của mười hai Sứ Đồ, vốn là một người khá mạnh mẽ, đã từng tuyên bố cách hùng hồn rằng: “Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.” (Sách Mác, chương 14, câu 31). Phi-e-rơ cũng đã cả gan rút gươm ra chém đứt tai bên hữu của Man-chu, là người đầy tớ của Thầy Cả Thượng Phẩm (theo ý trong sách Giăng, chương 18, câu 10), để binh vực Chúa Giê-xu.
Nhưng rồi, ngay sau đó, Phi-e-rơ lại yếu đuối như một... cây sậy không hơn không kém. Vì quá sợ hãi trước sức mạnh của Giáo quyền trong vụ xử án Chúa Giê-xu lúc bấy giờ, ông đã chối không biết Chúa, không những một lần, mà đến... ba lần, ngay cả đến chỉ một đứa đầy tớ gái nhỏ mà thôi (theo ý trong sách Mác, chương 14, câu 66 - 72)
...
Tất cả chúng ta, dầu là ai chăng nữa, làm chức gì đi chăng nữa, có nhiều khi mình tưởng là mình mạnh mẽ, can đảm lắm, không bao giờ... sợ hãi bất cứ ai; nhưng hãy nhớ rằng, sức mình có hạn, con người mình nhỏ bé, yếu đuối lắm, không mạnh mẽ như mình tưởng đâu.
Nhà Bác Học Pascal của Pháp đã rất có lý khi nói: “Con người là một cây sậy yếu ớt giữa thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy tưởng.”
Trước Pascal hàng ngàn năm, Sứ Đồ Phao-lô cũng đã biết rõ điều đó, ông đã nhận biết mình yếu đuối, nên ông đã biết nương cậy nơi sức mạnh của Chúa để ông được mạnh mẽ:
“Nhưng Chúa phán rằng: Ân điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ.” (Sách 2 Cô-rinh-tô, chương 12, câu 9, 10)
...
Chỉ có Đức Chúa Trời mới là Đấng mạnh mẽ, có quyền năng tuyệt đối mà thôi. Là con người yếu đuối, chúng ta cần phải biết nương dựa nơi sức mạnh vô song của Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh xác nhận: “Ngươi không biết sao, không nghe sao? Đức Chúa Trời hàng sống, là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò. Ngài ban sức mạnh cho kẻ nhọc nhằn, thêm lực lượng cho kẻ chẳng có sức. Những kẻ trai trẻ cũng phải mòn mỏi mệt nhọc, người trai tráng của phải vấp ngã. Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cành bay cao như chim ưng; chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.” (Sách Ê-sai, chương 40, câu 28-31)
Đức Chúa Trời là Đấng ban sức mạnh cho chúng ta, thêm lực lượng cho kẻ yếu đuối, và ban sức mới cho người nào trông đợi Ngài.
Hãy đồng thanh với Tiên Tri Ê-sai mà ca ngợi sức mạnh vô song của Đức Giê-hô-va: “Vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va là sức mạnh của tôi, lời ca tụng của tôi; Ngài đã nên sự cứu rỗi tôi.” (Sách Ê-sai, chương 12, câu 2 )
Một người khôn ngoan thì luôn nhận biết mình yếu đuối, để không trông cậy nơi xác thịt nhỏ bé nầy, như Phao-lô đã kinh nghiệm “không để lòng tin cậy trong xác thịt bao giờ.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 3); mà đem lòng nhờ cậy sức lực của Đức Chúa Trời “Vả lai, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài.” (Sách Ê-phê-sô, chương 6, câu 10)
Bạn có đang nhận biết mình là một con người yếu đuối không? Hay bạn nghĩ mình có một sức mạnh vô địch? Nếu bạn nghĩ rằng mình là một con người rất mạnh mẽ, chẳng yếu đuối bao giờ, thì hãy đợi đấy, rồi có ngày bạn sẽ thấy, bạn sẽ chẳng mạnh mẽ như là bạn tưởng đâu.
Nếu bạn đang cảm biết được sự yếu đuối, hèn mọn, nhỏ bé của mình, chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới là Đấng Toàn Năng, và đem lòng nương cậy nơi Ngài, thì bạn sẽ được Ngài thương xót và thêm năng lực cho để sống mạnh mẽ và hầu việc Ngài cách đẹp lòng Ngài.
Nguyện xin Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Mạnh Sức ban phước cho bạn cũng như cho tôi càng hơn!
Tháng 8/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 287
Chuyện... Giàu Nghèo
Kinh Thánh: Lu-ca 12: 20, 21; II Cô-rinh-tô 6: 10
Kính chào quý độc giả,
Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã nghe nhiều người nói câu “Tử sinh hữu mạng, phú quý do Thiên” (nghĩa là chết sống có số mạng, giàu sang bởi ông Trời), và tôi nhớ mãi cho đến bây giờ, chưa... quên được.
Đó là một câu nói khá... chính xác. Con người sống hay chết đều có số mạng, giàu hay nghèo đều do Ông Trời có cho hay không. Có không ít người vào sinh ra tử cả chục lần mà không chết được; nhưng cũng có người chết một cách không thể nào ngờ được. Có người làm đầu tắt mặt tối cả ngày lẫn đêm mà rồi nghèo vẫn hoàn nghèo; lại có người làm như... chơi giỡn mà lại... giàu có, tiền dư bạc để. Chắc hẳn bạn cũng đã từng thấy điều đó trong cuộc sống.
Cũng ngay từ lúc nhỏ, tôi cũng có nghe câu nói “Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời”, nghĩa là giàu hay nghèo gì, Ông Trời cũng cho được vài ba đời mà thôi, còn phải để... dành phần cho người khác nữa. Không ai... giàu hoài, cũng không ai... nghèo mãi.
Câu nói nầy cũng... khá đúng. Bằng chứng đã thấy trong cuộc sống, có người trước đây ông bà của họ rất giàu có, nay, họ chẳng có gì, nếu không muốn nói là nghèo; và ngược lại, có những người trước đây ông bà họ rất nghèo, nhưng nay, họ lại khá giả, nếu không muốn nói là giàu. Chắc hẳn bạn cũng đã thấy điều đó trong cuộc sống.
Tôi cũng nhớ một câu nói khác nữa, đó là “Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần”. Nghĩa là những người giàu thật là giàu là nhờ Ông Trời ban cho; còn những người giàu nho nhỏ thì là do chuyên cần, chăm chỉ chí thú làm ăn.
Sống trên đời nầy, không ai muốn mình nghèo cả, ai cũng muốn có một cuộc sống giàu sang, sung sướng. Nhưng muốn là một việc, mà có đạt được điều mình mong muốn không lại là một chuyện khác, phải không bạn? Ở đời, không phải hễ cái gì mình muốn cũng đều đạt được cả. Nếu vậy, thì làm gì còn có người nghèo khó chung quanh chúng ta? Bạn hãy nhớ rằng, chúng ta mong muốn là một chuyện, còn lại là Ông Trời có ban cho chúng ta đạt được điều mong muốn đó hay không mới là điều quan trọng.
...
Cũng có một số câu nói khác về chuyện... giàu nghèo:
+ Trời cho ai nấy hưởng.
+ Trời cho không thấy, Trời lấy không hay.
...
Tôi thì tôi hiểu rằng có một Đấng cầm quyền trên cả cõi vũ trụ nầy, để con người biết rằng không phải mình muốn gì đều có thể được nấy; nhưng phải phụ thuộc vào Ông Trời. Ông Trời có quyền tối thượng trên cuộc đời của chúng ta và trên cả thế giới nầy. Bởi vậy, mới có câu nói “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (nghĩa là mưu là ở con người, còn thành hay không là do Ông Trời).
Không biết là bạn có thấy như thế không?
Có nhiều những câu ca dao nói về chuyện... giàu, nghèo mà nhiều người biết:
+ Tôi làm, tôi chẳng có chơi
Nghèo sao nghèo mãi, trời ơi hỡi trời
+ Xa quê có lúc quay về
Mà sao nghèo mãi chưa hề buông tha
+ Số giàu mang đến bờ hè
Số nghèo con mắt toét loe vẫn nghèo
+ Số giàu tay trắng cũng giàu
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
+ Trời ơi, trời ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra
Người thì mớ bảy, mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi
+ Ví dầu Trời hại mới hư,
Dầu ai có hại cũng như phấn dồi.
...
Nhà Thơ Trần Tế Xương đã từng than cho cảnh nghèo khó của mình:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi.
...
Có nhiều người nghĩ, sống ở đời, chỉ cần giàu có là có tất cả. Sự suy nghĩ đó có thể có phần... đúng, nhưng đó không phải là chân lý. Giàu hay nghèo về vật chất, tiền của, đó không phải là vấn đề quan trọng thiết cốt cho cuộc sống của con người chúng ta đâu.
Vấn đề quan trọng thiết cốt cho cuộc sống của con người chúng ta, ấy là giàu có nơi Đức Chúa Trời, có nghĩa là giàu có về tâm linh.
Giàu có vật chất, của cải một cách chính đáng không phải là tội lỗi. Kinh Thánh không lên án những người giàu có của cải vật chất bằng cách làm ăn một cách ngay lành. Nhưng Kinh Thánh có những lời cảnh báo khá mạnh mẽ về những người chỉ giàu có về của cải vật chất mà không giàu có về tâm linh để con người thức tỉnh trước những đam mê không biết chán về của cải vật chất.
Chủ nghĩa duy vật chất có thể đem lại cho con người nhiều điều... thích thú, dễ chịu; nhưng có những điều thiết cốt thì nó không thể đem đến cho con người được. Cụ thể, của cải vật chất không thể làm thỏa mãn được con người; không thể đem đến sự bình an cho con người; không thể thay đổi được tấm lòng con người, và nhất là không cứu được linh hồn con người.
Chúa Giê-xu đã từng có một lời cảnh báo mạnh mẽ về sự giàu có vật chất mà không giàu có về tâm linh rằng: “Hỡi kẻ dại! Chính đêm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại; vậy của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai? Hễ ai thâu trữ của cho mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời thì cũng như vậy.” (Sách Lu-ca, chương 12, câu 20, 21)
Thế nào là giàu có nơi Đức Chúa Trời?
Giàu có nơi Đức Chúa Trời là nhận biết Đức Chúa Trời và tin thờ Ngài trong đời sống. Mời Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình để được sự sống đời đời.
...
Bạn đã giàu có nơi Đức Chúa Trời chưa? Có nghĩa là bạn đã mời Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình chưa? Bạn đã để lòng mình hướng về Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài chưa?
Tôi cảm tạ Ngài đã ban cho tôi được... giàu có nơi Đức Chúa Trời, có nghĩa là ban cho tôi địa vị làm con cái Ngài cách đây nhiều năm đã qua, và tôi thực sự có được một cuộc sống thỏa vui và hạnh phúc trong tình yêu của Đức Chúa Trời, dù tôi chưa có được sự... giàu có về vật chất như nhiều người đang giàu có về vật chất.
Nhìn bề ngoài, nhiều người sẽ dễ tưởng những người tin Chúa như tôi có vẻ... buồn buồn, có vẻ... nghèo nghèo, có vẻ như... không có gì cả, nhưng... ngó vậy mà không phải vậy đâu.
Kinh Thánh nói về những người tin Chúa như sau: “ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng; ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có; ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự.” (Sách 2 Cô-rinh-tô, chương 6, câu10)
Những người thực sự tin Chúa là những người... có đủ mọi sự đấy ạ. Thánh Phao-lô khẳng định: “Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự.” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 11)
Chưa có Chúa Giê-xu trong cuộc đời là kể như... chưa có gì cả; nhưng có Chúa Giê-xu trong cuộc đời là ta đã có đủ mọi sự rồi!
Nếu bạn đang có được cuộc sống giàu có về vật chất, thì tôi xin chúc mừng bạn, vì không dễ gì để có được một cuộc sống giàu có đâu. Bạn phải vất vả, cực nhọc lắm mới đạt được điều đó. Nhưng nếu bạn chỉ dừng lại ở đó, mà không tìm kiếm sự giàu có nơi Đức Chúa Trời, thì thật lấy làm tiếc cho bạn biết bao!
Tôi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời cho bạn nhận biết được sự giàu có nơi Ngài mới là điều quan trọng bậc nhất trong cuộc đời nầy, để bạn sớm đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình, hầu bạn thật sự có được một cuộc sống phước hạnh từ Thiên Chúa ban cho!
Tháng 8/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 288
Chuyện... Hữu Hạn Và... Vô Hạn
Kinh Thánh: I Các Vua 8: 27; Thi-thiên 8: 5; Ê-sai 40: 15, 17, 26, 28
Kính chào quý độc giả,
Hữu hạn và vô hạn là hai từ ngữ nghe như mang nhiều tính chất triết học trong đó phải không?
Vậy, hữu hạn là gì, và vô hạn là gì?
Nói một cách đơn giản nhất, hữu hạn là những gì bị giới hạn ở trong một mức độ nào đó, còn vô hạn là... không có một giới hạn nào cả, hay không bị giới hạn bởi bất cứ một điều gì hay một ai.
Còn nói một cách... triết lý, thì hữu hạn là những cái ở trong vô hạn; còn vô hạn là những gì ở ngoài... hữu hạn vậy.
Có một vài câu danh ngôn hay về hữu hạn và vô hạn mà tôi rất thích như sau:
+ Hiểu biết của chúng ta chỉ là hữu hạn, trong khi sự không biết của chúng ta là chắc chắn vô hạn. (Rumi)
+ Có hai thứ vô hạn là vũ trụ và sự ngu dốt của con người. Nhưng tôi chưa chắc lắm về điều thứ nhất. (Einstein)
+ Điều ta biết chỉ là giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương. (Newton)
...
Con người và tất cả những gì thuộc về thế giới, vũ trụ vạn vật nầy, chúng ta thấy tưởng là... vô hạn, nhưng thực ra, chúng vẫn... hữu hạn, chứ không... vô hạn như chúng ta tưởng đâu.
Con người chúng ta là hữu hạn. Đó là điều không ai có thể... chối cãi được. Vì không có một con người nào là... vô hạn cả, dù con người được Đức Chúa Trời ban cho có một khả năng phi thường, vượt hơn muôn loài vạn vật. Nhưng con người do Đức Chúa Trời tạo nên, nên con người là... hữu hạn.
Kinh Thánh cho biết: “Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút. Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng.” (Sách Thi-thiên 8: 5)
Con người vượt cao hơn muôn loài vạn vật, nhưng con người vẫn ở dưới Đức Chúa Trời một bậc, nên con người là... hữu hạn.
Tiên Tri của Đức Chúa Trời là Ê-sai đã cho biết sự nhỏ bé, hữu hạn của con người trước mặt Đức Chúa Trời: “Kìa, các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân... Mọi dân tộc ở trước mặt Đức Giê-hô-va thảy đều như không, Ngài xem như trống không và hư vô vậy.” (Sách Ê-sai 40:15, 17)
Còn vũ trụ bao la rộng lớn nầy, con người chúng ta thấy tưởng như chúng là... vô hạn, vô cùng, vô tận; nhưng thực ra, nó cũng chỉ là... hữu hạn mà thôi.
Kinh Thánh cho biết, Đức Chúa Trời : “là Đấng dựng nên trời đất, biển, và mọi vật ở trong đó. Ngài giữ lòng thành thực đời đời.” (Sách Thi-thiên 146: 6). “Ngài đếm số các vì sao. Gọi từng tên hết thảy các vì ấy.” (Sách Thi-thiên 147: 4)
Phao-lô đã giảng cho dân chúng tại thành A-thên ở Hy-Lạp ngày xưa rằng: “Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó.” (Sách Công vụ các sứ đồ 17: 24)
Những câu Kinh Thánh nầy cho chúng ta biết vũ trụ bao la, rộng lớn mà chúng ta đang nhìn thấy đây là do Đức Chúa Trời dựng nên, cho nên hiển nhiên là nó... hữu hạn, chứ không... vô hạn, vô cùng, vô tận như ta thường nghĩ.
...
Vậy thì có ai là... vô hạn không?
Xin thưa với bạn rằng, chỉ có một và duy chỉ một Đấng vô hạn mà thôi, đó chính là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa toàn năng.
Ngài vô hạn như thế nào?
Nói về tính vô hạn của Đức Chúa Trời, thì có một Nhà Thần Học đã định nghĩa như sau:
“Tính vô hạn có nghĩa là Đức Chúa Trời không có những ranh giới hay giới hạn nào. Ngài không hề bị giới hạn bởi vũ trụ hay những ranh giới của không gian, thời gian.Nhưng nói như vậy không có nghĩa là bằng cách nào đó, Ngài bị trải dài qua suốt vũ trụ, một phần ở chỗ này một phần chỗ khác.”Phải hiểu tính vô hạn của Đức Chúa Trời mang tính cách tập trung chứ không phải là dàn trải rộng.”(*)
Sự vô hạn của Chúa đơn giản là Chúa tồn tại bên ngoài thời gian và không gian, và không bị giới hạn bởi phạm trù đó. Vô hạn nghĩa là “không có giới hạn.” Khi miêu tả Chúa là “vô hạn,” chúng ta thường nhắc đến các cụm từ toàn tri, toàn năng và toàn tại.
Sa-lô-môn công nhận sự vô hạn của Đức Chúa Trời tại lễ cung hiến đền thờ như sau:
“Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất!” (Sách 1 Các vua 8:27)
Vua Đa-vít đã bày tỏ sự vô hạn của Đức Chúa Trời: “Hỡi Đức Giê-hô-va! Sự cao cả, quyền năng, vinh quang, toàn thắng, và oai nghi đáng quy về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Ngài được tôn cao làm Chúa tể của muôn vật... Đức Giê-hô-va là lớn và đáng ngợi khen thay. Sự cao cả Ngài không thể dò xét được.” (Sách 1 Sử Ký 29: 11; Và Sách Thi-thiên 145: 3)
Còn đây, là lời ca tụng sự vô hạn của Đức Chúa Trời của Tiên Tri Ê-sai: “Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo những vật nầy? Ấy là Đấng khiến các cơ binh ra theo số nó, và đặt tên hết thảy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức mạnh Ngài lớn lắm, và quyền năng Ngài rất cao... Ngươi không biết sao, không nghe sao? Đức Chúa Trời hằng sống là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò.” (Sách Ê-sai 40: 26, 28)
Sự cao cả của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài, con người không thể nào dò được. Vì Ngài là Đấng vô hạn duy nhất, không ai và không gì có thể sánh được với Ngài.
Con người là hữu hạn, vũ trụ, vạn vật là hữu hạn, chỉ có Đức Chúa Trời là vô hạn mà thôi.
...
Xin mời bạn hãy đến cùng tôi cúi xuống thờ phượng một mình Đức Chúa Trời, là Đấng vô hạn; đừng cúi xuống thờ lạy con người hữu hạn, hay những gì hữu hạn.
Không một ai và không một vật nào xứng đáng để bạn và tôi thờ lạy cả, vì tất cả đều là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, và tất cả đều hữu hạn.
Chỉ một mình Đức Chúa Trời xứng đáng để bạn và tôi cúi đầu và cúi cả lòng mình xuống mà tôn thờ, vì Ngài là Đấng vô hạn.
Cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn tấm lòng khôn sáng để nhận biết được sự hữu hạn nơi con người, và muôn loài vạn vật, cũng như nhận biết được sự vô hạn của Đức Chúa Trời; hầu đem lòng thờ phượng Đấng vô hạn, để cho cuộc đời chúng ta được phước.
Khi bạn và tôi làm được điều như vậy, thì có thể nói chúng ta sẽ ngước lên mà không hổ thẹn với Ông Trời và cúi xuống chẳng xấu hổ với con người vậy! Amen!
Tháng 8/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Berkhof, Thần Học Hệ Thống, P. 59
Bài 289
Chuyện... Dư Dật Và... Thiếu Thốn
Kinh Thánh: Châm Ngôn 11: 25; Giăng 10: 10; Cô-lô-se 2: 7; III Giăng 2
Kính chào quý độc giả,
Dư dật hay thiếu thốn là hai điều trái ngược nhau.
Ai trong chúng ta cũng muốn mình có một đời sống dư dật, sung mãn, cả về vật chất lẫn về tinh thần, cả về thể xác lẫn về tâm linh. Không ai muốn mình sống một đời sống trong thiếu thốn, nghèo túng cả, nhất là thiếu thốn, nghèo túng về tâm linh.
Bạn đang có một đời sống dư dật hay đang sống trong thiếu thốn, khó nghèo?
Mỗi khi nhắc đến chuyện dư dật và thiếu thốn, tôi thường nhớ đến những câu ca dao, tục ngữ của ông cha ta nghe rất thấm thía như sau:
+ Trời sao Trời ở chẳng cân?
Kẻ ăn không hết, người lần không ra.
+ Cây khô nhúng nước cũng khô
Phận nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo.
+ Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống.
...
Kinh Thánh cho biết Chúa Giê-xu đến thế gian nầy để ban cho con người chúng ta một đời sống dư dật, sung mãn:
“Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt. Còn Ta đã đến để cho chiên được sự sống và sự sống dư dật.” (Sách Giăng 10: 10)
Từ "dư dật" trong tiếng Hy Lạp là “perisson”, nghĩa là "vượt trội, rất tốt đẹp"
Sự sống dư dật mà Chúa Giê-xu nói đến ở đây không phải là sự dư dật về của cải vật chất, mà bèn là sự dư dật trong đời sống tâm linh, một tâm linh sung mãn ở trong Ngài.
Con người chúng ta thường chỉ hay chú trọng đến một cuộc sống dư dật về của cải vật chất, mà ít quan tâm đến một đời sống sung mãn trong tâm linh. Trong khi đó một đời sống sung mãn trong tâm linh mới là yếu tố quyết định cho một cuộc đời được phước hạnh, chứ không phải là một đời sống dư dật về vật chất.
Một đời sống dư dật trong tâm linh là một đời sống như thế nào?
Đó là một đời sống mời Chúa Giê-xu làm Chủ, và để Ngài điều khiển cuộc đời mình đi theo ý muốn Ngài.
Một đời sống nếu chỉ có dư dật về vật chất thì đó là một đời sống rất nghèo nàn. Một đời sống thực sự có ý nghĩa là một đời sống giàu có về tâm linh. Và là một “đời sống theo đúng mục đích”(*).
Cùng trong một ý nghĩa dư dật như thế, Sứ Đồ Giăng đã có lời cầu nguyện rất sâu sắc: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự, và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy.” (Sách III Giăng, câu 2)
Thịnh vượng hay dư dật về phần linh hồn là điều quan trọng quyết định cho một đời sống có ý nghĩa đích thực.
Một khi bạn có được một đời sống dư dật trong Chúa Giê-xu rồi, thì bạn sẽ biết sống ban cho trong sự dư dật: “vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho, cả lời nói và sự hiểu biết.” (Sách 1 Cô-rinh-tô 1: 5)
Hội Thánh Ma-xê-đoan ngày xưa, dù cuộc sống vật chất họ còn khó khăn, nhưng lòng họ lại rất rộng rãi, dư dật: “Đang khi họ chịu nhiều hoạn nạn, thử thách, thì lòng quá vui mừng, và cơn rất nghèo khó của họ đã rải rộng ra sự dư dật của lòng rộng rãi mình.” (Sách 2 Cô-rinh-tô 8: 2)
Vua Sa-lô-môn đã từng nói: “Lòng rộng rãi sẽ được no nê. Còn ai nhuần gội, chính người sẽ được nhuần gội.” (Sách Châm Ngôn 11: 25)
...
Người ta hay nói, nhà chật không sợ, chỉ sợ lòng chật mà thôi.
Lòng rộng rãi, dư dật được phước bao nhiêu thì lòng chật hẹp, nghèo nàn sẽ mất phước bấy nhiêu!
Kinh Thánh nhắc chúng ta về điều cần phải dư dật trong đời sống, đó là dư dật trong sự cảm tạ, dư dật về lòng biết ơn: “hãy dư dật trong sự cảm tạ.” (Sách Cô-lô-se 2: 7)
Thế thường con người chúng ta rất dễ... thiếu lời cảm tạ Đức Chúa Trời, rất dễ... thiếu lời cảm ơn người khác trong đời sống.
Đức Chúa Giê-xu đã chữa lành mười người phung, nhưng Kinh Thánh xác nhận chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn Chúa mà thôi, còn đến chín người thì... thiếu lòng biết ơn (Sách Lu-ca 17: 11-19)
Cho nên, thiếu lời cảm ơn là một... thói quen rất xấu thường thấy nơi con người chúng ta, trải qua mọi thời đại; đặc biệt là thiếu lời cảm ơn Đức Chúa Trời!
Đức Chúa Trời đã ban cho con người cả vũ trụ nầy để hưởng thụ và quản trị, ấy thế mà có rất nhiều người thiếu mất đi lòng biết ơn Ngài, không chịu thờ phượng Ngài. Đó là một thiếu thốn lớn nhất, không có thiếu thốn nào lớn hơn thế!
Có một câu Kinh Thánh nhắc nhở, khích lệ chúng ta rất nhiều trong tinh thần sống dư dật và ban cho: “Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng.” (Sách Ê-phê-sô 3: 20)
Đức Chúa Trời luôn luôn ban cho chúng ta cách dư dật. Ngài luôn làm trổi hơn vô cùng những điều cầu xin và suy tưởng của chúng ta.
Chính Chúa Giê-xu đã từng hóa bánh ra nuôi đoàn dân đông đến trên năm ngàn người ăn no nê và còn dư lại đến mười hai giỏ đầy. Rồi hóa bánh nuôi hơn bốn ngàn người ăn và còn dư lại đến bảy giỏ đầy (Sách Ma-thi-ơ 14: 13-20, và 15: 29-39)
Cầu xin Chúa ban cho chúng ta có được một đời sống dư dật ơn phước Ngài để chúng ta cũng có thể sống trong tinh thần ban cho như Ngài đã ban cho và dạy chúng ta sống ban cho vậy.
Cầu xin Chúa cũng giúp cho chúng ta đừng thiếu thốn lời cảm tạ Ngài trong đời sống!
Nếu chúng ta có đức tin để sống rộng rãi, hào phóng như lời Chúa dạy, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm được một đời sống dư dật chẳng sai!
Tháng 8/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Tên một tác phẩm nổi tiếng thế giới của Mục Sư Rick Warren, người Mỹ. Ông là sáng lập viên và hiện đang là Mục Sư Quản Nhiệm Nhà Thờ Baptist Saddleback (California, Hoa Kỳ). Từng được Tạp Chí Time của Mỹ công nhận là 1 trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới (năm 2005).
Bài 290
Lời Êm Tai Hay Lời Ngay Thật?
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 12: 34; Lu-ca 3: 7; II Ti-mô-thê 2: 15 & 4: 3, 4; Gia-cơ 4: 4
Kính chào quý độc giả,
Thế thường, con người chúng ta ai nấy đều thích nghe những lời êm tai, những lời mật ngọt hơn là những lời khó nghe, nhưng ngay thật.
Tục ngữ, Ca dao Việt Nam có những câu về lời nói khá thú vị:
+ Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
+ Nói ngọt lọt đến xương.
+ Thẳng mực tàu, đau lòng gỗ.
+ Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng
...
+ Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
+ Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
+ Những người tính nết thật thà,
Đi đâu cũng được người ta tin dùng.
+ Tu thân rồi mới tề gia,
Lòng ngay nói thật gian tà mặc ai.
Và đây là những câu danh ngôn đáng suy ngẫm:
+ Tôi sống bằng cháo ngon chứ không bằng lời ngọt. (Molière)
+ Câu nói trái ý, phải xem nó có hợp lý không ; câu nói chiều lòng, phải xem nó có vô lý không. (Thư Kinh)
+ Lời nói trau chuốt là phù hoa, lời nói thẳng ngay là thành thật. Nói khó nghe là thuốc, nói ngọt ngào là bệnh tật. (Tục ngữ Trung Quốc)
+ Ở đâu có nhiều lời hoa mỹ thì ở đó thiếu tình yêu chân thật. (M.Gorki)
Nói sao để cho... vừa lòng nhau, chứ đừng nói để... mất lòng nhau, tức là phải nói những lời... êm tai người nghe.
...
Kinh Thánh cho biết con người thường chỉ thích nghe những lời êm tai hơn là nghe những lời ngay thật: “Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn.” (Sách 2 Ti-mô-thê 4: 3, 4)
“Những lời êm tai”, “những chuyện huyễn” là những điều rất nhiều người thích từ xưa cho đến nay. Nhưng “đạo lành” và “lẽ thật” thì người ta lại... bịt tai, quay lưng, không chịu nghe.
Đó là một điều nghe tưởng... nghịch lý, nhưng lại là một... thực tế phũ phàng trong cuộc sống.
Kể từ khi con người phạm tội xa cách Đức Chúa Trời, thì con người bị ma quỷ cám dỗ ưa sống và bước đi trong tối tăm, làm những việc tối tăm; ưa nghe những lời êm tai và chuyện huyễn, hơn là muốn nghe chân lý và lời hằng sống đến từ Đức Chúa Trời.
...
Chúa Giê-xu không nói những lời để làm êm tai chúng ta. Ngài phán những lời chân thật và ngay thẳng, những lời đem đến sự sống cho người nào có lòng mềm mại nhận lấy. Nhưng sẽ rất... shock cho những kẻ nào có lòng cứng cỏi và không chịu ăn năn.
Kinh Thánh xác nhận Chúa Giê-xu là Vầng Đá đối với người tin Ngài thì là đá quý, đối với kẻ chối bỏ Ngài là đá làm cho vấp ngã:
“Vì trong Kinh Thánh có chép rằng: Nầy, Ta đặt tại Si-ôn hòn đá góc nhà đã chọn lựa và quý báu. Ai tin đến đá ấy sẽ không bị xấu hổ. Vậy nên, cho anh em là kẻ đã tin, thì là đá quý; nhưng cho những kẻ không tin, thì hòn đá mà bị thợ xây nhà loại ra, bèn trở nên đá góc nhà, là đá gây cho vấp váp, là đá lớn làm cho sa ngã.” (Sách 1 Phi-e-rơ 2: 6, 7)
Ngài đã từng lên án mạnh mẽ giới lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ như những hạng thầy Thông giáo và người Pha-ri-si:
“Hỡi dòng dõi rắn lục, bay vốn là loài xấu, làm sao nói được sự tốt? Bởi vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra.” (Sách Ma-thi-ơ 12: 34)
“Dòng dõi hung ác gian dâm nầy xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng cho dấu lạ chi khác ngoài dấu lạ của đấng Tiên Tri Giô-na. Rồi Ngài bỏ họ mà đi” (Sách Ma-thi-ơ 16: 4)
Trong Ma-thi-ơ, chương 23, Chúa Giê-xu dành nguyên chương nầy để lên án thầy Thông giáo và người Pha-ri-si với ít nhất sáu, bảy lần, Ngài lặp đi lặp lại câu nói: “Khốn cho các ngươi, thầy Thông Giáo, và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình!”
Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa Giê-xu, cũng không nói những lời êm tai cho được lòng dân chúng, nhưng rao ra những sứ điệp rất ngay thật, thẳng thắn: “Vậy, Giăng nói cùng đoàn dân đến để chịu mình làm phép báp-têm rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn thạnh nộ ngày sau?” (Sách Lu-ca 3: 7). Và sau đó, đoàn dân đã ăn năn và chịu Giăng làm phép báp-têm (Sách Lu-ca 3: 21)
Gia-cơ cũng giảng cách mạnh mẽ, thẳng thắn khi dân sự vừa theo Chúa vừa theo đời, sống đời sống ... tà dâm thuộc linh: “Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao?” (Sách Gia-cơ 4: 4)
Trong thời Cựu Ước, khi dân sự phạm tội đi hàng hai, vừa thờ Đức Chúa Trời lại vừa đi theo thần Ba-anh, Chúa đã dùng Tiên Tri Ê-li để cảnh cáo tội lỗi của họ cách mạnh mẽ: “Đoạn Ê-li đến trước mặt dân sự mà nói rằng: Các ngươi đi giẹo hai bên cho đến chừng nào? Nếu Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, khá theo Ngài; nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời, hãy theo hắn. Song dân sự không đáp một lời.”(Sách 1 Các Vua 18: 21)
...
Bạn muốn nghe những lời êm tai để... chìu chuộng cái tôi của mình, cho... thỏa mãn lòng dục nó, hay là bạn muốn lắng nghe những lời ngay thật, thẳng thắn (dù đó là những lời khó nghe); nhưng có tác dụng tỉnh thức tấm lòng của chúng ta, có tác dụng “sửa ngay lại những chỗ cong khom” (theo ý trong sách Thi-thiên 146: 8) trong đời sống theo Chúa của chúng ta?
Kinh Thánh nhắc nhở những người có trách nhiệm rao giảng lời Ngài là phải rao giảng cách ngay thật: “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.” (Sách 2 Ti-mô-thê 2: 15)
Người giảng dạy lời Chúa cần phải có lòng ngay thẳng trong sự giảng dạy, chứ không nên chìu theo sở thích ham nghe những lời êm tai của con người, mà làm... cong queo lẽ thật, sẽ đặng tội với Chúa chẳng sai.
Chỉ có sự giảng dạy ngay thật lời Chúa mới đem lại sự tỉnh thức về linh hồn của tín đồ mà thôi (ý từ sách Hê-bơ-rơ 13: 17)
Cầu xin Chúa ban ơn, xức dầu cho các Thầy Giảng Tin Lành, các Mục Sư, Giáo Sư để dạn dĩ rao giảng lời Chúa cách mạnh mẽ, ngay thật theo ý muốn Chúa, để đem người nghe trở lại cùng Đức Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời chân thật và sự sống đời đời (ý từ Sách 1 Giăng 5: 20).
Cầu xin Chúa cho các con cái Chúa bỏ đi sở thích ham nghe những lời êm tai mà có hại cho linh hồn, và biết nghe Lời Chân Thật và Hằng Sống của Đức Chúa Trời để được cầm lấy sự sống thật cho đời sống của mình. A men!
Tháng 9/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 291
Chuyện... Trước Mặt Và... Sau Lưng
Kinh Thánh: Xuất 20: 3; Thi-thiên 16: 11; Ê-sai 38: 17; Ma-thi-ơ 10: 32, 33
Kính chào quý độc giả,
Trước mặt và sau lưng là hai phía trái ngược nhau nơi con người.
Trước mặt là nói đến những gì ở ngay trước mặt mình, sát mình nhất, gần mình nhất, và mình cần làm trước tiên. Còn sau lưng là nói đến những gì ở phía sau, không quan trọng lắm, hoặc là những thứ có thể... bỏ đi, không cần thiết.
Trước mặt còn nói đến những gì mình dễ thấy nhất, và sau lưng là nói đến những gì mình khó thấy được.
Kinh Thánh đề cập đến chuyện... trước mặt và... sau lưng khá nhiều.
Trước hết, trong 10 điều răn, Đức Chúa Trời có phán dạy dân sự của Ngải rằng:
“Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác.” (Sách Xuất Ê-díp-tô ký 20: 3).
Đó là điều răn đầu tiên mà con dân Chúa phải thi hành, tức là chỉ tôn thờ một mình Đức Chúa Trời mà thôi, không thờ phượng một thần nào khác ngoài Ngài.
Lý do, vì Ngài là Chân Thần duy nhất, là Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh như Nhà Lãnh Đạo Nê-hê-mi đã nói: “Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các từng trời, tức là Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh.” (Sách Nê-hê-mi 1: 5); Ngài cũng là Vua cao cả trên hết các thần. “Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời rất lớn. Là Vua cao cả trên hết các thần.” (Sách Thi-thiên 95: 3)
Vua Đa-vít là một vị vua rất kính sợ Chúa, và yêu mến Ngài. Ông đã từng bày tỏ lòng kính sợ Chúa và yêu mến Ngài của mình như sau: “Tôi hằng để Đức Giê-hô-va đứng ở trước mặt tôi. Tôi chẳng hề bị rúng động, vì Ngài ở bên hữu tôi.” (Sách Thi-thiên 16: 8)
Đa-vít kinh nghiệm rằng, khi ông để Chúa đứng trước mặt mình, có nghĩa là chỉ tôn thờ và hầu việc một mình Ngài mà thôi, thì ông có một đời sống mạnh mẽ vững vàng, không sợ hãi gì hết.
Bạn và tôi muốn có một đời sống mạnh mẽ, vững vàng trước mọi giống tố của cuộc đời, thì chúng ta cũng hãy để Đức Giê-hô-va đứng ở trước mặt mình như Đa-vít ngày xưa đã làm.
Đa-vít còn cho biết: “Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc. Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng.” (Sách Thi-thiên 16: 11)
Vâng, một cuộc đời biết tôn thờ và hầu việc một mình Đức Chúa Trời hằng sống sẽ là một cuộc đời đầy phước hạnh và vui mừng, vì Đức Chúa Trời chính là nguồn của mọi phước hạnh và vui mừng cho con người chúng ta.
Chúa Giê-xu có phán một lời rất quan trọng rằng: “Bởi đó, ai xưng Ta ra trước mặt thiên hạ, thì Ta cũng sẽ xưng họ trước mặt Cha ta ở trên trời. Còn ai chối Ta trước mặt thiên hạ, thì Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha ta ở trên trời.” (Sách Ma-thi-ơ 10: 32, 33)
Ước mong mỗi chúng ta biết mạnh dạn xưng danh Chúa ra trước mặt mọi người, đừng bao giờ chối bỏ danh Ngài trước mặt thiên hạ, để Chúa cũng sẽ xưng chúng ta ra trước mặt Cha Ngài ở trên trời.
Thánh Gia-cơ nhắc chúng ta một điều quan trọng cần nhớ: “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Sách Gia-cơ 4: 10)
Sống một đời sống hạ mình, khiêm nhường trước mặt Chúa là điều người theo Chúa không được phép quên, vì đó là bí quyết giúp chúng ta được ơn, được phước trước mặt Ngài. “Vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho người khiêm nhường.” (Sách 1 Phi-e-rơ 5: 5)
Phao-lô mỗi khi ông có lời khuyên nhủ người con thuộc linh của mình là Ti-mô-thê, ông thường dùng cụm từ “trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Giê-xu Christ” để cho Ti-mô-thê biết rằng những điều mà ông sắp nói với Ti-mô-thê là rất quan trọng, và Ti-mô-thê cần phải thực hiện nó một cách nghiêm túc trong chức vụ hầu việc Chúa của mình: “Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho mọi vật, và trước mặt Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng làm chứng tốt nơi Bôn-xơ Phi-lát, ta khuyên con phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta.” (Sách 1 Ti-mô-thê 6: 13, 14)
Hoặc một chỗ khác, Phao-lô cũng nói:
“Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng: Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi.” (Sách 2 Ti-mô-thê 4: 1, 2)
Ti-mô-thê biết điều đó, nên ông đã thực hiện những lời khuyên dạy của thầy mình là Phao-lô một cách tốt đẹp nhất trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Giê-xu Christ, Đấng mà ông đang tôn thờ và hầu việc. Nhờ vậy mà Ti-mô-thê đã hầu việc Chúa cách đẹp lòng Ngài.
...
Đó là chuyện... trước mặt. Còn đây là chuyện... sau lưng.
Vua Ê-xê-chia của Do-thái ngày xưa sau khi được Chúa cứu chữa khỏi chết và thêm cho ông những năm tháng nữa trong cuộc đời, ông đã ca tụng Đức Chúa Trời rằng: “Chúa đã yêu thương linh hồn tôi, đem no ra khỏi hầm hư nát; vì Chúa đã ném mọi tội lỗi tôi ra sau lưng Ngài.” (Sách Ê-sai 38: 17)
Có nghĩa là một khi Ngài đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta thì Ngài sẽ không còn nhớ đến nó nữa. Không giống như chúng ta, tha thì tha nhưng nhớ thì cứ nhớ, và khi cần nhắc lại thì cứ nhắc lại vậy. Có nghĩa là chúng ta chẳng thật sự tha lỗi cho anh em mình như lời Chúa dạy.
Gẫm lại đời sống theo Chúa của bạn và tôi, chắc chắn chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều thiếu sót và yếu đuối lắm phải không? Và một trong những điều thiếu sót và yếu đuối ấy là chúng ta chưa thực sự hết lòng tha lỗi cho anh em mình, như đáng phải tha thứ.
Xin Chúa thương xót và tha thứ cho những yếu đuối, bất toàn của mỗi một chúng ta, và ban cho chúng ta có được tấm lòng vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài (Sách Phi-líp 2: 13)
Tiên Tri Giê-rê-mi cho biết một khi Ngài tha thứ tội lỗi cho chúng ta rồi thì Ngài quên luôn chúng, chẳng hề nhớ đến nữa: “Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ tha sự gian ác chúng nó, và chẳng nhớ tội chúng nó nữa.” (Sách Giê-rê-mi 31: 34)
Đức Chúa Trời thật tuyệt vời!
Thánh Phao-lô ngày xưa đã quyết định bỏ lại tất cả mọi sự của thế gian nầy lại sau lưng để nhắm mục đích phía trước mặt mà theo đòi cuộc chạy đua thuộc linh cho được giựt giải về sự kêu gọi trên trời: “Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ.” (Sách Phi-líp 3: 13, 14)
...
Hãy quan tâm, chú ý đến những gì ở trước mặt chúng ta để thực hiện và hoàn thành cho thật tốt. Nhất là hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ, theo đòi cuộc chạy đua thuộc linh đã bày ra trước mặt, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời mà Chúa đã dành cho mỗi một chúng ta.
Hãy bỏ lại sau lưng những tội lỗi dễ vấn vương chúng ta trên linh trình theo Chúa để sống một đời sống đẹp lòng Ngài từ nay cho đến ngày mỗi một chúng ta được găp Chúa kính yêu của mình.
Xin Chúa ban phước cho mỗi một người trong chúng ta một cách đầy trọn ở trong Ngài! A men!
Tháng 9/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 292
Chuyện... Trước Hết Và... Sau Cùng
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 6: 33; Cô-lô-se 3: 14; I Ti-mô-thê 2: 1, 2; Khải Huyền 1: 17, 18
Kính chào quý độc giả,
Khi nói đến trước hết và sau cùng là ta muốn nói đến những chuyện ưu tiên và không ưu tiên để làm trong cuộc sống hoặc trong công việc.
Mỗi một ngày trôi qua trong cuộc sống, chúng ta đều có những công việc mà mình phải ưu tiên làm trước hết, những công việc không quan trọng thì làm sau; và việc ít quan trọng nhất thì làm sau cùng.
Trong cả cuộc đời của con người, chúng ta cũng cần phải biết được những việc quan trọng nhất thì phải ưu tiên thời gian và tâm lực để thực hiện trước hết; còn những công việc không quan trọng lắm thì từ từ giải quyết sau, từng bước theo thứ tự thời gian mình có.
Trước hết còn nói đến sự bắt đầu, và sau cùng là nói đến sự kết thúc.
Có những người có một bắt đầu rất tốt, nhưng lại có một kết thúc không tốt. Ngược lại, có những người có một bắt đầu không tốt chút nào, nhưng lại có một kết thúc rất tốt đẹp.
...
Theo bạn, việc quan trọng nhất trong cuộc đời của bạn mà bạn cần phải quan tâm để làm trước hết, đó là gì?
Chính Chúa Giê-xu đã phán truyền rằng: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Sách Ma-thi-ơ 6: 33)
“Tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài” có nghĩa gì?
Có nghĩa là tin nhận Ngài và có mối liên hệ mật thiết với Ngài là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của con người chúng ta, là điều con người cần tìm kiếm trước hết, cần ưu tiên số một trong cuộc đời. Không có điều nào quan trọng hơn điều đó.
Một khi bạn có Chúa trong cuộc đời và có một mối liên hệ mật thiết với Ngài, thì chính điều đó sẽ là nền tảng để bạn có một cuộc đời bình an, phước hạnh và thỏa nguyện.
Cuộc đời con người giống như một ngôi nhà. Nếu ngôi nhà đó có một nền móng vững chắc thì nó sẽ rất bền vững trước mưa gió, bão bùng. Cho nên việc cần làm trước tiên để có một ngôi nhà vững chắc, thì chúng ta phải xây một nền móng thật vững chắc.
Chúa Giê-xu giống như tảng đá khối rất chắc chắn cho bất cứ ai đứng trên tảng đá ấy.
Bạn đã có Chúa Giê-xu trong cuộc đời của mình chưa?
Kinh Thánh khuyên chúng ta: “Hãy nhờ cậy Đức Giê-hô-va đời đời, vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va là vầng đá của các thời đại!” (Sách Ê-sai 26: 4)
Kinh Thánh cũng cho biết một điều cần làm trước tiên trong cuộc đời của một người theo Chúa, ấy là “cầu nguyện” Chính Phao-lô đã khuyên nhủ Ti-mô-thê rằng: “Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh, yên ổn.” (Sách 1 Ti-mô-thê 2: 1, 2)
Trong việc thực hành đức tin theo Chúa, có hai điều Kinh Thánh dạy chúng ta phải để ý hơn mọi điều khác. Một điều trước hết, và một điều trên hết.
Điều trước hết đó là cầu nguyện. “Trước hết mọi sự, ta dặn rằng phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người... ”; nhưng đây là điều mà nhiều con dân Chúa thường hay... thực hiện sau, chứ không tuân giữ đúng như lời Chúa dạy. Đó là một... sai lầm cần phải được sửa lại cho đúng hầu Chúa đẹp lòng.
Điều trên hết đó là yêu thương. Kinh Thánh dạy: “Nhưng trên hết mọi sự đó, phải mặc lấy lòng yêu thương, vì là dây liên lạc của sự trọn lành.” (Sách Cô-lô-se 3: 14)
Đây cũng lại là điều mà nhiều người trong chúng ta chưa để lên trên hết trong mọi công việc làm của mình cho Chúa và cho anh em trong cộng đồng đức tin.
Xin Chúa thương xót tha thứ cho những yếu đuối, sai trật của mỗi chúng ta, và giúp chúng ta sửa ngay lại những chỗ cong khom dẫn đến mất phước nầy.
...
Đó là những điều... trước hết; và sau đây là những điều... sau cùng.
Chúa Giê-xu phán: “Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc. Hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến, song chưa là cuối cùng đâu.” (Sách Ma-thi-ơ 24: 6)
Khi chúng ta thấy giặc giả nổi lên khắp nơi, thì đừng bối rối, vì đó chưa phải là điều cuối cùng. Còn nhiều tai nạn lớn hơn thế rất nhiều sẽ đổ xuống thế giới tội ác nầy trước ngày Chúa Giê-xu trở lại, như “các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên đất đều bị đốt cháy cả.” (Sách 2 Phi-e-rơ 3: 10)...
Đó là những điều xảy ra bên ngoài xã hội. Còn đây là những điều xảy ra trong lòng con người trong thời kỳ sau cùng, là thời kỳ mà chúng ta đang sống:
“Hãy biết rằng trong ngày sau rốt (sau cùng-nv), sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời.” (Sách 2 Ti-mô-thê 3: 1-4)
Lòng con người trong thời kỳ sau cùng càng ngày càng độc ác đến đáng sợ. Và khi tội ác của con người đã đầy trọn rồi, và khi Tin Lành của Đức Chúa Trời được rao giảng ra khắp nơi đầu cùng đất thì Chúa Giê-xu sẽ trở lại, như Ngài đã tuyên bố:
“Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng, thì sẽ được cứu. Tin Lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (Sách Ma-thi-ơ 24: 13, 14)
Thánh Phi-e-rơ cho biết sự cuối cùng của thế giới nầy đã gần rồi, và là người tin Chúa, chúng ta cần phải “khôn ngoan, tỉnh thức và cầu nguyện”:
“Sự cuối cùng của muôn vật đã gần; vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện.” (Sách 1 Phi-e-rơ 4: 7)
Với tình trạng tấm lòng con người càng ngày càng trở nên độc ác hơn trong thời kỳ cuối cùng như Kinh Thánh đã cho biết ở trên, thì những điều cuối cùng người tin Chúa phải làm trong thời kỳ cuối cùng nầy, như Sứ đồ Phao-lô đã khuyên là:
“Rốt lại (sau cùng-nv), hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều cho có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến.” (Sách Phi-líp 4: 8)
Nói đến vấn đề trước hết và sau cùng, chúng ta không thể nào quên được lời phán vĩ đại của Đức Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã chết và sống lại và sống mãi mãi như sau:
“Đừng sợ chi, Ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng Sống, Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ.” (Sách Khải Huyền 1: 17, 18)
Có thể nói đây là lời phán vô cùng kỳ diệu, vô cùng vĩ đại, vô cùng quyền năng của Chúa Giê-xu.
Không có ai dám tuyên bố một lời như lời nầy của Chúa Giê-xu, vì Chúa Giê-xu là Đấng Tạo Hóa. Ngài hiện hữu từ ban đầu (trước hết), và Ngài còn lại cho đến sau vô tận (sau cùng). Ngài là Đấng Sống. Ngài đã chết trên thập tự giá vì tội của nhân loại, và rồi Ngài đã sống lại và sống đời đời. Ngài là Đấng đang cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ trong tay Ngài. Có nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tuyệt đối trên toàn cõi vũ trụ nầy.
...
Tôi vừa thưa với bạn chuyện... trước hết và... sau cùng! Và tôi cũng đã bày tỏ với bạn về Đấng Trước hết và Đấng Sau cùng!
Cảm tạ Chúa, tôi đã để Đấng trước hết và Đấng sau cùng làm chủ cuộc đời mình bao nhiêu năm qua, và tôi cảm nhận được một cuộc đời thỏa vui và đầy hy vọng. Còn bạn thì sao?
Nếu bạn muốn kinh nghiệm một cuộc đời thật sự phước hạnh và bình an như tôi đã từng kinh nghiệm, xin mời bạn hãy mời Chúa Giê-xu (Đấng trước hết và Đấng sau cùng) vào lòng, chắc chắn bạn sẽ kinh nghiệm được một cuộc đời như thế.
Xin mời bạn hãy đến với Chúa Giê-xu, Đấng trước hết và là Đấng sau cùng ngay hôm nay là ngày thuận tiện và là ngày cứu rỗi dành cho bạn, bạn nhé!
Thân chào bạn trong tình yêu thương vĩnh cửu của Đấng Trước Hết và Đấng Sau Cùng!
Tháng 9/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 293
Chuyện... Nhìn Xem
Kinh Thánh: Ê-sai 45: 22; Giăng 6: 40; Hê-bơ-rơ 12: 2
Kính chào quý độc giả,
Nhìn xem là một chuyện mà không ai trong chúng ta không làm trong cuộc sống hằng ngày, vì Ông Trời đã ban cho chúng ta mỗi người một đôi mắt để nhìn mà.
Ai đó đã nói rất hay về đôi mắt: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”.
Nhìn vào đôi mắt của một người, ta có thể biết một phần nào đó, một chút gì đó về tâm trạng, về nỗi lòng của người ấy.
Quả thật, đôi mắt “nói” lên cho chúng ta biết khá nhiều điều về một người nào đó phải không bạn?
Chúng ta thường dùng đôi mắt của mình để nhìn một ai đó, nhất là nhìn vào những con người nổi tiếng, có địa vị, danh vọng, quyền thế trong đời nầy để... học đòi theo họ, bắt chước họ trong cuộc sống. Có không ít người còn xem một số người nổi tiếng nào đó như là một thần tượng cho mình để sống nữa. Và tôi đã từng thấy có nhiều thần tượng của một số người đã... sụp đổ một cách không ai ngờ, và dĩ nhiên, như một... quy luật, những người chạy theo thần tượng đó cũng... suy sụp tinh thần một thời gian dài, thậm chí có người còn mất cả niềm tin vào mọi thứ trong cuộc đời nầy nữa.
Có ai ở dưới trời nầy đang làm cho bạn suy phục và tôn lên làm thần tượng cho cuộc đời mình không? Bạn đang có một thần tượng nào đó trong cuộc đời nầy, và đang nhìn xem họ như là cứu cánh cho cuộc đời mình chăng?
...
Trong lịch sử con người, cũng có nhiều những con người so với chúng ta, họ... vĩ đại thiệt và rất đáng nể trọng nữa. Có thể kể một vài tên tuổi như Alexander Đại Đế của Hy Lạp, Napoleon Bonaparte vĩ đại của Pháp, William Shakespeare của Anh, Apraham Lincoln của Mỹ, Albert Einstein của Đức, hay như Phật Thích Ca của Ấn Độ, Khổng Tử của Trung Quốc... v... v... và v... v...
Kinh Thánh cũng ghi lại nhiều tên tuổi đáng nể cho chúng ta học hỏi như Nhà Lãnh Đạo Môi se, Tể Tướng Giô-sép, Vua Đa-vít, Vua Sa-lô-môn, Các Sứ Đồ như Phi-e-rơ, Phao-lô...
Nhưng có thể nói những tên tuổi nổi tiếng đó cũng chỉ là những con người bằng xương bằng thịt không hơn không kém. Và vì là con người bằng xương bằng thịt, nên họ đều là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời. Kinh Thánh xác nhận rất rõ ràng: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Sách Rô-ma 3: 23). Mà đã là tội nhân, thì không ai xứng đáng để chúng ta thần tượng, để chúng ta tôn thờ cả. Những nhân vật nổi tiếng được sinh ra ở dưới trời nầy có thể đáng cho chúng ta tôn trọng, và học hỏi theo một số điều tốt nào đó trong cuộc đời của họ đã để lại; nhưng không xứng đáng để chúng ta tôn thờ trong cuộc đời.
Kinh Thánh không dạy chúng ta nhìn xem bất cứ một con người nào ở dưới trời để tin cậy và tôn thờ cả.
...
Kinh Thánh dạy chúng ta chỉ nhìn xem một đối tượng và tôn thờ, hầu việc một đối tượng ấy mà thôi.
Đối tượng đó không ai khác hơn là Đức Chúa Trời!
Chính Đức Chúa Trời đã phán rằng: “Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem Ta và được cứu! Vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác.” (Sách Ê-sai 45: 22)
Nếu nhìn xem, trông cậy, tôn thờ một con người nào đó ở dưới trời nầy, không sớm thì muôn chúng ta cũng sẽ thất vọng; nhưng một khi chúng ta nhìn xem Đức Chúa Trời, thì chúng ta sẽ không thất vọng bao giờ. Ngược lại, chúng ta sẽ nhận được sự cứu rỗi từ nơi Ngài ban cho.
Chúng ta thường hay nghe nói câu nầy mỗi khi ai đó đang ở trong chỗ tuyệt vọng, không lối thoát: “Chỉ có Trời cứu!”
Vâng, chỉ có Đức Chúa Trời mới là Đấng ban sự cứu rỗi cho con người mà thôi. Còn con người với con người chẳng có ai cứu rỗi được ai.
Chúa Giê-xu cũng đã từng phán rất rõ ràng: “Đây là ý muốn của Cha Ta, phàm ai nhìn Con (tức Chúa Giê-xu, nv) và tin Con, thì được sự sống đời đời. Còn Ta, Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt.” (Sách Giăng 6: 40)
Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời đã hiện thân làm người để chịu chết đền tội thay cho tội nhân trên thập tự giá cách đây hơn hai ngàn năm đã qua. Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết và sống mãi mãi, không bao giờ chết nữa. Cho nên, một khi chúng ta nhìn xem Ngài (tức tin nhận Ngài) thì chúng ta sẽ được sự sống đời đời.
Trước giả thơ Hê-bơ-rơ cũng xác nhận Đấng mà con người cần nhìn xem, đó chính là Đức Chúa Giê-xu: “Nhìn xem Đức Chúa Giê-xu là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời.” (Sách Hê-bơ-rơ 12: 2)
Chúa Giê-xu là Chiên Con không lỗi, không vít (Sách 1 Phi-e-rơ 1: 19), nghĩa là Ngài là Đấng trọn vẹn, là Đấng đáng cho con người nhìn xem, rồi đem lòng tin trọn vẹn mà tin cậy và thờ phượng.
Thưa bạn,
Chúng tôi xin mời bạn đến và nhìn xem Chúa Giê-xu là nguồn cội và cuối cùng của đức tin chúng ta để bạn hưởng được sự cứu rỗi của Ngài.
Nhìn xem bất cứ người nào dưới mặt trời nầy, rồi bạn cũng sẽ thất vọng và sụp đổ mất niềm tin mà thôi. Nhưng một khi bạn nhìn xem chính Chúa Giê-xu thì chắc chắn bạn sẽ không thất vọng bao giờ, vì Ngài đến để ban cho bạn và tôi sự sống và sự sống sung mãn.
Xin mời bạn lắng nghe lời phán của Chúa Giê-xu để được khích lệ mà sớm đến và nhìn xem Ngài ngay hôm nay: “Kẻ trộm (tức ma quỷ-nv) chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn Ta (Chúa Giê-xu, nv) đã đến, hầu cho chiên (tức người tin Ngài-nv) được sự sống, và được sự sống dư dật.” (Sách Giăng 10: 10)
Hay nhìn xem Chúa Giê-xu ngay hôm nay, và cầu xin Ngài ban ơn, dẫn dắt cuộc đời của bạn và tôi trong suốt linh trình từ đất cho đến Thiên Đàng vinh hiển trong tương lai! Amen!
Tháng 10/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 294
Chuyện... Cong Quẹo Và... Ngay Thẳng
Kinh Thánh: Thi-thiên 125: 4, 5; 146: 9; Châm Ngôn 15: 8; Gia-cơ 4: 8, 9
Kính chào quý độc giả,
Cong quẹo hay ngay thẳng là nói đến loại hình dạng của cái cây hay con đường, hoặc một sự vật nào đó.
Cong quẹo hay ngay thẳng cũng còn nói đến tâm tính hay tính cách của một con người.
Bạn thuộc hạng người có tính cách nào? Cong quẹo hay ngay thẳng? Dù không nói ra, nhưng tôi tin chính bạn và tôi tự trong lòng mình, mình biết là mình có tính cách nào.
Bạn thích người cong quẹo hay ngay thẳng?
Một câu hỏi không dễ trả lời phải không bạn?
Người cong quẹo nhiều khi... dễ chơi hơn người ngay thẳng. Người ngay thẳng ngó vậy mà không... dễ chơi với họ. Chơi với người cong quẹo thấy... dễ chịu hơn chơi với người ngay thẳng nhiều. Vì chơi với người ngay thẳng dễ bị họ... sửa lưng lắm. Còn chơi với người cong quẹo thì... sao cũng được, thẳng hay cong với họ không thành vấn đề.
Xin mời quý vị cùng thưởng thức một số câu ca dao, tục ngữ của cha ông ta nói về tính cong quẹo và ngay thẳng:
+ Thẳng mực thì đau lòng gỗ.
+ Thẳng như ruột ngựa.
+ Thuốc đắng giã tật - Sự thật mất lòng
+ Ăn ngay nói thật mọi tật mọi lành.
+ Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng.
+ Người gian thì sợ người ngay.
Người ngay chẳng sợ đường cày cong queo.
+ Cây (cong) vạy hay ghét mực tàu.
+ Cây thẳng bóng ngay, cây cong bóng vẹo.
+ Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt. Lỗi lầm luồn lách lại lên lương.
...
Có một câu chuyện về tính ngay thật với tựa đề “Hạt thóc giống” được kể như sau:
“Ngày xưa có một ông vua cao tuổi mà không có con cái nên muốn tìm người nối ngôi. Vua ra lệnh phát cho mỗi người dân một thúng thóc về gieo và giao hẹn: Ai gieo mà thu hoạch được nhiều thóc nhất sẽ được truyền ngôi và ai không có thóc sẽ bị trừng phạt.
Ở làng nọ, có chú bé tên là Chôm mồ côi cha mẹ. Cậu cũng đi nhận thóc về và cố chăm sóc mà không một hạt thóc nào nảy mầm. Đến mùa thu hoạch, mọi người chở thóc về kinh đô giao nộp cho nhà vua với vẻ mặt... hớn hở. Chôm cũng về kinh đô, nhưng đầy lo lắng trong lòng, chàng đến trước vua quỳ tâu:
- Tâu bệ hạ! Con cũng gieo thóc của nhà vua, nhưng sao nó không nảy mầm được bất cứ hạt nào? Con xin chịu trừng phạt ạ!
Mọi người sững sờ trước lời thú tội của Chôm, phen này sẽ bị phạt nặng nhưng nhà vua đã đỡ chú bé dậy, ôn tồn nói:
- Trước khi phát thóc giống, ta đã cho luộc kỹ hết rồi, nên không thể nào chúng còn nảy mầm được nữa? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta.
Rồi nhà vua dõng dạc tuyên bố:
- Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.”
Câu chuyện thật ý nghĩa và sâu sắc, đáng nhớ phải không bạn?
...
Kinh Thánh đề cập đến sự cong queo và ngay thẳng khá nhiều:
“Đức Giê-hô-va bảo hộ khách lạ, nâng đỡ kẻ mồ côi và người góa bụa; nhưng Ngài làm cong quẹo con đường kẻ ác.” (Sách Thi-thiên 146: 9)
Con đường kẻ ác là con đường xấu xa, độc ác. Và Đức Chúa Trời sẽ làm cho cong quẹo con đường của chúng.
“Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy làm điều lành cho người lành, và cho kẻ có lòng ngay thẳng.
Còn những kẻ trở đi theo đường cong quẹo, Đức Giê-hô-va sẽ dẫn chúng nó đi ra chung với kẻ làm ác. Nguyện bình an giáng trên Y-sơ-ra-ên!” (Sách Thi-thiên125: 4, 5)
Người có lòng ngay thẳng sẽ được Đức Chúa Trời ban ơn lành, còn những kẻ đi theo con đường cong quẹo, thì kết cuộc của nó sẽ thật là đáng sợ. Nó sẽ đi chung đường với kẻ làm ác, tức là con đường dẫn vào chốn trầm luân hư mất đời đời.
“Của tế lễ kẻ gian ác lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va, song lời cầu nguyện của người ngay thẳng được đẹp lòng Ngài.” (Sách Châm Ngôn15: 8)
Người có lòng gian ác, cong quẹo dù có dâng của tế lễ cũng sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời chấp nhận, trái lại, Ngài còn gớm ghiếc của tế lễ ấy nữa. Nhưng người sống ngay thẳng được đẹp lòng Đức Chúa Trời.
“Ai ăn ở cách ngay thẳng sẽ được cứu rỗi, còn ai đi theo hai lối cách cong vạy sẽ sa vào một trong hai lối ấy.” (Sách Châm Ngôn 28: 18)
Sống ngay thẳng (tức tin thờ Đức Chúa Trời) sẽ được sự cứu rỗi, còn những kẻ sống hai lòng, đi theo hai lối cong vạy (chối từ Đức Chúa Trời) sẽ sụp vào một trong hai lối ấy, không thể nào thoát khỏi được.
“Nhưng nầy là điều ta tìm được: Đức Chúa Trời đã dựng nên người ngay thẳng; nhưng loài người có tìm kiếm ra lắm muu kế.” (Sách Truyền Đạo 7: 29)
Đức Chúa Trời là Đấng chân thật, ngay thẳng, nên Ngài dựng nên người ngay thẳng. Nhưng khi con người bất tuân mạng lệnh của Ngài, nghe theo mưu chước của Sa-tan, sa vào tội lỗi thì họ tìm kiếm ra lắm mưu sâu kế hiểm, để rồi cuối cùng tự đưa mình vào chỗ xa cách sự sống của Đức Chúa Trời và dẫn vào chỗ chết.
...
Sống cong quẹo có thể... qua mặt được con người, vì con người chỉ có thể nhìn thấy được bên ngoài; nhưng không thể nào... qua mặt được Đức Chúa Trời, vì Ngài nhìn thấy tận trong lòng của mỗi một con người (Sách 1 Sa-mu-ên16: 7). Và “lời chưa ở trên lưỡi mình, Chúa cũng đã biết hết rồi.” (Sách Thi-thiên 139: 4)
Nếu chúng ta đang sống hai lòng, đi giẹo theo hai đường lối, thì hãy sớm ăn năn, từ bỏ để được Đức Chúa Trời thương xót và ban phước.
Vua Sa-lô-môn đã được Chúa dùng để khuyên dạy chúng ta: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra. Con hãy dẹp ra sự gian tà của miệng, Và bỏ cách xa con sự giả dối của môi. Mắt con hãy ngó ngay trước mặt, Và mí mắt con khá xem thẳng trước mặt con. Hãy ban bằng cái nẻo của chân con đi, Và lập cho vững vàng các đường lối con. Chớ xây qua bên hữu hay bên tả; Hãy dời chân con khỏi sự ác.” (Sách Châm Ngôn 4: 23-27)
Thánh Gia-cơ cũng nhắc nhở chúng ta: “Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình., có ai hai lòng hãy làm sạch lòng đi. Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn.” (Sách Gia-cơ 4: 8, 9)
Xin Chúa giúp đỡ cho bạn và tôi biết sống trung thực, ngay thẳng hầu đẹp lòng Ngài.
Hãy nhìn xem Chúa Giê-xu là cội rễ và cuối cùng của đức tin chúng ta mà bước đi theo Ngài suốt linh trình từ đất cho đến Thiên Đàng vinh hiển trong tương lai.
Đừng sống cong quẹo theo con đường kẻ ác, sống vô thần, chối từ Đức Chúa Trời mà sẽ bị Ngài đoán phạt chẳng sai.
Tháng 11/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu.
Bài 295
Mùa Tạ Ơn, Học Cách... Tạ Ơn Của Người Xưa
Kinh Thánh: Thi-thiên 50: 14, 23; 103: 2-5; Mác 6: 41; Cô-lô-se 3: 15, 17
Kính chào quý độc giả,
Tháng Mời Một lại về, có nghĩa là Mùa Tạ Ơn đã đến với chúng ta.
Ngay từ đầu tháng 11, không khí của Lễ Tạ Ơn và Lễ Giáng Sinh đã rộn ràng nhiều nơi trên đất Mỹ làm ấm lòng nhiều người, dù bên ngoài thời tiết lạnh giá đã phủ bao.
Nhân Mùa Tạ Ơn năm nay, xin kính mời quý độc giả cùng tôi học cách Tạ Ơn của người xưa trong Kinh Thánh.
Kinh Thánh là một quyển sách bày tỏ về chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu Christ. Kinh Thánh cũng là quyển sách nói nhiều đến lòng biết ơn, nói nhiều về sự Tạ Ơn.
Lòng biết ơn là điều mà chính Đức Chúa Trời đã đặt để trong tâm hồn con người ngay từ khi Ngài sáng tạo nên họ.
Khi đọc các Thi-thiên, ta thấy các Thi Sĩ thường dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời, Đấng mà họ đang tôn thờ và hầu việc.
Hãy nghe các Thi Sĩ cảm tạ Chúa:
+ Nhà Thơ A-sáp đã kêu gọi mọi người kính sợ Đức Chúa Trời hãy dâng lên cho Ngài sự cảm tạ như một của lễ với lòng trân trọng, thành kính. Một khi chúng ta dâng lên cho Chúa sự cảm tạ như một của lễ là chúng ta đang tôn vinh Ngài vậy:
“Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Đức Chúa Trời. Và trả sự hứa nguyện ngươi cho Đấng Chí cao... Kẻ nào dâng sự cảm tạ làm của lễ, tôn vinh Ta.” (Thi-thiên 50: 14, 23)
+ Tác giả Thi-thiên 100 đã bày tỏ lòng cảm tạ của mình với Chúa thật sâu sắc:
“Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài. Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài. Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài. Vì Đức Giê-hô-va là thiện, sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi. Và sự thành tín Ngài còn đến đời đời.” (Thi-thiên 100: 4, 5)
Lý do cảm tạ Chúa ở đây vì Ngài là Đấng thiện lành, Đấng nhân từ và Đấng thành tín. Sự thiện lành, sự nhân từ và sự thành tín của Ngài còn có đời đời mãi mãi, không bao giờ qua đi, vì Ngài là Đấng đời đời, mãi mãi.
+Nhà Vua kiêm Đại Thi Hào Đa-vít thì cảm tạ Chúa như sau:
“Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va. Chớ quên các ân huệ của Ngài. Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi. Chữa lành mọi bịnh tật ngươi.
Cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát. Lấy sự nhân từ và sự thương xót mà làm mão triều đội cho ngươi. Ngài cho miệng ngươi được thỏa các vật ngon. Tuổi đang thì của người trở lại như của chim phụng hoàng.” (Thi-thiên 103: 2-5)
Cảm tạ Chúa vì Ngài đã tha thứ các tội lỗi cho chúng ta; chữa lành mọi bịnh tật của chúng ta, Ccu chuộc mạng sống chúng ta. Đối xử với chúng ta bằng sự nhân từ và sự thương xót, chứ không luôn luôn bắt tội chúng ta. Ban cho chúng ta những vật ngon để thưởng thức, và ban cho chúng ta tuổi tác và sức khỏe để sống và làm việc.
Những ơn lành của Ngài làm cho chúng ta nhiều như thế làm sao chúng ta không cảm tạ Chúa cho được phải không bạn?
+ Tác giả Thi-thiên 118 thì cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài là Đức Chúa Trời của chính tác giả. Và theo tác giả, một khi cảm tạ Chúa là ta đã tôn cao Ngài trong đời sống của mình:
“Chúa là Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ cảm tạ Chúa. Chúa là Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ tôn cao Chúa.” (Thi-thiên 118: 29)
...
Trong Tân Ước, Chúa Giê-xu và các người thánh của Ngài cũng luôn luôn cảm tạ Chúa và nhắc nhở chúng ta cảm tạ Ngài.
Chúa Giê-xu, dù Ngài cũng là Đức Chúa Trời, nhưng trên cương vị một con người khi ở trần gian, Ngài cũng luôn luôn tạ ơn Đức Chúa Cha trong chức vụ của Ngài. Ngài tạ ơn Đức Chúa Cha trước khi hóa bánh nuôi đoàn dân đông:
“Đức Chúa Giê-xu lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa.” (Mác 6: 41)
Ngài tạ ơn Đức Chúa Cha khi thiết lập Lễ Tiệc Thánh:
“Khi đương ăn, Đức Chúa Giê-xu lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể Ta. Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi; vì nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Ma-thi-ơ 26: 26-28)
Chúa Giê-xu thật là một tấm gương tuyệt vời để chúng ta noi theo trong sự tạ ơn trong cuộc đời của mình.
...
Học theo Chúa Giê-xu, các sứ đồ của Ngài, đặc biệt là Phao-lô, luôn luôn tạ ơn Ngài trong cuộc đời của mình.
Trong các thư tín của Phao-lô, chúng ta thấy ông luôn luôn bày tỏ lòng biết ơn, sự tạ ơn Đức Chúa Trời. Lời tạ ơn đầy tràn trong các thư tín của ông:
+ “Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời là Cha chúng ta.” (Ê-phê-sô 5: 20)
+ “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự, hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phi-líp 4: 6)
+ “Hãy châm rễ và lập nền trong Ngài, lấy đức tin làm cho bền vững, tùy theo anh em đã được dạy dỗ, và hãy dư dật trong sự cảm tạ.” (Cô-lô-se 2: 7)
+ “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Giê-xu mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Cô-lô-se 3: 17)
+ “Phải bền đỗ và tỉnh thức trong sự cầu nguyện, mà thêm sự tạ ơn vào.” (Cô-lô-se 4: 2)
+ “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; ví ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5: 18)
Qua những câu Kinh Thánh trên, chúng ta thấy một điều từ lời Chúa dạy, ấy là sự tạ ơn phải luôn đi đôi với lời cầu nguyện, cầu xin của chúng ta: “Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta (tức là cầu nguyện), vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời là Cha chúng ta.” “Nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn... ” “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Giê-xu (tức là cầu nguyện) mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha.”
Lý do là vì Chúa biết chúng ta thường hay cầu xin nhiều mà tạ ơn ít hoặc... quên tạ ơn.
Chúng ta thường... dư lời cầu xin, và thường... thiếu lời tạ ơn. Đó cũng là một trong những lý do khiến chúng ta thiếu đi phước hạnh của Ngài, và niềm vui ở trong Ngài vậy!
Cho nên chúng ta cần nhớ: “Hãy dư dật trong sự cảm tạ.”, và phải “Phải thêm sự tạ ơn vào.”
Xin lời Chúa nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng sự tạ ơn luôn luôn đi đôi với lời cầu nguyện. Phải chăng đó là... bí quyết để chúng ta nhận được ơn phước và sự thỏa vui từ Chúa?
Còn nhiều chỗ khác trong Kinh Thánh dạy về lòng biết ơn, sự tạ ơn Đức Chúa Trời nữa, nhưng chúng ta không có đủ thì giờ để bày tỏ trong bài viết ngắn ngủi nầy. Hy vọng một dịp khác, chúng ta sẽ được học hỏi nhiều hơn.
Xin Chúa ban cho mỗi một chúng ta học cách tạ ơn Đức Chúa Trời trong đời sống của mình qua những người xưa trong Kinh Thánh, hầu đời sống chúng ta thiếu gì thì thiếu, nhưng từ nay trở đi, sẽ không thiếu sự tạ ơn Đức Chúa Trời, để đời sống chúng ta được phước và có nhiều niềm vui trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài.
Kính chúc mọi người một Mùa Lễ Tạ Ơn đầy tràn niềm vui từ Đấng “có lòng thương xót, hay làm ơn, chậm nóng giàn và đầy sự nhân từ” (Thi-thiên 103: 8) ban cho chúng ta. A men!
Mùa Tạ Ơn 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 296
Mùa Tạ Ơn, Nói Chuyện... Cội Nguồn
Kinh Thánh: Thi-thiên 139: 13, 14; II Cô-rinh-tô 9: 15
Kính chào quý độc giả,
Một trong những tháng được nhiều người đón chờ trong năm, nhất là người Mỹ, đó là tháng Mười Một.
Vì tháng Mười Một là tháng được người Mỹ dành ra để Tạ Ơn Đức Chúa Trời, và cảm ơn người.
Tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã làm nhiều điều lớn lao cho dân tộc Mỹ, cho đất nước Mỹ từ khi mới thành lập cho đến ngày hôm nay. Dù là đất nước... sinh sau đẻ muộn, mới chừng chưa tới ba trăm năm mà thôi, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho họ giàu có, hùng mạnh, xinh đẹp, trở thành cường quốc số một thế giới, chưa có nước nào... qua mặt được.
Cảm ơn người, vì đất nước Mỹ có nhiều những con người góp phần khai mở đất nước nầy, rồi chung tay xây dựng nên một đất nước pháp trị ở dưới quyền của Đức Chúa Trời, và tin cậy Đức Chúa Trời (IN GOD WE TRUST). Nước Mỹ có nhiều những Tổng Thống nổi tiếng cả thế giới, nhưng mộ của họ đơn sơ, giản dị, không là đền đài lăng tẩm nguy nga. Nước Mỹ cũng có nhiều những con người có những đóng góp hàng đầu cho sự phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới, như anh em nhà Wright, những người sáng chế chiếc máy bay đầu tiên; Samuel F.B. Morse, người lập ra bảng chữ đánh morse; Alexander Bell, người sáng chế ra điện thoại. Các nhà khoa học lừng danh như Albert Eistein; Jonas Salk. Mark Elliot Zuckerberg là một nhà lập trình máy tính và là một doanh nhân công nghệ. Larry Page và Sergey Brin là hai người sáng chế ra Google vào năm 1998, là công cụ tìm kiếm nổi tiếng thế giới. Mỹ cũng là nước có nhiều tỷ phú nhất thế giới, và người giàu nhất thế giới hiện nay cũng là một người Mỹ, đó là Elon Musk với tài sản hơn 200 tỷ USD...
...
Mùa tạ Ơn là mùa người ta dành để nhớ về cội nguồn, tri ân nguồn cội. Vì không có cội nguồn, thì sẽ không có hậu thế. Không có những người... tiền sinh thì sẽ không có những kẻ... hậu sinh.
Người Việt Nam chúng ta có những câu tục ngữ rất sâu sắc:
“UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN”
“CÂY CÓ CỘI, NƯỚC CÓ NGUỒN”
Để có nước chúng ta uống, chúng ta phải biết đến ngọn nguồn của nó.
Nguồn là nơi xuất phát ra một cái gì đó để đem lại ích lợi cho con người. Như nước chúng ta sử dụng hằng ngày đều có nguồn mạch. Hoặc là từ mạch nước ngầm dưới lòng đất, người ta đào giếng xuống và mạch nước văng lên, cho ta nước uống. Hoặc là từ trong nguồn ở trên những đỉnh núi cao chảy xuống đem nước uống và nước sử dụng cho ta.
Để có ánh sáng, thì tất cả các bóng đèn phải được kết nối với dòng điện, và dòng điện đó phải được kết nối với máy phát điện. Máy phát điện là nguồn phát ra điện để cho ta ánh sáng.
“NGUỒN”, hay “CỘI NGUỒN” là rất quan trọng. Biết “Nguồn” hay biết “Cội Nguồn” giúp chúng ta biết sống làm một con người đúng đắn và có giá trị, vì biết nghĩ đến nguồn cội, nhớ về nguồn cội.
Bạn có bao giờ dành thì giờ suy nghĩ đến “CỘI NGUỒN” của con người là ai không?
Nếu chịu khó làm một phép tính... truy tìm “Nguồn Cội” từ mình ngược về phía trước hay lên phía trên, thì ta sẽ tìm được về đúng “Nguồn Cội” của mình thôi. Ta do cha mẹ sinh ra. Cha mẹ ta do ông bà sinh ra. Ông bà ta do ông bà cố sinh ra. Ông bà cố do ông bà tổ sinh ra. Ông bà tổ do ông bà tằng sinh ra. Ông bà tằng do ông bà viễn sinh ra. Ông bà viễn do ông bà cao viễn sinh ra... Cứ thế, đếm ngược lên mãi, lên mãi, lên mãi... ,ta sẽ phải công nhận như người xưa đã nói rằng “Thiên sanh nhơn” (tức Trời sanh người) vậy.
Vua Đa-vít nổi tiếng của người Do-thái ngày xưa đã khẳng định: “Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi. Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.” (Sách Thi-thiên 139: 13, 14)
Và như vậy, trên Trời là không có ai nữa hết. Ông Trời là đứng đầu, là “Cội Nguồn” duy nhất của con người chúng ta.
Nếu bạn nói bạn đang nhớ về “Cội Nguồn”, bạn đang biết ơn “Cội Nguồn”, mà bạn chưa tôn thờ, chưa nhớ ơn Ông Trời là bạn đang mới nhớ ở đoạn giữa, đang biết ơn ở đoạn giữa mà thôi, chứ chưa đến đúng “Cội Nguồn” đâu. Cho đến khi nào, bạn tìm về với Ông Trời, tôn thờ Ngài, thì lúc bấy giờ, bạn mới nhớ về “Cội Nguồn”, biết ơn “Nguồn Cội” đúng đắn và chính xác vậy.
...
Mùa Tạ Ơn là mùa trở về.
Ngày Lễ Tạ Ơn ở Mỹ, người ta ở khắp mọi nơi đều trở về nhà mình, nhà cha mẹ mình để đoàn tụ, để gặp mặt cha mẹ, anh em, con cháu cùng nhau ăn uống vui vẻ, và để bày tỏ lòng biết ơn, lòng hiếu thảo với cha mẹ của mình. Đặc biệt là để dâng lên lời Tạ Ơn Đức Chúa Trời đã ban cho mình có gia đình, cha mẹ, con cái, và ban cho mình sự sống, sức khỏe cùng nhiều điều khác nữa...
Mùa Tạ Ơn năm nay, xin mời bạn hãy cùng tôi làm một cuộc trở về với Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo nên mình và ban cho mình cuộc đời nầy bạn nhé.
Ca dao có câu thật hữu lý rằng:
“Con chim nó hót trên cao/ Ông Trời không có làm sao có mình/ Con chim nó hót trên cành/ Ông Trời không có, có mình làm sao.”
Nếu không có Ông Trời thì sẽ không có mình và không có tất cả.
Ngược lại, có Ông Trời thì mới có mình và có tất cả mọi sự cho mình.
Hãy trở về với Cội Nguồn, trở về với Đức Chúa Trời là Cha thiên thượng, nhân từ của con người chúng ta.
Cách để bày tỏ lòng biết ơn tốt nhất, đúng nhất, đầy đủ nhất là trở về với Đấng đã sáng tạo nên mình là Đức Chúa Trời.
Mọi người đều trở về nhà cha mẹ mình trong Mùa Tạ Ơn hằng năm.
Bạn đã trở về nhà Cha thiêng liêng chưa? Nếu chưa, thì hôm nay là cơ hội tốt nhất, dịp tiện quý nhất để bạn làm điều đó. Đừng để ngày mai, vì ngày mai chưa chắc sẽ đến với chúng ta đâu.
Hãy nhớ, Chúa đang chờ đợi bạn trở về với Ngài ngay hôm nay.
Sau khi bạn trở về nhà Cha là Đức Chúa Trời, bạn sẽ kinh nghiệm một sự sống mới do Ngài ban cho. Và đây mới là sự sống đích thực vì sống không phải chỉ là ăn uống, làm việc, đi đứng, nói năng, giao tiếp giữa người với người; nhưng sống đích thực là sống trong mối tương giao với Ðấng Tạo Hóa.
Cuộc đời nầy sẽ là vô nghĩa, nếu bạn chỉ sinh ra đời, sống mấy mươi năm trong lao khổ và buồn thảm, rồi chết. Ðời sống đích thực phải có một cái gì đó vượt lên trên những điều tầm thường ấy. Đời sống đích thực là đời sống tìm về đúng “Cội Nguồn” của con người là Đức Chúa Trời để tin cậy và tôn thờ Ngài mãi mãi trong cuộc đời nầy. Và đời sau sẽ được về ở trên Thiên Đàng là nhà đời đời dành cho những người tin nhận Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời.
Văn hào người Pháp, J.M Massieu có nói: “Tri ân là trí nhớ của con tim.”
Hãy để con tim bạn nói lên lời Tạ Ơn “CỘI NGUỒN” của mình là Đức Chúa Trời ngay trong mùa Tạ Ơn năm nay bạn nhé.
Cầu xin Đức Chúa Trời là “CỘI NGUỒN” của con người ban cho mỗi một chúng ta hưởng một Mùa Tạ Ơn thật nhiều niềm vui và hạnh phúc bên những người thân yêu.
Ước mong bạn sẽ có thể cùng tôi đồng thanh nói lời Tạ Ơn Chúa như Thánh Phao-lô ngày xưa đã nói:
“Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!” (Sách 2 Cô-rinh-tô 9: 15)
Mùa Tạ Ơn 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 297
Mùa Giáng Sinh, Nói Chuyện... Ngợi Khen
Kinh Thánh: Lu-ca 1: 46-48, 68, 69; 2: 10-12, 16, 20, 28-32, 36-38
Kính chào quý độc giả,
Giáng Sinh là mùa của tình yêu, mùa của ban cho. Giáng Sinh cũng là mùa để tặng quà và nhận quà, vì đó là mùa của sự vui mừng. Hơn thế nữa, Giáng Sinh còn là mùa của ơn phước, mùa của sự ngợi khen nữa.
Nhân mùa Giáng Sinh về, xin được thưa chuyện với quý độc giả yêu quý gần xa về chuyện... ngợi khen.
Hãy trở về với Giáng Sinh đầu tiên để cùng cảm nhận sự ngợi khen của những nhân vật trong Lễ Giáng Sinh cách đây hơn hai ngàn năm.
Trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên, ngoài những hận thù, ghen ghét từ giới cầm quyền như vua Hê-rốt cùng giới tăng lữ lãnh đạo tôn giáo như các thầy Tế lễ cả và các thầy Thông giáo, vì sợ mất ngôi, và mất ảnh hưởng của mình trước tin một vị Vua mới ra đời; thì chúng ta thấy có rất nhiều những con người khi nghe báo tin Chúa sẽ hạ sinh, họ đã vui mừng ngợi khen Ngài.
Mẹ phần xác của Chúa Giê-xu có lẽ là người vui mừng nhất trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên. Kinh Thánh ghi lại chính bà đã thể hiện sự vui mừng đó qua những lời ngợi khen khi được mang thai Chúa Giê-xu như sau:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi. Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước.” (Sách Lu-ca 1: 46-48)
Bà Ma-ri ngợi khen Đức Chúa Trời vì bà được cái diễm phúc đặc biệt là giữa muôn người nữ trên thế gian nầy, thì bà được Ngài chọn làm mẹ phần xác của Chúa Giê-xu. Sự vui mừng của bà không phải là sự vui mừng hời hợt, chóng qua bên ngoài, mà là một sự vui mừng tận sâu thẳm trong tâm thần, do Chúa ban cho.
Bà Ma-ri xác nhận rõ bà chỉ là tôi tớ của Chúa mà thôi, chứ không phải là... Mẹ Đức Chúa Trời như nhiều người cố tình gán ghép cho bà, để đưa bà đi quá xa, và lên quá cao. Đó là một việc làm phạm thượng đáng phải bỏ đi để được Chúa thương xót và ban phước.
Người thứ hai ngợi khen Đức Chúa Trời về việc Chúa Giê-xu sanh ra là Thầy tế lễ Xa-cha-ri, cha của Giăng Báp-tít, người dọn đường cho Chúa Giê-xu:
“Ngợi khen Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì đã thăm viếng và chuộc dân Ngài, cùng sanh ra cho chúng tôi trong nhà Đa-vít, tôi tớ Ngài, một Đấng Cứu Thế có quyền phép.” (Sách Lu-ca 1: 68, 69)
Lý do Thầy tế lễ Xa-cha-ri ngợi khen Đức Chúa Trời là vì Chúa đã thăm viếng và ban sự cứu chuộc cho dân sự Ngài qua nhà Đa-vít, một Đấng Cứu Thế đầy quyền năng.
Khi nói về sự ngợi khen, ta cũng không thể nào không nhắc đến một nhóm người tầm thường trong xã hội, nhưng sự ngợi khen của họ đã để lại ấn tượng không thể nào quên được cho nhân loại trong hơn hai ngàn năm qua, đó chính là các anh chăn chiên. Ngay trong đêm Chúa Giê-xu sanh ra tại tiểu thôn cô quạnh Bết-lê-hem, các anh chăn chiên, theo lời thiên sứ báo, và dấu hiệu thiên sứ chỉ, đã đến tận nơi chiêm ngưỡng Chúa Hài Đồng, và rồi trở về trong vui mừng, ngợi khen Đức Chúa Trời:
“Thiên sứ bèn phán rằng: Đừng sợ chi, vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân. Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa. Nầy là dấu cho các ngươi nhìn nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một Con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ... Vậy, họ vội vàng đi đến đó, thấy Ma-ri, Giô-sép, và thấy Con trẻ đang nằm trong máng cỏ... Bọn chăn chiên trở về làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều mình đã nghe và thấy y như lời đã bảo trước cùng mình.” (Sách Lu-ca 2: 10-12, 16 và 20)
Tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường tiếp nhận Tin Mừng Chúa giáng sinh của các anh chăn chiên thật đáng yêu và đáng học hỏi. Bởi tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường ấy mà Chúa đã ban cho các anh một đời sống vui mừng thật sự trong tâm hồn.
Đó cũng là cách tốt nhất mà bạn và tôi ngày hôm nay đến với Tin Mừng giáng sinh. Hãy đến với Chúa bằng tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường, bạn sẽ được Đức Chúa Trời thương xót và ban phước. Một đời sống vui mừng thật sự từ bên trong sẽ tuôn chảy trên cuộc đời bạn, như nó đã tuôn chảy trong cuộc đời của các anh chăn chiên năm xưa vậy.
Trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, Kinh Thánh cũng cho biết có cụ Si-mê-ôn là một người công bình, đạo đức đã được vinh dự “bồng ẵm Con trẻ, mà ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: Lạy Chúa, bây giờ, xin Chúa cho tôi tớ Chúa được qua đời bình an, theo như lời Ngài. Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài, mà Ngài đã sắm sửa đặng làm ánh sáng trước mặt muôn dân, soi khắp thiên hạ. Và làm vinh hiển cho dân Y-sơ-ra-ên là dân Ngài.” (Sách Lu-ca 2: 28-32)
Đây là một lời ngợi khen rất giá trị và sâu sắc. Cụ Si-mê-ôn cảm nhận được một sự bình an tận sâu thẳm trong tâm hồn khi cụ nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Và cụ bình an khi xin Chúa cho qua đời, bởi cụ đã thỏa mãn khi hưởng được sự cứu rỗi của Chúa.
Chết khi chưa nhận được sự cứu rỗi của Chúa là cái chết kinh khiếp và đầy lo sợ, vì sẽ bị đoán phạt trong Hỏa Ngục có diêm cháy bừng bừng cả ngày lẫn đêm đời đời, không bao giờ dứt. Nhưng chết sau khi đã tiếp nhận sự cứu rỗi của Chúa là cái chết bình an và phước hạnh thật sự như từng trải của cụ Si-mê-ôn ngày xưa. Lời Chúa trong sách Khải Huyền đã xác nhận chân lý nầy: “Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Phải, vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau.” (Sách Khải Huyền 14: 13)
Bạn đã nhận được tin Mừng cứu rỗi cho cuộc đời mình chưa?
Một lời ngợi khen đầy ý nghĩa nữa trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên, ấy là lời ngợi khen của bà Tiên tri An-ne:
“Lại có bà Tiên tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, về chi phái A-se, đã cao tuổi lắm. Từ lúc còn đồng trinh, đã ở với chồng được bảy năm, rồi thì ở góa. Bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi, chẳng hề ra khỏi đền thờ, cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Một lúc ấy, người cũng thình lình đến đó, ngợi khen Đức Chúa Trời, và nói chuyện về Con trẻ với mọi người trông đợi sự giải cứu của thành Giê-ru-sa-lem.” (Sách Lu-ca 2: 36-38)
Bà An-ne ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài đã ban sự giải cứu cho nhân loại. Sự giải cứu đó chính là Con trẻ Giê-xu đã được ban cho con người chúng ta.
Kinh Thánh xác nhận rằng: “Người (tức Ma-ri, nv) sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Giê-xu, vì chính Con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” (Sách Ma-thi-ơ 1: 21)
Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại, là giải pháp duy nhất cho vấn đề tội lỗi của con người, như Sứ đồ Phi-e-rơ ngày xưa đã khẳng định: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ 4: 12)
...
Đó là những con người và những lời ngợi khen được Kinh Thánh ghi lại trong dịp Lễ Giáng Sinh đầu tiên.
Giáng Sinh là cơ hội để con người chúng ta nhận biết tình yêu thương vô bờ bến của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Giáng Sinh là cơ hội để chúng ta mở lòng tiếp nhận ơn cứu rỗi từ Thiên thượng ban cho, để qua đó, chúng ta dâng lời ngợi khen Đức Chúa Trời về món quà cứu rỗi quý báu và kỳ diệu đã được ban cho chúng ta hơn hai ngàn năm qua.
Xin mời bạn hãy cùng tôi hòa lòng với các người thánh xưa trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên để dâng lên Đức Chúa Trời lời ngợi khen, chúc tụng ân điển lớn lao của Ngài đã dành cho chúng ta qua sự kiện “TRỜI TRỞ THÀNH NGƯỜI” không tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người.
Kính chúc mọi người một mùa Giáng Sinh thât nhiều niềm vui và đầy lời ngợi khen Đức Chúa Trời!
Tháng 12/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 298
Cảm Nhận Giáng Sinh
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 2; Lu-ca 2; I Ti-mô-thê 1: 15
Kính chào quý độc giả,
Mùa Giáng Sinh 2022 đã và đang về với nhân loại trên cả hoàn vũ.
Khắp mọi nơi, ta đều dễ dàng thấy không khí ấm áp của mùa Giáng Sinh tràn ngập, dù bên ngoài trời có gió lạnh và... mưa vẫn mưa bay.
Mỗi lần Giáng Sinh về, bạn có cảm nhận gì? Trái tim bạn cảm thấy thế nào khi mùa Yêu Thương đến?
Bao giờ cũng vậy, mỗi khi Giáng Sinh về là tim tôi lại rộn lên bao cảm xúc khó tả.
Nhìn cảnh người ta hớn hở mua sắm chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh tại nhà riêng hay tại Nhà thờ, hoặc tại những nơi công cộng một cách thật đẹp đẽ, thật ấn tượng; khiến nhiều người qua lại không thể không hướng tầm mắt mình vào đó để ngắm nhìn, để thưởng thức, mà lòng tôi trào dâng bao cảm xúc vui buồn lẫn lộn.
Vui vì thấy người ta còn biết... nhớ đến ngày Giáng Sinh để mua sắm trang trí Giáng Sinh làm đẹp thêm cho nhà cửa, đường phố... Buồn vì phần lớn người ta (cả người tin Chúa... ngoại đạo (Lạy Chúa, con là người ngoại đạo. Nhưng tin có Chúa ở trên trời), lẫn người tin Chúa... trong đạo, là những người đã mở lòng tin nhận Chúa thật sự), chỉ tập chú chăm lo phần... hình thức bên ngoài, sự ồn ào hào nhoáng bên ngoài, mà không chú trọng đến nội dung sâu lắng bên trong của Lễ Giáng Sinh.
Tôi nhớ có bài hát “Người đời ham vui trong thế gian. Thần hồn phân vân, bất an... ”(Thánh Ca 329). Lời thơ của cố Mục Sư -Thi Sĩ Cơ-đốc kỳ cựu Phan Đình Liệu.
Ham vui là điều khiến nhiều người... nhập cuộc chơi. Vui thì ai mà không thích, ai mà không muốn. Nhưng những niềm vui đến từ bên ngoài phải nói là rất chóng tàn, rất mau qua. Và sau khi... nhập cuộc vui bên ngoài đó một chốc lát, một vài giờ, một vài ngày hay thậm chí một vài tuần đi nữa, khi thời gian vui ấy trôi qua, cuộc vui sẽ tàn, và niềm vui đến từ bên ngoài đó cũng sẽ... tàn theo mà thôi. Bạn có đồng ý như thế không?
Niềm vui lâu bền, không bao giờ phai tàn theo thời gian, năm tháng là niềm vui đến từ bên trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta có được niềm vui từ bên trong tâm hồn, là chúng ta sẽ không còn... ham thích nhập... cuộc chơi ham vui của thế gian nữa. Giống như một cô gái đã có chồng rồi, sẽ... từ bỏ cuộc chơi ham vui phù phiếm thôi.
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...” (Hàn Mặc Tử)
Một khi bạn mời Con Trẻ là Hài Nhi Thánh, Đấng đã giáng sinh nơi máng cỏ chuồng chiên năm xưa vào lòng để Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, là bạn sẽ cảm nhận được rằng những niềm vui đến từ bên ngoài sẽ không còn mấy quan trọng nữa, sẽ không có giá trị lâu bền cho chúng ta. Như cô gái theo chồng, chồng chính là niềm vui mừng cho suốt cuộc đời của cô, và cô cũng chỉ mong ước là muốn làm vui lòng chồng mình hơn bất cứ điều gì khác. Một người có Chúa Giê-xu ngự trị tâm hồn cũng vậy, Chúa Giê-xu chính là “Nguồn vui vẻ cho mọi lòng. Vầng ô hằng soi sáng suối muôn đời. Phước thế gian từ nay tôi không mòng. Lòng đây cầu Giê-xu xuống phước trời... ” (Lời Thánh Ca 280)
...
Giáng Sinh về là dịp tiện để con người chúng ta đi tìm niềm vui trong sâu thẳm tâm hồn mình, chứ không phải tìm kiếm những niềm vui hời hợt bên ngoài, không có giá tri lâu bền.
Giáng Sinh là dịp tiện để bạn tìm đến với Thiên Chúa, Đấng đã từ trời đến để tìm và cứu chúng ta, như lời Kinh Thánh đã phán: “Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy.” (Sách 1 Ti-mô-thê 1: 15)
Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian nầy hơn hai ngàn năm qua rồi, biết bao người đã tìm được niềm vui từ trong sâu thẳm tâm hồn do Chúa Giê-xu ban cho. Thế còn bạn thì sao? Bạn đã tìm được niềm vui thật sự cho đời sống mình chưa? Hay bao mùa Giáng Sinh qua, bạn cũng chỉ lo đi tìm niềm vui đến từ bên ngoài, qua việc mua sắm, trang trí giáng sinh, vui chơi, tiệc tùng giáng sinh mà thôi, không nghĩ đến niềm vui đích thực của mùa Giáng Sinh?
Bạn chỉ có niềm vui đích thực của mùa Giáng Sinh, niềm vui đích thực cho cuộc đời của mình, khi và chỉ khi bạn mở lòng ra đón mời Thiên Chúa thành nhơn vào trong lòng mình.
Lời Kinh Thánh khẳng định: “Ngài (tức Chúa Giê-xu, nv) đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy; nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Sách Giăng 1: 12)
Một khi bạn có Chúa Giê-xu trong cuộc đời là bạn sẽ thấy lòng mình ngập tràn niềm vui, và mọi niềm vui khác mà bạn có trước đó trong thế gian chẳng còn có nghĩa lý gì nữa cả, và cũng chẳng hề so sánh được với niềm vui có Chúa ngự trong tâm hồn.
“Khi Giê-xu vô lòng, như hoa xuân tưng bừng với khúc hát hoan ca. Tiêu tan bao ưu sầu, không lo toan nghi ngờ, lúc Chúa ngự trị cõi lòng ta... ” (Thánh Ca “Khi Giê-xu vô lòng”)
Vua Đa-vít ngày xưa đã tuyên bố: “Chúa sẽ chỉ cho tôi biết con đường sự sống. Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc. Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng.” (Sách Thi-thiên 16: 11)
Có Chúa Giê-xu trong cuộc đời là có niềm vui miên viễn. Không có Chúa Giê-xu trong cuộc đời thì không có niềm vui nào của thế gian có thể lấp đầy được những khoảng trống ghê rợn trong tâm hồn bạn được.
Chúa Giê-xu đến để đem an vui cho bạn và tôi.
Cảm tạ Chúa, Ngài đã đến và ban cho tôi niềm vui tuyệt vời ngay khi tôi mở lòng mời Ngài vào làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mấy chục năm qua.
...
Giờ đây, mỗi khi mùa Giáng Sinh về, tôi không chú trọng lắm đến những niềm vui bên ngoài như khi chưa có Chúa ngự trong tâm hồn; nhưng tôi thường dành thì giờ hướng lòng mình về Thiên Chúa toàn năng để chiêm nghiệm về tình yêu tuyệt đỉnh của Ngài dành cho con người chúng ta, trong đó có cá nhân vô cùng bé nhỏ của tôi. Tôi dành thì giờ đọc lại những đoạn Kinh Văn ký thuật lại sự kiện trong đại trong lịch sử loài người, đó là sự Giáng Sinh của Chúa Giê-xu, được ghi lại trong các sách Thánh như Ma-thi-ơ, chương 1, 2; Lu-ca, chương 1, 2; Giăng, chương 1; Phi-líp, chương 2; I Ti-mô-thê, chương 1; I Giăng, chương 4... mà cảm phục vô cùng trước tình yêu vô bờ bến của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại trải suốt mọi thời đại.
Chúa Giê-xu không chỉ vào đời để chịu chết đền tội cho con người tội lỗi chúng ta mà thôi; nhưng Ngài còn sống lại từ trong kẻ chết và sống đời đời để ban sự cứu rỗi cho những ai mở lòng ra tin nhận Ngài nữa. Chưa dừng lại ở đó. Sau khi sống lại, Ngài đã về trời, sắm sẵn Thiên Đàng tuyệt vời cho những người tin Ngài. Và trong tương lai không xa, Ngài sẽ trở lại để đem những người tin Ngài về Thiên Đàng ở với Ngài vĩnh cửu.
Chúa Giê-xu thật là Đấng duy nhất đáng cho bạn và tôi tôn thờ, và hầu việc trọn đời sống mình. Vì Ngài yêu thương bạn và tôi, bằng lòng lìa bỏ Thiên Đàng vinh hiển để xuống trần gian tìm và cứu bạn và tôi. Ngài đã chết cho bạn và tôi. Ngài cũng đã sống lại để ban sự cứu rỗi cho bạn và tôi. Ngài cũng đã dành sẵn Thiên Đàng cho bạn và tôi. Rồi Ngài hứa sẽ trở lại để đem bạn và tôi về trong nơi Thiên Đàng tuyệt diệu để ở mãi mãi đời đời với Ngài nữa.
Không ai yêu thương bạn và tôi hơn Chúa Giê-xu. Đó là điều chắc chắn!
Chính Chúa Giê-xu đã khẳng định: “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (Sách Giăng 15: 13)
Mùa Giáng Sinh năm nay, xin mời bạn hãy cùng tôi, chúng ta cùng đến tôn thờ Ngài, mời Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình để chúng ta cùng được thưởng thức trọn vẹn niềm vui đích thực của mùa Giáng Sinh.
Xin đừng để những niềm vui hời hợt đến từ bên ngoài của mùa Giáng Sinh làm lu mờ đi việc tìm kiếm niềm vui đích thực của mùa Giáng Sinh bạn nhé.
Chúa Giê-xu chính là niềm vui đích thực đó!
Cầu xin Chúa ban cho bạn hưởng một mùa Giáng Sinh với một niềm vui Giáng Sinh đích thực ngay trong mùa Giáng Sinh năm nay.
Mùa Giáng Sinh 2022!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 299
Chuyện... Hãy Đến Và... Hãy Lui
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25: 31-34; 41
Kính chào quý độc giả,
Đến hay lui là hai hành động trái ngược nhau mà con người chúng ta thường làm trong đời sống hằng ngày.
Khi thấy mọi sự đều thuận lợi, thì ta... go ahead (tiến tới); nhưng khi thấy mọi sự bất lợi, thì ta... go back (lui lại) thôi. Người ta nói như thế là “Tùy cơ ứng biến” vậy!
Khi đọc sách Ma-thi-ơ, chương 25, tôi chú ý đến hai lời tuyên bố rất mạnh mẽ của Chúa Giê-xu dành cho hai hạng người khác nhau mà lòng vừa tràn đầy vui mừng, vừa tràn đầy kinh sợ. Vui mừng, nếu ta nghe Chúa phán với mình “Hãy đến”; còn kinh sợ nếu ta nghe Chúa bảo “Hãy lui”
Xin mời bạn cùng lắng nghe lời Chúa Giê-xu đã phán như sau:
“Khi Con người ngự trong sự vinh hiển mình mà đến với các thiên sứ thánh, thì Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra; để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả.
Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 25, câu 31-34)
Kinh Thánh cho biết, chắc chắn sẽ có một ngày trong tương lai, khi ngày tận thế đến, sự phán xét chung cuộc của Chúa dành cho nhân loại trên thế giới nầy sẽ xảy ra, và Chúa Giê-xu sẽ ngồi trên ngôi vinh hiển mà phán xét toàn thể loài người. Rồi chính Ngài sẽ phân chia loài người ra làm hai hạng, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra, và để riêng ra hai bên khác nhau: Chiên (tức những người tin Chúa Giê-xu) thì để bên hữu Ngài, còn dê (tức những kẻ không tin Chúa Giê-xu), thì để bên tả.
Sau khi làm xong công việc phân chia con người ra làm hai hạng rồi, thì Ngài phán với những người ở bên hữu mình rằng: “Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”
“Hãy đến nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”, là một câu nói đầy phước hạnh ra từ miệng của Chúa Giê-xu.
Thiết nghĩ, những người ở bên hữu Ngài, khi nghe được những lời nầy thì lòng họ ngập tràn niềm vui và phước hạnh, chạy đến bên Ngài để bước vào Thiên Đàng tuyệt diệu, nơi mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn để dành cho những người tin nhận Ngài.
Không còn gì phước hạnh hơn khi nghe được những lời quý báu nầy từ miệng Đức Chúa Giê-xu Christ!
Bạn có phải là người đang ở bên hữu Chúa Giê-xu chưa?
Nếu phải, thì tôi xin chúc mừng bạn! Vì bạn và tôi đang ở cùng một bên!
Nếu chưa, thì hôm nay là cơ hội tốt nhất để bạn mời Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình, hầu cho trong tương lai, khi ngày Ngài trở lại, bạn sẽ được nghe lời phán phước hạnh từ Ngài dành cho: “Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”
Ngoài lời phán “Hãy đến” mà Chúa dành cho những người tin nhận Ngài, Chúa Giê-xu còn có lời phán ngược lại “Hãy lui” dành cho những kẻ chối bỏ Ngài:
“Kế đó, Ngài phán cùng những người ở bên tả rằng: Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỷ và những quỷ sứ nó.” (Sách Ma-thi-ơ 25: 41)
Có thể nói không có gì đáng sợ hơn cho những kẻ vô tín, vô thần khi nghe lời phán nầy của Chúa Giê-xu trong ngày tận thế.
Những người ở bên hữu Ngài vui mừng thể nào, thì những kẻ ở bên tả Ngài cũng đau buồn thể ấy.
Nếu những người ở bên hữu Ngài được bước vào Thiên Đàng phước hạnh tuyệt vời và ở với Ngài mãi mãi; thì những kẻ ở bên tả Ngài sẽ bị quăng vào Hỏa Ngục đau khổ đời đời, không bao giờ dứt cùng với ma quỷ và những quỷ sứ của nó.
Lạy Chúa, xin Ngài thương xót và ban ơn cứu rỗi của Ngài cho mỗi một chúng ta, hầu cho chúng ta tránh khỏi được nơi khổ hình đời đời là Hỏa Ngục kinh khiếp trong ngày chung kết đời trong tương lai!
Tôi ước ao bạn cũng sẽ như tôi sẽ được ở bên hữu Chúa Giê-xu và nghe lời phán “Hãy đến” (Come), chứ không phải là những kẻ ở bên tả Ngài để rồi sẽ nghe lời phán đáng kinh khiếp “Hãy lui.”(Depart from me).
Mong lắm thay!
Tháng 12/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 300
Kỷ Niệm Lần Đến Thứ Nhất, Hướng Về... Sự Đến Lần Thứ Hai
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25: 31-34, 41; Lu-ca 2: 10-12; I Ti-mô-thê 1: 15; Hê-bơ-rơ 9: 28
Kính chào quý độc giả,
Mùa Giáng Sinh năm 2022 đã và đang đến với nhân loại ở khắp hoàn cầu. Không khí Giáng Sinh đang tràn ngập mọi nơi như làm ấm lòng biết bao người.
Khi nói đến Giáng Sinh, ta không thể nào không nhắc đến những lời Kinh Văn trong Kinh Thánh nói về sự kiện quan trọng không tiền khoáng hậu nầy.
Một trong những câu Kinh Thánh quan trọng, không thể không đề cập đến mỗi dịp mùa Giáng Sinh về, ấy là câu:
“Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy.” (Sách 1 Ti-mô-thê 1: 15)
Câu Kinh Văn nầy nói đến sự vào đời của Chúa Cứu Thế Giê-xu, hay nói cách khác, là nói đến sự hiện ra lần thứ nhất của Ngài.
Chúa Giê-xu đến trong trần gian nầy lần thứ nhất qua hình hài một em bé bọc bằng khăn nằm trong máng cỏ đơn sơ tại tiểu thôn Bết-lê-hem cô quạnh năm xưa ở nước Do-thái.
Chúa Giê-xu là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa, là Đức Chúa Trời cao cả, quyền năng, đã không sinh ra nơi chốn cao sang nhất của trần gian; mà lại bằng lòng hạ sinh nơi thấp hèn nhất trong xã hội loài người, là nơi máng cỏ của chuồng chiên.
Đó là... chuyện lạ lùng của tất cả mọi chuyện lạ lùng trên thế gian nầy trải qua mọi thời đại!
Khi Ngài tự hạ cố làm người cách đây hơn hai ngàn năm, dường như không nhiều người quan tâm, chú ý đến.
Theo Sử Gia Lu-ca ghi lại sự kiện trọng đại nầy trong sách cùng tên của mình, thì khi Chúa Giê-xu giáng sinh, chỉ có mấy anh chăn chiên trú ngoài đồng để chăn giữ chiên mình là được thiên sứ báo tin cho biết mà thôi:
“Đừng sợ chi, vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân. Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa. Nầy là dấu cho các ngươi nhìn nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một Con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ.” (Sách Lu-ca 2: 10-12)
Những người đón nhận Tin Lành đầu tiên không phải là vua quan, hay những người cao sang quyền quý, như cách mà loài người thường nghĩ, và thường thấy; mà bèn là mấy anh chăn chiên đơn sơ, tầm thường, thấp cổ bé miệng hơn hết trong xã hội.
Đó cũng là... chuyện lạ!
Chúa Giê-xu đã đến trong thế gian nầy lần thứ nhất giữa một đêm khuya tĩnh mịch, tại một nơi thấp hèn, ở một tiểu thôn hiu quạnh, với sự chứng kiến của những con người thấp hèn. Và hầu như không mấy ai quan tâm để ý, ngay cả triều đình vua Hê-rốt nổi tiếng cũng không hề hay biết.
Dầu vậy, cho đến hôm nay, hơn hai ngàn năm sau sự kiện không tiền khoáng hậu ấy, đã có hàng tỷ người khắp thế giới nhận biết và mời Chúa Giê-xu làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình. Và hiện nay, cả nhân loại trên thế giới đều ghi nhớ và đón mừng ngày sinh của Ngài, bằng cách nầy hay cách khác.
Đó là điều chỉ có Đức Chúa Trời làm được mà thôi!
...
Chúa Giê-xu đã đến trong thế gian nầy lần thứ nhất cách đây hơn hai ngàn năm rồi.
Sau ba mươi ba năm sống trên trần gian, Ngài đã “tự hạ mình xuống” chịu chết trên thập tự giá để đền tội thay cho nhân loại tội lỗi. Và rồi, sau ba ngày chôn trong mồ mả, Ngài đã sống lại và sống mãi mãi để ban sự sống đời đời cho những ai bằng lòng tin nhận Ngài.
Kinh Thánh xác nhận: “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh. Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh Thánh.” (Sách 1 Cô-rinh-tô 15: 3, 4)
Sau khi sống lại và ở với các môn đồ một thời gian, Ngài tạm biệt họ trở về lại trên trời, nơi mà từ đó Ngài đã giáng sinh, để chuẩn bị chỗ ở cho những người tin nhận Ngài đến ở. Ngài đã tuyên bố một lời rất quan trọng: “Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.” (Sách Giăng 14: 2, 3)
“Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta.” Đó là Ngài nói đến sự trở lại trần gian nầy lần thứ hai của Ngài trong tương lai.
Trước giả thơ Hê-bơ-rơ xác nhận: “Đấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người. Ngài lại sẽ hiện ra lần thứ hai, không phải để cất tội đi nữa, nhưng để ban sự cứu rỗi cho kẻ chờ đợi Ngài.” (Sách Hê-bơ-rơ 9: 28)
Nếu sự đến lần thứ nhất của Ngài chỉ với hình hài một con trẻ yếu đuối nằm trong máng cỏ khá ầm thầm lặng lẽ, và dường như không mấy ai quan tâm, chú ý, cũng như không nhiều người biết đến; thì sự đến lần thứ hai của Ngài lại khác hoàn toàn. Ngài sẽ đến lần thứ hai “với đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà xuống.” (Sách Ma-thi-ơ 24: 30). Ngài sẽ “ngự trong sự vinh hiển mình mà đến với các thiên sứ thánh. Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra, để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả. Bấy giờ, Vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất... ” Và phán cùng những kẻ ở bên tả rằng: “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi Ta, đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỷ và những quỷ sứ nó.” (Sách Ma-thi-ơ 25: 31-34, 41)
Chúa Giê-xu đã đến thế gian nầy lần thứ nhất để làm sinh tế, chịu chết, cất tội lỗi của tội nhân đi. Nếu bạn nhân biết được tình yêu cao sâu ấy của Đức Chúa Trời dành cho bạn qua Con yêu dấu của Ngài là Chúa Giê-xu, và tin nhận Ngài, thì bạn sẽ trở nên con cái Đức Chúa Trời, như lời Kinh Thánh đã phán: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời.” (Sách Giăng 1: 12).
Nhưng Chúa Giê-xu sẽ đến thế gian nầy lần thứ hai trong một tương lai không xa, không phải để cất tội lỗi của tội nhân nữa, mà là để ban sự cứu rỗi cho những ai đã chờ đợi sự trở lại của Ngài.
Chúa sẽ đến lần thứ hai với tư cách của một vị Vua của cả vũ trụ, và với cả uy quyền trời đất trong tay để đem tất cả những người tin nhận Ngài về ở với Ngài trong Thiên Đàng, và sau đó, sẽ đoán phạt tất cả mọi kẻ vô thần, chối bỏ Ngài trong Hồ Lửa đời đời.
Lời Kinh Thánh khẳng định: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài; hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất, mà được sự sống đời đời.” (Sách Giăng 3: 16)
Bất cứ ai đặt đức tin nơi Chúa Giê-xu đều “không bị hư mất” mà được sự sống đời đời.
Ngược lại, bất cứ ai vô thần, không tin thờ Ngài, thì đều bị hư mất đời đời nơi Hỏa Ngục.
Đó là lời chắc chắn, đáng để mọi người chúng ta suy gẫm và có một quyết định đúng đắn cho linh hồn của mình ngay khi còn có cơ hội, dịp tiện, là khi còn đang có hơi thở trong lỗ mũi.
Ước mong bạn đừng bỏ lỡ cơ hội, dịp tiện tin Chúa Giê-xu ngay trong khoảng thời gian ở giữa hai lần đến của Ngài.
Cầu xin Chúa thương xót và cho bạn quyết định chọn đứng về phía bên hữu của Chúa Giê-xu để được hưởng sự vui mừng của Ngài dành cho, khi Ngài hiện ra lần thứ hai trong một tương lai không xa.
Kính chúc mọi người một mùa Giáng Sinh vui tươi và tràn đầy ơn lành từ Thiên Chúa ban cho!
Tháng 12/ 2022
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 301
Chuyện... Đặc Thù Và Đa Dạng
Kinh Thánh: Thi-thiên 139: 14; Giăng 21: 21, 22; I Cô-rinh-tô 12: 14-20
Đặc thù (unique) và đa dạng (diversity) là hai điều không thể thiếu trong xã hội loài người.
Một xã hội đúng nghĩa cần phải có tính chất đặc thù và cũng không thể thiếu sự đa dạng.
Thế nào là đặc thù và thế nào là đa dạng?
Đặc thù là những nét rất riêng biệt của một người nào đó mà nó không giống với bất kỳ một ai trên thế gian nầy; còn đa dạng là sự phong phú do nhiều sự riêng biệt đó hợp lại.
Hãy tưởng tượng một xã hội mà ai cũng giống ai hết, thì có lẽ sẽ buồn chán lắm phải không bạn?
Rất nhiều người không nhận ra được nét đặc thù quý giá của mình, nên thường tìm cách bắt chước theo tính cách của người nầy người kia, bắt chước theo phong cách của những người nổi tiếng mà mình... thần tượng để mong mình cũng sẽ được người khác chú ý đến.
Có người thì bắt chước cách đi đứng của một ngôi sao mà mình hâm mộ; có người thì bắt chước giọng nói, điệu bộ của một MC nổi tiếng; có người khác thì lại bắt chước “gu” thời trang của một diễn viên mình yêu thích... Và còn nhiều cách bắt chước khác nữa...
Bắt chước lối sống tốt đẹp của ai đó để sống theo hầu đem lại ích lợi cho mình và cho người khác là điều tốt, nên làm; nhưng bắt chước để bỏ mất nét đặc thù mà Tạo Hóa đã ban cho mình để trở thành như người đó là một điều tệ hại và làm buồn lòng Chúa.
...
Chúng ta đều biết, Đức Chúa Trời là Đấng tạo nên con người chúng ta, và mỗi người đều được Ngài ban cho một nét đặc thù không giống với bất kỳ ai trên trần gian nầy, cho dù người đó là cha mẹ mình đi nữa. Đó chính là điều kỳ diệu, lạ lùng mà Đức Chúa Trời đã làm.
Thế giới ngày nay có chừng tám tỷ người, nhưng có thể khẳng định cách chắc chắn rằng không có một con người nào giống y chang một con người nào đó cả. Dấu vân tay của mỗi người đều khác nhau, không một ai giống ai hết. Đức Chúa Trời đã làm nên điều tuyệt vời đó cho con người chúng ta.
Một khi bạn nhận biết được rằng Đức Chúa Trời đã ban cho mình một nét đặc thù độc đáo như thế, thì hãy tận hưởng nó và sử dụng nó theo đúng cách mà Ngài đã tạo nên mình, đừng nên bắt chước để giống ai đó làm gì. Hãy là chính mình như Đức Chúa Trời đã ban cho.
Có ai đó đã nói một câu khá hay rằng: “Cái ly của tôi bé nhưng tôi uống bằng cái ly của tôi.”
Vâng, hãy... uống bằng cái ly của chính mình, đừng uống bằng cái ly của người khác, dù cho đó có là cái ly... bằng vàng đi nữa.
Có một thời, chính người viết bài nầy cũng bị cám dỗ để sống giống như mẫu người mà mình hâm mộ; nhưng khi nhận biết được rằng Đức Chúa Trời đã tạo nên con cách đáng sợ lạ lùng như Đa-vít đã nói: “Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng.” (Sách Thi-thiên, chương 139, câu 14), thì người viết bài nầy nhờ ơn Chúa sống theo chính tính cách của con người mình mà Chúa đã tạo nên một cách độc đáo theo cách của Ngài.
...
Tính đặc thù nói đến điểm đặc biệt của mỗi một con người trên trần gian nầy mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Mình không giống với bất kỳ ai và cũng có chẳng có bất kỳ một ai giống như mình cả. Hãy sống một cuộc đời mà mình đã được tạo dựng nên, đừng sống cuộc đời mình bằng cuộc đời của một người khác, cho dù người đó là ai, giỏi giang, nổi tiếng như thế nào.
Một trong những điều nhiều người trong chúng ta thường làm là hay so sánh mình với người khác. So sánh như thế nếu thấy người ta hơn mình thì mình sẽ tự ty, mặc cảm, làm tổn hại đến sức khỏe và tinh thần sống tích cực mà Ông Trời đã cho chúng ta; còn nếu người đó thua mình thì mình dễ kiêu căng, ngạo mạn, gây nguy hiểm cho chính bản thân.
Còn nhớ khi xưa, Phi-e-rơ muốn so sánh mình với Giăng, nên đã hỏi Chúa Giê-xu rằng: “Lạy Chúa, còn người nầy về sau sẽ ra thể nào? Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Nếu Ta muốn người cứ ở cho tới khi Ta đến, thì can hệ gì với ngươi? Còn ngươi, hãy theo Ta!” (Sách Giăng, chương 21, câu 21, 22)
Phi-e-rơ có phần của Phi-e-rơ, Giăng có phần của Giăng, ai riêng phần nấy. Hãy sống cuộc đời mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta theo như Ngài đã... set up!
Tôi ơi, đừng tự... làm khổ mình khi so sánh mình với người khác nữa!
...
Nếu tính đặc thù khiến cho mỗi một con người có giá trị trong xã hội, thì tính đa dạng làm cho cuộc sống con người trở nên thích thú và phong phú hơn.
Tính đặc thù cho thấy được nét độc đáo của mỗi người, không ai lẫn vào ai; còn tính đa dạng đem lại sự phong phú và ích lợi chung cho cộng đồng.
Nếu trong xã hội mà mọi người đều giống y hệt nhau thì chẳng còn có gì thích thú và hấp dẫn nữa. Xã hội sẽ rất đơn điệu và nhàm chán.
Đức Chúa Trời là Đấng khôn ngoan, cho nên Ngài đã không tạo nên tất cả mọi người giống y chang nhau, mà Ngài đã tạo nên con người, nói như Đại Thi Hào Nguyễn Du đã nói, “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Ngài tạo dựng con người chúng ta “mỗi người một vẻ” (độc đáo và đa dạng), và “mười phân vẹn mười” (hoàn hảo, tốt lành.)
Đức Chúa Trời thật là tuyệt vời!
Thánh Phao-lô đã dùng hình ảnh độc đáo của thân người để mô tả về tính đặc thù và đa dạng của Hội Thánh cách lý thú và sâu sắc:
“Thân cũng chẳng phải có một chi thể, bèn là nhiều chi thể. Nếu chân rằng: Vì ta chẳng phải là tay, nên ta không thuộc về thân, thì chẳng phải bởi đó chân không có phần trong thân. Và nếu tai rằng: Vì ta chẳng phải là mắt, nên ta không thuộc về thân, thì tai chẳng phải bởi đó không có phần trong thân. Ví bằng cả thân đều là mắt, thì sự nghe ở đâu? Nếu cả thân đều là tai, thì sự ngửi ở đâu? Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời đã sắp đặt các chi thể của thân chúng ta, ban cho mỗi một chi thể cái địa vị theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định. Nếu chỉ có một chi thể mà thôi, thì cái thân ở đâu? Vậy, có nhiều chi thể, song chỉ có một thân.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 12, câu 14-20)
Mỗi chúng ta là một phần độc đáo trong cộng đồng đa dạng và đầy sắc màu của cuộc sống.
...
Xin Chúa cho chúng ta sống đúng với bản chất đặc thù độc đáo để làm vui lòng Đấng tạo nên chúng ta, vì Ngài biết chúng ta hơn chính chúng ta biết về mình. Ngài có lý khi tạo nên chúng ta như thế để sống trong xã hội đa dạng, và chúng ta có giá trị một cách riêng biệt trước mặt Ngài.
Chúa phán rằng: “Vì Ta đã coi ngươi là quý báu, đáng chuộng, và đã yêu ngươi.” (Sách Ê-sai, chương 43, câu 4)
Nguyện đời sống mỗi chúng ta sẽ làm vinh hiển danh Chúa như mục đích Ngài đã tạo dựng nên chúng ta: “Ta đã dựng nên họ vì vinh quang Ta. Ta đã tạo thành và đã làm nên họ.” (Sách Ê-sai, chương 43, câu 7). Amen!
Mùa Chay 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 302
Mùa Phục Sinh, Nghĩ Về Những Việc Làm... Không Cần Thiết
Mùa Phục Sinh đang về với nhân loại ở khắp mọi nơi trên thế giới trong niềm hân hoan vui mừng, đặc biệt là với tất cả những người đang tin thờ Chúa Giê-su.
Nhân mùa Phục Sinh, xin mời bạn cùng tôi nghĩ về những việc làm... không cần thiết để cùng nhắc nhở nhau trên linh trình theo Đấng Sống và hầu việc Ngài.
Ngay trước khi Chúa chuẩn bị chịu chết để cứu chuộc nhân loại, Ngài phán với các môn đồ là Ngài “phải đi đến thành Giê-ru-sa-lem, phải chịu tại đó nhiều sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 21).
Mới vừa nghe Đức Chúa Giê-su nói như vậy, “Phi-e-rơ bèn đem Ngài riêng ra mà can rằng: Hỡi Chúa, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu! Nhưng Ngài xây mặt lại mà phán cùng Phi-e-rơ rằng: Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 22, 23)
Chúng ta có thể hiểu hành động... can đảm của Phi-e-rơ là vì lòng yêu kính thầy của mình mà can ngăn Ngài, không muốn điều gì không tốt đẹp xảy đến cho Ngài như Ngài vừa bày tỏ. Nhưng với Chúa, thì hành động can gián của Phi-e-rơ là... không cần thiết, vì nó sẽ làm cản trở công việc của Đức Chúa Trời. Và Ngài đã quở trách Phi-e-rơ rất nặng: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta.”
Can ngăn Chúa chịu khổ nạn và chịu chết để cứu chuộc nhân loại là một việc làm... không cần thiết, nếu không muốn nói đó là hành động sai lầm và đến từ Sa-tan.
Hành động can ngăn của Phi-e-rơ có thể đến từ lòng yêu Chúa của ông, nhưng nói như Nguyễn Du đã nói “yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau.”
Sau đó, Phi-e-rơ lại một lần nữa bày tỏ lòng... yêu mến Chúa bằng cách muốn ra tay nghĩa hiệp để bảo vệ Chúa khi bị bắt:
“Bấy giờ Si môn Phi-e-rơ co một thanh gươm bèn rút ra, đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chem đứt tai bên hữu. Đầy tớ đó tên là Man chu. Nhưng Đức Chúa Giê-su phán cùng Phi-e-rơ rằng: Hãy nạp gươm ngươi vào vỏ, ta há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống sao?” (Sách Giăng, chương 18, câu 10, 11). May mà Chúa Giê-su đã rờ tai người đầy tớ đó và chữa lành cho (Sách Lu-ca, chương 22, câu 51), chứ không thì chắc Phi-e-rơ sẽ gặp rắc rối to với nhà cầm quyền lúc bấy giờ, chứ không phải chơi.
Việc rút gươm ra chém đứt tai Man chu lại là một việc... làm không cần thiết nữa của Phi-e-rơ.
Đúng là Phi-e-rơ dù là Sứ Đồ và là một trong ba Sứ Đồ thân tín nhất của Chúa Giê-su, lúc nào cũng bên cạnh Chúa; vậy mà qua những việc làm của ông, ta thấy ông không hiểu chi về chương trình của Chúa cả. Ông chỉ nghĩ đến việc người ta, hơn là nghĩ đến việc của Đức Chúa Trời mà Đức Chúa Giê-su đang thực thi, ấy là chết thay cho tội lỗi của cả nhân loại.
Phi-e-rơ đã làm những việc... không cần thiết vậy!
...
Các người đàn bà rất yêu mến Chúa, họ luôn luôn đi theo Chúa trên moi bước đường chức vụ của Ngài (Sách Lu-ca, chương 23, câu 49)
Cũng như các Sứ Đồ, các bà nhiều lần được nghe Chúa nói về việc Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết, và đến ngày thứ ba sẽ sống lại.
Thế nhưng, cũng như các Sứ Đồ, các bà dường như... không tin vào lời phán của Ngài. Cho nên, sau khi Chúa chết và chôn trong mộ ba ngày. Vào một sáng tinh mơ của ngày thứ nhất trong tuần lễ, các bà đã mang hương liệu đến mộ để... xức xác Chúa.
Kinh Thánh ghi lại như sau: “Ngày Sa-bát qua rồi, Ma ri Ma đơ len, Ma ri, mẹ Gia cơ, cùng Sa lô mê mua thuốc thơm đặng đi xức xác Đức Chúa Giê-su. Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, sáng sớm, mặt trời mới mọc, ba người đến nơi mộ, nói cùng nhau rằng: Ai sẽ lăn hòn đá lấp cửa mộ ra cho chúng ta? Khi ngó xem, thấy hòn đá đã lăn ra rồi; vả, hòn đá lớn lắm.” (Sách Mác, chương 16, câu 1-4). “Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, khi mờ sáng, các người đàn bà ấy lấy thuốc thơm đã sửa soạn đem đến mồ Ngài. Họ thấy hòn đá đã lăn ra khỏi cửa mồ; nhưng bước vào, không thấy xác Đức Chúa Giê-su.” (Sách Lu-ca, chương 24, câu 1-3)
Việc mua thuốc thơm đem đến mộ để xức xác Chúa là một hành động thể hiện lòng yêu kính Chúa vô cùng của các bà; nhưng có thể nói đó là một việc làm... không cần thiết và thậm chí... phí của. Bằng chứng là các bà không thể xức thuốc thơm được cho xác của Ngài, bởi Ngài đâu còn nằm trong mộ nữa. Ngài đã sống lại đúng y như lời Ngài đã phán nhiều lần với các Sứ Đồ cũng như với các bà trước đó, mà các bà... không nhớ chi cả.
Ma ri Ma đơ len thậm chí còn khóc khi không thấy xác Chúa trong mộ nữa: “Hai thiên sứ hỏi: Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng, vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu?... Đức Chúa Giê-su hỏi người rằng: Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Ngươi tìm ai? Người ngỡ rằng đó là kẻ làm vườn, bèn nói rằng: Hỡi chúa, ví thật ngươi là kẻ đã đem Ngài đi, xin nói cho ta biết ngươi để Ngài đâu, thì ta sẽ đến mà lấy.” (Sách Giăng, chương 20, câu 13 và 15)
Đúng là... yêu quá hóa mù, không còn nhớ những gì lời Chúa đã dạy trước đó nhiều lần cho mình cả. Chỉ chăm chăm một điều lo lắng là ai đã lấy mất... xác Chúa, chứ không hề tin rằng Chúa đã sống lại, còn xác đâu mà lấy?
Thật... đáng thương cho các bà, và... đáng thương cho Ma ri Ma đơ len!
...
Tôi tin rằng trong những người đàn bà đem thuốc thơm đi thăm mộ Chúa lúc bình minh của ngày thứ nhứt trong tuần lễ của Lễ Phục Sinh đầu tiên ấy, không có... Ma ri em của La xa rơ và Ma thê, bởi bà biết chắc chắn là Chúa Giê-su đã sống lại, không còn nằm trong mộ nữa.
Vì Ma ri luôn biết lựa phần tốt nhứt là phần “ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài” (Sách Lu-ca, chương 10, câu 39), và bà đã hành động đúng lúc, đúng cơ hội, dịp tiện tốt nhứt để xức dầu thơm cho Chúa trước khi Ngài chịu chết và chôn. “Bấy giờ, Ma ri lấy một cân dầu cam tòng hương thật rất quý giá, xức chân Đức Chúa Giê-su, và lấy tóc mình mà lau, cả nhà thơm nức mùi dầu đó... Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Hãy để mặc người, người đã để dành dầu thơm nầy cho ngày chôn xác ta.” (Sách Giăng, chương 12, câu 3, và 7)
Thật, việc làm của Ma ri ở đây là cần thiết và vô cùng ý nghĩa! Bà mới thực sự là người đã xức dầu thơm cho... xác của Chúa Giê-su vậy.
...
Nhân mùa Phục Sinh, nghĩ về những việc làm... không cần thiết của các Sứ Đồ và của các người đàn bà trong thời điểm Chúa Giê-su chịu chết và sống lại hai ngàn năm trước đây để chúng ta lấy đó làm bài học cho cuộc đời theo Chúa của chính mình, chứ không phải để... lên án, chỉ trích họ.
Nếu chúng ta được sống vào thời điểm hai ngàn năm trước như các Sứ Đồ và các người đàn bà đó, thì chúng ta cũng... hành xử như họ thôi, vì chúng ta cũng không hơn gì các tổ phụ chúng ta đâu. Nhưng họ đã làm những việc đó để chúng ta... ghi nhớ, không làm như họ nữa.
Xin Chúa thêm ơn và sức của Ngài cho chúng ta để chúng ta ghi nhớ và làm theo lời Ngài đã dạy, hầu đời sống chúng ta được phước, giống như Ma ri đã ghi nhớ lời Ngài và đã làm những việc cần thiết và ý nghĩa cho Chúa vậy!
Kính chúc mọi người một Lễ Phục Sinh thật nhiều niềm vui và ơn phước từ Đấng Sống ban cho!
California, Tháng 4/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 303
Chuyện... Tập Luyện
Kinh Thánh: Phi-líp 4: 10-14; I Ti-mô-thê 4: 6-10; II Phi-e-rơ 1: 5-8
Tập luyện là một việc làm không thể thiếu của con người, nếu muốn thành công trong một lãnh vực nào đó.
Ở đâu và người nào chịu tập luyện và kiên trì tập luyện thì ở đó và người ấy không sớm thì muộn cũng sẽ thành công. Nếu... chưa thành công, thì cũng sẽ... thành nhân vậy.
Ông bà mình đã nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim” mà. Cây sắt dù có to, nhưng nếu ta chịu dành thì giờ kiên trì để... mài nó thì chắc chắn đến một ngày nào đó, cây sắt ấy cũng sẽ biến thành... cây kim mà thôi.
Nói về chuyện “Mài sắt nên kim”, ta nhớ đến câu chuyện của Lý Bạch: Tương truyền rằng: “Đại Thi Hào Lý Bạch của Trung Quốc, thuở nhỏ, rất yêu thiên nhiên. Cậu bé thường trốn học, đi tìm cảnh đẹp để thưởng lãm. Một hôm, Bạch đi đến chân núi, gặp một cụ già đang ngồi mài một thỏi sắt vào một phiến đá, liền tò mò:"Bà ơi, bà mài sắt làm gì thế?" Bà cụ đáp:"Bà mài sắt để làm kim khâu cháu ạ!" Bạch hỏi:"Thỏi sắt to vậy mài bao giờ mới thành kim được hả bà?" Bà đáp:"Bà cứ mài. Hôm nay, ngày mai, một tháng, hai tháng, năm nay, sang năm, thế nào sắt cũng thành kim thôi cháu ạ!” Bạch ngạc nhiên về lòng kiên trì của bà cụ. Chào bà cụ, Bạch ra về; suốt dọc đường, cứ suy nghĩ mãi về lời bà cụ và lòng kiên trì hiếm có của bà.
Hình ảnh bà cụ ngồi “mài sắt thành kim” đã đánh động lòng Bạch, Bạch trở về và bắt đầu cố công học hành, không chểnh mảng nữa. Về sau, Lý Bạch trở thành Nhà Thơ nổi tiếng khắp thiên hạ, để lại cho đời sau những vần thơ tuyệt tác.”
...
Phao-lô đã sống trong tinh thần của sự tập luyện để có một đời sống tin kính đẹp lòng Chúa. Và đây là kinh nghiệm mà ông đã thực hiện trong chức vụ của mình:
“Tôi được rất vui mừng trong Chúa, vì nay anh em lại lo tưởng về tôi lần nữa. Anh em vẫn tưởng đến điều đó lắm, nhưng không có dịp tiện. Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập, hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi. Nhưng anh em giúp tôi cơn hoạn nạn là đã làm điều thiện.” (Sách Phi-líp, chương 4, câu 10-14)
Ở đây, Phao-lô cho biết là ông đang... tập sống thỏa lòng trong mọi cảnh ngộ của đời sống. Lúc nghèo thì sống theo... kiểu nghèo; khi dư dật thì sống theo... kiểu dư dật. Khi no thì sống theo... kiểu no, lúc đói thì sống theo... kiểu đói. Khi dư thì sống theo... kiểu dư, lúc thiếu thì sống theo... kiểu thiếu. Không bao giờ kêu ca, phàn nàn, hay than thở. Luôn thỏa lòng trong mọi lúc, mọi nơi. Phao-lô kết luận, sở dĩ ông... tập sống được như vậy là nhờ Đấng ban thêm sức cho ông. Đấng đó không ai khác hơn là chính Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng ông đang tôn thờ và hầu việc.
Với ai thì không biết, nhưng với tôi, đây là một trong những phân đoạn Kinh Thánh... khó học và làm theo nhất trong Kinh Thánh.
Tôi phải..thú nhận rằng, tôi đã từng nhiều lần (vâng, rất nhiều lần) than thở, không thỏa lòng khi ở trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, túng ngặt. Dù tôi đã đọc, đã giảng phân đoạn Kinh Thánh nầy không ít lần cho Hội Thánh. Tôi tự thấy tôi thật... tệ. Bạn có... tệ như tôi không? Nếu có thì chúng ta... cùng loại với nhau đấy. Xin Chúa thương xót nâng đức tin chúng ta... lên chốn cao hơn để chúng ta có thể học theo Phao-lô và... tập sống thỏa lòng như Phao-lô để Chúa đẹp lòng.
...
Một chỗ khác, Phao-lô khuyên người học trò cũng là người con thuộc linh của mình là Ti-mô-thê về sự tập luyện rằng:
“Con giải tỏ các việc đó cho anh em, thì con sẽ nên kẻ giúp việc ngay lành của Đức Chúa Giê-su Christ, được nuôi bởi các lời của đức tin và đạo lý lành mà con đã theo. Những lời hư ngụy phàm tục giống như chuyện bịa các bà già, thì hãy bỏ đi, và tập tành sự tin kính. Vì sự tập tành thân thể ích lợi chẳng bao lăm, còn như sự tin kính là ích cho mọi việc, vì có lời hứa về đời nầy và về đời sau nữa. Ấy đó là một lời nói chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy. Vả, nếu chúng ta khó nhọc và đánh trận, ấy là đã để sự trông cậy ta trong Đức Chúa Trời hằng sống, Ngài là Cứu Chúa của mọi người, mà nhứt là của tín đồ... Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ, cho đến chừng ta đến. Đừng bỏ quên ơn ban trong lòng con, là ơn bởi lời tiên tri, nhân hội trưởng lão đặt tay mà đã ban cho con vậy. Hãy săn sóc chuyên lo những việc đó, hầu cho thiên hạ thấy sự tấn tới của con. Hãy giữ chính mình con và sự dạy dỗ của con; phải bền đỗ trong mọi sự đó, vì làm như vậy thì con và kẻ nghe con sẽ được cứu.” (Sách I Ti-mô-thê, chương 4, câu 6-10, câu 13-16)
Ở đây, Phao-lô nói đến việc... tập luyện đức tin, tập tành sự tin kính. Ông so sánh việc... tập tành sự tin kính với việc... tập tành thân thể (tức tập luyện thể dục, rèn luyện thân thể cho tráng kiện).
Việc tập tành thân thể rất ích lợi để chúng ta có thể có được một sức khỏe tốt, nhưng nó chỉ có ích lợi trong... một đời mà thôi (ích lợi chẳng bao lăm); còn việc tập tành sự tin kính là ích lợi cho mọi việc; không chỉ ích lợi trong đời nầy mà còn ích lợi cho cả đời sau nữa.
Việc tập tành thân thể cũng phải chấp nhận... khó nhọc mới có thể thực hiện được một cách thường xuyên; thì việc tập tành sự tin kính lại càng khó nhọc hơn nhiều, vì nó đem lại cho chúng ta sự trông cậy vững chắc về sự cứu rỗi đời đời trong Đức Chúa Trời hằng sống.
Chúng ta thường nhận thấy việc tập tành thân thể là quan trọng và quan tâm thực hiện điều đó; nhưng chúng ta thường... xem nhẹ việc tập tành sự tin kính của mình. Rất nhiều người trong chúng ta là những Cơ-đốc nhân, thường nghĩ một cách... nông cạn rằng tin Chúa để được cứu là... đủ rồi, và không quan tâm đến việc tập tành sự tin kính cho đời sống đức tin của mình chi cả. Chính vì thế, nên có nhiều lắm những con cái Chúa không... lớn lên trong Chúa, không trưởng thành trong đức tin chút nào, dù tin Chúa đã lâu năm.
Đây là tình trạng... con đỏ thuộc linh mà trong thơ Hê-bơ-rơ đã đề cập: “Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em; anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc. Vả, kẻ nào chỉ ăn sữa thôi, thì không hiểu đạo công bình; vì còn là thơ ấu. Nhưng đồ ăn đặc là để cho kẻ thành nhân, cho kẻ hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 5, câu 12-14)
Nếu một người đã tin Chúa rồi mà không chịu tập tành sự tin kính thì dù cho có tin Chúa bao nhiêu năm đi nữa, thì... con đỏ vẫn hoàn con đỏ, không thể... thành nhân được. Một người muốn... thành nhân thuộc linh thì chắc chắn phải có lòng tập tành sự tin kính, chắc chắn phải “hay dụng tâm tư luyện tập” thì mới có thể lớn lên và “phân biệt điều lành và dữ” được.
Richard Foster đã viết trong quyển “The Celebration of Discipline”: “Tôi đã khám phá rằng vấn đề khó khăn nhất không phải là tìm được thì giờ, nhưng là thuyết phục chính mình đây là một việc quan trọng cần phải dành thì giờ cho nó.” Không phải chúng ta không có thì giờ, mà bèn là chúng ta không cảm thấy việc tập tành sự tin kính là quan trọng để dành thì giờ cho nó mà thôi.
...
Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đã để lại lời khuyên quý báu: “Về phần anh em, phải gắng hết sức thêm cho đức tin mình sự nhân đức, thêm cho nhân đức sự học thức, thêm cho học thức sự tiết độ, thêm cho tiết độ sự nhịn nhục, thêm cho nhịn nhục sự tin kính, thêm cho tin kính tình yêu thương anh em, thêm cho tình yêu thương anh em lòng yêu mến. Vì nếu các điều đó có đủ trong anh em và đầy dẫy nữa, thì ắt chẳng để cho anh em ở dưng hoặc không kết quả trong sự nhận biết Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta đâu.” (Sách II Phi-e-rơ, chương 1, câu 5-8)
“Phải gắng hết sức” để tập luyện hầu cho thêm lên trong đức tin mình nhiều điều tốt lành của người thuộc về Chúa như nhân đức, học thức, tiết độ, nhịn nhục, tin kính, tình yêu thương anh em và lòng yêu mến.
Chỉ tin Chúa để được cứu, được vào Thiên Đàng thôi, thì chưa đủ; Chúa muốn chúng ta phải tập tành sự tin kính để... thành nhân trên đường theo Chúa, hầu “giựt được giải thưởng về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-su Christ” như tâm tình và quyết tâm thuộc linh của Phao-lô được ghi lại trong thư Phi-líp, chương 3, câu 14 vậy.
“Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ.” (Sách II Phi-e-rơ, chương 3, câu 18) là câu Kinh Thánh nhắc nhở mỗi chúng ta không được phép... dậm chân tại chỗ trên đường theo Chúa mà khích lệ chúng ta luôn luôn tập luyện để tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa yêu kính của chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ cho đến ngày chúng ta gặp được Ngài trên Thiên Đàng vinh hiển trong tương lai. Amen!
Tháng 4/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 304
Chuyện... Giải Thưởng
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 5: 11, 12; I Cô-rinh-tô 9: 24-26; Phi-líp 3: 12-14; Khải Huyền 22: 12
Khi đi học, hay đi làm, chúng ta đều cố gắng học thật tốt, làm thật giỏi, và mong ước đạt được giải thưởng cao thì lòng rất vui mừng.
Còn nhớ hồi nhỏ, khi học lớp Ba trường làng, cuối năm học, tôi được giải thưởng nhất. Đứng trước lớp nhận phần thưởng là những quyển tập và thước, bút mới tinh, kèm theo là một Bảng Vàng Danh Dự mà thấy hãnh diện vô cùng về thành quả đạt được. Cái cảm giác vui mừng, sung sướng ấy cho đến nay, vẫn... không quên.
Năm học sau đó, đúng ra tôi học lớp Bốn, nhưng vì lớp Năm ít học sinh quá, nên Nhà Trường đã xét cho một số em học sinh giỏi của lớp Ba, được tuyển thẳng lên lớp Năm để học. Và thế là, tôi... bỏ qua lớp Bốn, để lên học lớp Năm. Đỡ bớt đi một năm học. Thật là vui mừng làm sao!
Cũng còn nhớ ngày Lễ Tốt Nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hòa Khánh, Đà Nẵng (Mùa Hè năm 1987), Khóa Văn hồi ấy có 100 Giáo Sinh ra trường, Sinh Viên Nguyễn Ngọc Mẫn (Người Tiên Phước) đậu Thủ Khoa, tôi Á Khoa được nhận phần thưởng. Và một điều bất ngờ với tôi, là Giáo Sư Khoa Trưởng Nguyễn Khắc Sính lại chọn tôi để viết một bài Hịch kêu gọi học tập và đọc trong buổi Lễ để khích lệ tinh thần học hỏi của các Giáo Sinh. Có lẽ vì tôi là người lớn tuổi hơn hết trong 100 Giáo Sinh thì phải?
Đấy cũng là một... vinh dự đáng nhớ trong cuộc đời!
Đó là... chuyện xưa kể lại cho vui hầu quý bạn đọc gần xa của tôi!
...
Còn bây giờ là chuyện... mới xảy ra đây, và là chuyện của... người ta chứ không phải của tôi!
Cách đây mấy ngày, báo chí và truyền thông rầm rộ loan một tin vui về người Việt chúng ta.
Ấy là Nữ Văn Sĩ Việt Nam Dương Thu Hương, vừa được trao giải thưởng văn học Cino del Duca World Prize 2023 bởi Viện Hàn Lâm Pháp, với số tiền thưởng lên tới 200,000 euro (tương đương với 222,000 USD) vào Ngày 21 Tháng 4, “để bày tỏ lòng kính trọng đối với một nhà văn có tác phẩm và nhân cách đặc biệt mang thông điệp của chủ nghĩa nhân văn hiện đại.” Lễ trao giải cho Nhà Văn Dương Thu Hương dự kiến sẽ được tổ chức vào Ngày 21 Tháng 6 sắp tới tại trụ sở Viện Hàn Lâm Pháp.
Nhà Văn Dương Thu Hương sinh năm 1947, ở Tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Hiện cư ngụ tại Pháp.
Trước Nhà Văn Dương Thu Hương, vào năm 2012, Khoa Học Gia kiêm Nhà Văn Trịnh Xuân Thuận là người Việt Nam đầu tiên được vinh dự nhận giải thưởng này. Ông hiện đang là Giảng Viên tại Đại học Virginia, Hoa Kỳ.
Với trị giá giải thưởng là 200,000 euro, Cino del Duca World Prize có thể được xem là giải thưởng Văn Chương có số tiền lớn thứ nhì, chỉ sau giải Văn Chương Nobel mà thôi.
Cino-Del-Duca được ví như một... phòng chờ của giải Nobel Văn Chương vậy. Một số nhà văn đã được trao giải nầy trước khi được nhận giải Nobel Văn Chương như nhà văn Peru, Mario Vargas Llosa (năm 2008), nhà văn Pháp Patrick Modiano (năm 2010)...
Biết đâu, trong một tương lai không xa, Nhà Văn Dương Thu Hương sẽ là người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng Nobel Văn Chương danh giá nhất hành tinh?
Hãy đợi đấy!
Giải thưởng Cino-Del-Duca được doanh nhân người Pháp Simone Del Duca sáng lập vào năm 1969 để tôn vinh những tác gia người Pháp hoặc người nước ngoài có công trình văn chương hay khoa học truyền tải thông điệp về chủ nghĩa nhân văn hiện đại.
...
Mới đây, chúng ta cũng được biết, Quan Kế Huy, một Tài Tử người Mỹ gốc Việt, vừa đoạt giải nam diễn viên phụ hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 95 ở Los Angeles Ngày 12 Tháng 3.
Nam Diễn Viên 51 tuổi nầy đã trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được trao giải danh giá này nhờ vai Waymond Wang trong phim “Everything Everywhere All at Once.”
Quan Kế Huy sinh năm 1971 tại Sài Gòn. Năm 1978, Huy cùng gia đình vượt biên, rồi được nhập cư vào Hoa Kỳ năm 1979.
Trong buổi Lễ trao giải, sau khi hôn bức tượng bằng vàng, Huy đã vui mừng tột độ bày tỏ lời cám ơn thân mẫu mình, đang xem buổi trao giải thưởng từ nhà, qua ti-vi.
“Mẹ ơi, con thắng giải Oscar rồi!”
Xin được chúc mừng Nhà Văn Dương Thu Hương, và Diễn Viên Quan Kế Huy!
Giải thưởng danh giá nhất hành tinh cho đến nay là giải thưởng Nobel. Người nhận được giải Nobel, sẽ nhận được số tiền với giá trị chừng 1, 1 triệu USD, gấp chừng 5 lần giải Cino-Del-Duca. Được giải thưởng Nobel là một vinh dự vô cùng to lớn cho người nhận nó. Không biết đến chừng nào thì sẽ có người Việt Nam chúng ta được trao giải thưởng Nobel?
...
Trên đây là một số những giải thưởng danh giá... ở dưới đất nầy. Và giải thưởng danh giá nhất là giải Nobel.
Dầu có danh giá như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể nào so sánh được với... giải thưởng ở trên trời.
Chính Chúa Giê-su đã phán: “Nầy, Ta đến mau chóng và đem phần thưởng theo với Ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.” (Sách Khải Huyền, chương 22, câu 12)
Đấng trao giải thưởng không phải là một con người nào của thế gian nầy, cho dù đó có là Tổng Thống của nước Mỹ đi nữa, mà là chính Chúa Giê-su, Đấng có cả quyền bính trên trời và dưới đất trong tay (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 18), và là Đấng đang cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ (Sách Khải Huyền, chương 1, câu 18).
Có thể nói không còn gì sung sướng, phước hạnh cho bằng khi một người được nhận phần thưởng vô cùng cao quý nầy.
Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-su cũng phán: “Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. Hãy vui vẻ và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các đấng tiên tri trước các ngươi như vậy.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 5, câu 11, 12)
Một khi ai đó vì danh Chúa mà bị bắt bớ, mắng nhiếc, bị vu oan, giá họa, thì người đó sẽ được phước và được phần thưởng lớn lắm ở trên trời.
Nhận biết được điều đó, nên Sứ đồ Phao-lô đã tuyên bố: “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đương chạy hầu cho giựt được; vì chính tôi đã được Đức Chúa Giê-su Christ giựt lấy rồi. Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lững sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-su Christ.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 12-14)
Mục đích cuộc đời của Phao-lô sau khi đã được Chúa cứu rồi là... chạy đua thuộc linh (tức phục vụ Chúa, hầu việc Ngài hết lòng hết sức) để được nhận phần thưởng mà Chúa Giê-su sẽ đem theo để trao cho từng người.
Một chỗ khác, Phao-lô cũng nhắc lại việc nhận phần thưởng vinh dự nầy: “Anh em há chẳng biết rằng trong cuộc chạy thi nơi trường đua, hết thảy đều chạy, nhưng chỉ một người được thưởng sao? Vậy, anh em hãy chạy cách nào cho được thưởng. Hết thảy những người đua tranh, tự mình chịu lấy mọi sự kiêng kỵ, họ chịu vậy để được mão triều thiên hay hư nát. Nhưng chúng ta chịu vậy để được mão triều thiên không hay hư nát.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 9, câu 24-26)
...
Được Chúa cứu là một phước hạnh vô cùng to lớn; và được Chúa thưởng là một vinh dự cao quý tuyệt vời trong Thiên Đàng.
Xin Chúa giúp cho mỗi một con dân Ngài nhận biết được điều đó để trung tín theo Ngài và hết lòng hầu việc Ngài, hầu cho ngày mỗi chúng ta gặp mặt Chúa, ai trong chúng ta cũng đều nhận được phần thưởng từ chính tay “Đấng yêu thương chúng ta” trao tặng cho mỗi chúng ta.
California, Cuối Tháng 4/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 305
Nhân Ngày Của Mẹ, Nói Về... Lòng Mẹ
(Kính tặng tất cả những Người Mẹ ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: Gióp 31: 15; Thi-thiên 139: 13; Ê-sai 46: 3, 4; II Cô-rinh-tô 5: 9; I Giăng 4: 9, 10
Ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng Năm hằng năm là một ngày rất đáng yêu, đáng nhớ, đó là Ngày Lễ Mẹ.
Với ai thì không biết, nhưng với tôi, mỗi lần Ngày Lễ Mẹ đến là lòng tôi luôn rộn lên bao cảm xúc bồi hồi, xao xuyến đến lạ về người Mẹ, về Lòng Mẹ. Và nỗi nhớ Mẹ như hiện về đầy ắp trong tim.
Nhân Ngày của Mẹ, xin mời bạn cùng tôi nghĩ về... Lòng Mẹ.
Nói về Mẹ, ta không thể nào không nói đến Lòng Mẹ.
Bài hát quen thuộc mà nhiều người trong chúng ta thuộc và thường hay hát, đó là bài “Lòng Mẹ” của Nhạc Sỹ Y Vân, trong đó có đoạn lời dễ thương như sau: “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào... ”
Vâng, Lòng Mẹ thật dạt dào, và Tình Mẹ thật ngọt ngào!
...
Kinh Thánh nói khá nhiều về Lòng Mẹ.
Hãy nghe Thánh Tổ Gióp nói về Lòng Mẹ: “Đấng đã tạo thành tôi trong lòng mẹ tôi. Há chẳng có dựng nên chúng nó sao? Há chẳng phải cũng một Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta trong lòng mẹ sao?” (Sách Gióp, chương 31, câu 15)
Ngoại trừ A-đam và Ê-va, hai con người đầu tiên trên thế giới nầy, không ở trong Lòng Mẹ mà thôi, vì họ được Đức Chúa Trời trực tiếp nắn nên; còn lại tất cả mọi người đều được Đức Chúa Trời tạo dựng từ trong Lòng Mẹ cả. Gióp cũng vậy, ông khẳng định đến hai lần là ông và mọi người đều được dựng nên từ trong Lòng Mẹ.
Sống sau Gióp cả ngàn năm, Vua Đa-vít cũng đã nói đến Lòng Mẹ như sau: “Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi. Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.” (Sách Thi-thiên, chương 139, câu 13)
Đa-vít dùng từ “dệt” để diễn tả việc Đức Chúa Trời tạo dựng nên con người chúng ta diệu kỳ là dường nào; giống như người thợ dệt, từ những sợi tơ rời rạt, qua đôi bàn tay khéo léo, điêu luyện của mình, đã dệt thành những tấm vải tuyệt đẹp để may quần áo. Chính vì thế mà Đa-vít đã ca ngợi, cảm tạ sự tạo nên mình cách lạ lùng của Đức Chúa Trời trong câu tiếp theo: “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.” (Sách Thi-thiên, chương 139, câu 14)
Nhiều người đã đồng ý rằng, con người là kỳ quan của mọi kỳ quan trên thế giới nầy.
Quả thật vậy, không có kỳ quan nào sánh được với... kỳ quan con người cả. Bởi con người được chính Đức Chúa Trời tạo nên giống như hình ảnh của Ngài!
Mỗi khi tôi nhìn vào thân thể mình, tôi không quên nói lời cảm tạ Chúa, vì sự tạo dựng tuyệt vời của Ngài. Đức Chúa Trời thật là một vị... Kỹ Sư cực kỳ tinh xảo. Không một kỹ sư nào giống như Ngài.
...
Tiên Tri Ê-sai cũng nói về Lòng Mẹ, nhưng trong một ý nghĩa khác:
“Hỡi nhà Gia-cốp, và hết thảy các ngươi là dân sót của nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe ta. Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẵm các ngươi từ trong lòng mẹ. Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi.” (Sách Ê-sai, chương 46, câu 3, 4)
Chúa... bồng ẵm chúng ta từ trong Lòng Mẹ. Một ý nghĩ thật... khó hiểu với đầu óc hạn hẹp của con người chúng ta phải không bạn?
Cha Mẹ chỉ có thể bồng ẵm con cái khi nó... lọt ra khỏi Lòng Mẹ, chứ không ai có thể... bồng ẵm con cái khi nó còn... ở trong Lòng Mẹ được. Nhưng Chúa thì khác, với quyền năng siêu việt của Ngài, với bản chất thần linh vô hình, vô tượng của Ngài, với tính chất vô sở bất tại của Ngài, Ngài hoàn toàn có thể... bồng ẵm con người chúng ta ngay từ khi chúng ta còn... nằm trong Lòng Mẹ.
Đức Chúa Trời là Đấng thật kỳ diệu, thật lạ lùng! Không có ai sánh được với Ngài!
Cũng Tiên Tri Ê-sai, trong một chỗ khác, ông lại nói về Lòng Mẹ nhưng với một điều kỳ diệu khác:
“Đức Giê-hô-va phán: Ta là Đấng đã mở lòng mẹ ra, há chẳng săn sóc sự sanh đẻ hay sao? Đức Chúa Trời ngươi phán: Ta là Đấng đã khiến sanh đẻ, há lại làm cho son sẻ hay sao?” (Sách Ê-sai, chương 66, câu 9)
Đức Chúa Trời không những là Đấng có thể bồng ẵm chúng ta từ trong Lòng Mẹ, mà Ngài còn là Đấng... mở Lòng Mẹ ra, và làm cho người Mẹ có thể sanh sản được nữa.
Không phải khoa học có khả năng... mở Lòng Mẹ ra được đủ lớn để đứa con có thể nằm trong đó đến... chín tháng mười ngày rồi mới sanh ra. Cũng chẳng phải khoa học có thể săn sóc sự sanh đẻ của người Mẹ được, mà bèn là chính Đức Chúa Trời là Đấng làm tất cả những điều đó cho Người Mẹ.
Chính vì vậy mà Vua Đa-vít mới ngạc nhiên khi kêu lên rằng: “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm.” (Sách Thi-thiên, chương 139, câu 14)
Vâng! Công việc Chúa thật lạ lùng biết bao cho chúng ta!
...
Lòng Mẹ kỳ diệu, bao la như vậy là vì Đấng tạo nên Lòng Mẹ là Đấng kỳ diệu và bao la gấp vạn lần hơn.
Bạn biết ơn Mẹ bao nhiêu thì bạn lại càng cần biết ơn Đấng tạo nên Người Mẹ và Lòng Mẹ nhiều lần hơn như thế. Bởi không có Đấng ấy thì sẽ không có Người Mẹ, không có Lòng Mẹ, và không có bạn, cũng không có tôi, và không có tất cả chúng ta!
Kinh Thánh nói về lòng Đức Chúa Trời như thế nầy: “Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. Nầy, sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta.” (Sách I Giăng, chương 4, câu 9, 10)
Lòng Mẹ yêu con đã nhiều, nhưng lòng Chúa yêu con người nhiều hơn biết bao. Người Mẹ yêu con vì con mình đáng yêu; nhưng lòng Chúa yêu con người dù con người không đáng yêu (vì con người là tội nhân đáng chết trước mặt Ngài). “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8)
...
Là người con, ai trong chúng ta cũng đều muốn làm đẹp lòng Mẹ mình, vì Mẹ là người đã sinh thành ra mình, dưỡng dục mình. Cũng một thể ấy, là con cái Chúa, chúng ta cũng luôn mong muốn sống đẹp lòng Ngài, như Kinh Thánh cho biết: “Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể nầy, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa.” (Sách II Cô-rinh-tô, chương 5, câu 9), vì chính Ngài và chỉ một mình Ngài là Đấng đã yêu thương chúng ta và phó Con độc sanh của Ngài là Chúa Giê-su để cứu chuộc chúng ta.
Cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Người Mẹ và Lòng Mẹ để chúng ta biết ơn và nhớ về.
Hãy sống làm vui lòng Mẹ mình, và hãy dâng cuộc đời mình để thờ phượng một mình Đức Chúa Trời mà thôi, vì đó là cách sống đẹp lòng Ngài theo lời Kinh Thánh dạy: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em.” (Sách Rô-ma, chương 12, câu 1)
Kính chúc tất cả những Người Mẹ ở khắp mọi nơi một Ngày Lễ Mẹ thật nhiều niềm vui bên gia đình và người thân yêu!
Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho tất cả những Người Mẹ!
Mừng Ngày Lễ Mẹ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 306
Nhân Ngày Của Mẹ, Nghĩ Đến Những Thành Ngữ Nói Về... Sự Sanh Đẻ Của Người Mẹ
(Kính tặng tất cả những người Mẹ ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 3: 16; Thi-thiên 127: 3; Giăng 16: 21; Ê-phê-sô 6: 1-3
Ngày của Mẹ năm nay đến với chúng ta nhằm vào Chúa Nhật 14 Tháng 5.
Tại khắp các cửa hàng, siêu thị ở Mỹ, ngay cả tại nơi thành phố nhỏ nơi tôi đang ở đây, người ta đã chưng bày hoa và bong bóng rất nhiều và rất đẹp cùng nhiều quà tặng khác ngay từ Chúa Nhật đầu tháng Năm, để sẵn sàng... bán cho người mua tặng cho Mẹ và người thân nhân ngày Lễ Mẹ sắp đến.
Đứng ngắm nhìn những gian hàng hoa và bong bóng xinh tươi và đáng yêu ấy, tôi thấy lòng mình cũng... hạnh phúc lây, vì không khí của Ngày Lễ Mẹ đang... tràn về đầy ắp mới ấm áp làm sao. Và rồi, tự nhiên, tôi thấy... nhớ về Mẹ tôi đang ở... trên Thiên Đàng tuyệt vời bên Chúa kính yêu, và Mẹ đã sinh ra “nhà có tóc” của tôi đang ở tại quê nhà Việt Nam, cách xa chúng tôi đến... nửa vòng trái đất.
Ôi, nhớ Mẹ thật nhiều và thương Mẹ biết bao nhiêu!
...
Nhân Ngày của Mẹ, xin mời bạn cùng tôi nghĩ về những câu thành ngữ nói về sự sanh đẻ của người Mẹ rất... thấm thía, rất ý nghĩa của người Việt Nam mình.
Thành ngữ là những câu nói ngắn gọn, hàm súc, giàu hình ảnh, và mang tính biểu cảm cao.
+ Thành ngữ “Mang nặng đẻ đau”: Nói đến quá trình mang thai và sinh đẻ đầy khó nhọc của người Mẹ.
Trước khi sinh được một người con, thì người Mẹ phải mang thai đến... 9 tháng 10 ngày. Thử tưởng tượng, bạn chỉ cần mang một chiếc ba lô chừng 2-3 ký lô trên vai trong vòng một vài ngày thôi là đã thấy muốn... bỏ chiếc ba lô ra cho khỏe, cho nhẹ người rồi, vì đã thấy nằng nặng trên vai. Ở đây, Người Mẹ phải mang đứa con cũng cỡ chừng đó ký lô trong lòng mình đến... 9 tháng, 10 ngày. Rồi sau đó, còn sinh đẻ đầy đau đớn nữa.
Tại sao người Mẹ phải... mang nặng đẻ đau?
Kinh Thánh cho biết lý do rất rõ ràng: “Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi sẽ xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 3, câu 16)
Đó chính là hình phạt mà Đức Chúa Trời đã phán với người Mẹ đầu tiên của cả loài người là Ê-va, khi vợ chồng A-đam và Ê-va phạm tội không vâng lời Ngài trong vườn Ê-đen xưa. Theo đó, tất cả những người Mẹ theo sau Ê-va đều phải “lãnh” sự đau đớn mỗi khi sanh con, như Ê-va đã phải... lãnh vậy.
Thành ngữ “mang nặng đẻ đau” của người Việt Nam ta nói về người Mẹ mỗi khi sanh con là khá... chính xác theo như lời Kinh Thánh đã dạy.
Cho nên để sanh được một người con, thì người Mẹ phải... mang nặng đến 9 tháng 10 ngày, và khi đẻ rất là đau đớn.
Đức Chúa Trời đã... set up (đặt để) cho người Mẹ phải mang thai con mình đến 9 tháng 10 ngày, ấy là vì trong khoảng thời gian đó, thai nhi mới phát triển đầy đủ, để sau đó cho ra đời một... tuyệt tác vậy.
Mẹ tôi đã mang thai 6 lần, với tổng thời gian là 56 tháng (tức 4 năm 8 tháng). Mẹ của “nhà có tóc” của tôi đã mang thai đến 10 lần, với tổng thời gian là 93 tháng 10 ngày (tức 7 năm 10 tháng 10 ngày). Mẹ của các con tôi mang thai 4 lần với tổng thời gian là 37 tháng 10 ngày (tức 3 năm 1 tháng 10 ngày). Và Mẹ của các cháu nội tôi đã mang thai 3 lần với tổng thời gian là 28 tháng (tức 2 năm 4 tháng)...
Có rất nhiều người Mẹ đã có những thời gian mang thai như thế trong cuộc đời. Tính tỉ mỉ ra như thế mới thấy hết được tình yêu thương và sự kiên nhẫn, cũng như sự chịu thương, chịu khó của những người Mẹ trên thế gian nầy to lớn là dường nào.
Thật đáng khâm phục cho sự kiên nhẫn và chịu đựng của người Mẹ biết bao nhiêu!
Ca dao đã nhắc nhở ta về sự mang nặng đẻ đau của người Mẹ để chúng ta biết ơn người Mẹ, và hiếu thảo với Cha Mẹ, vì công sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ thật là lớn lao, vô tận như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn vậy.
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
Khi nghĩ đến sự mang nặng đẻ đau của người Mẹ như thế, những người con cần phải biết thương yêu Mẹ của mình nhiều hơn, và biết ơn Mẹ thật là nhiều, nhất là khi Mẹ mình còn sống với mình.
...
+ Thành ngữ “Mẹ tròn con vuông”:
Tại sao phải “Mẹ tròn con vuông” mà không phải “Mẹ tròn con tròn”? hay “Mẹ vuông con vuông”? Lý do là từ quan niệm của người xưa để lại.
Cha ông ta ngày xưa cho rằng, đất là một nền phẳng hình vuông (địa phương) và ở trên nó là bầu Trời tròn (thiên viên) như cái lồng bàn úp xuống. Cho nên, gọi là “Thiên viên địa phương” (trời tròn, đất vuông), chỉ về sự hòa hợp viên mãn, trọn vẹn giữa trời và đất. Từ đó, người ta có câu thành ngữ “Mẹ tròn con vuông” để nói về sự sanh đẻ được bình an, trọn vẹn của người Mẹ.
Chúa Giê-su đã nói về niềm vui của người Mẹ sau khi sanh con như sau: “Người đàn bà, lúc sanh đẻ thì đau đớn, vì giờ mình đến rồi. Song khi đứa con đã lọt lòng, người không còn nhớ sự khốn khổ mình nữa, mừng rằng mình đã sanh ra một người trong thế gian.” (Sách Giăng, chương 16, câu 21)
Người Mẹ dù phải mang thai rất nặng nề, và khi đẻ thì rất đau đớn; nhưng sau khi sanh được con rồi, thì sự vui mừng đó làm người Mẹ như... quên đi hết sự đau đớn trước đó mình đã chịu. Vì đứa con như... phần thưởng của Ông Trời ban cho người Mẹ.
Chẳng thế mà Vua Sa-lô-môn ngày xưa đã nói: “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra. Bông trái của tử cung là phần thưởng.” (Sách Thi-thiên, chương 127, câu 3)
...
+ Thành ngữ: “Một con sa bằng ba con đẻ”: Ý nói đến sự nguy hiểm và những tổn hại khi người Mẹ bị sẩy thai.
Nếu người Mẹ lỡ bị sẩy thai thì sự tổn hại của nó gấp đến ba lần so với người Mẹ sinh được “Mẹ tròn con vuông”. Và người Mẹ bị sẩy thai cần phải được bồi bổ gấp... ba lần so với người Mẹ sinh bình thường, vì mất rất nhiều sức lực, và bị ảnh hưởng tâm lý không ít.
...
+ Thành ngữ: “Ba tháng còn sảy, bảy tháng còn sa”: Thành ngữ nầy nhấn mạnh đến những thời điểm... nguy hiểm của người Mẹ khi mang thai mà người Mẹ cần chú ý.
Đó là vào tháng thứ ba và tháng thứ bảy của thai kỳ. Vì vào hai thời điểm nầy, nếu người Mẹ vô ý bất cẩn một chút là rất dễ bị sẩy thai và nguy cơ thai bị chết lưu như chơi. Mỗi lần người Mẹ bị hư thai, sẩy thai là mỗi lần người Mẹ bi tổn hại rất lớn về tinh thần và sức lực. Tâm lý bị chấn động một thời gian dài mới ổn định trở lại.
...
+ Thành ngữ: “Sinh được một con mất một hòn máu”: Thành ngữ nầy nói đến những hy sinh, mất mát mà người Mẹ phải chấp nhận khi sinh con. Mỗi lần sinh con, người Mẹ bị mất rất nhiều máu, và đối mặt với những rủi ro về tính mạng không lường trước được.
Nói như vậy để những người con hiểu được sự hy sinh cao cả của những người Mẹ mà thêm lên lòng yêu thương, kính trọng Mẹ của mình.
...
Trên đây là một số những thành ngữ nói về những hy sinh, chịu đựng, những rủi ro, mất mát của người Mẹ mỗi khi sanh con. Cho nên, là những người con, ta cần phải biết tỏ lòng hiếu thảo với Cha Mẹ của mình, biết ơn bậc sinh thành, và sống làm vui lòng Cha Mẹ. Đó là điều Đức Chúa Trời đẹp lòng. Kinh Thánh dạy: “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm. Hãy tôn kính cha mẹ ngươi (ấy là điều răn thứ nhứt, có một lời hứa nối theo), hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất.” (Sách Ê-phê-sô, chương 6, câu 1-3)
Kính chúc tất cả những người Mẹ Ngày Lễ Mẹ được nhiều hạnh phúc bên gia đình và người thân yêu!
Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước dồi dào cho những người Mẹ!
Mừng Ngày Lễ Mẹ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 307
Chuyện Về... Dòng Dõi Hậu Lai
Kinh Thánh: Giô-suê 24: 15; Gióp 1: 5; Thi-thiên 78: 4-7; Thi-thiên 128
Ngày từ ban đầu, khi tạo dựng con người, Đức Chúa Trời đã thiết lập hôn nhân cho họ, hầu duy trì nòi giống trên đất và thờ phượng Ngài. Từ đó, con người theo luật định của Đức Chúa Trời, trai đến tuổi lấy vợ, gái đến tuổi lấy chồng, để xây dựng một gia đình hạnh phúc cho mình.
Có thể nói rằng, hôn nhân là quà tặng tuyệt vời mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người chúng ta. Cho nên, từ xưa đến nay, và từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, mọi dân tộc đều tôn trọng hôn nhân, xem hôn nhân là một điều cao quý, đẹp đẽ, vì nó đến từ Đức Chúa Trời.
Từ một cuộc hôn nhân tốt, sẽ có một gia đình tốt. Nhiều gia đình tốt sẽ tạo nên một xã hội tốt.
Để có một gia đình tốt, Kinh Thánh dạy cho chúng ta một nguyên tắc thật quý báu.
Trong Thi-thiên 128, tác giả viết:
“Phước cho người nào kính sợ Đức Giê-hô-va, Đi trong đường lối Ngài! Vì ngươi sẽ hưởng công việc của tay mình, Được phước, may mắn. Vợ ngươi ở trong nhà ngươi Sẽ như cây nho thạnh mậu; Con cái ngươi ở chung quanh bàn ngươi, Khác nào những chồi ô-li-ve. Kìa, người nào kính sợ Đức Giê-hô-va, Sẽ được phước là như vậy. Nguyện Đức Giê-hô-va từ Si-ôn ban phước cho ngươi; Nguyện trọn đời mình ngươi được thấy sự phước lành của Giê-ru-sa-lem. Nguyện ngươi được thấy con cháu mình! Nguyện sự bình an giáng trên Y-sơ-ra-ên!”
Theo sự dạy dỗ từ Thi-thiên 128, một gia đình tốt, phước hạnh là một gia đình có người cha kính sợ Chúa và đi trong đường lối Ngài.
“Kính sợ Chúa” là nhận biết Chúa là Đấng Tạo Hóa và con người chúng ta là tạo vật của Ngài; Chúa là Cha và chúng ta là con; Chúa là Chủ, chúng ta là đầy tớ của Ngài. Kính sợ Chúa là phải thờ phượng Đức Chúa Trời và chỉ một mình Ngài mà thôi. Sự kính sợ Chúa luôn luôn đi đôi với vâng lời Ngài. “Đi trong đường lối Ngài”, nghĩa là chúng ta phải lắng nghe, học hỏi, suy ngẫm Lời Chúa cách cẩn thận và làm theo Lời Ngài dạy, vì điều đó thể hiện lòng kính yêu Chúa của chúng ta, như Chúa Giê-su đã phán: “Ai có các điều răn của ta mà vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến Ta. Người nào yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu lại; Ta cũng sẽ yêu người và tỏ cho người biết Ta.” (Giăng 14: 21).
“Kính sợ Chúa” và “Đi trong đường lối Ngài” phải là hai phương diện của một vấn đề. Không thể có điều nầy mà không có điều kia, và ngược lại.
Một người kính sợ Chúa thật sự thì phải “Đi trong đường lối Ngài”. Và một người “Đi trong đường lối Ngài” thì chắc chắn đó phải là một người “Kính sợ Chúa” vậy.
...
Khi chúng ta là một người cha tin kính Chúa rồi, thì chúng ta mới có thể hướng dẫn gia đình mình, con cái mình đi theo gương đức tin của mình được.
Là cha mẹ, ai trong chúng ta cũng muốn con cháu chúng ta yêu mến Chúa, kính sợ Ngài. Nhưng nếu chúng ta không dạy cho chúng về Chúa, thì làm sao chúng nghe và hiểu biết, nếu chúng không nghe, không biết thì làm sao tin Chúa, và nếu không tin Chúa thì làm sao kêu cầu Chúa được như Phao-lô đã nói rất rõ: “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng thì nghe làm sao?” (Rô-ma 10: 14).
Rất nhiều bậc cha mẹ vì quá mải mê làm lụng kiếm tiền để lo cho cuộc sống mà không dành thì giờ dạy dỗ, hướng dẫn đời sống tin kính Chúa cho con cái của mình ngay từ khi chúng còn nhỏ. Rốt cuộc, khi lớn lên, chúng bị bạn bè xấu dẫn dụ, đi xa đường lối Chúa, thì cha mẹ có hối tiếc, cũng đã muộn màng rồi.
Thiết nghĩ, là những bậc cha mẹ Cơ-đốc, chúng ta cần biết dành thì giờ ưu tiên để chăm lo cho những giá trị đời đời, không chỉ cho mình mà còn cho con cháu của mình nữa. Vì tất cả những giá trị khác trong cõi tạm nầy rồi sẽ qua đi, chỉ có những gì thuộc về cõi đời đời mới còn lại mãi mãi mà thôi.
...
Thánh Gióp ngày xưa đã nêu một gương tốt đáng cho chúng ta học hỏi trong việc quan tâm đến đời sống tin kính của con cái mình: “Xảy khi các ngày tiệc yến xong rồi, Gióp sai người đi dọn các con cái mình cho thanh sạch, thức dậy sớm, dâng của lễ thiêu tùy số chúng nó; vì người nói rằng: Dễ thường các con ta có phạm tội, và trong lòng từ chối Đức Chúa Trời chăng. Gióp hằng làm như vậy.” (Gióp 1: 5)
Một trong những điều mà Gióp quan tâm, lo lắng là sợ con cái mình phạm tội với Chúa, từ chối Ngài trong lòng. Nên ông luôn dành thì giờ để thờ phượng Chúa và cầu nguyện cho con cái mình.
Đó cũng là điều mà ngày nay các bậc cha mẹ chúng ta nên làm và cần làm cho con cháu chúng ta, để chúng nó giữ một tâm ý tốt là luôn hướng về Đức Chúa Trời trong cuộc sống của mình.
Thánh tổ Áp-ra-ham cũng nêu một gương đức tin tuyệt vời. Trên hành trình “đi đến xứ mà Chúa chỉ cho”, bất cứ nơi nào khi ông dừng lại đóng trại, ông đều “lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va và cầu khẩn danh Ngài.” (Sáng Thế Ký 12: 7, 8 và 13: 4, 18). “Lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va và cầu khẩn danh Ngài” là nói đến sự thờ phượng Chúa và nhờ cậy Ngài.
Chính vì có một đời sống đức tin đáng quý như thế với Đấng mà ông đang tin cậy và tôn thờ, nên Áp-ra-ham đã trở thành “Ông Tổ của Đức Tin” của mọi người tin Chúa xưa nay. Y-sác, con ông và Gia-cốp, cháu ông đều là những tổ phụ của đức tin cũng là nhờ vào đức tin sắt son nơi Chúa của Áp-ra-ham để lại vậy. Kinh Thánh Cựu Ước thường hay nói đến cụm từ “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 3: 6, 15, 16... ) Đó là một cụm từ ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta rất nhiều trong việc truyền đạt và khuyến khích con cháu chúng ta trong con đường đức tin đặt nơi Đức Chúa Trời.
...
Giô-suê, vị lãnh tụ can đảm và tài năng của người Do-thái cũng đã nêu gương đức tin thật quý báu qua câu nói nổi tiếng của mình: “Nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va.” (Giô-suê 24: 14, 15)
“Ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va.” Đó là... tuyên ngôn đức tin của Giô-suê. Không những Giô-suê phục sự Chúa, mà cả nhà ông (vợ ông, con ông và cả... cháu ông nữa) cũng đều sẽ phục sự Ngài.
Mong rằng, đó cũng chính là... tuyên ngôn đức tin của các bậc cha mẹ tin Chúa ngày hôm nay để chúng ta có được cả một dòng dõi tin thờ Đức Chúa Trời qua nhiều thế hệ.
...
Khi nói đến việc truyền đạt đức tin cho thế hệ sau, chúng ta cũng không thể nào quên tấm gương đức tin sáng chói của bà Lô-ít, và bà Ơ-nít là bà ngoại và mẹ của Mục Sư Ti-mô-thê được Phao-lô nhắc lại cho chúng ta noi theo: “Ta cũng nhớ đến đức tin thành thật của con, là đức tin trước đã ở trong Lô-ít, bà ngoại con, và trong Ơ-nít, mẹ con, ta chắc rằng nay cũng ở trong con nữa.” (II Ti-mô-thê 1: 5)
Không thể có một Mục Sư Ti-mô-thê đầy ơn và gương mẫu, nếu không có hai người nữ đáng kính ấy trong cuộc đời của Ti-mô-thê. Thật đúng là đức tin sẽ dẫn đến đức tin nữa (Rô-ma 1: 17)
...
Tôi cảm tạ Chúa vì Ngài đã cứu ba mẹ tôi trở nên con cái Ngài. Và Ngài đã cho ba mẹ tôi trung tín theo Chúa cho đến chết, dù ở trong một đất nước vô thần. Ba mẹ tôi luôn luôn dạy dỗ, nhắc nhở, khuyên răn chúng tôi thờ phượng Chúa, học Kinh Thánh, cầu nguyện, đi nhà thờ, hầu việc Chúa, rao giảng Tin Lành, yêu mến Hội Thánh của Ngài. Nhờ đó mà anh em chúng tôi mới cứ được ở trong Chúa và hầu việc Ngài cho đến ngày hôm nay. Và đến lượt chúng tôi, chúng tôi cũng khuyên dạy, nhắc nhở con cái mình đi theo Chúa và hầu việc Ngài.
Cho đến nay, chúng tôi rất vui mừng khi thấy dòng dõi đức tin của ba mẹ chúng tôi tất cả là 33 người (con, dâu, rể, cháu, chắt) đều được ở trong Chúa và được góp phần hầu việc Ngài. Đó chính là kết quả của một đời sống tin kính Chúa từ một người cha, người mẹ, người ông, người bà để lại. Kết quả đó quý hơn cả bạc vàng, châu báu nhiều lần.
Chúng tôi biết ơn Ngài vì cả gia đình chúng tôi đều thờ Trời (In God We Trust!)
Gia đình ba mẹ vợ chúng tôi cũng vậy. Bởi đức tin của ba mẹ vợ chúng tôi, mà nay cả đại gia đình của ba mẹ vợ chúng tôi gần 80 người, hầu hết đều ở trong Chúa và hầu việc Ngài. Đó là một gia sản đức tin vô cùng quý báu!
...
Lời Chúa trong Thi-thiên nhắc nhở chúng ta trong việc truyền đạt đức tin cho con cháu như sau: “Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ. Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng Ngài đã làm. Ngài đã lập chứng cớ nơi Gia-cốp, định luật pháp trong Y-sơ-ra-ên. Truyền dặn tổ phụ chúng ta phải dạy nó lại cho con cháu mình. Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, được biết những điều đó. Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình. Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời. Không hề quên các công việc Ngài. Song gìn giữ các điều răn của Ngài.” (Thi-thiên 78: 4-7)
Một câu Châm Ngôn quý báu khác cũng đề cập đến việc dạy dỗ lời Chúa cho con cháu của mình: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, dầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó.” (Châm Ngôn 22: 6)
Nguyện xin Chúa ban phước cho chúng ta và dòng dõi hậu lai của chúng ta để tất cả chúng ta đều được “ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài”. A men!
California, tháng 5/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 308
Chuyện... Toàn Hảo Và Bất Toàn
Kinh Thánh: I Cô-rinh-tô 1: 27-29; II Cô-rinh-tô 5: 21; Rô-ma 7: 18, 19; Gia cơ 5: 17, 18; I Phi-e-rơ 2: 22
Toàn hảo và bất toàn là hai... phạm trù trái ngược nhau. Một bên là trọn vẹn, và một bên là... chưa trọn vẹn. Một bên là hoàn hảo, và một bên là... chưa hoàn hảo. Một bên là “mười phân vẹn mười”, còn một bên là mới... bảy, tám phân, hoặc chín phân, chứ chưa được mười phân.
Có ai trong vòng con người chúng ta là... toàn hảo, trọn vẹn không?
Câu trả lời là “Không!” Dẫu một người cũng không!
Khổng Tử đã biết... thân phận không... hoàn hảo của mình, nói riêng và của con người, nói chung, nên đã khẳng định: “Nhân vô thập toàn” (nghĩa là con người thì không toàn hảo được).
Đó là một câu nói chính xác vậy!
Không Tử, một người được người đời mệnh danh là “Vạn thế sư biểu” (nghĩa là bậc thầy của muôn đời) mà còn... tự thú như vậy, thì còn ai trong chúng ta dám... vỗ ngực xưng tên mình là... toàn hảo, “mười phân vẹn mười” được phải không nào?
Khổng Tử cũng còn có một câu nói khác cũng... chí lý và chính xác lắm: “Nhơn nhơn giai hữu tội” (nghĩa là mọi người đều có tội), đúng như lời Kinh Thánh đã khẳng định “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Sách Rô-ma, chương 3, câu 23)
Nói về lĩnh vực trọn vẹn, toàn hảo, thì trong suốt cả cõi lịch sử của con người, nếu ta tìm tòi, nghiên cứu, so sánh, đối chiếu, ta sẽ chỉ có thể tìm được một người và một người duy nhất mà thôi. Người đó không ai khác hơn, chính là Đức Chúa Giê-xu.
Đức Chúa Giê-xu được Kinh Thánh cho biết Ngài là Đức Chúa Trời trọn vẹn và cũng là một Con người trọn vẹn.
Nếu tìm một người đẹp nhất thế giới, ta có thể tìm được; nếu tìm một người cao nhất thế giới, ta có thể tìm được; nếu tìm một người giàu nhất thế giới, ta cũng có thể tìm được... nhưng nếu tìm một người vô tội, thì ta không thể tìm được một ai khác ngoài Đức Chúa Giê-xu, Ngài là Đấng Thần Nhân (nghĩa là Ngài vừa là Đức Chúa Trời trọn vẹn và là Con Người trọn vẹn)
Kinh Thánh xác nhận: “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá.” (Sách I Phi-e-rơ, chương 2, câu 22)
Trong miệng con người chúng ta thì... đầy sự dối trá; nhưng trong miệng Đức Chúa Giê-xu thì người ta không tìm thấy có một chút dối trá nào cả.
Thánh Phao-lô cũng khẳng định: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta; hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.” (Sách II Cô-rinh-tô, chương 5, câu 21)
Chúa Giê-xu là con người duy nhất không có chút chi dối trá trong miệng. Ngài cũng là con người duy nhất chẳng biết tội lỗi (tức không phạm tội). Và chính vì vậy, Ngài chính là con người toàn hảo duy nhất hiện diện trong suốt dòng lịch sử của con người.
Với tư cách là con người toàn hảo duy nhất như thế, nên Đức Chúa Giê-xu mới có đủ tư cách pháp lý duy nhất trước mặt Đức Chúa Trời để chết thay cho tội lỗi của loài người trên thập tự giá và ban sự cứu rỗi cho con người. Và Đức Chúa Trời hài lòng về điều đó.
Tiên Tri Ê-sai đã viết: “Đức Giê-hô-va lấy làm vừa ý mà làm tổn thương người, và khiến gặp sự đau ốm. Sau khi đã dâng mạng sống mình làm tế chuộc tội, người sẽ thấy dòng dõi mình, nhưng ngày người sẽ thêm dài ra, và ý chỉ Đức Giê-hô-va nhờ tay người được thịnh vượng.” (Sách Ê-sai, chương 53, câu 10)
Tạ ơn Đức Chúa Trời đã ban Đấng Toàn Hảo cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta! Nếu Đấng Toàn Hảo không được ban cho, thì số phận đời đời của con người chúng ta là ở trong hồ lửa đời đời với Sa-tan, và vô phương tự cứu.
...
Sự toàn hảo chỉ có nơi Đức Chúa Trời và nơi Con của Ngài là Đức Chúa Giê-xu Christ!
Còn con cái loài người chúng ta thì là thuộc giống yếu đuối bất toàn trước mặt Đức Chúa Trời.
Chúng ta không toàn hảo; nhưng Chúa Giê-xu thì toàn hảo. Chúng ta không trọn vẹn; nhưng Chúa Giê-xu thì trọn vẹn.
Chính Đức Chúa Cha đã nói về sự toàn hảo của Đức Chúa Giê-xu rằng: “Nầy là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 3, câu 17)
Phao-lô... tự thú về sự yếu đuối của chính mình: “Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn. Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn.” (Sách Rô-ma, chương 7, câu 18, 19)
Sống trước Phao-lô rất nhiều năm, Tiên Tri Ê-li cũng được Kinh Thánh cho biết là một con người yếu đuối như chúng ta, không hơn không kém: “Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta. Người cầu nguyện cố xin cho đừng mưa, thì không mưa xuống đất trong ba năm rưỡi. Đoạn, người cầu nguyện lại, trời bèn mưa, và đất sanh sản hoa màu.” (Sách Gia-cơ, chương 5, câu 17, 18)
Một nhân vật khác sống trước Ê-li nhiều năm nữa, một người được Đức Chúa Trời xác nhận: “là trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.” (Sách Gióp, chương 1, câu 1), đó là Thánh Gióp, nhưng chính ông khi đã thấy Ngài, thì đã thú nhận kêu lên một cách rất thật rằng: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài. Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi và ăn năn trong tro bụi.” (Sách Gióp, chương 42, câu 5, 6)
Một người ngay thẳng và kính sợ Chúa như Gióp mà khi đối diện với Đức Chúa Trời toàn hảo thì thấy mình gớm ghê, chẳng ra gì hết, thì còn ai trong chúng ta dám cho mình là trọn vẹn nữa?
Dầu chúng ta yêu đuối, bất toàn, nhưng Đức Chúa Trời lại muốn dùng những con người yếu đuối, bất toàn như chúng ta cho công việc của Ngài.
Lời Kinh Thánh xác nhận điều đó:
“Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn. Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh. Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 1, câu 27-29)
Đức Chúa Trời đã dùng Tiên tri Ê-li là một con người yếu đuối; Đức Chúa Trời cũng đã dùng Phao-lô là một con người “hèn mọn hơn hết mọi thánh đồ” để làm công việc lớn cho Ngài.
Đức Chúa Trời cũng dùng nhiều người khác nữa để hoàn tất công việc của Ngài như Áp-ra-ham, như Y-sác, như Gia-cốp, như Môi se, như Đa-vít, như Đa-ni-ên, như Phi-e-rơ, như Gia-cơ, như Giăng, và nhiều con người bất toàn khác nữa...
Những con người yếu đuối, bất toàn đó, theo con mắt loài người thì họ chẳng có thể làm nên được... tích sự gì đâu; nhưng bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời ở trên họ, nên họ đã làm được những công việc lớn cho Ngài. Họ giống như những chiếc găng tay trong bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời vậy. Chiếc găng tay sẽ không làm được gì cả; nhưng nếu nó chịu để bàn tay của con người xỏ vào và sử dụng, thì nó sẽ làm được rất nhiều việc cho người chủ của nó.
Cảm tạ Chúa đã dùng những con người yếu đuối, bất toàn như chúng ta cho công việc nhà Ngài. Đó là một phước hạnh vô cùng lớn lao mà Đức Chúa Trời đã dành cho những người Ngài yêu mến và sử dụng.
...
Một Nhà Truyền Giáo đã nói rất hay rằng: "Tất cả những vĩ nhân của Chúa đều là những người yếu đuối." Đức Chúa Trời đã biến một Áp-ra-ham yếu đuối trở thành “cha của nhiều dân tộc”(Sách Sáng-Thế-Ký, chương 17, câu 5); một Môi se bất toàn thành "người rất khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian." (Sách Dân-Số-Ký, chương 12, câu 3); một Đa-vít nhiều khiếm khuyết thành “người vừa lòng Đức Chúa Trời” (Sách Công Vụ, chương 13, câu 22)...
Tôi rất thích câu nói nầy của Phao-lô: “Nhưng tôi nay là người thể nào là nhờ ơn Đức Chúa Trời, và ơn Ngài ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy. Trái lại, tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 15, câu 10)
Thật vậy, bạn và tôi được như ngày hôm nay, được làm con cái trong nhà của Ngài, được thờ phượng và hầu việc Ngài, tất cả đều là nhờ ơn Đức Chúa Trời. Nếu không nhờ ơn Ngài, thì bạn và tôi cũng chỉ là những con người vô ích, đáng chết mà thôi.
Tạ ơn Đức Chúa Trời đã thương yêu bạn và tôi, dù chúng ta chẳng đáng để được thương yêu. Tạ ơn Ngài đã thương xót sử dụng cuộc đời đầy khiếm khuyết, bất toàn của bạn và tôi cho sự toàn hảo của Ngài!
California, Tháng 5/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 309
Chuyện Về... Người Cha Kính Yêu
Kinh Thánh: Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 12; Thi-thiên 103: 13; Truyền Đạo 12: 13; Ma-thi-ơ 6: 9-13
Ngày Lễ Cha năm nay đang đến trong niềm hân hoan của mọi người, nhất là những người đã và đang làm cha.
Nhân ngày Lễ Cha, xin mời bạn cùng tôi dành chút thì giờ suy nghĩ về hình ảnh người cha kính yêu để thêm lên trong ta lòng yêu kính người đã sinh thành, dưỡng dục mình nên người.
Không biết bạn thì sao, chứ tôi thì rất yêu thích kho tàng ca dao, tục ngữ của cha ông ta để lại, vì nó dường như cô đọng tất cả tình cảm, kinh nghiệm cùng sự khôn ngoan của người Việt Nam ta vậy.
Ca dao nói về cha có rất nhiều câu hay và sâu sắc, và sau đây là một số câu mà tôi thuộc lòng:
+ Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ,
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha.
+ Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha chết, gót con đen sì.
+ Có cha có mẹ thì hơn,
Không cha, không mẹ như đờn không dây
+ Công cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
+ Khi con tát cạn biển Đông,
Thì con mới hiểu tấm lòng của cha...
...
Tôi cũng thích tìm đọc những câu danh ngôn hay về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, và tìm thấy có nhiều câu rất ý nghĩa, đến nỗi khi đọc qua một lần là... nhớ như in trong đầu. Tôi đã tìm đọc được những câu danh ngôn viết về cha rất hay nhu sau:
+ Một đứa con ngủ ngon, không đâu bằng trong phòng của cha nó.
+ Tấm lòng của người cha là một tuyệt tác của Tạo Hóa.
+ Trên đời này có bao nhiêu chiếc lá thì bằng vậy lần người cha yêu con.
+ Cha tôi thật kỳ lạ, tôi càng lớn bao nhiêu, cha lại càng tuyệt vời bấy nhiêu.
+ Trên trái đất này, không có món quà nào ngọt ngào bằng tình yêu thương của người cha cho con mình.
+ Chúng ta không hiểu được tình yêu thương của cha mẹ cho tới khi chính chúng ta trở thành cha mẹ.
...
Tình cha dành cho con cái thật vô cùng lớn lao, sâu đậm, ai có thể diễn tả hết được?
Nghĩ về tình cha, tôi nhớ đến tình cảm quý báu của cha tôi dành cho anh em chúng tôi. Nhà nghèo, mẹ về với Chúa sớm, để lại cho cha tôi cảnh “Gà trống nuôi... bốn con” với biết bao vất vả. Ngày ngày, cha tôi dậy sớm đi làm thuê, đến tối mịt mới về để kiếm tiền nuôi anh em chúng tôi ăn học. Cha tôi không muốn vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn mà để chúng tôi phải nghỉ học, phụ giúp cha lo cho cuộc sống. Cha tôi luôn luôn khích lệ anh em chúng tôi phải cố gắng học hành để kiếm... ít chữ với người ta. Dù cuộc sống rất cơ cực, cha tôi phải rất vất vả để lo vấn đề “cơm áo, gạo tiền” cho gia đình; nhưng cha tôi không bao giờ ta thán, hay than thở cả. Ngược lại, ông luôn vui vẻ, tươi cười trong cuộc sống. Cha thường hay hát những bài Thánh Ca đầy ý nghĩa vui mừng, như “Lòng tôi vui vẻ”, “Ngày vui vẻ”, “Ta cứ tiến bước”, “Giê-su ngự cùng, ấy nơi Thiên Cung”, “Giê-su nguồn vui vẻ cho mọi lòng”... làm chúng tôi cũng cảm thấy vui lây. Cảm hứng vui mừng đó của cha tôi, cho đến bây giờ, dù cha đã “Về Miền Phước Hạnh” ở với Chúa hơn 22 năm rồi, vẫn còn in đậm trong tâm hồn anh em chúng tôi. Và mỗi khi nhớ đến cha, tôi cũng thường hay hát những bài Thánh Ca ấy để ca ngợi Chúa và để... nhớ về cha kính yêu.
Tôi nhận chân ra điều nầy, thái độ sống của một người sẽ có ảnh hưởng lớn đến người khác rất nhiều, nhất là với những người thân yêu trong gia đình. Thái độ sống đức tin của cha tôi đã ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống đức tin của anh em chúng tôi nhiều biết bao nhiêu!
Tạ ơn Chúa về đời sống tin kính Chúa của cha thật nhiều!
...
Nhớ về cha thể xác, tôi liên tưởng đến... người Cha thiêng liêng ở trên trời, Đấng mà tôi đang tôn thờ và hầu việc.
Kinh Thánh cho biết: “Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài, khác nào cha thương xót con cái mình vậy.” (Sách Thi-thiên, chương 103, câu 13)
Đức Giê-hô-va tức là Đức Chúa Trời, là Cha thiêng liêng của mọi người tin nhận Ngài.
Có nhiều điều quý báu mà Cha thiêng liêng đã làm cho con cái của Ngài, như: Ngài tha thứ mọi tội lỗi của họ (như cha thể xác thường hay tha thứ những sai phạm của tôi thể nào, thì Cha thiêng liêng đã tha thứ mọi tội lỗi của tôi thể ấy); Ngài chữa lành mọi bịnh tật cho họ; cứu chuộc mạng sống họ khỏi chốn hư nát; đội trên đầu họ sự nhân từ và thương xót của Ngài; ban cho họ các vật ngon để thưởng thức trong cuộc sống một cách thỏa thích (Ý từ sách Thi-thiên, chương 103, câu 3 đến 5). Và còn biết bao ơn phước lớn lao khác nữa mà Cha thiêng liêng đã làm cho những người thuộc về Ngài, làm sao chúng ta có thể kể cho xiết. Thánh Phao-lô đã bày tỏ: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời.” (Sách Ê-phê-sô, chương 1, câu 3)
...
Với người cha thể xác, chúng ta cần phải biết hiếu kính, tôn trọng như lời Chúa dạy: “Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho.” (Sách Xuất Ê-díp-tô Ký, chương 20, câu 12). Cần phải vâng lời cha mẹ: “Hãy nghe lời cha đã sanh ra con. Chớ khỉnh bỉ mẹ con khi người trở nên già yếu.”(Sách Châm Ngôn, chương 23, câu 22). Cần phải biết làm vui lòng cha mẹ mình: “Con khôn ngoan làm vui vẻ cha nó. Còn đứa ngu muội khinh bỉ mẹ mình.”(Sách Châm Ngôn, chương 15, câu 20).
Với người Cha thiêng liêng, chúng ta cần phải dâng lòng mình để thờ phượng Ngài: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi.” (Sách Phục Truyền Luật Lệ Ký, chương 6, câu 5). Sách Châm Ngôn, chương 23, câu 26 cũng dạy: “Hỡi con, hãy dâng lòng con cho Cha, và mắt con khá ưng đẹp các đường lối của Cha.” Vua Sa-lô-môn cũng đã nhắc nhở mọi người: “Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài, ấy là trọn phận sự của ngươi.” (Sách Truyền Đạo, chương 12, câu 13)
Chúa Giê-su cũng đã dạy chúng ta phải thờ lạy Đức Chúa Trời trong bài cầu nguyện đặc biệt mà Ngài đã truyền lại:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời. Danh Cha được thánh. Nước Cha được đến. Ý Cha được nên. Ở đất như trời! Xin cho chúng con hôm nay đồ ăn đủ ngày. Xin tha tội lỗi cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng con. Xin chớ để chúng con bị cám dỗ, mà cứu chúng con khỏi điều ác! Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời. A men!” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 9 đến 13)
...
Có thể nói rằng, bất cứ người con nào cũng vui mừng khi mình có được người cha người mẹ đã sinh ra mình trong cuộc đời nầy, rồi trưởng dưỡng, yêu thương mình cho đến hơi thở cuối cùng. Tôi cũng vậy, vì có được người cha, người mẹ yêu thương mình hết mực.
Có thể nói rằng, một người sẽ vui mừng hơn khi nhận Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng cho cuộc đời của mình. Vì cha thể xác chỉ có thể lo cho chúng ta trong cõi tạm ngắn ngủi nầy mà thôi; còn Cha thiêng liêng, không những chăm sóc ta trong cõi đời tạm, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời trong cõi đời sau vĩnh cửu nữa.
Tôi cảm tạ Chúa vô cùng, vì được làm con của Cha thiêng liêng trên trời.
Tôi được bình an khi sống trong cõi tạm nầy, và tôi đầy hy vọng khi rời cõi tạm nầy nữa, bởi tôi sẽ được bước vào Thiên Đàng vinh hiển tràn đầy phước hạnh để ở với Ngài mãi mãi không thôi!
Bạn cũng như tôi, đã có cha thể xác. Đó là điều đáng quý!
Tôi mong bạn cũng sẽ như tôi là có được Cha thiêng liêng ở trên trời để được hưởng mọi phước hạnh thiêng liêng ở các nơi trên trời mà Ngài sẵn dành cho những người thuộc về Ngài!
Cầu xin Cha thiêng liêng ban phước cho hết thảy mỗi một chúng ta!
Kính chúc mọi người cha ngày Lễ Cha tràn đầy hạnh phúc và bình an!
Tháng 6/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 310
Ngày Lễ Cha, Nói Chuyện Về... Thân Phụ Và... Thiên Phụ
Kinh Thánh: Giê-rê-mi 33: 3; Giăng 1: 12; Giăng 17: 3; Phi-líp 1: 21
Vậy là ngày đáng yêu và đáng mong chờ của mọi người cha nói riêng, và mọi người hàng năm lại đến. Đó là ngày Lễ Cha.
Với ai thì không biết, nhưng với tôi, tháng Năm, tháng Sáu hằng năm là những tháng rất đáng yêu, vì có ngày Lễ Mẹ (Chúa Nhật thứ 2 của tháng Năm), và ngày Lễ Cha (Chúa Nhật thứ 3 của tháng Sáu). Hai ngày đáng yêu trong hai tháng đáng yêu đó cho tôi có nhiều thì giờ hơn để nhớ về cha mẹ mình và để suy gẫm về thiên chức làm cha làm mẹ mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người chúng ta.
Nhân ngày Lễ Cha năm nay, xin được chia sẻ với bạn đọc về... thân phụ và... Thiên Phụ.
...
Thân phụ là gì? Không khó để trả lời phải không bạn?
Thân phụ, từ Hán Việt để chỉ người cha thân yêu của mình, người đã góp phần sinh thành, dưỡng dục nên mình.
Tiếng Việt mình rất phong phú trong cách gọi người cha người mẹ.
Trong Hán Việt: Thân phụ, có nghĩa là cha ruột; kế phụ là cha ghẻ, cha kế; nghĩa phụ, dưỡng phụ là cha nuôi; nghĩa phụ cũng là cha đỡ đầu; bá phụ là ông bác (anh cha); thúc phụ là ông chú (em cha); quân phụ là cha chồng, và nhạc phụ là cha vợ.
Còn Thân mẫu, có nghĩa là mẹ ruột; kế mẫu là mẹ ghẻ; thứ mẫu là vợ bé của cha; dưỡng mẫu là mẹ nuôi; nhạc mẫu là mẹ vợ; quân mẫu là mẹ chồng.(*)
Không dễ để có thể nhớ và nói cho đúng những từ như thế trong thời hiện đại nầy phải không bạn? Nhưng đó là những từ ngữ xưng hô của người xưa có tính cách trang trọng để bày tỏ sự tôn kính những người bề trên, thiết nghĩ chúng ta cũng nên ghi nhớ và sử dụng trong cuộc sống cho thêm phần phong phú.
Mỗi một người trong chúng ta đều được Tạo Hóa ban cho có thân phụ là người đã sinh ra mình, trưởng dưỡng mình nên người.
Thân phụ của tôi là một người rất bình dị, yêu thương vợ con, và sống chan hòa, gần gũi với mọi người trong xóm, trong làng. Người sẵn sàng mở lòng giúp đỡ người khác khi có cần, nhất là những người nghèo khó, mồ côi, góa bụa, dù cuộc sống của ông cũng khó khăn như nhiều người khác. Dù nhà ông... chật, nhưng lòng ông không... chật. Sống trong tinh thần ban cho là lối sống mà thân phụ tôi... chọn để sống. Tôi cảm tạ Chúa vì thân phụ tôi đã chọn lối sống đó là lối sống mà Chúa Giê-su đã dạy, để ngày nay, anh em chúng tôi được noi theo lối sống ấy của Người. Thân phụ tôi cũng là người sống ngay thật, thẳng thắn, không xu nịnh, không luồn cúi, ghét bất công, áp bức. Ông thường hay binh vực những người thân cô thế cô. Anh em chúng tôi cũng thích tính cách nầy của thân phụ tôi, và tính cách ấy đã ảnh hưởng trên anh em chúng tôi rất nhiều. Điều đặc biệt nhất mỗi khi nghĩ về thân phụ tôi mà tôi nhớ đến, đó chính là ông có một lòng tin chí quyết đặt nơi Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng của ông, không hề nao núng đức tin trước những sự tấn công, chỉ trích, dèm pha của người vô thần, vô tín. Dường như thân phụ tôi đã học được đức tin sắt son đó nơi thánh Phao-lô thì phải: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy.” (Sách Phi-líp, chương 1, câu 21); “Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự.” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 11). Đức tin sắt son ấy của thân phụ tôi đã để lại một ảnh hưởng rất lớn trên dòng dõi của Người ngày hôm nay. Ấy là tất cả con cháu của thân phụ tôi hiện nay đều được ở trong Chúa và được góp phần hầu việc Ngài trong nhiều phương diện khác nhau ở trong nhà của Ngài.
Cảm tạ Chúa đã cho tôi có được một thân phụ tuyệt vời, nhất là trong niềm tin đặt nơi Chúa!
...
Ngoài thân phụ đáng yêu, tôi còn có một... người Cha nữa, đó là... Thiên Phụ!
Thân phụ là người đã sinh thành dưỡng dục mình nên người. Còn Thiên Phụ là Đấng Tạo Hóa, đã tạo dựng nên kiền khôn vũ trụ và con người chúng ta.
Thân phụ là người, còn Thiên Phụ là Trời. Thân phụ thì được tạo dựng nên từ bụi đất, ở dưới đất thấp hèn; còn Thiên Phụ thì hiện hữu từ ban đầu, và ngự trên Thiên Đàng vinh hiển. Thân phụ thì được sinh ra; còn Thiên Phụ là “Đấng tự hữu và hằng hữu” (tức tự có và hằng có mãi mãi), (Sách Xuất Ê-díp-tô ký, chương 3, câu 14). Thân phụ thì hữu hạn và chóng qua; nhưng Thiên Phụ thì vô hạn và vĩnh hằng. Thân phụ là tội nhân, như bao con người khác, và cần nhận được sự cứu rỗi trong danh Chúa Giê-su để được tha thứ tội lỗi; nhưng Thiên Phụ là Đấng thánh khiết, trọn lành, nên có quyền tha thứ tội lỗi cho con người, và cũng có quyền đoán phạt tội nhân nữa.
Đối với thân phụ, chúng ta phải hiếu kính, vì đó là điều Kinh Thánh dạy; còn đối với Thiên Phụ,chúng ta phải tôn thờ, vì Ngài là Đấng Tạo Hóa trên hết muôn loài vạn vật.
Chúng ta thường hay nghe câu nói: "Trời sinh Trời dưỡng." Nghĩa là Đức Chúa Trời không những là Đấng Tạo Hóa của chúng ta, mà Ngài còn là Thiên Phụ của chúng ta nữa.
Trong thời Quân chủ ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam... người ta thường gọi các vị vua cai trị đất nước là Thiên Tử, tức con của Trời. Điều nầy cũng có một hàm ý là xem Ông Trời là Thiên Phụ của mình vậy.
...
Làm thế nào để một người có thể trở thành... Thiên Tử (con Trời), và Ông Trời trở thành... Thiên Phụ của mình?
Kinh Thánh cho chúng ta biết cách để một người được trở thành... Thiên Tử như sau: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (Chúa Giê-su), thì Ngài ban cho quyền phép để trở nên con cái Đức Chúa Trời (Thiên tử), là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Sách Giăng, chương 1, câu 12)
Tiếp nhận Chúa Giê-su làm Chúa, làm Chủ đời sống mình là bạn sẽ trở thành... Thiên Tử, và Đức Chúa Trời trở thành... Thiên Phụ của bạn.
Trong cuộc nói chuyện giữa vị Giáo Sư từ trời là Chúa Giê-su với vị Giáo Sư từ đất là Ni-cô-đem, Đức Chúa Giê-su đã cho Ni-cô-đem biết cách để ông có thể trở thành... Thiên tử: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Sách Giăng, chương 3, câu 3)
Để trở thành... Thiên tử, một người phải “sanh lại”, có nghĩa là phải tin nhận Ngài làm Cứu Chúa. Sự sanh ra lần thứ nhất từ cha mẹ mình là sự sanh ra bởi thể huyết khí, bởi tình dục. Sự sanh ra đó cho bạn được làm con trong một gia đình ở dưới đất nầy. Còn sự sanh lại (tức sanh ra lần thứ hai), là sự sanh ra bởi Đức Thánh Linh. Sự sanh ra nầy cho bạn địa vị được làm... Thiên tử ở trong gia đình của Đức Chúa Trời ở trên trời.
Một câu Kinh Thánh khác nữa xác quyết cách mà một người được trở thành... Thiên tử: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Giê-su Christ, là Đấng Cha đã sai đến.”(Sách Giăng, chương 17, câu 3)
Ai nhìn biết Cha (tức tin nhận, tôn thờ Đức Chúa Trời), và Chúa Giê-su Christ, thì người ấy sẽ được trờ thành... Thiên tử, và Đức Chúa Trời trở thành... Thiên Phụ của người ấy vậy.
Ngay từ khi bạn mở lòng tin nhận Chúa Giê-su là bạn sẽ được sống trong mối liên hệ cha con mật thiết với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không còn xa lạ với bạn nữa. Người Việt mình khi gặp nỗi niềm oan ức nào đó, đi kêu cứu khắp nơi; nhưng không ai quan tâm, giải quyết, thì thường nói “ngắn cổ kêu không thấu Trời”. Khi bạn trở nên... Thiên tử rồi, thì bạn sẽ... kêu thấu Trời, và Ông Trời (Thiên Phụ) sẽ lắng nghe lời kêu cầu của bạn. Chính Đức Chúa Trời đã phán: “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho. Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết.” (Sách Giê-rê-mi, chương 33, câu 3)
Đó quả thật là một điều tuyệt diệu cho những ai được làm... Thiên tử, và được gọi Đức Chúa Trời là... Thiên Phụ!
Có một bài hát rất hay nói về việc được làm con Vua Thánh trên trời thật phước hạnh như sau:
“Làm con Vua Thánh trên trời. Tình yêu ấy không hề phai. Đức nhân từ, thương xót có dư dật luôn. Dầu tôi đi tới nơi nào. Đường giông tố hay hiểm nguy, cánh tay Ngài dẫn đưa an toàn nào sai... ” (Thánh Ca mới, số 848)
...
Thật phước hạnh cho những ai được nhận làm... Thiên tử, và được gọi Đức Chúa Trời là... Thiên Phụ, vì người đó sẽ được ở trong sự bảo vệ, che chở tuyệt vời của Cha Thiên Thượng, khi còn sống trên đất; và sẽ được về Thiên Đàng tuyệt diệu ở mãi với Thiên Phụ từ ái sau khi kết thúc cuộc đời nầy.
Ước mong ngày càng có nhiều người Việt thân yêu của tôi sẽ nhận biết được Đức Chúa Trời là Thiên Phụ của mình, và được trở thành Thiên tử ở trong nhà Ngài!
Kính chúc mọi người một ngày Lễ Cha thật an vui và hạnh phúc trong ơn lành của Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mừng Ngày Lễ Cha 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*) Vương Trung Hiếu, Cách xưng hô và thứ bậc trong gia tộc, xã hội thời xưa, www.vanchuongviet.org
Bài 311
Ngày Của Cha, Nói Chuyện... Trở Về Cùng Cha
Kinh Thánh: Giô-ên 2: 12, 13; Lu-ca 15: 11-32; Rô-ma 8: 4-17
Sách Lu-ca trong Kinh Thánh có ghi lại câu chuyện nổi tiếng do chính Chúa Giê-su kể, đó là câu chuyện “Người Con Trai Hoang Đàng” (Lu-ca chương 15, câu 11-32)
Có thể nói không sợ sai lầm rằng, câu chuyện nầy là một truyện ngắn hay và cảm động nhất trong tất cả mọi truyện ngắn xưa nay mà con người biết được. Câu chuyện đã trở nên nổi tiếng khắp cả thế giới từ xưa cho đến nay.
Câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính yếu, đó là người cha, và hai con trai yêu quý của ông.
Chuyện kể đại ý rằng, một hôm, người con trai thứ đòi cha chia gia tài cho mình. Sau khi được chia gia tài, anh ta ôm phần của mà mình đã được, đi phương xa, ăn chơi thỏa thích. Chẳng bao lâu, anh ta không còn đồng xu dính túi. Ngay lúc ấy, trong chỗ anh ở, có cơn đói kém lớn, anh đành chấp nhận đi chăn heo thuê để sống qua ngày. Vì đói quá, anh muốn lấy vỏ đậu của heo ăn để ăn, mà người ta không cho. Anh nhớ lại tại nhà cha mình, những đầy tớ được no nê, mà tại sao mình lại phải chịu đói khát ở đây? Anh quyết định đứng dậy, trở về cùng cha.
Khi còn ở đằng xa, cha anh đã thấy và động lòng thương xót, liền chạy đến ôm cổ anh mà hôn. Anh bối rối, thưa: Con đã đắc tội với trời và với cha, không xứng là con của cha nữa. Nhưng người cha bảo đầy tớ, hãy mau đem áo tốt nhất mặc cho con ta, đeo nhẫn vào tay, và mang giày vào chơn. Hãy làm thịt bò con mập ngay để ăn mừng, vì con ta đã về cùng ta.
Anh con cả đi làm đồng về, nghe thấy tiếng đàn hát trong nhà, liền gọi một đầy tớ và hỏi, thì được biết em mình vừa trở về nhà. Anh ta nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha ra khuyên vào, nhưng anh nói: Tôi giúp việc cho cha bao lâu nay, chưa từng làm gì sai trái, mà cha chưa hề cho tôi một con dê nhỏ để ăn uống với bạn bè. Giờ, cha lại làm thịt bò mập béo để ăn mừng cho đứa con hư hỏng kia trở về.
Cha đáp: Con ơi, con ở cùng cha luôn, con không biết hết thảy của cha là của con sao? Nhưng thật, chúng ta nên ăn mừng, vì em con vẫn còn sống và trở về với chúng ta.
Câu chuyện thể hiện được tình thương vô bờ bến của người cha dành cho con, dù cho đó là đứa con hư hỏng, hoang đàng đi nữa.
...
Như chúng ta đã biết, Đức Chúa Trời đã thiết lập hôn nhân cho con người, để từ đó, chúng ta có gia đình và con cái.
Khi làm cha mẹ, chúng ta có trách nhiệm phải dạy dỗ, chăm sóc, trưởng dưỡng cho chúng nên người. Ai trong chúng ta cũng muốn cho con cái mình trở nên người hữu dụng, có ích cho gia đình và xã hội. Không ai muốn con cái hư hỏng, hoang đàng cả. Nhưng muốn là một chuyện, và có được như mong muốn hay không lại là một chuyện khác.
Người cha trong câu chuyện Chúa Giê-su kể nầy đâu có muốn con mình trở thành đứa hoang đàng, phóng đãng; nhưng con ông đã không muốn ở nhà với mình nữa rồi, nó đã bỏ đi thật xa để được tự do ăn chơi, bay nhảy cho thỏa thích. Người cha không biết làm gì khác hơn là ngày ngày trông ngóng con sớm trở về với mình.
Quả thật vậy, khi thấy con quay về nhà, thì từ đằng xa, ông đã thấy và chạy ra ôm con mình hôn thắm thiết. Rồi lấy áo tốt nhứt mặc cho con, đeo nhẫn đẹp vào tay, mang giày đẹp vào chơn nữa. Và mở tiệc ăn mừng vì con đã trở về cùng mình. Chúng ta thấy được niềm vui tuyệt đỉnh của người cha khi con mình trở về.
Tôi và bạn là những bậc cha mẹ, chúng ta không bao giờ muốn con mình hư hỏng cả; nhưng nếu gặp những đứa con như đứa con hoang đàng trong câu chuyện nầy, thì chúng ta cũng đau lòng xót dạ lắm. Có lẽ, chúng ta cũng như người cha ở đây, không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện cho nó được bình yên, và ngày ngày nóng ruột, mong ngóng con sớm trở về với mình.
Những hành động của người cha khi thấy con mình trở về như chạy ra ôm hôn con, mặc áo đẹp, đeo nhẫn đẹp, mang giày đẹp cho con, và mở tiệc ăn mừng là những hành động vô cùng đẹp đẽ, đẹp đẽ tưởng không còn gì đẹp đẽ hơn.
Nếu chúng ta có con cái bỏ nhà ra đi chơi bời hư hỏng, rồi tỉnh ngộ trở về, liệu chúng ta có đối xử với chúng như người cha tốt bụng trong câu chuyện nầy chăng? Không dễ phải không bạn? Nhưng xin Chúa ban cho chúng ta có được tấm lòng và hành động tốt đẹp như người cha nầy.
...
Người cha trong câu chuyện Chúa Giê-su kể chính là hình ảnh của Cha thiên thượng là Đức Chúa Trời dành cho chúng ta là những tội nhân hư hỏng, đáng chết, như đứa con hoang đàng kia.
Tấm lòng của người cha trong câu chuyện là hình ảnh về tấm lòng của Cha trên trời dành cho con người tội lỗi chúng ta.
Một khi chúng ta đi xa khỏi tình yêu Chúa, thì chúng ta sẽ ở trong tình trạng hư hỏng, bị ma quỷ điều khiển, sống buông tuồng trong dục vọng đầy tội lỗi xấu xa, và rồi chúng ta sẽ chết mất trong sự quá phạm của mình.
Nhưng, nếu chúng ta biết tỉnh ngộ ăn năn quay về cùng Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng của mình, thì Ngài sẽ rất vui mừng nghênh đón chúng ta vào trong nhà Ngài, mặc áo cứu rỗi cho chúng ta, và ban cho chúng ta địa vị mới là được làm con Vua Thánh trên trời vô cùng phước hạnh, như lời Chúa đã chép: “Ta sẽ rất vui vẻ trong Đức Giê-hô-va, linh hồn ta mừng rỡ trong Đức Chúa Trời ta; vì Ngài đã mặc áo cứu rỗi cho ta; khoác áo choàng công bình cho ta, như chàng rể mới diện mão hoa trên đầu mình, như cô dâu mới dồi mình bằng châu báu.”(Sách Ê-sai, chương 61, câu 10)
...
Nhiều năm về trước, tôi đã làm cuộc trở về cùng Cha trên trời, bằng cách tin nhận Chúa Giê-su làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình. Tôi đã được Cha trên trời đãi tôi như người con yêu dấu của Ngài, không kể tội lỗi của tôi đã phạm với Ngài rước đó nữa. Ngài đã tha thứ mọi tội lỗi của tôi qua dòng huyết báu của Chúa Giê-su đã đổ ra trên thập tự giá. Đức Thánh Linh đã ngự vào lòng tôi, dẫn dắt đời sống tôi, để tôi biết kêu Đức Chúa Trời là Cha thiêng liêng của mình, như lời Kinh Thánh đã dạy: “Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời. Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài.” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 14-17)
Được làm con Vua Thánh trên trời là một phước hạnh lớn nhất, không phước hạnh nào lớn hơn.
Nếu bạn còn đi xa nhà Cha trên trời, thì hôm nay, tôi mời bạn hãy làm một quyết định giống như người con trai hoang đàng trong câu chuyện, giống như tôi nhiều năm về trước, đứng dậy trở về cùng Cha thiêng liêng của mình, hầu được sống trong sự phước hạnh đầy dư, và bình an, thỏa nguyện không dứt.
Chúa đang phán với bạn: “Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ cũng hãy hết lòng trở về cùng Ta, kiêng ăn, khóc lóc và buồn rầu. Hãy xé lòng các ngươi và đừng xé áo các ngươi. Khá trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, vì Ngài là nhân từ và hay thương xót, chậm giận và giàu ơn, đổi ý về sự tai vạ.” (Sách Giô-ên, chương 2, câu 12, 13)
Xin mời bạn sớm trở về cùng Cha thiêng liêng nhân từ và hay thương xót để cùng thờ phượng Ngài với chúng tôi!
Kính chúc những người làm cha ngày Lễ Cha được bình an và vui thỏa trong tình yêu của Cha thiên thượng!
Mừng Ngày Lễ Cha 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 312
Chuyện... Biết Nhiều Và... Biết Điều
Kinh Thánh: Gióp 42: 5, 6; Ê-sai 6: 5; Ma-thi-ơ 23: 27, 28; Giăng 6: 47; Khải Huyền 3: 17
Biết nhiều là điều nhiều người mong muốn, và trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều người... biết nhiều.
Tôi đã từng gặp nhiều người có kiến thức rất rộng, dường như chuyện... Đông Tây Kim Cổ gì họ cũng đều... biết hết. Họ có thể nói vanh vách về những nhà hiền triết phương Đông như Khổng Tử, Lão Tử, Phật Thích Ca... Họ có thể kể cho bạn nghe một cách thú vị về những nhà triết học lỗi lạc ở phương Tây như Platon, Aristotle, Socrates... Đầu họ giống như một quyển... tự điển sống vậy. Thật đáng nể!
Nhưng... biết nhiều là một chuyện, còn... biết điều lại là một chuyện khác.
Có nhiều người biết nhiều, nhưng chưa chắc là người biết điều. Và ngược lại, người biết điều chưa hẳn là người biết nhiều.
Biết nhiều nói đến kiến thức, sự hiểu biết có được về thế giới bên ngoài của người đó, còn biết điều nói đến sự hiểu biết con người bên trong của người ấy.
Ngày nay, người ta hay nói nhiều đến “giáo dục khai phóng”.
Thế nào là “giáo dục khai phóng?”
“Giáo dục khai phóng” là sự học giúp người ta khai minh chính mình. “Khai minh” tức mở chính con người mình ra để đưa ánh sáng văn minh vào trong. Giáo dục khai phóng là học để nhìn thấy chính mình.
Trong thực tế cuộc sống, ta thấy có nhiều người rất giỏi, hiểu biết nhiều, thông kim bác cổ, nhưng cách hành xử dường như không được biết điều. Vì sao vậy? Đó là vì họ chỉ mới... biết người, mà chưa... biết mình.
Sự học bình thường là làm cho cái đầu mình... đầy kiến thức về xã hội và cuộc sống bên ngoài, còn sự học khai phóng là làm cho cái đầu của mình... mở ra để hiểu biết về chính mình nhiều hơn.
Một người biết nhiều mà không biết điều là một người chỉ mới có sự học bình thường, còn một người biết điều là một người quan tâm đến giáo dục khai phóng, tức quan tâm đến việc học để hiểu về chính con người bên trong của mình.
...
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy người Pha-ri-si là hạng người có sự hiểu biết nhiều về Kinh Luật. Họ được xem như là những... chuyên gia Kinh Luật, những... quyển Kinh Luật sống. Ai có thắc mắc gì về Kinh Luật, hỏi họ là có được câu trả lời liền, không hề khó khăn. Nhưng họ biết nhiều như thế chỉ để... lòe thiên hạ, để khoe khoang với người khác, để bắt bẻ người khác, chứ không phải để thay đổi chính mình. Họ đã nhiều lần tìm cách bắt bẻ Chúa Giê-su. Ma-thi-ơ đã ghi lại một trong nhiều sự bắt bẻ đó của họ như sau: “Bấy giờ người Pha-ri-si đi ra bàn luận với nhau, để kiếm cách bắt lỗi Đức Chúa Giê-su về lời nói. Họ sai môn đồ mình với đảng vua Hê-rốt đến thưa cùng Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là thật, và theo cách thật mà dạy đạo của Đức Chúa Trời, không tư vị ai; vì thầy không xem bề ngoài của người ta. Vậy, xin thầy nói cho chúng tôi, thầy nghĩ thế nào: có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không? Đức Chúa Giê-su biết ý xấu của họ, bèn đáp rằng: Hỡi kẻ giả hình, sao các ngươi thử ta? Hãy đưa cho ta xem đồng tiền nộp thuế. Họ đưa cho Ngài một đơ-ni-ê. Ngài bèn phán rằng: Hình và hiệu nầy của ai? Họ trả lời rằng: Của Sê-sa. Ngài bèn phán rằng: Vậy, hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời. Họ nghe lời ấy, đều bợ ngợ, liền bỏ Ngài mà đi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 22, câu 15-22)
Chính vì vậy mà Chúa Giê-su đã lên án họ rất nặng nề: “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy. Các ngươi cũng vậy, bề ngoài ra dáng công bình, nhưng ở trong thì chan chứa sự giả hình và tội lỗi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 23, câu 27, 28)
Người Pha-ri-si đúng là kẻ... biết nhiều mà không... biết điều!
Hội Thánh Lao-đi-xê ngày xưa... dương dương tự đắt cho mình là giỏi rồi, là giàu rồi, không cần chi nữa cả; nhưng không biết tình trạng tồi tệ của mình, và họ đã bị Chúa Giê-su quở trách: “ả, ngươi nói: Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa. Song ngươi không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và lõa lồ.” (Sách Khải Huyền, chương 3, câu 17)
Hội Thánh Lao-đi-xê là Hội Thánh... biết nhiều mà không... biết điều!
...
Đọc sách Gióp, ta thấy Thánh Gióp là một người trọn vẹn, ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Ông không những là người... biết nhiều mà ông còn là người... biết điều nữa. Ông biết kính sợ Đức Chúa Trời và ông cũng biết về chính con người thật của mình. Ông nói: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, Nhưng bây giờ mắt tôi đã thấy Ngài. Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn trong tro bụi.” (Sách Gióp, chương 42, câu 5, 6)
Nhận biết mình là... gớm ghê trước mặt Đức Chúa Trời là một nhận biết rất đáng phải nhận biết!
Tiên Tri Ê-sai cũng là một người... biết nhiều, và cũng là người... biết điều. Ê-sai đã nói: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giê-hô-va vạn quân.” (Sách Ê-sai, chương 6, câu 5)
Thấy mình xấu xa, dơ nhớp trước mặt Vua của trời đất, vũ trụ nầy là Đức Chúa Trời là một điều thấy rất cần yếu cho mỗi một con người tội lỗi chúng ta!
Thánh Phao-lô dù là một người học cao hiểu rộng, đã từng học với vị Giáo Sư nổi tiếng là Ga-ma-li-ên (Sách Công Vụ, chương 22, câu 3; và chương 5, câu 34), nhưng ông là một người biết điều, biết về chính thân phận không ra chi của mình trước mặt Đức Chúa Trời: “trong những kẻ có tội, ta (tức Phao-lô) là đầu.” (Sách I Ti-mô-thê, chương 1, câu 15)
Nhận biết mình là... có tội nhiều hơn tất cả mọi người là một nhận biết không dễ dàng chút nào, nhưng đó là một nhận biết đáng nể!
Thánh Gióp, Tiên Tri Ê-sai, Thánh Phao-lô quả là những người không chỉ... biết nhiều, mà còn... biết điều!
...
Nhu cầu lớn nhất của con người không phải chỉ biết nhiều, biết điều mà hơn thế nữa, là phải nhận biết Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa toàn năng, Đấng có quyền tha thứ tội lỗi cho con người chúng ta. Nhận biết Chúa Giê-su chính là Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người. Chúa Giê-su chính là “Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống”. Ngài là Đấng đã chết trên thập tự giá để chuộc tội cho chúng ta là những tội nhân. Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết và sống mãi mãi để ban sự sống đời đời cho những ai bằng lòng tin nhận Ngài, như Kinh Thánh đã chép: “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh. Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh Thánh.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 15, câu 3, 4)
Chúa Giê-su đã từng phán: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời.” (Sách Giăng, chương 6, câu 47)
...
Bạn có thể là người... biết nhiều. Đó là điều tốt! Hãy học hỏi để hiểu biết cuộc sống nầy nhiều hơn!
Bạn có thể là người... biết điều. Rất tốt! Hãy nhận biết về chính mình cách rõ ràng hơn để biết mình phải làm gì cho ý nghĩa trong cuộc đời ngắn ngủi nầy!
Nhưng trên hết mọi sự, tôi ước ao bạn cần nhận biết Đức Chúa Trời là Đấng đáng tôn thờ và hầu việc. Nhận biết Chúa Giê-su đã chết và sống lại cho mình để đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận Ngài, hầu nhận được sự cứu rỗi linh hồn là điều quý hơn hết khi còn sống trong thân xác nầy.
California, Tháng 6/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 313
Chuyện... Lầm
Kinh Thánh: Ê-sai 35: 8; Ma-thi-ơ 22: 23-33; Giăng 14: 6; Công Vụ 4: 12
Lầm lẫn trong cuộc sống là một điều ít ai tránh khỏi. Không nhiều thì ít, trong cuộc đời một con người, cũng có một vài lần bị lầm lẫn chuyện nầy sang chuyện kia, điều nầy sang điều nọ...
Đến như Khổng Tử, một triết gia phương Đông nổi tiếng, một người được mệnh danh là “Vạn Thế Sư Biểu” (Người thầy của muôn đời), cũng không tránh khỏi sự lầm lẫn.
Có câu chuyện kể rằng:
“Một hôm, Khổng Tử dẫn học trò chu du đến Liệt Quốc, cảm thấy thất vọng nên lại quyết định đi Trần Quốc và Thái Quốc. Mới đi được nửa đường thì gạo mang theo đã hết, nên chỉ biết hái rau dại nấu canh ăn. Suốt 7 ngày trời không được ăn một hạt cơm nào, Khổng Tử đói đến lả cả người, chỉ biết nằm ngủ cho đỡ mệt.
Đệ tử của Khổng Tử là Nhan Hồi đi kiếm được một ít gạo mang về nấu cơm cho Khổng Tử ăn.
Đang nằm nghỉ bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại thành nắm nhỏ ... Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh ... rồi vội đưa cơm lên miệng.
Khổng Tử nhìn thấy vậy, trong lòng cảm thấy thất vọng nhưng không nói gì và giả vờ như không nhìn thấy.
Một lúc sau cơm chín, Nhan Hồi bưng cơm đến mời Khổng Tử ăn. Khổng Tử đứng dậy nói:“Hôm nay, lúc ngủ ta mơ thấy người phụ thân đã chết của ta, nếu mà cơm này sạch sẽ thì ta muốn cúng ông trước rồi mới ăn”.
Nhan Hồi thưa: “Không được, vừa rồi tro củi đã rơi vào trong nồi làm bẩn cơm, con thấy vậy nghĩ bụng nếu bốc chỗ cơm bẩn này đem ném đi thì rất tiếc, nên đã bốc cơm bẩn lên ăn. Cơm này không còn tịnh, thầy đừng lấy cúng phụ thân”.
Khổng Tử nghe xong cảm động nói: “Ta tin vào con mắt của mình, nhưng mà con mắt cũng không hoàn toàn đáng tin cậy; ta dựa vào tâm mình, nhưng tâm cũng không hoàn toàn đáng tin cậy. Các đệ tử phải nhớ: Để hiểu rõ và đánh giá một người, thật sự là không dễ dàng”.
(Trích từ “Lã Thị Xuân Thu”)
Đó là chuyện lầm... ngày xửa ngày xưa, không phải của một người bình thường như chúng ta, mà bèn là của một con người nổi tiếng thế giới, là Khổng Tử.
...
Còn đây là... chuyện lầm của ngày hôm nay, mới vừa xảy ra ở tại nước Việt Nam mình, làm... dậy sóng báo chí và mạng xã hội những ngày cuối tháng 6 vừa qua.
Ấy là có ba anh Công An ở Huyện Mỹ Đức, thuộc thành phố Hà Nội, một hôm rảnh rỗi, lái xe hơi màu đỏ tươi đi săn bắn chim về ăn. Không biết bắn biếc thế nào, ngắm nghía làm sao mà thấy... con dê tưởng... con chim, liền giương súng nhắm thẳng... quân thù mà bắn, và... trúng lầm ngay... hai con dê của người dân tại địa phương. Sau đó, lấy hai con dê cho vô bao, bỏ vào cốp xe hơi chở về. Giữa đường, người dân phát hiện, chặng lại bắt quả tang ngay... hai con dê bị bắn lầm của họ. Ba anh Công An đành... cúi đầu nhận tội giữa thanh thiên bạch nhật với người dân tại địa phương.
Thật là một sự... lầm lẫn khó tin nổi, nhưng có thật một trăm phần trăm.
...
Kinh Thánh đề cập đến chuyện... lầm như sau:
“Trong ngày đó, có người Sa-đu-sê, là kẻ nói rằng không có sự sống lại, đến gần Ngài mà hỏi rằng: Thưa thầy, Môi se có nói: Nếu người nào chết mà không có con, thì em sẽ lấy vợ góa anh để nối dòng cho anh. Vả, trong chúng tôi có bảy anh em. Người anh lấy vợ và chết đi, nhưng vì chưa có con nên để vợ lại cho em. Người thứ hai, thứ ba, cho đến thứ bảy cũng vậy. Rốt lại, người đàn bà cũng chết. Vậy, lúc sống lại, đàn bà đó sẽ làm vợ ai trong bảy người? vì cả thảy đều đã lấy người làm vợ. Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Các ngươi lầm, vì không hiểu Kinh Thánh, và cũng không hiểu quyền phép Đức Chúa Trời thể nào. Vì đến khi sống lại, người ta không cưới vợ, cũng không lấy chồng, song những kẻ sống lại là như thiên sứ trên trời vậy. Các ngươi há không đọc lời Đức Chúa Trời phán về sự sống lại của kẻ chết rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, hay sao? Đức Chúa Trời không phải là Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Chúng nghe lời ấy, thì lấy làm lạ về sự dạy dỗ của Ngài.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 22, câu 23-33)
Chúa Giê-su đã lên án người Sa-đu-sê vì họ đã... lầm, do không hiểu Kinh Thánh và cũng không hiểu được quyền phép của Đức Chúa Trời về sự sống lại kỳ diệu mà Ngài ban cho những người tin nhận Ngài.
Người Sa-đu-sê cứ tưởng rằng sau khi sống lại, con người cũng có đời sống vợ chồng như khi còn sống trong thân xác hay chết nầy. Và họ hỏi để... gài bẫy Chúa Giê-su; nhưng ngược lại, Chúa Giê-su đã làm cho họ phải cứng miệng, không còn bắt bẻ gì được nữa.
...
Có một điều Kinh Thánh cho biết là bạn sẽ không bao giờ lầm một khi bạn quyết định tin thờ Đức Chúa Trời, quyết định chọn đi trên con đường thánh của Ngài: “Tại đó sẽ có một đường cái, và một lối gọi là đường thánh. Kẻ nào ô uế sẽ không được đi qua; song nó sẽ dành cho những người được chuộc. Ai đi trong đường đó, dầu khờ dại cũng không lầm lạc.” (Sách Ê-sai, chương 35, câu 8)
...
Tin cậy nơi lời phán hứa chắc chắn ấy từ Kinh Thánh, tôi đã quyết định tin nhận Chúa Giê-su và bước đi trên con đường cái và đường thánh đó từ mấy chục năm qua. Tôi thật sự cảm nhận được sự bình an và hy vọng cho cuộc sống của mình.
Nay, tôi đã được sáu mươi ba tuổi rồi, và nếu có chọn lại một con đường để đi cho cuộc đời của mình, thì tôi cũng sẽ quyết định tiếp tục chọn con đường nầy, và chỉ con đường nầy mà thôi. Vì tôi biết chắc không có con đường nào khác có thể đem tôi đến sự sống đời đời trên Thiên Đàng phước hạnh, ngoài con đường mà Kinh Thánh đã cho biết.
Chính Chúa Giê-su đã từng phán rằng: “Ta là Đường đi, Chân lý và Sự sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Sách Giăng, chương 14, câu 6)
Không đi trên Con đường Sống và Thánh là Chúa Giê-su, thì không có con đường nào khác để con người đến được cùng Đức Chúa Trời.
Và Thánh Phi-e-rơ cũng đã khẳng định một cách dứt khoát: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác (ngoài Chúa Giê-su, người viết chú thích), vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Sách Công Vụ Các sứ đồ, chương 4, câu 12)
...
Xin mời bạn hãy quyết định chọn bước đi trên Con đường Sống và Thánh là Chúa Giê-su ngay khi Ông Trời còn cho có hơi thở trong lỗ mũi; đừng chần chừ, do dự, hẹn rày hẹn mai, đến khi Ông Trời lấy lại hơi thở trong lỗ mũi thì không còn cơ hội nữa đâu.
Mong ước với cả tấm lòng chân thành của tôi rằng, bạn sẽ sớm quyết định bước đi trên Con đường Sống và Thánh như tôi đã từng quyết định cách đây mấy chục năm trước vậy!
Quyết định bước đi trên Con đường Sống và Thánh là quyết định khôn ngoan nhất trong cuộc đời, và bước đi trên Con đường đó, bạn sẽ vô cùng yên tâm, không bao giờ sợ bị lầm đường lạc lối cả.
Đầu tháng 7/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 314
Chuyện... Tự Do
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 2: 15-17; Giăng 8: 32-36; I Cô-rinh-tô 6: 20
Tự do là một khái niệm rất phổ quát của con người ở mọi nơi trên thế giới, vì tự do là quyền được Tạo Hóa ban cho con người. Con người sinh ra đã được ban cho quyền tự do. Cốt lõi của văn hoá phương Tây chính là quyền tự do của con người. Văn hóa phương Tây coi sự tự do là chất xúc tác cơ bản của đời sống, và là... linh hồn cho mọi sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Nói về tự do, không thể không nói đến xứ sở của Cờ Hoa. Có thể nói, Hoa Kỳ là một đất nước tự do và dân chủ điển hình trên thế giới. Là một đất nước tự do, dân chủ, và cũng là một đất nước của cơ hội cho mọi người muốn được phát huy hết tiềm năng của mình. Có nhiều người, dù giỏi giang; nhưng khi sống trong một đất nước bị cai trị bởi một chế độ độc tài, thì bị kiềm hãm, không thể nào thể hiện được tài năng. Thế nhưng, khi được đến sống tại Mỹ, thì họ trở thành những con người thành công và nổi tiếng, được nhiều người ngưỡng mộ. Thế mới rõ, những giá trị do tự do và dân chủ mang lại cho con người quý báu là dường nào!
Có khá nhiều câu danh ngôn hay và ý nghĩa về sự tự do mà có lẽ nhiều người biết đến:
+ Tôi không đồng ý với những gì ông nói, nhưng tôi sẽ đánh đổi cuộc đời để bảo vệ quyền được nói của ông.
+ Trách nhiệm là cái giá của tự do.
+ Không thể bảo vệ tự do trong khi nhân dân không nhận thức được nó.
+ Người vượt qua được nỗi sợ của mình sẽ thực sự có tự do.
...
Khi nói đến sự tự do, ta không thể nào quên lời của Đức Chúa Trời phán với tổ phụ loài người là A-đam và Ê-va trong vườn Ê-đen ngày xưa:
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác, thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 2, câu 15-17)
Giả sử trong vườn Ê-đen có... một ngàn cây, thì A-đam và Ê-va được tự do ăn hoa quả của... 999 cây, chỉ còn... 1 cây duy nhất không được ăn mà thôi.
Như vậy, A-đam và Ê-va có thật sự được tự do không? Câu trả lời chắc chắn là có. Nhưng đó là một sự tự do có trách nhiệm, chứ không phải là một sự tự do vô trách nhiệm.
Con người được Đức Chúa Trời tạo dựng và ban cho sự tự do, nên con người phải có trách nhiệm với chính Đấng đã tạo nên mình.
...
Chính Chúa Giê-su đã phán về sự tự do: “Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi. Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi là dòng dõi Áp-ra-ham, chưa hề làm tôi mọi ai, vậy sao thầy nói rằng: Các ngươi sẽ trở nên tự do? Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội là tôi mọi của tội lỗi. Vả, tôi mọi không ở luôn trong nhà, mà con thì ở đó luôn. Vậy, nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do.” (Sách Giăng, chương 8, câu 32-36)
Một khi chúng ta biết và hiểu lời Kinh Thánh phán dạy cho chúng ta, thì chúng ta sẽ thật sự được sống trong sự tự do đích thực.
Con người chỉ có thể được sống trong sự tự do đích thực, khi và chỉ khi được Chúa Giê-su buông tha mọi sự vi phạm của mình với Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ được buông tha mọi tội lỗi của mình khi chúng ta đặt lòng tin vào sự chết chuộc tội của Chúa Giê-su trên thập tự giá và sự sống lại vinh hiển của Ngài, theo như Kinh Thánh đã phán dạy.
Khác xa với việc một người bị ma quỷ áp bức, làm nô lệ cho nó; một nô lệ của Đấng Christ, ngược lại, thực sự là người được tự do. Chúng ta đã được giải phóng khỏi bàn tay độc ác của ma quỷ bởi sự chết và sự sống lại của Con của Đức Chúa Trời , Đấng đã phán "Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do" (Sách Giăng, chương 8, câu 36). Phao-lô đã khẳng định: "Vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Giê-su Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết" (Sách Rô-ma, chương 8, câu 2).
...
Người ta nói rằng: “Tự do là không miễn phí.” Vâng! Không có gì trên đời nầy là miễn phí cả. Sự tự do cũng vậy.
Sở dĩ chúng ta được sống tự do trong Chúa Giê-su, không còn làm nô lệ cho ma quỷ và tội lỗi nữa, là vì Chúa Giê-su đã trả một giá rất cao cho tội lỗi của chúng ta rồi. Giá đó chính là Ngài đã hy sinh mạng sống của Ngài cho chúng ta trên thập tự giá.
Kinh Thánh khẳng định: “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời.” (Sách I Cô-rinh-tô, chương 6, câu 20)
Vâng! Chúng ta đã được chuộc bằng một giá rất cao, chứ không phải... miễn phí đâu. Sở dĩ chúng ta được hưởng sự cứu rỗi... miễn phí, bởi vì Chúa Giê-su đã bằng lòng trả giá thay cho chúng ta.
Khi bạn đi ra ngoài và thấy người ta để một tấm bảng miễn phí một món hàng nào đó, bạn có thể lấy một phần mà không cần trả tiền gì cả; nhưng bạn nên nhớ rằng, sở dĩ bạn không phải trả tiền, vì đã có người trả tiền (hoặc chịu tổn phí) thay cho bạn rồi đó thôi.
...
Tôi tạ ơn Chúa Giê-su, vì Ngài đã chết thay cho mọi tội lỗi của tôi trên thập tự giá, và nhờ đó, tôi được hưởng ơn cứu rỗi miễn phí, khi tôi đặt lòng tin nơi chính mình Ngài. Và kể từ đó, tôi được sống tự do ở trong Ngài, không còn làm nô lệ cho ma quỷ và tội lỗi nữa.
Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy, hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa.” (Sách Ga-la-ti, chương 5, câu 1)
Đó thật sự là một phước hạnh vô cùng lớn!
Chúa Giê-su đã trả giá thay cho mọi tội lỗi của bạn trên thập tự giá rồi. Bạn có sẵn lòng đến với Ngài để tiếp nhận ơn cứu rỗi miễn phí mà Ngài dành cho, và được sống tự do ở trong Ngài không?
Chúa Giê-su đang và luôn luôn sẵn sàng chờ đón bạn đến với Ngài trong mọi lúc và ở mọi nơi! Xin mời bạn hãy đến với Ngài ngay khi còn có cơ hội và dịp tiện! Đừng chần chừ, do dự, vì sự chần chừ, do dự đã cướp mất đi biết bao cơ hội và dịp tiện phước hạnh của nhiều người!
Hãy nhớ rằng chỉ có Chúa Giê-su và duy chính Ngài mới có quyền giải phóng bạn ra khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi, và ban cho bạn sự tự do thật ở trong Ngài mà thôi!
Viết Nhân Kỷ Niệm Ngày Độc Lập của Hoa Kỳ, Tháng 7 Năm 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 315
Chuyện... Trong Và... Ngoài
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25: 30; Giăng 15: 1-6; Rô-ma 8: 1; Ê-phê-sô 1: 3, 7
Trong và ngoài là hai khái niệm chỉ về hai không gian, nơi chốn khác biệt nhau, hay nói đúng hơn là đối lập nhau.
Kinh Thánh nói khá nhiều đến... hai nơi chốn đối lập nhau nầy.
Khi một người tin nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa cho đời sống mình rồi, thì người đó được kể là ở trong Chúa. Còn một người chưa tin Chúa, thì gọi người ấy là đang ở ngoài Chúa.
Ở trong Chúa và ở ngoài Chúa khác nhau một trời một vực, và đối lập nhau hoàn toàn.
Người ở trong Chúa sẽ được hưởng đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời mà Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho những người thuộc về Ngài. Thánh Phao-lô đã viết những dòng đầy phước hạnh như sau: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời.” (Sách Ê-phê-sô, chương 1, câu 3)
Sách Ê-phê-sô được xem như là sách Giô-suê của Tân ước. Nếu sách Giô-suê của Cựu Ước nói đến việc chiếm đất hứa Ca-na-an đượm sữa và mật, thì Ê-phê-sô nói về những phước hạnh thuộc linh ở các nơi trên trời, mà người ở trong Đấng Christ nhận được.
Thư tín Ê-phê-sô là một thư tín rất sâu nhiệm về thần học, là một thư tín bày tỏ những điều phước hạnh tuyệt diệu của những người ở trong Chúa Cứu Thế. Do đó, cụm từ chìa khóa trong thư tín quý báu nầy là “Trong Đấng Christ”. Và câu chìa khóa của sách là ở trong đoạn 1, câu 7: “Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội theo sự dư dật của ân điển Ngài.”
Nếu “Trong Đấng Christ”, con người được cứu chuộc, được tha tội, thì... ngoài Đấng Christ, con người không được cứu chuộc, không được tha tội, họ vẫn còn ở trong tội lỗi mình. Và một khi một người còn ở trong tội lỗi mình thì người ấy còn ở dưới sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, còn ở dưới cơn thạnh nộ kinh khiếp của Đức Chúa Trời vậy.
Thánh Phi-e-rơ cũng đã xác nhận chân lý nầy: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Sách Công Vụ Các Sứ đồ, chương 4, câu 12)
Sự cứu chuộc và sự tha tội chỉ có ở trong Chúa Giê-su mà thôi. Ngoài Chúa Giê-su, con người không thể tìm được sự cứu chuộc và sự tha tội ở bất cứ danh nào khác đến từ con người.
“Trong Đấng Christ” và “Ngoài Đấng Christ”, hay “Trong Chúa Giê-su” và “Ngoài Chúa Giê-su” là hai nơi rất khác biệt, khác biệt nhau một trời một vực. “Trong Đấng Christ” thì được phước; ngược lại, “Ngoài Đấng Christ” thì bị họa. “Trong Đấng Christ” thì được bình an; ngược lại, “Ngoài Đấng Christ” thì ở trong sự bất an. “Trong Đấng Christ” thì có hy vọng; ngược lại, “Ngoài Đấng Christ”, thì chỉ có tuyệt vọng. “Trong Đấng Christ” thì có sự sống đời đời; ngược lại, “Ngoài Đấng Christ”, thì ở trong sự chết đời đời...
Có một bài Thánh Ca với lời nói về ở trong và ở ngoài Thiên Đàng rất rõ ràng như sau: “Duy một cửa vô Thiên Đàng mà chia hai phía rất khác. Phía trong với phía ngoài, bạn đứng bên phía nào? Duy một cửa vô Thiên Đàng mà chia hai phía rất khác. Chính tôi đứng phía trong. Bạn đã đứng bên nào?”
Đứng ở phía trong cửa vô Thiên Đàng hay đứng ở ngoài cửa vô Thiên Đàng là hai chỗ đứng khác biệt nhau hoàn toàn, đối lập nhau hoàn toàn.
Nếu bạn đang đứng ở phía trong cửa vô Thiên Đàng, thì đó là một điều phước hạnh tuyệt vời cho bạn, vì bạn sẽ không còn bị sự đoán phạt nào từ Đức Chúa Trời dành cho bạn nữa. Bởi bạn đã có Chúa Giê-su làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình.
Kinh Thánh khẳng định: “Cho nên, hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-su Christ.” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 1)
Nhưng nếu bạn đang đứng phía ngoài của vô Thiên Đàng, thì đó là một đại họa, vì bạn đang đứng trước cơn thạnh nộ kinh khiếp của Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh cho biết: “Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 25, câu 30)
Sự khác biệt giữa những người “ở trong Đấng Christ” và những người “ở ngoài Đấng Christ” là sự khác biệt giữa người được cứu và người chưa được cứu.
Chính Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh gốc nho và nhánh để diễn tả mối liên hệ mật thiết giữa người thật sự ở trong Đấng Christ với người “giả vờ” ở trong Ngài: "Ta là gốc nho thật, Cha Ta là người trồng nho. Hễ nhánh nào trong Ta mà không kết quả, thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn. Các ngươi đã được trong sạch vì lời Ta đã bảo cho. Hãy cứ ở trong Ta thì Ta sẽ ở trong các ngươi. Như cành nho, nếu không dính vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được. Cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong Ta, thì cũng không kết quả được. Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta, và Ta trong họ, thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta các ngươi chẳng làm chi được. Nếu ai chẳng cứ ở trong Ta, thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho, nhánh khô đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa thì nó cháy.” (Sách Giăng, chương 15, câu 1-6). Nếu bạn không có sự kết nối sống còn với Đấng Christ, (thực sự ở trong Đấng Christ), thì bạn sẽ không thể có sự sống. Và bạn sẽ bị quăng vào lửa đời đời.
Khi luận giải về sự sống lại, Phao-lô đã nói: “Như trong A-đam, mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ, mọi người đều sẽ sống lại.” (Sách Cô-rinh-tô nhất, chương 15, câu 22)
“Trong A-đam”, có nghĩa là ở ngoài Đấng Christ, thì mọi người đều sẽ bị hư mất, và sẽ bị đoán phạt. Ngược lại, “trong Đấng Christ”, thì bạn sẽ hưởng được sự cứu rỗi, và sự sống đời đời.
“Ở trong Đấng Christ” hay “Ở ngoài Đấng Christ”, thực sự là một điều vô cùng hệ trọng. Một bên là phước hạnh miên viễn, còn một bên là đau khổ đời đời.
Bạn đang “Ở trong Đấng Christ”, hay đang “Ở ngoài Đấng Christ”?
Tôi cảm tạ Chúa, bởi ơn thương xót của Ngài, tôi đã được “Ở trong Đấng Christ” từ mấy chục năm qua, và tôi cảm nhận được một cuộc đời thật sự bình an, phước hạnh và thỏa lòng.
Tôi ước mong bạn cũng sẽ là người “Ở trong Đấng Christ” như tôi đã “Ở trong Đấng Christ” để chúng ta cùng được hưởng sự cứu rỗi và hưởng Thiên Đàng phước hạnh tuyệt vời mà Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho những người thuộc về Chúa Giê-su!
California, Tháng 7/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 316
Chuyện... Chó
Kinh Thánh: I Các Vua 21: 23-24; Thi-thiên 22: 16; Phi-líp 3: 2; II Phi-e-rơ 2: 21, 22; Khải Huyền 22: 15
Chó là một con vật rất gần gũi, thân thiết với con người chúng ta, vì chó là con vật nuôi trong nhà.
Tùy theo văn hóa ở mỗi nước mà chó được đối xử khác nhau.
Theo văn hóa Á Đông, thì chó không được... trọng vọng, ngược lại, bị... xem thường.
Một khi một người chửi ai đó là... đồ chó, hay... đồ chó má, thì có nghĩa là người đó rất là tệ hại, xấu xa.
Còn theo văn hóa Âu Mỹ, thì chó lại được... trọng vọng đến người cũng phải... ghen tỵ luôn.
Ở Mỹ, ta dễ dàng thấy người ta dắt chó đi dạo mỗi sáng hay mỗi chiều.
Dân Mỹ trung bình chi cho một con chó mình nuôi khoảng từ 1, 200 đến 1, 300 đô-la cho một năm. Chủ nuôi cho mà đánh chó thì coi chừng bị cảnh sát bắt như chơi.
Bên Mỹ, chủ dắt chó đi dạo phải mang theo túi ni lông để hót phân nó. Một khi chủ đi vắng nhà, thì phải thuê người giữ chó hộ. Giữ chó hộ, thì tính theo giờ, giá khoảng từ 15 đến 20 đô-la cho một giờ.
Gia đình đi chơi xa lâu ngày, thì phải đem chó gửi ở... khách sạn chó. Khách sạn cho chó có nơi lên đến 200 đô-la cho 1 đêm, chứ không phải chơi. Chó đi bệnh viện như người (bệnh viện dành cho chó). Chó có mua bảo hiểm nữa. Mỗi lần đi... cắt lông cho chó, tốn phí chừng 70 đô-la một lần.
Không chỉ có... khách sạn chó, mà ở Mỹ cũng còn có... nhà hàng chó với đủ các món ăn ngon, và đắt tiền không kém gì nhà hàng dành cho người.
Ngoài ra, ở Mỹ còn có cả... nghĩa địa dành cho chó và các loài vật nuôi trong nhà khác nữa. Nghĩa địa chó cũng có... bia mộ ghi tên, tuổi, ngày chết của chó, xem chẳng khác chi... nghĩa địa người là bao nhiêu.
Người Mỹ thì không ăn thịt chó bao giờ.
Đúng là... làm chó Mỹ (chó Tây) thiệt sướng gì đâu! Chẳng bù lại cho... chó ta một chút cho... đỡ tủi.
Chó ta... thiệt khổ! Nuôi trong nhà, chủ muốn đánh lúc nào là đánh, muốn thịt lúc nào là... thịt.
Chó nuôi trong nhà, mà không trông coi cẩn thận, thì có ngày bị những tên trộm chó (gọi là... cẩu tặc) bắt trộm đi bán cho mấy tiệm thịt chó như chơi, uổng công nuôi chó cả năm trời. Vì thịt chó là món ăn... khoái khẩu của nhiều người Việt.
...
Có rất nhiều những câu ca dao nói về... chó, đọc rồi... thuộc lòng luôn:
+ Con mèo làm bể nồi rang
Con chó chạy lại phải mang lấy đòn
+ Mèo đến nhà thì khó
Chó đến nhà thì giàu.
+ Lạc đàng nắm đuôi chó
Lạc ngõ nắm đuôi trâu
+ Thân em như tấm mít xơ
Chó chê không cạp, ai ngờ anh thương.
+ Chó đốm đầu thì nuôi, chó đốm đuôi thì thịt
+ Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không
+ Chó béo đẹp mặt chủ nhà
Nàng dâu rách rưới bà gia thẹn thùng
...
Trong văn chương bác học, tôi nhớ mãi mấy câu thơ nói về... chó nổi tiếng của Nhà Văn Nguyễn Vỹ thời tiền chiến:
“Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An-Nam khổ như chó!”
...
Kinh Thánh nói về... chó như thế nào?
Giê-sa-bên là một hoàng hậu độc ác, và tàn bạo. Bà đã lập mưu, cáo gian để giết một người hiền lành như Na-bốt và cướp đoạt vườn nho của người này. Bà đã khuyến khích chồng mình là vua A-háp thờ tà thần Ba-anh, và đã ra lệnh truy lùng, giết hại nhiều tiên tri của Chúa. Đức Chúa Trời đã dùng Tiên tri Ê-li công bố hình phạt cho Giê-sa-bên và gia đình của bà như sau: “Đức Giê-hô-va cũng phán về Giê-sa-bên, mà rằng: Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên tại thành lũy Gít-rê-ên. Phàm người nào thuộc về nhà A-háp, kẻ nào chết tại trong thành sẽ bị chó ăn; còn kẻ nào chết trong đồng sẽ bị chim trời rỉa ăn.” (Sách Các Vua thứ nhứt, chương 21, câu 23 đến 24). Giê-sa-bên về sau đã bị chết một cách đau thương, và chó đã ăn thịt bà, chỉ còn lại cái sọ, hai chân và lòng bàn tay mà thôi (Sách Các Vua thứ nhì, chương 9, câu 35). Còn Vua A-háp ra trận bị tên bắn trúng chết. Chó đã liếm máu A-háp khi thi hài của ông được mang về để chôn cất (Sách Các Vua thứ nhứt, chương 22, câu 38). Dòng dõi hai vua ác khác của Y-sơ-ra-ên là Giê-rô-bô-am (Sách Các Vua thứ nhứt, chương 14, câu 11) và Ba-sê-a (Sách Các Vua thứ nhứt, chương 16, câu 4), cũng bị trừng phạt là bị chó ăn.
Thật kinh khiếp khi thấy sự trừng trị của Chúa cho những kẻ làm ác, và giết hại tiên tri của Ngài! Đức Chúa Trời đã dùng những con chó để phanh thây họ. Thật, Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu, hỡi những kẻ làm ác, hãy nhớ điều đó!
...
Tân Ước cũng nhiều lần đề cập đến... chó:
Người ta cho biết, Kinh Thánh có ít nhất 37 lần đề cập đến từ “chó.” Phần lớn trong những lần đó thì từ “chó” mang nguyên nghĩa là... con chó. Chỉ có một vài lần, từ “chó” được dùng với nghĩa đã biến đổi.
Tân Ước có vài lần dùng từ “chó” với nghĩa đã biến đổi như thế:
“Hãy coi chừng loài chó; hãy coi chừng kẻ làm công gian ác; hãy coi chừng phép cắt bì giả.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 2)
“Chúng nó đã biết đường công bình, rồi lại lui đi về lời răn thánh đã truyền cho mình, thế thì thà rằng không biết là hơn. Đã xảy đến cho chúng nó như lời tục ngữ rằng: Chó liếm lại đồ nó đã mửa, heo đã rửa sạch rồi, lại lăn lóc trong vũng bùn.” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 2, câu 21 đến 22)
“Những loài chó, những thuật sĩ, những kẻ tà dâm, những kẻ giết người, những kẻ thờ hình tượng, và những kẻ ưa thích cùng làm sự giả dối đều ở ngoài hết thảy.” (Sách Khải Huyền, chương 22, câu 15)
Để có thể hiểu được nghĩa đã biến đổi của từ “chó” trong những câu Kinh Thánh trên, ta cần đọc lại lời tiên tri của Vua Đa-vít về sự thương khó của Đấng Christ: “Vì những chó bao quanh tôi: Một lũ hung ác vây phủ tôi; Chúng nó đâm lủng tay và chơn tôi.” (Sách Thi Thiên, chương 22, câu 16)
Đức Chúa Trời đã gọi đám đông vây quanh Đấng Christ – kêu gào đòi đóng đinh Ngài, chúng nhục mạ Ngài, đâm lủng tay và chân Ngài khi đóng đinh Ngài vào thập tự giá – là chó. Họ là những người không biết Chúa và hung ác. Tất cả những ai bách hại con dân Chúa, Hội Thánh của Ngài, đều bị xem là... chó.
Như vậy, từ “chó” trong sách Phi-líp, chương 3, câu 2 là chỉ về những người chăn dắt con dân Chúa mà không làm tròn thiên chức, sống ích kỷ, chỉ biết trục lợi và hưởng thụ, bỏ mặc bầy chiên của Chúa. Họ cùng loại với những kẻ làm công gian ác. Còn từ “chó” trong sách Khải Huyền, chương 22, câu 5 là chỉ về những kẻ gian ác bách hại Hội Thánh Chúa.
Theo đó, “chó” trong sách Phi-líp, chương 3, câu 2, và Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 2, câu 22 nói đến những thành phần giả dối, bất hảo trong Hội Thánh, tức những Giáo Sư giả. Còn “chó” trong sách Khải Huyền, chương 22, câu 15 là chỉ những thành phần vô tín, hung ác bên ngoài Hội Thánh vậy.
...
Là con dân Chúa, chúng ta cần học hỏi lời Chúa cách cẩn thận để có thể nhận chân ra được những Giáo Sư giả trong Hội Thánh (hãy coi chừng loài chó), hầu tránh xa họ, để khỏi bị họ dẫn dụ vào con đường sai lạc, hư mất đời đời.
Nguyện xin Chúa ban ơn, giúp đỡ mỗi một chúng ta để chúng ta luôn “tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 3, câu 18)! Amen!
California, Tháng 7/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 317
Chuyện... Hổ Thẹn, Và... Không Hổ Thẹn
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 2: 25; Thi-thiên 25: 3; Giê-rê-mi 2: 26, 27; Rô-ma 1: 16; Hê-bơ-rơ 11: 16
Hổ thẹn và không hổ thẹn là hai trạng thái cảm xúc trái ngược nhau nơi con người.
Bạn có bao giờ hổ thẹn hay không hổ thẹn về một điều gì đó chưa? Hỏi như thế có lẽ cũng bằng thừa, bởi vì chắc chắn bất cứ ai trong đời cũng có không ít lần hổ thẹn hay không hổ thẹn về một số điều nào đó; chứ làm sao không có được mà hỏi?
Ở nhiều vùng quê Việt Nam, trong đó có vùng quê Quảng Nam yêu dấu của tôi, có một loài hoa mộc mạc, đơn sơ như chính người dân quê, đó là loài Hoa Trinh Nữ.
Loài Hoa Trinh Nữ, còn được gọi là... Hoa Xấu Hổ, hay ... Hoa Mắc Cỡ. Đó là một loại thực vật có đặc điểm là, các lá của chúng sẽ gập vào trong và cụp xuống mỗi khi bị chạm vào để tự bảo vệ khỏi bị thương tổn, rồi mở ra lại vài phút sau đó. Loài hoa có tên gọi trong tiếng La-tinh là “rụt rè” hoặc “co lại.” Hoa Trinh Nữ còn được biết đến qua những tên gọi... dễ thương khác, như Hoa Nhạy Cảm, Hoa Hổ Thẹn, hay Hoa Đừng Chạm Tôi...
Trong văn chương bác học Việt Nam, có một bài thơ nổi tiếng của một con người nổi tiếng là Phạm Ngũ Lão. Phạm Ngũ Lão là một vị tướng tài ba, vừa có tài thao lược, vừa có tài văn chương dưới thời Trần Hưng Đạo. Bài thơ nổi tiếng của ông là bài “Thuật Hoài”:
“Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.”
(Trần Trọng Kim dịch)
“Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
Vũ Hầu được nói đến ở đây chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một quân sư tài ba của Lưu Bị. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chưa có được tài thao lược như Khổng Minh. Tự so mình với người đời trước để rồi tự hổ thẹn, tự thừa nhận mình còn kém cỏi, đó là điều đáng học hỏi nơi Phạm Ngũ Lão. Sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão là sự hổ thẹn của một trang nam nhi có lòng tốt, có chí lớn với đất nước với dân tộc.
Có một câu chuyện xưa về... sự hổ thẹn cũng khá ấn tượng:
“Thời Chiến Quốc, Tề Trang Công bị quan Đại Phu nước Tề là Thôi Trữ giết chết. Thôi Trữ lệnh cho quan chép sử lúc đó là Thái Sử Bá viết vào sách sử rằng Tề Trang Công chết là do bệnh. Thái Sử Bá không chịu, kiên quyết viết rằng “Thôi Trữ giết vua”.
Thôi Trữ nổi giận, giết chết Thái Sử Bá. Thái Sử Bá có ba người em trai là Trọng, Thúc, Quý. Trọng viết vào sách sử câu chữ đúng như vậy, Thôi Trữ giết chết Trọng. Đến lượt Thúc vẫn viết đúng sự thật, cũng bị Thôi Trữ giết chết luôn. Còn lại Quý cầm lấy thẻ tre viết, cũng viết lại y nguyên câu của ba người anh.
Thôi Trữ cầm thẻ tre lên hỏi Quý: “Ba người anh của nhà ngươi đều vì câu này mà bị giết chết, lẽ nào ngươi không biết quý tiếc mạng sống của mình hay sao? Nếu như ngươi viết lại câu này theo đúng ý ta, ta sẽ tha chết cho ngươi.”
Quý ung dung đáp lại rằng: “Viết đúng sự thật là chức trách của quan chép sử. Nếu vì muốn sống mà làm chuyện sai trái, vậy thần thà chết còn hơn! Cho dù hôm nay thần không viết ra câu này, thì trong thiên hạ nhất định cũng sẽ có người viết lại sự thật này.”
Thôi Trữ đành phải trả lại thẻ tre và không giết ông nữa.”(*)
...
Nói về... hổ thẹn, thì như chúng ta đã biết, từ "hổ thẹn" được đề cập đến lần đầu tiên trong Kinh Thánh là ở sách Sáng Thế Ký, chương 2, câu 25 như sau:
“Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng mà chẳng hổ thẹn.”
Tại sao hai con người đầu tiên trên thế giới nầy lại không hổ thẹn khi cả hai đều... trần truồng?
Câu trả lời được ủng hộ từ Kinh Thánh là vì lúc ấy, họ chưa phạm tội với Đức Chúa Trời, và họ được bao bọc bởi sự vinh hiển tuyệt vời của Ngài. Sách Thi-thiên, chương 8, câu 5 cho biết: “Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút. Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng.”
Nhưng sau khi họ phạm tội, không vâng lời Đức Chúa Trời, ăn trái cây mà Ngài cấm ăn, thì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời không còn che phủ họ nữa, nên họ nhận biết được sự lõa lồ của mình, và bèn đi lấy lá cây vả làm áo quần để che thân: “Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quý, vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa. Đoạn, mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lõa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 3, câu 6, 7)
Con người ta sẽ hổ thẹn khi bỏ Đức Chúa Trời mà đi thờ hình tượng bằng gỗ, bằng đá như dân Y-sơ-ra-ên thời xưa: “Như kẻ trộm bị bắt xấu hổ thể nào, thì nhà Y-sơ-ra-ên, nào vua, nào quan trưởng, nào thầy tế lễ, nào kẻ tiên tri, cũng sẽ xấu hổ thể ấy. Chúng nói với gỗ rằng: Ngài là cha tôi; với đá rằng: Ngài đã sanh ra tôi. Vì chúng đã xây lưng lại cùng Ta, mà không xây mặt lại với Ta.” (Sách Giê-rê-mi, chương 2, câu 26, 27)
Những người không tin Chúa, thì làm nhiều việc tội lỗi, đáng hổ thẹn vô cùng.
“Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về cac việc thế gian mà thôi.” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 19)
Một khi con người không tin Chúa, thì họ sống trong tối tăm, làm việc tối tăm do ma quỷ điều khiển, cho nên, họ không còn phân biệt được đâu là điều đáng hổ thẹn, đâu là điều đáng vinh hiển. Thật đáng thương cho những ai lấy sự xấu hổ (hổ thẹn) làm vinh hiển.
...
Còn về chuyện... không hổ thẹn, Kinh Thánh cho biết có những lý do để những người tin Chúa... không hổ thẹn:
Những người có lòng trông cậy nơi Chúa thì sẽ không bao giờ hổ thẹn:
“Thật, chẳng ai trông cậy Ngài mà lại bị hổ thẹn. Còn những kẻ làm gian trá vô cớ, chúng nó sẽ bị hổ thẹn.” (Sách Thi-thiên, chương 25, câu 3)
Trong Tân Ước, Phao-lô cho biết ông không hề hổ thẹn về Tin Lành của Đức Chúa Giê-su Christ, Đấng mà ông đang tôn thờ:
"Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin." (Sách Rô-ma, chương 1, câu 16).
Lý do Phao-lô không hổ thẹn về Tin Lành, vì Tin Lành là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu những người tin nhận Ngài.
Chính vì có tấm lòng không hổ thẹn về Tin Lành mà Phao-lô đã mạnh dạn nói về Chúa cho cả Vua Ạc-ríp-ba của người Do-thái ngày xưa: “Vua Ạc-ríp-ba phán cùng Phao-lô rằng: Thiếu chút nữa ngươi khuyên ta trở nên tín đồ Đấng Christ!” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 26, câu 28)
Một chỗ khác, Phao-lô cũng cho biết: “Ấy là vì Tin Lành đó mà ta đã được lập làm Người Giảng Đạo, Sứ Đồ và Giáo Sư; ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn, vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó.” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 1, câu 11, 12)
Lý do Phao-lô không hổ thẹn ở đây là gì? Đó chính là Đấng ông tin là Chúa Giê-su Christ, là Đấng có quyền phép.
Vâng, Chúa Giê-su là Đấng có quyền phép tuyệt đối. Chính Ngài đã phán rằng: “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 18)
Không những Phao-lô không hổ thẹn về Tin Lành, mà ông còn khuyên người con thuộc linh của ông là Mục Sư trẻ Ti-mô-thê không hổ thẹn khi giới thiệu Tin Lành cho người khác:
“Vậy, con chớ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng lấy sự ta vì Ngài ở tù làm xấu hổ, nhưng hãy cậy quyền phép Đức Chúa Trời mà chịu khổ với Tin Lành.” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 1, câu 8)
...
Nếu ai hổ thẹn về Chúa Giê-su và lời Ngài, thì Ngài cũng sẽ hổ thẹn về người ấy, như chính Ngài đã phán: “Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và lời Ta, thì Con Người sẽ hổ thẹn về họ, khi Ngài ngự trong sự vinh hiển của mình, của Cha, và của thiên sứ thánh mà đến.” (Sách Lu-ca, chương 9, câu 26)
Còn nếu chúng ta không hổ thẹn về Đức Chúa Trời và Tin Lành của Ngài thì Ngài cũng sẽ không hổ thẹn về chúng ta vậy. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ đã khẳng định: “Nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 11, câu 16)
Mong rằng mỗi chúng ta đều biết hổ thẹn về tội lỗi và những việc làm xấu xa, không đẹp lòng Chúa, mà ăn năn, xin Chúa thương xót tha thứ, hầu sống đời sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Cũng xin Chúa thương xót và ban cho chúng ta tấm lòng dạn dĩ, không bao giờ hổ thẹn về Đức Chúa Trời và về Tin Lành của Đức Chúa Giê-su Christ.
California, Tháng 8/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): trithucvn.org
Bài 318
Chuyện... Trên Đầu, Và... Dưới Chân
*Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 3: 15; Đa-ni-ên 3: 27; Ma-thi-ơ 5: 13 và 10: 30; Lu-ca 10: 38, 39; I Cô-rinh-tô 15: 22-28; Khải Huyền 3: 7-11
Đầu và chân là hai bộ phận quan trọng trong thân thể con người.
Đầu là bộ phận quan trọng nhất trong thân. Vì trong đầu có bộ não, là trung tâm chỉ huy cả thân thể. Chẳng thế mà khi nói đến bộ phận quan trọng nhất của một tổ chức nào đó, người ta thường gọi bộ phận đó là... cơ quan đầu não.
Còn chân là bộ phận không thể thiếu được trong thân thể con người. Đức Chúa Trời ban cho đôi chân để con người có thể đi lại đây đó, hoạt động, làm việc... Thân thể đứng vững được là nhờ có đôi chân.
Có một bài ca dao mang đậm chất hài hước, có nói về chuyện... trên đầu, mà có lẽ nhiều người thuộc như sau:
“Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.”
...
Phúc Âm đầu tiên được Kinh Thánh đề cập đến, có nói đến chuyện... trên đầu và... dưới chân.
“Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 3, câu 15)
“Dòng dõi mầy” ở đây chỉ về ma quỷ và những kẻ theo hắn. Còn “Dòng dõi người nữ” chỉ về Chúa Giê-su và những người theo Ngài. Chúa Giê-su sẽ giày đạp đầu ma quỷ, và Ngài đã làm điều đó khi hy sinh thân mình trên thập tự giá tại đồi Gô-gô-tha năm xưa, chịu chết và chôn (ma quỷ đã cắn gót chân Chúa Giê-su); nhưng sau ba ngày nằm trong phần mộ, Chúa Giê-su đã đắc thắng sự chết và sống lại, rồi sống mãi mãi, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ (Chúa Giê-su đã giày đạp đầu ma quỷ)
Khi ba người trai trẻ Hê-bơ-rơ là Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-Nê-gô bị ném vào trong lò lửa hực, vì không chịu quỳ xuống thờ tượng vàng mà Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng, thì chính Chúa đã bảo vệ họ khỏi mọi sự nguy hiểm trong lò lửa hực. Họ không bị hề hấn gì cả. Kinh Thánh ghi lại: “Các quan trấn thủ, lãnh binh, các người cai trị, và các nghị viên của vua đều nhóm lại, thấy lửa không có quyền làm hại thân thể ba người ấy được , cũng chẳng có một sợi tóc nào trên đầu họ bị sém; áo xống họ chẳng bị si sứt chút nào, và mùi lửa cũng chẳng qua trên họ.” (Sách Đa-ni-ên, chương 3, câu 27)
Sự bảo vệ của Đức Chúa Trời dành cho những người thuộc về Ngài thật là lạ lùng! Không ai có quyền năng như Ngài!
Chính Chúa Giê-su đã phán: “Tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm hết rồi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 10, câu 30)
Có thể khẳng định một cách không sợ sai lầm rằng, không một ai có thể đếm được tóc trên đầu một cách chính xác cả. Người ta cho biết, trên đầu một con người, trung bình có chừng trên dưới một trăm ngàn sợi tóc. Nhưng không có một ai biết chính xác được, chỉ có Chúa là Đấng duy nhất đếm được từng sợi tóc trên đầu chúng ta mà thôi.
Cảm tạ Chúa về sự quan tâm, thương yêu một cách đặc biệt của Ngài dành cho những người thuộc về Ngài!
Trong khi bị bão và tàu sắp chìm, mười bốn ngày nhịn đói, hai trăm bảy mươi sáu người trên tàu đều như hết sức, tàn hơi, thì Phao-lô khuyên họ phải ăn để có thể sống còn, đừng tuyệt vọng: “Đoạn, trong khi đợi trời sáng, Phao-lô khuyên ai nấy hãy ăn. Người nói: Hôm nay là ngày thứ mười bốn mà các ngươi đang trông đợi, nhịn đói, chẳng ăn chút nào. Vậy, ta khuyên các ngươi hãy ăn, vì thật là rất cần cho sự cứu của các ngươi, và chẳng ai trong vòng các ngươi sẽ mất một sợi tóc trên đầu mình. Nói như vậy rồi, người bèn lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời rồi, thì bẻ ra và ăn. Bấy giờ, ai nấy đều giục lòng, và ăn.” (Sách Công Vụ Các Sứ đồ, chương 27, câu 33 đến 36)
Đó là chuyện... trên đầu.
Và sau đây là chuyện... dưới chân.
Vua Đa-vít đã kinh nghiệm về sự quan tâm, chăm sóc đến... kinh ngạc của Ngài dành cho mình. Ông viết: “Chúa đếm các bước đi qua đi lại của tôi.” (Sách Thi-thiên, chương 56, câu 8)
Không ai có thể đếm được bao nhiêu bước đi qua đi lại trong cả cuộc đời của mình. Đó là điều không thể đối với con người; nhưng có thể đối với Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng Toàn Tri, Toàn Tại và Toàn Năng.
Dưới chân chúng ta cũng được Chúa quan tâm, chăm sóc từng giây từng phút, thật mới tuyệt vời làm sao!
Tác giả Thi-thiên 91 cho biết sự an ninh của người tin cậy nơi Đức Chúa Trời thật kỳ diệu: “Ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang. Còn sư tử tơ và con rắn, ngươi sẽ giày đạp dưới chân.” (Sách Thi-thiên thứ 91, câu 13)
Những người thuộc về Chúa sẽ được Ngài ban sự chiến thắng trên ma quỷ và những thế lực thuộc về ma quỷ.
Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Chúa Giê-su đã dạy:
“Các ngươi là muối của đất, song nếu mất mặn đi, thì sẽ lấy giống chi mà làm cho mặn lại? Muối ấy không dùng chi được nữa, chỉ phải quăng ra ngoài và bị người ta đạp dưới chân.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 5, câu 13)
Đặc tính của muối là phải mặn, cũng giống như đặc tính của cam thì phải ngọt, chanh thì phải chua. Nếu cam không ngọt, chanh không chua, thì nó không còn đúng thực chất là... nó nữa. Cũng một thể ấy, muối mà mất mặn, thì đâu còn là muối. Vì vậy, nó không còn giá trị gì, chỉ là đồ bỏ đi, và bị người ta đạp dưới chân mà thôi. Người tin Chúa mà... mất phẩm chất, thì cũng đáng thương giống như muối mất mặn vậy.
Kinh Thánh ghi lại câu chuyện ấn tượng về một người nữ tên là Ma-ri, em của bà Ma-thê để khích lệ mỗi chúng ta trong tinh thần ham thích lời Chúa:
“Khi Đức Chúa Giê-su cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Ma-thê, rước Ngài vào nhà mình. Người có một em gái, tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài.” (Sách Lu-ca, chương 10, câu 38 đến 39)
Ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Ngài dạy là phần tốt nhất, và là phần không có ai cất lấy được. Hãy ghi nhớ điều đó và làm theo để chúng ta được phước, hỡi quý con dân Chúa gần xa! Đừng lăng xăng làm đủ thứ việc mà không dành thì giờ ưu tiên cho việc lắng nghe, học hỏi lời Ngài. Chúa muốn chúng ta phải thờ phượng Ngài, lắng nghe lời Ngài dạy trước, rồi mới có thể phục vụ Ngài tốt đẹp được.
Khi luận giải về sự sống lại của Chúa Giê-su và những người tin Ngài, Phao-lô khẳng định:
“Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, nhưng mỗi người theo thứ tự riêng của mình: Đấng Christ là trái đầu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại. Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực; vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù nghịch dưới chơn mình. Kẻ thù bị hủy diệt sau cùng, tức là sự chết. Vả, Đức Chúa Trời đã để muôn vật dưới chơn Ngài; mà đã nói rằng muôn vật phục Ngài, thì chắc phải trừ ra Đấng làm cho muôn vật phục Ngài. Khi muôn vật đã phục Ngài, thì bấy giờ chính mình Con sẽ phục Đấng đã làm cho muôn vật phục mình, hầu cho Đức Chúa Trời làm muôn sự trong muôn sự.” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 15, câu 22 đến 28)
Đến ngày Chúa Giê-su trở lại, tất cả những người thuộc về Ngài cũng sẽ sống lại. Lúc bấy giờ, tất cả mọi quyền, mọi thế lực, muôn vật, và ma quỷ cùng bè lũ của nó đều phải khuất phục Ngài, ở dưới chân Ngài vậy.
Chúa Giê-su, Đấng mà mỗi chúng ta đang tôn thờ và hầu việc, là Đấng có cả uy quyền trời đất ở trong tay. Đáng ngợi khen Chúa Giê-su!
Trong sách Khải Huyền, Chúa Giê-su đã phán với Hội Thánh Phi-la-đen-phi:
“Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Phi-la-đen-phi rằng: Nầy là lời phán của Đấng thánh, chân thật, là Đấng có chìa khóa của Đa-vít, mở thì không ai đóng được, đóng thì không ai mở được: Ta biết công việc ngươi; nầy, ta đã mở trước mặt ngươi một cái cửa không ai đóng được; vì ngươi có ít năng lực, mà đã giữ đạo ta, và chẳng chối danh ta. Nầy, ta ban cho ngươi mấy kẻ trong những kẻ thuộc về hội quỉ Sa-tan, chúng nó xưng mình là người Giu-đa, mà kỳ thực không phải, nhưng chúng nó nói dối; nầy, ta sẽ khiến chúng nó đến sấp mình xuống dưới chân ngươi, và sẽ cho chúng nó biết rằng ta đã yêu ngươi. Vì ngươi đã giữ lời nhịn nhục ta, ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sẽ đến trong khắp thế gian, đặng thử những người ở trên đất. Ta đến mau kíp; hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của ngươi.” (Sách Khải Huyền, chương 3, câu 7 đến 11)
Ở đây, Chúa Giê-su cho biết những người tin Chúa thật, thì đến ngày cuối cùng, Ngài cũng sẽ khiến kẻ thù quy phục họ, chúng nó phải đến sấp mình dưới chân họ.
Thật là phước hạnh cho tất cả những ai có lòng nhịn nhục, giữ lòng trung tín theo Chúa cho đến cuối cùng! Vì chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ cùng đồng trị với Chúa Giê-su trong tương lai.
Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì những người thuộc về Ngài được Ngài bảo vệ một cách thật tuyệt vời, từ trên đầu xuống đến dưới chân. Sự bảo vệ của Chúa dành cho chúng ta là trọn vẹn.
Xin Chúa ban cho mỗi một chúng ta dặn lòng trung tín theo Ngài và hầu việc Ngài, không sợ hãi gì hết, cho đến khi mỗi chúng ta được gặp Ngài trong tương lai. A men!
California, Tháng 8/ 2023.
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 319
Chuyện... Lính
Kinh Thánh: Ê-phê-sô 6: 11-18; II Ti-mô-thê 2: 3, 4
Như chúng ta đều biết, bất cứ quốc gia nào cũng đều có binh lính để bảo vệ quốc gia của mình khỏi mọi sự đe dọa và tấn công của kẻ thù.
Trong lịch sử thế giới, đã từng có những quốc gia có binh lính rất hùng mạnh, như binh lính của các đế quốc A-si-ri, Ba-bi-lôn, Hy-lạp, La-mã đã từng đánh Đông, dẹp Bắc... Những đế quốc đã từng một thời vang bóng, đến nổi ngày nay, khi nói đến các đế quốc đó, nhiều người đều biết đến tiếng tăm của họ.
Ngày nay, một trong những nước có binh lính thiện chiến nhất thế giới, đó là nước Mỹ.
Nước Mỹ có tổng cộng chừng 13.398 máy bay, với 5.760 trực thăng, nhiều nhất thế giới. Ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng lớn nhất, với hơn 761 tỷ đô-la. Mỹ có hơn 1 triệu binh lính đang ở trong quân đội. Đông thứ ba sau Trung Quốc là 2 triệu và Ấn Độ là 1, 2 triệu.
Thế giới chúng ta đang sống đã trải qua 2 cuộc chiến tranh thế giới, đó là Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhứt (1914-1918), và Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai (1939-1945) làm tổn thương hàng triệu sinh mạng con người, trong đó có nhiều người lính, và hao tốn không biết bao nhiêu là tiền bạc và của cải.
Nhân loại cũng đang nơm nớp lo sợ về nguy cơ sẽ xảy ra Chiến Tranh Thế Giới Thứ Ba.
Kinh Thánh đề cập đến một trận chiến của mọi trận chiến sẽ xảy ra tại Do-thái với sự đối đầu của quân đội Do-thái và đội quân của các vua đến từ Đông phương, mà Kinh Thánh gọi tên trận chiến đó là Ha-ma-ghê-đôn (Sách Khải Huyền, chương 16, câu 16). Chắc chắn đây sẽ là trận chiến kinh khủng nhất của mọi thời đại, và sẽ có vô số binh lính cũng như người dân bị chết trong trận chiến cuối cùng nầy.
...
Nói đến chuyện... lính, tôi nhớ đến chuyện... đời lính của tôi.
Cách đây hơn bốn chục năm, vào tháng 8/ 1979, vừa tốt nghiệp lớp 12, đi thi Đại Học, chưa kịp nhận giấy báo kết quả, tôi phải rủ bỏ áo thư sinh, theo lệnh của nhà cầm quyền, lên đường tòng quân nhập ngũ. Sau chưa đầy ba tháng quân trường, chúng tôi được đưa vào Sài Gòn, và lên máy bay... xuất ngoại sang Kam-pu-chia.
Khi hạ cánh xuống sân bay Siêm-riệp, chúng tôi mới hay rằng, mình “được” đưa sang đây để làm ... “nghĩa vụ quốc tế”. Và chúng tôi được gọi bằng cái tên thật kêu là “Quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế”.
Từ một chàng thư sinh áo trắng hồn nhiên, ngây thơ, “chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì” (Xuân Diệu), đột ngột chuyển sang làm lính chiến đấu tận bên núi rừng Kam-pu-chia xa xôi, tôi cảm thấy lòng đầy bỡ ngỡ và lo lắng vô cùng. Nhưng rồi, cuộc sống của người lính chiến, ngày ngày đối diện với kẻ thù, đối diện với sự sống và cái chết, đã hun đúc nên trong tôi lòng can đảm, gan dạ, để có thể sẵn sàng đối đầu với mọi tình huống khó khăn, thách thức của đời lính.
Nơi đóng quân của đơn vị chúng tôi là ở những vùng núi rừng của xứ sở Kam-pu-chia đầy chùa tháp. Ngoài những ngày đi bám địch, do thám tình hình kẻ thù với những tình huống gay cấn đến nghẹt thở; để rồi sau đó dẫn bộ binh đi đánh, tiêu diệt kẻ thù; thì chúng tôi nghỉ ngơi tại doanh trại, ngay giữa rừng sâu đầy tiếng chim kêu, vượn hú. Những lúc nghỉ ngơi như thế, anh em lính chiến chúng tôi thường làm những... ca sĩ không tên, ôm đàn Guitar hát những bản nhạc vàng có tên và nổi tiếng, ai cũng biết, như “Tình Thư Của Lính”, “Nỗi Lòng Người Đi”, “Ngày Nào Biết Tương Tư”, “Một Mai Giã Từ Vũ Khí”, “Nó”... cho vơi đi những nỗi nhớ niềm thương về gia đình, về người yêu...
Nhà Thơ Vương Hàn (Trung Quốc) có câu thơ: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Nghĩa là, xưa nay mấy người đi lính mà trở về). Thật đúng như thế! Rất nhiều đồng đội chúng tôi sau một thời gian làm lính nơi núi rừng xứ lạ nầy, đã phải bỏ mình nơi rừng sâu núi thẳm, khi tuổi thanh xuân còn phơi phới. Cho đến bây giờ, sau gần nửa thế kỷ trôi qua, tôi cũng còn nhớ như in những gương mặt thân yêu của những đồng đội đã ngã xuống nơi sa trường. Thật thương họ biết bao nhiêu!
Cảm tạ Chúa đã thương xót tôi, và cho tôi được bình yên, vẹn toàn thân thể để trở về sau gần năm năm làm lính chiến đấu nơi xứ người. Đó quả là một ơn phước lớn mà Chúa đã dành cho tôi.
Giã từ vũ khí, trở về quê hương, sau một thời gian đi học sư phạm, tôi trở thành thầy giáo dạy học sinh tại quê nhà trong vòng 6 năm trời. Sau đó, tôi được Chúa kêu gọi, đi học Kinh Thánh, bước vào chức vụ hầu việc Ngài trọn thời gian, kể từ năm 1992 cho đến ngày hôm nay.
Giã từ đời lính thế gian, tôi... làm lính Thiên Đàng, rời bỏ vũ khí bằng sắt thép, tôi... cầm gươm Thánh Linh là lời Đức Chúa Trời để chiến đấu chống kẻ thù vô hình là ma quỷ, một kẻ thù nguy hiểm nhất mọi thời đại.
...
Kinh Thánh nói về... người lính Thiên Đàng như sau: “Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-su Christ. Khi một người đi ra trận, thì chẳng còn lấy việc đời lụy mình, làm vậy đặng đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình.” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 2, câu 3, 4)
Đặc điểm của người lính giỏi là phải có tinh thần chịu khổ, và làm đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình.
Trong quân đội, người ta có câu “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường ít đổ máu”, nghĩa là nếu anh chịu khó tập luyện nơi thao trường, thì khi ra chiến trường chiến đấu với kẻ thù, thì anh sẽ dễ chiến thắng hơn, và sẽ giảm thiểu đi sự hy sinh, mất mát.
Người chiêu mộ chúng ta... làm lính Thiên Đàng chính là Chúa Giê-su. Khi chúng ta làm lính Thiên Đàng, thì chúng ta phải biết làm đẹp lòng Đấng đã chiêu mộ chúng ta là Đức Chúa Giê-su, chứ không phải làm đẹp lòng ai khác.
Đó là hai đặc điểm không thể thiếu của... người lính Thiên Đàng.
Người lính Thiên Đàng cũng như người lính trần gian là phải được trang bị vũ khí đầy đủ để chiến đấu.
Vũ khí của người lính Thiên Đàng được Kinh Thánh cho biết: “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch mưu kế của ma quỉ. Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy... Vậy, hãy đứng vững, lấy lẽ thật làm dây nịt lưng, mặc lấy áo giáp bằng sự công bình, dùng sự sẵn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép. Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ. Cũng hãy lấy sự cứu chuộc làm mão trụ, và cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời. Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ...” (Sách Ê-phê-sô , chương 6, câu 11, 12, và câu 14-18)
Người lính Thiên Đàng phải được trang bị nịt lưng bằng lẽ thật (tức lời Chúa), vì ma quỷ là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối; cho nên chỉ có lẽ thật mới chiến thắng được sự dối trá mà thôi.
Áo giáp là vũ khí để bảo vệ những cơ quan quan trọng của người lính Thiên Đàng khỏi những tổn thương, nếu không thì dễ bị kẻ thù tấn công, dẫn đến tử vong.
Vũ khí thứ ba là trang bị giày dép bằng Tin Lành bình an, vì Satan luôn đặt để nhiều chướng ngại vật trên đường đi để ngăn cản sự truyền giảng Tin Lành của người lính Thiên Đàng. Khi có giày dép là Tin Lành bình an rồi, thì chúng ta sẽ không còn lo sợ những chướng ngại vật trên đường rao giảng Tin Lành nữa.
Thuẫn của đức tin là khí giới không thể thiếu của người lính Thiên Đàng, vì nó sẽ làm cho việc Satan gieo những nghi ngờ về sự thành tín của Chúa và Lời Chúa trong ta trở nên vô dụng.
Mũ cứu chuộc là vũ khí hữu hiệu để bảo vệ cái đầu của người lính Thiên Đàng, gìn giữ chi thể quan trọng nhất của thân thể, là nơi ma quỷ chú ý đến nhiều nhất, để làm cho tâm trí chúng ta bị phân tâm, nghi ngờ.
Người lính Thiên Đàng phải có vũ khí là gươm của Thánh Linh để tấn công và chiến thắng kẻ thù. Còn nhớ khi Chúa Giê-su bị cám dỗ trong sa mạc, Ngài đã dùng vũ khí nầy để khuất phục Satan.
Cầu nguyện là một vũ khí làm cho người lính Thiên Đàng được mạnh mẽ. Không trang bị vũ khí cầu nguyện, thì người lính Thiên Đàng sẽ không có sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng được kẻ thù.
...
Nếu bạn được mệnh danh là người lính Thiên Đàng thì bạn phải được trang bị đầy đủ những thứ khí giới lạ lùng đó, để chiến đấu chống lại kẻ thù vô hình là ma quỷ, và mới có thể chiến thắng nó được.
Để kết thúc bài viết nầy, xin gởi đến bạn đọc gần xa bài thơ “Làm Lính Thiên Đàng” của Bình Tú Ngọc để cùng khích lệ nhau trong trận chiến chống kẻ thù chung của chúng ta là ma quỷ:
Một thời làm lính tận xứ Kam(1)
Biên giới rừng sâu máy bộ đàm(2)
Đêm ngày sống chết nào ai biết
Vẫn cứ Gui-ta với nhạc vàng(3)...
Sống giữa núi rừng thật chơi vơi
Hôm nay còn ngắm lá vàng rơi
Ngày mai ra trận cùng đánh địch
Có biết rằng ai sẽ lìa đời?...
Cuộc đời lính chiến ai biết đâu
Sống chết, mất còn tính từng ngày
Hôm nay còn sống, mai đã khuất
Thương sao đời lính giữa rừng sâu...
Năm năm làm lính được trở về(4)
Thân thể vẹn toàn ngày về quê
Cúi đầu cảm tạ ơn Thượng Đế
Đã giữ gìn con thật tuyệt ghê...
Nay con làm lính Chúa Giê-su(5)
Cầm gươm lời Chúa diệt kẻ thù(6)
Sa-tan là kẻ cướp, hủy diệt(7)
Chống lại Nước Trời mãi muôn thu...
Có hai thế lực ở thế gian
Một là Thượng Đế, hai Sa-tan
Nếu bạn không thuộc về Thượng Đế
Là thuộc Sa-tan rất rõ ràng...
Mời bạn đến với Đức Chúa Trời
Cùng nhau thờ phượng Chúa Ba Ngôi
Không còn sợ hãi Sa-tan nữa
Làm lính Thiên Đàng hưởng phước thôi!
Bình Tú Ngọc
Cầu xin Chúa cho mỗi một chúng ta đều là những người lính Thiên Đàng, người lính giỏi của Đức Chúa Giê-su Christ, để góp phần chiến đấu cho vương quốc của Chúa và đem chiến thắng về cho Ngài. A men!
California, Tháng 8/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(1): Xứ Kam: Tức Đất nước Kam-pu-chia (Combodia)
(2): Máy bộ đàm: Máy truyền tin của đơn vị Truyền Tin trong Quân đội
(3): Những người lính chiến giữa rừng sâu như chúng tôi thời đó, hầu như ai cũng ôm đàn Gui-ta và ca được một vài bài Nhạc Vàng, như “Nỗi Lòng Người Đi”, “Tình Thư Của Lính”, hay “Giã Từ Vũ Khí”, “Nó”... cho đỡ nhớ nhà, nhớ người yêu.
(4): Năm 1984, Chúa cho được trở về bình yên sau 5 năm làm lính chiến nơi xứ người, từ tháng 8/ 1979
(5): Theo ý trong sách II Ti-mô-thê 2: 3
(6): Theo y trong sách Ê-phê-ô 6: 17
(7): Theo ý trong sách Giăng 10: 10
Bài 320
Chuyện... Hứa
Kinh Thánh: Các Quan Xét 11: 30-39; Truyền Đạo 5: 1-5; Rô-ma 4: 20, 21
Hứa là một điều mà mỗi người trong chúng ta thường hay làm trong cuộc sống.
Không ít lần bạn và tôi đã hứa với ai đó một điều gì đó, và chúng ta đã thực hiện được lời hứa ấy. Và cũng không ít lần, bạn và tôi đã... thất hứa với ai đó về một hay nhiều lời hứa hẹn nào đó.
Giữ được lời hứa, và... thất hứa là hai việc trái ngược nhau.
Trong cuộc sống, chúng ta gặp khá nhiều người luôn biết giữ lời hứa, vì họ tôn trọng lời họ hứa, và tôn trọng người họ hứa. Ngược lại, chúng ta cũng gặp không ít người xem nhẹ lời hứa, vì họ không tôn trọng lời hứa, và không tôn trọng người họ hứa. Người ta gọi những người như thế là người... hứa suông hẹn hão.
Ca dao nhắc nhở chúng ta về việc giữ lời hứa:
-Nói lời phải giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay
-Nói chín thì phải làm mười,
Nói mười làm chín kẻ cười người chê
-Người sao một hẹn thì nên,
Người sao chín hẹn thì quên cả mười
Có một số câu danh ngôn ý nghĩa về lời hứa như sau:
-Người ta có thể bỏ qua cho bạn với một lần thất hứa. Nhưng chẳng ai tin vào bạn mãi khi không giữ lời hứa quá nhiều.
-Không hứa bậy, nên mình không phụ ai; không tin bậy, nên không ai phụ mình.
Nhà Thơ Hồ Dzếnh có bài thơ “Ngập Ngừng” nổi tiếng, ai cũng biết, trong đó có nói đến chuyện... hứa hẹn rất... lạ, và bởi cái... lạ đó mà bài thơ được nhiều người thích, nhất là những đôi lứa đang yêu nhau:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ: Gớm, làm sao nhớ thế?
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi! tình có nghĩa gì đâu?
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ,
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở,
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Hẹn người ta, nhưng mong người ta... đừng đến. Lạ không bạn? Lạ! Thậm chí rất lạ là đàng khác!
Thú thực là tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ nầy, dù... thích ý tứ mới lạ, độc đáo của nó; nhưng tôi không hiểu được tại sao Nhà Thơ lại có cái mong ước... kỳ cục (“em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, có nghĩa là... hẹn nhiều lần, mà không đến) như thế?
Tôi mà hẹn người yêu một hai lần mà... thất hẹn, không đến, cứ hứa suông hẹn hão hoài như vậy, là chắc tôi sẽ nói lời... “em đi đường em, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi” cho rồi.
Chắc bạn cũng sẽ hành xử như thế chứ?
...
Kinh Thánh nói gì về lời hứa?
Trước hết, chúng ta cần biết về lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho con người.
Người ta cho biết có hơn 8000 lời hứa trong Kinh Thánh. Và có hai loại lời hứa, đó là lời hứa không điều kiện và lời hứa có điều kiện. Lời hứa không điều kiện là lời hứa mà Đức Chúa Trời đã hứa và Ngài sẽ thực hiện lời hứa đó, không đòi hỏi con người phải làm một điều gì để đáp ứng lời hứa đó cả. Ví dụ như lời Ngài hứa sau cơn đại hồng thủy thời Nô-ê: “Vậy, Ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa. Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi. Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với đất. Phàm lúc nào ta góp các đám mây trên mặt đất và phàm mống mọc trên từng mây, thì ta sẽ nhớ lại sự giao ước của ta đã lập cùng các ngươi, và cùng các loài xác thịt có sự sống, thì nước chẳng bao giờ lại trở nên lụt mà hủy diệt các loài xác thịt nữa.” (Sách Sáng Thế Ký, chương 9, câu 11 đến 15)
Còn lời hứa có điều kiện là lời hứa có hai phần, phần của Đức Chúa Trời và phần của con người. Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều Ngài hứa, nếu con người đáp ứng điều kiện Ngài đưa ra. Ví dụ như câu Kinh Thánh sau: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (Sách Giăng thứ nhứt, chương 1, câu 9)
Phần lớn những lời hứa trong Kinh Thánh là lời hứa có điều kiện.
...
Nói đến chuyện... lời hứa, chúng ta không thể nào quên lời hứa của dũng sĩ Giép-thê thời Cựu Ước: “Giép-thê khẩn nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng: Nếu Ngài phó dân Am-môn vào tay tôi, khi tôi thắng chúng nó trở về, hễ chi ở cửa nhà tôi đi ra đầu hết đặng đón rước tôi, thì nấy sẽ thuộc về Đức Chúa Trời, và tôi sẽ dâng nó làm của lễ thiêu. Đoạn, Giép-thê đi đến dân Am-môn đặng giao chiến cùng chúng nó, và Đức Giê-hô-va phó chúng nó vào tay người. Người đánh bại chúng nó từ A-rô-e cho đến Mi-nít, và cho đến A-bên-Kê-ra-mim, cùng chiếm lấy của chúng nó hai mươi cái thành. Ấy là một trận-bại rất lớn; dân Am-môn bị phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Giép-thê trở về nhà mình tại Mích-ba; kìa, con gái người ra đón rước người, có cầm trống nhỏ và nhảy múa. Nàng là con một của người, ngoài nàng chẳng có con trai hoặc con gái nào khác hơn. Giép-thê vừa thấy nàng, liền xé áo mình mà rằng: Ớ con, than ôi! con gây cho cha tức tối quá thay! Con thuộc vào số kẻ làm rối cha! Vì cha có mở miệng khấn nguyện cùng Đức Giê-hô-va, không thế nuốt lời. Nàng thưa rằng: Cha ôi, nếu cha có mở miệng khấn nguyện cùng Đức Giê-hô-va, xin hãy làm cho con y như lời ra khỏi miệng cha, vì bây giờ Đức Giê-hô-va đã báo thù kẻ cừu địch cha rồi, tức là dân Am-môn. Đoạn, nàng lại nói cùng cha mình rằng: Xin cha hãy nhậm cho con lời nầy: Để cho con thong thả trong hai tháng, con sẽ đi ở trên núi đặng cùng chị em bạn con khóc về sự đồng trinh của con. Giép-thê đáp rằng: Con cứ đi. Rồi người để nàng đi hai tháng. Vậy, nàng đi cùng chị em bạn mình, khóc sự đồng trinh mình tại trên núi. Cuối hai tháng, nàng trở về cha mình, và người làm cho nàng tùy theo lời khấn nguyện mình đã hứa.” (Sách Các Quan Xét, chương 11, câu 30 đến 39)
Ông hứa với Chúa như thế, cho nên, khi Ngài ban cho ông chiến thắng được dân Am-môn rồi, đang hân hoan, vui mừng trở về nhà trong niềm vui chiến thắng, thì ông vô cùng bất ngờ và sững sốt khi thấy con gái một của mình lại là người đầu tiên ra đón ông. Ông liền xé áo mình và than khóc. Nhưng ông đã hứa với Chúa rồi, và ông “không thể nuốt lời”
Có lẽ Giép-thê đã nhớ lời Chúa phán:
“Nầy là điều mà Đức Giê-hô-va đã phán: Khi một người nào có hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va, hoặc phát thề buộc lấy lòng mình phải giữ một sự gì, thì chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo.” (Sách Dân số Ký, chương 30, câu 2 và 3)
Giép-thê quyết định làm theo lời đã hứa với Chúa, dù đây là một quyết định đau thương và ngoài suy nghĩ của ông.
Một điều chúng ta rất nể phục, đó là hành động dũng cảm của cô con gái Giép-thê: “Nàng thưa rằng: Cha ôi, nếu cha có mở miệng khấn nguyện cùng Đức Giê-hô-va, xin hãy làm cho con y như lời ra khỏi miệng cha, vì bây giờ Đức Giê-hô-va đã báo thù kẻ cừu địch cha rồi, tức là dân Am-môn.” Cô là một người đã biết đặt sự vâng lời Chúa, lợi ích của dân tộc và sự hiếu kính cha mẹ lên trên cả mạng sống mình.
Có lẽ rất khó để có thể tìm được một cô gái nào giống như cô con gái của Giép-thê.
Con gái của Giép-thê là cô gái xem trọng lời hứa, vô cùng can đảm, và có một nhân cách đáng nể phục.
Khi nói đến chuyện... hứa, chúng ta cần ghi nhớ lời dạy của Chúa trong Kinh Thánh để cẩn thận mỗi khi hứa gì với Chúa hoặc với bất kỳ ai: “Khi người vào nhà Đức Chúa Trời, hãy giữ chừng chân mình. Thà lại gần mà nghe, hơn là dâng của tế lễ kẻ ngu muội; vì nó không hiểu biết mình làm ác. Chớ vội mở miệng ra, và lòng ngươi chớ lật đật nói lời trước mặt Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời ở trên trời, còn ngươi ở dưới đất. Vậy nên ngươi khá ít lời. Hễ nhiều sự lo lắng ắt sanh ra chiêm bao; còn nhiều lời thì sanh ra sự ngu dại. Khi ngươi khấn hứa sự gì với Đức Chúa Trời, chớ chậm mà hoàn nguyện; vì Ngài chẳng vui thích kẻ dại: vậy, khá trả điều gì ngươi hứa. Thà đừng khấn hứa, hơn là khấn hứa mà lại không trả.” (Sách Truyền Đạo, chương 5, câu 1 đến 5)
Đức Chúa Trời không bắt chúng ta phải hứa, hoặc thề thốt bất cứ điều gì, nhưng phải thì nói phải, không thì nói không là đủ rồi, như lời chính Chúa Giê-su đã dạy: “Các ngươi còn có nghe lời phán cho người xưa rằng: Ngươi chớ thề dối, nhưng đối với Chúa, phải giữ vẹn lời thề mình. Song ta phán cùng các ngươi rằng đừng thề chi hết: đừng chỉ trời mà thề, vì là ngôi của Đức Chúa Trời; đừng chỉ đất mà thề, vì là bệ chân của Đức Chúa Trời; đừng chỉ thành Giê-ru-sa-lem mà thề, vì là thành của Vua lớn. Lại cũng đừng chỉ đầu ngươi mà thề, vì tự ngươi không thể làm cho một sợi tóc nên trắng hay là đen được. Song ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không. Còn điều người ta nói thêm đó, bởi nơi quỷ dữ mà ra.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 5, câu 33 đến 37)
...
Loài người là loài yếu đuối, bất toàn, bất năng, nên chúng ta rất dễ thất hứa; vì vậy, Chúa dạy chúng ta không nên khấn hứa điều gì một cách vội vàng, hấp tấp, để rồi phải... thất hứa, làm người khác mất lòng tin nơi chúng ta.
Đức Chúa Trời thì khác, Ngài là Đấng thành tín, toàn năng, nên Ngài không bao giờ thất hứa bất cứ điều gì, như Kinh Thánh cho biết: “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín.” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 10, câu 23)
“Người chẳng có lưỡng lự hoặc hồ nghi về lời hứa Đức Chúa Trời, nhưng càng mạnh mẽ trong đức tin, và ngợi khen Đức Chúa Trời, vì tin chắc rằng điều chi Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng có quyền làm trọn được.” (Sách Rô-ma, chương 4, câu 20, 21)
Cho nên, chúng ta rất đáng tin cậy nơi Đức Chúa Trời và chỉ một mình Ngài mà thôi, đừng để lòng tin cậy nơi con người là loài có hơi thở trong lỗ mũi, vì họ nào có đáng kể gì đâu trước mặt Đức Chúa Trời.
Xin Chúa thương xót, giúp đỡ mỗi một chúng ta để biết cẩn trọng trong lời nói của mình, nhất là đừng hấp tấp mở miệng ra hứa nguyện điều gì, để rồi không đủ khả năng thực hiện, mà trở nên người... thất hứa, làm buồn lòng Chúa và mất niềm tin nơi người!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 321
Chuyện... Tốt Xấu
*Kinh Thánh: Thi-thiên 27: 4; Ê-sai 64: 6; Giê-rê-mi 17: 9; Ma-thi-ơ 7: 9-11; Gia-cơ 1: 17
Tốt và xấu là hai tính chất trái ngược nhau trong đời sống con người.
Ai trong chúng ta cũng muốn điều tốt, không ai muốn điều xấu cả.
Mọi người đều thích điều tốt và ghét điều xấu.
Không ai muốn nhận mình là xấu, mặc dù mình có thực sự là xấu đi nữa. Cho nên, nếu có ai đó nói về những điều xấu của mình, là mình vội vàng lên tiếng... biện minh, bào chữa ngay.
Hầu hết mọi người đều muốn nói tốt về mình, và cũng muốn mọi người nói tốt về mình nữa.
Nói tốt về mình là một chuyện, nhưng mình có thật sự tốt như mình nói hay không lại là một chuyện khác. Không phải cứ nói tốt về mình là mọi người đều sẽ cho mình là tốt phải không bạn? Người ta cũng... thông minh lắm, chứ không... khờ khạo, cả tin như mình tưởng đâu!
Thực ra, ngay từ khi A-đam và Ê-va được Đức Chúa Trời tạo nên từ bụi đất và đem đặt để họ trong vườn Ê-đen tuyệt đẹp, thì họ rất tốt lành, không có điều nào xấu cả. Có thể nói rằng, chỉ có hai con người đầu tiên nầy là thực sự tốt, cho đến khi họ phạm tội không vâng lời Đức Chúa Trời, mà ăn trái cây Đức Chúa Trời đã cấm ăn, thì họ không còn tốt nữa. Họ trở thành tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời, không còn tốt đẹp như “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (thơ Hồ Dzếnh). Và cũng kể từ đó trở đi, hậu duệ của họ cũng mang “gen” di truyền tội nhân, xấu xa như thế, không còn một ai tốt đẹp cả, dẫu một người cũng không.
Nói về chuyện... tốt xấu, ông cha ta cũng đề cập đến khá nhiều qua ca dao, tục ngữ:
+ Tốt khoe, xấu che
+ Xấu mặt mới lâu, xấu đầu mấy lúc
+ Xấu lá xấu nem, xấu em xấu chị
+ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người
+ Chớ chê em xấu, em đen
Em như nước đục, đánh phèn lại trong
Có một số câu danh ngôn tôi đọc được và thấy... hay hay, nên xin trích ra đây để bạn đọc cùng..thưởng thức:
+ Người xấu thì nhiều, người biết điều thì ít
+ Đừng bao giờ quan tâm đến những người nói xấu sau lưng bạn. Bởi vì vị trí của họ là ở đó... mãi mãi sau lưng bạn mà thôi
+ Đồng xu tuy hai mặt nhưng chỉ có một mệnh giá. Con người chỉ có một mặt nhưng sao lại hai lòng?
...
Kinh Thánh nói về tốt, xấu như thế nào?
Kể từ khi con người phạm tội, thì con người trở nên xấu xa, tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh khẳng định rằng, lòng con người rất là xấu xa: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Sách Giê-rê-mi, chương 17, câu 9)
Nhiều người cứ tưởng khi mình đi tu, lánh xa cõi thế gian ta bà nầy, thì mình sẽ trở nên công bình, thanh sạch, sẽ trở nên giống như... tiên, như thánh. Đó là một suy nghĩ sai lầm. Không hề có chuyện đó đâu! Kinh Thánh cho biết: “Người Ê-thi-ô-bi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được thì các ngươi là kẻ đã làm dữ quen rồi, sẽ làm lành được.” (Sách Giê-rê-mi, chương 13, câu 23) Hỏi có nghĩa là đã trả lời rồi vậy. Da người Ê-thi-ô-bi rất đen, không thể nào đổi được thành trắng, da con beo là phải vằn vện, không thể thay đổi khác đi được; thì con người kể từ khi phạm tội, trở thành tội nhân, thì cứ tiếp tục lầm lạc trong việc làm dữ, làm xấu, không thể tự trở nên thiện lành được, tốt đẹp được.
Chúa Giê-su đã từng phán: “Trong các ngươi có ai, khi con mình xin bánh, mà cho đá chăng? Hay là con mình xin cá, mà cho rắn chăng? Vậy, nếu các ngươi vốn là xấu, còn biết cho con cái mình các vật tốt thay, huống chi Cha con ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt cho những người xin Ngài sao?” (Sách Ma-thi-ơ, chương 7, câu 9 đến 11)
Chúa Giê-su khẳng định, con người là xấu xa, còn Đức Chúa Trời là Đấng tốt lành!
Câu chuyện về người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội tà dâm. Người ta đem bà đến trước mặt Chúa Giê-su để gài bẫy Ngài; nhưng Chúa Giê-su phán:
“Vì họ cứ hỏi nữa, thì Ngài ngước lên và phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người. Rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết trên mặt đất. Khi chúng nghe lời đó, thì kế nhau mà đi ra, những người có tuổi đi trước. Đức Chúa Giê-su ở lại một mình với người đàn bà, người vẫn đang đứng chính giữa đó. Đức Chúa Giê-su bấy giờ lại ngước lên, không thấy ai hết, chỉ có người đàn bà, bèn phán rằng: Hỡi mụ kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu? Không ai định tội ngươi sao? Người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa.” (Sách Giăng, chương 8, câu 7 đến 11)
Không có bất cứ ai dám cầm đá để ném người đàn bà xấu xa nầy cả, lý do là vì không có ai là vô tội, tất cả đều xấu xa, tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời. Câu “những người có tuổi đi trước” cho chúng ta biết, khi một người sống càng lâu năm thì tội lỗi càng nhiều thêm vậy.
Tin mừng cho con người chúng ta là Đức Chúa Trời hứa là sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác, nếu chúng ta tin nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa cho cuộc đời mình.
“Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên.” (Sách Ê-sai, chương 1, câu 18)
“Còn nếu chúng ta xưng tội mình thì Ngài là Đấng thành tín, công bình sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (Sách Giăng thứ nhứt, chương 1, câu 9)
Nhiều người nghĩ rằng mình không làm điều gì ác, nên mình là người tốt, và như thế chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ cứu mình. Đó là một quan niệm vô cùng tai hại, đến từ Sa-tan mà thôi.
Một số người có thể có một đời sống đạo cao đức trọng tốt hơn nhiều người; nhưng không phải vì thế, họ vô tội, và xứng đáng được Đức Chúa Trời cứu. Tuyệt đối không! Với cái nhìn của con mắt thường của con người, có thể nhìn thấy cái áo trắng mới, không có gì là dơ nhớp cả; nhưng nếu đem soi dưới kính hiển vi, thì ta sẽ thấy cái áo trắng mới kia cũng có vô số vi trùng, và rất dơ nhớp như những chiếc áo khác, chứ không có gì hơn.
Kinh Thánh cho biết, mọi việc làm mà con người tưởng là công bình, đáng khen ngợi, chỉ giống như chiếc áo nhớp không hơn, không kém trước mặt Đức Chúa Trời tuyệt đối thánh khiết: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Sách Ê-sai, chương 64, câu 6)
Có một chân lý mà chúng ta cần nhớ, không một ai tốt đủ để được Chúa cứu, và ngược lại, không một ai xấu đến mức, Chúa không cứu được.
Kinh Thánh xác nhận, tất cả mọi người trên trần gian nầy đều là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời, và tất cả đều cần phải đến và tin nhận Chúa Giê-su để nhận được sự tha tội và hưởng sự sống đời đời. Không có một ngoại lệ nào khác. Đó là điều mà Kinh Thánh dạy dỗ cho con người ở trên khắp hoàn vũ nầy.
...
Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất tốt lành, thánh khiết mà thôi.
Lời Chúa trong Thi-thiên 136, câu 1 cho biết: “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện. Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.”
Đức Chúa Trời là thiện, có nghĩa Ngài là Đấng tốt lành, và Ngài cũng là Đấng nhân từ , thương xót nữa.
“Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt lành, lòng thương xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn đến đời đời!"(Sách E-xơ-ra, chương 3, câu 11)
Vua Đa-vít , một vị vua nổi tiếng của người Do-thái ngày xưa cũng đã ca ngợi sự tốt lành tuyệt vời của Đức Chúa Trời như sau: “Tôi đã xin Đức Giê-hô-va một điều, và sẽ tìm kiếm điều ấy! Ấy là tôi muốn trọn đời được ở trong nhà Đức Giê-hô-va, để nhìn xem sự tốt đẹp của Đức Giê-hô-va, và cầu hỏi trong đền của Ngài.” (Sách Thi-thiên, chương 27, câu 4)
Thánh Gia-cơ khẳng định: “Mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 17)
Đức Chúa Trời là Đấng sáng láng, và bất biến. Ngài là Đấng tốt lành tuyệt đối.
...
Loài người thì xấu xa, Đức Chúa Trời là tốt lành; nên loài người rất cần phải đến với Đức Chúa Trời để nhận được ơn cứu rỗi, qua Đức Chúa Giê-su Christ, Đấng đã từ Thiên Đàng xuống trần gian để chịu chết đền tội cho tội nhân, và sống lại để ban ơn cứu rỗi cho những ai bằng lòng tin nhận Ngài.
Cầu xin Chúa cho những độc giả chưa tin Chúa nhận biết được chân lý quan trọng đó, hầu sớm đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận Chúa Giê-su, trong khi còn đang có hơi thở trong lỗ mũi để hưởng mọi ân điển tốt lành, cùng sự ban cho trọn vẹn của Đức Chúa Trời. A men!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 322
Chuyện... Đọc Và... Viết
*Kinh Thánh:Giô-suê 1: 8; Cô-lô-se 4: 16; I Giăng 5: 13
Đọc và viết là hai việc mà không ai trong chúng ta không làm.
Hàng ngày, mỗi chúng ta thường... đọc hay... viết một cái gì đó. Đọc một tờ báo, hay viết một lá thư, hoặc viết vài dòng tin nhắn cho người thân, bạn bè...
Ngày nay, người ta đọc và viết trên mạng lưới điện toán nhiều hơn là đọc và viết trên sách vở bằng giấy.
Bạn có thường hay đọc và viết không?
Và bạn thường hay đọc gì và viết gì?
Trên mạng lưới điện toán, có vô số điều để chúng ta đọc, và cũng có vô số đề tài để chúng ta có thể viết.
Những sách báo trên mạng cũng có nhiều điều hữu ích cho chúng ta đọc để giúp mở mang kiến thức, sự hiểu biết của mình; nhưng nếu không cẩn thận, có nhiều loại sách báo sẽ làm... dơ bẩn đầu óc chúng ta. Người ta nói mạng lưới điện toán là... con dao hai lưỡi là vậy.
Khi chúng ta viết trên mạng (viết bài hay bình luận), chúng ta cũng dễ bị chúng... lôi chúng ta vào mê hồn trận... chửi bới, lăng mạ người khác dễ như chơi. Chỉ cần một cái... nhấp chuột trên lắp-táp, hay một cái nhấn nhẹ bằng tay trên điện thoại thông minh, là những điều chúng ta viết sẽ đến với nhiều người ở nhiều nơi trên khắp thế giới ngay lập tức.
Cho nên, đọc trên mạng đã cẩn thận, viết trên mạng lại càng cẩn thận hơn!
Vào mạng lưới điện toán, chúng ta dễ dàng nhận ra điều nầy: Những điều nhảm nhí, những chuyện huyễn... lại được nhiều người vào đọc, xem và bình luận nhiều nhất. Ngược lại, những chuyện nghiêm túc, những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng lâu dài đến đời sống thể xác và linh hồn của con người, thì lại ít người quan tâm. Chỉ cần để ý một chút, chúng ta sẽ thấy có những đề tài vu vơ, không đâu vào đâu hết, lại có đến cả trăm, thậm chí cả ngàn người vào viết bình luận, thả tim, thả mặt cười, gởi bông, gởi hoa tặng vô số kể... Đó là một thực tế đáng buồn!
...
Ngày hôm nay, hầu như ai cũng có thể sở hữu một chiếc điện thoại thông minh. Và chiếc điện thoại đó dường như luôn luôn gần gũi bên mình; nhiều khi còn... thân thiết hơn cả vợ hay chồng của mình nữa.
Cứ một hay vài giờ, là chúng ta thường lấy điện thoại ra xem, đọc, và... viết một cái gì đó cho... đỡ ghiền.
Nghiện... điện thoại là... căn bệnh của thời đại hôm nay.
...
Nói về chuyện... đọc và... viết, tôi có đọc được một số câu nói ý nghĩa như sau:
+ Sách như kho báu của đời
Giúp ta hiểu biết đất trời nước non
+ Một người không đọc sách chẳng hơn gì kẻ không biết đọc.
+ Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự trong lòng khoan khoái.
+ Không có người bạn nào trung thành như một cuốn sách.
+ Đọc sách có thể không giàu, nhưng không đọc, chắc chắn nghèo.
+ Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: Qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc.
+ Để cho con một hòm vàng không bằng dạy cho con đọc một quyển sách hay.
...
Giữa muôn ngàn cuốn sách để đọc, thiết nghĩ, có một cuốn sách mà mọi người đều nên đọc, và cuốn sách đó chính là Kinh Thánh.
Ai đó đã nói, Kinh Thánh là quyển sách của mọi quyển sách là chính xác biết bao!
Kinh Thánh không chỉ đem lại cho chúng ta sự khôn ngoan để sống trong cuộc đời nầy, mà nó còn có thể biến đổi cuộc đời chúng ta từ chỗ “tối tăm qua sáng láng, từ quyền lực của Sa-tan đến Đức Chúa Trời.(Ý từ sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 26, câu 18)
Bạn đã đọc Kinh Thánh chưa?
Nếu chưa, xin mời bạn dành thì giờ để đọc quyển sách của mọi quyển sách nầy, và bạn sẽ thấy giá trị vượt trội của Kinh Thánh đem lại cho cuộc đời bạn, mà không có quyển sách nào có thể làm được như thế.
Chính Đức Chúa Trời đã phán với nhà lãnh đạo lừng danh của người Do-thái ngày xưa là Giô-suê rằng: “Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Sách Giô-suê, chương 1, câu 8)
Một khi chúng ta đọc Kinh Thánh, suy gẫm những điều đã đọc, và làm theo những điều ấy, thì cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ được may mắn và sẽ được phước nữa. Vì đó là lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho bất cứ người nào đọc Lời Ngài.
Người tin Chúa tại thành phố Bê-rê trong thời của Thánh Phao-lô đã yêu mến Kinh Thánh hơn bất cứ ai, nên họ đã dành thì giờ hằng ngày để đọc Kinh Thánh: ”Ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng?” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 17, câu 11)
Thói quen “ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh” của người Bê-rê là một thói quen tốt, khích lệ chúng ta biết bao!
Kết thúc thư gởi cho Hội Thánh Cô-lô-se, Phao-lô nhấn mạnh đến việc... đọc Lời Chúa: “Anh em đọc thơ nầy rồi, hãy đưa cho Hội Thánh Lao-đi-xê đọc với, anh em cũng phải đọc thơ ở Lao-đi-xê gởi đến nữa.” (Sách Cô-lô-se, chương 4, câu 16)
...
Ngoài việc... nghiện đọc Kinh Thánh hằng ngày, tôi cũng... nghiện viết lên những suy gẫm của tôi từ những điều tôi học được từ Kinh Thánh nữa.
Viết là một công việc khá... mệt nhọc, chứ không hề đơn giản chút nào. Dầu vậy, tôi cũng cố gắng viết ra những gì mình học được từ Lời Chúa, từ nơi Chúa, để chia sẻ cho những người khác, hầu khích lệ lẫn nhau trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài.
Viết cũng là một cách để tôi trau giồi tiếng mẹ đẻ của mình với mong ước một ngày nào đó, mình sẽ viết thật đúng, thật chuẩn ngôn ngữ... ruột của cha ông để lại.
Viết cũng là một cách để tôi... đọc Lời Chúa, tìm kiếm Lời Chúa và trích dẫn Lời Chúa vào trong bài viết của mình theo đúng đề tài bài viết. Đó cũng là cách tốt để học và nghiên cứu Kinh Thánh vậy!
Bạn có ham thích... viết không?
Ham thích... viết là một... ham thích... khó; nhưng một khi Chúa cho bạn đã có... ham thích đó, thì bạn sẽ thấy... viết là một đam mê đáng yêu, đáng quý.
Tôi có quen một Mục Sư, người cùng quê hương Quảng Nam với tôi, và là Mục Sư đàn anh của tôi. Ông là một Mục Sư được Chúa ban cho có ơn... viết lách. Hiện, ông đang làm Chủ Nhiệm Kiêm Chủ Bút một tờ báo Cơ-đốc Việt ngữ khá nổi tiếng tại Mỹ. Ông đọc nhiều sách, và cũng viết khá nhiều sách nữa. Ông có một vốn sống dồi dào, và vốn kiến thức khá phong phú. Ông có câu châm ngôn... ba ham khá... ấn tượng: “Ham học, ham đọc, ham viết”.
Để có thể... ham viết, thì phải... ham học. Ham học rồi, thì phải... ham đọc mới có kiến thức, mới có... vốn sống. Một khi đã có kiến thức, có vốn sống rồi, là dễ sanh ra chứng... ham viết.
Là một người hầu việc Chúa, thiết nghĩ, ngoài ơn Chúa ban cho, chúng ta cần phải có thêm... ba cái ham đó. Không có... ba cái ham đó, thì sự giảng dạy của chúng ta sẽ dễ trở nên... khô khan và... cạn cợt lắm.
Tôi... ham viết, nhất là... ham viết những đề tài về niềm tin nơi Chúa, để khích lệ những người đang theo Chúa, và cũng để chia sẻ đức tin với những bạn bè, thân hữu chưa tin Chúa nữa; hầu mong họ sớm đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy sự sống đời đời do Chúa Giê-su ban cho, như tôi đã từng nhận vậy.
Còn nhớ, Sứ đồ Giăng đã viết với mong ước như thế: “Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời.” (Sách Giăng thứ nhứt, chương 5, câu 13)
Câu chuyện về... đọc và... viết xin tạm dừng ở đây, tạm dừng thôi, chứ chưa... chấm dứt.
Vì nếu bạn đọc còn thích... đọc, thì người viết sẽ cố gắng tiếp tục... viết vậy.
Hẹn gặp lại mọi người trong những bài viết sau!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 323
Chuyện... Bỏ Và... Lấy
Kinh Thánh: Mác 10: 28-30; Ê-phê-sô 4: 22-24, 31; Cô-lô-se 3: 7-9; Gia cơ 1: 21
Bỏ và lấy là hai hành động trái ngược nhau.
Những gì không có giá trị, hoặc không dùng nữa, thì chúng ta... bỏ đi; còn những gì giá trị, có ích lợi thì chúng ta... giữ lấy.
Cũng có những trường hợp chúng ta... bỏ lầm những thứ lẽ ra nên giữ, và... lấy nhầm những thứ lẽ ra nên... bỏ. Cho nên, bỏ hay lấy, chúng ta phải cẩn thận khi quyết định, để khỏi mắc sai lầm đáng tiếc.
Trong ca dao, tục ngữ, ông cha ta nói nhiều đến chuyện... bỏ và... lấy, đọc thật... thấm thía:
Nói đến hành động vô trách nhiệm của ai đó, ông cha ta nói:
- Đem con bỏ chợ
Nói đến sự vong ơn, thì có những câu:
- Vắt chanh bỏ vỏ
- Ăn mít bỏ xơ, ăn cá bỏ lờ
Những câu ca dao nói về sự tham phú, phụ bần, có mới nới cũ, quên ơn phụ nghĩa thì rất nhiều:
- Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm tay bồng,
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.
- Trách ai tham đó bỏ đăng,
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn
- Trách ai rọc giấy bỏ bìa,
Khi thương thương vội, khi lìa lìa xa.
Nói đến chuyện... lấy được chồng văn hay chữ tốt:
- Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bỏ công trang điểm má hồng răng đen.
- Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng
Chuyện... bỏ và... lấy cũng là đề tài được Kinh Thánh nói đến khá nhiều.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã... bỏ chính bản thân mình để có thể cứu được chúng ta ra khỏi quyền lực của Sa-tan:
“Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người.” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 7)
Nếu Chúa Giê-su không... tự bỏ mình đi, thì tất cả con người chúng ta phải... bỏ mình trong tội lỗi, và vô phương tự cứu.
Cảm tạ Chúa về sự... từ bỏ đáng giá của Ngài cho hết thảy chúng ta!
Chúa Giê-su đã từng nói rất thẳng thắn với các môn đồ của Ngài rằng: “Như vậy, nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ Ta.” (Sách Lu-ca, chương 14, câu 33)
Theo Chúa thực sự là một cuộc... phiêu lưu đức tin; nhưng là một cuộc phiêu lưu... kỳ thú và đầy ý nghĩa. Theo Chúa, trước hết là phải từ bỏ. Từ bỏ chính mình, và từ bỏ những gì tạm bợ của thế gian nầy, thì mới có thể đi theo Chúa và làm môn đồ của Ngài được. Vì những gì thuộc về thế gian nầy là những “tội lỗi dễ vấn vương”, sẽ cản trở bước đường theo Chúa, nếu chúng ta không từ bỏ nó.
Khi Phi-e-rơ thắc mắc với Chúa, ông đã bỏ mọi sự để theo Ngài, thì ông sẽ được gì? Và Chúa Giê-su đã trả lời cách rõ ràng cho Phi-e-rơ và các sứ đồ rằng, họ sẽ... được gấp trăm lần hơn những gì họ đã... bỏ khi đi theo Chúa, ngay trong đời nầy, và cả trong đời sau nữa:
“Phi-e-rơ liền thưa cùng Ngài rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ hết mà đi theo thầy. Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Quả thật, Ta nói cùng các ngươi chẳng một người nào vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, mà chẳng lãnh được đang bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau.” (Sách Mác, chương 10, câu 28 đến 30)
Phao-lô viết về những gì người theo Chúa phải... bỏ, ấy là... bỏ cách ăn nết ở ngày trước, tức... bỏ lối sống xưa cũ, xấu xa của thế gian như cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc và mọi điều hung ác khác. Thoát lốt người cũ, tức lối sống xác thịt, tham lam, bại hoại từ A-đam lưu lại. Thay vào đó là mặc lấy người mới thuộc linh, do Đấng Christ ban cho.
“Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật... Phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác.” (Sách Ê-phê-sô, chương 4, câu 22 đến 24, và câu 31)
Trong một chỗ khác, Phao-lô thêm một số điều mà người theo Chúa cần phải... bỏ nữa, như sự thạnh nộ, nói hành, nói tục, dối trá:
“Lúc trước, anh em sống trong những nết xấu đó và ăn ở như vậy. Nhưng bây giờ anh em nên trừ bỏ hết mọi sự đó, tức là sự thạnh nộ, buồn giận và hung ác. Đừng nói hành ai, chớ có một lời tục tỉu nào ra từ miệng anh em. Chớ nói dối nhau, vì đã lột bỏ người cũ cùng công việc nó.” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 7 đến 9)
Phao-lô cũng đã khuyên Mục Sư trẻ Ti-mô-thê phải... bỏ đi những lời hư không phàm tục nữa:
“Nhưng phải bỏ những lời hư không phàm tục; vì những kẻ giữ điều đó càng sai lạc luôn trong đường không tin kính,” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 2, câu 16)
Sau khi bỏ những sự xấu xa, ô uế đó cho lòng trong sạch, thì ta phải lấy những điều tốt đẹp đem vào trong lòng mình, như Thánh Gia-cơ khuyên dạy: “Vậy, hãy bỏ đi mọi điều ô uế, và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được linh hồn của anh em.” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 21)
Nhận lấy lời Kinh Thánh để biến đổi đời sống mình là điều rất quan trọng. Chúa Giê-su đã cầu nguyện rằng: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh. Lời Cha tức là lẽ thật.” (Sách Giăng, chương 17, câu 17)
Lấy lòng yêu thương để yêu thương nhau và làm đầy tớ lẫn nhau, là điều Phao-lô đã nhắc nhở con dân Chúa: “hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau.” (Sách Ga-la-ti, chương 5, câu 13)
Yêu thương là một phẩm chất nổi bật nhất của người tin Chúa, vì nếu chúng ta không yêu thương nhau thì người ngoại sẽ không nhận biết chúng ta là môn đồ của Ngài, như Chúa Giê-su đã dạy trong Giăng, chương 13, câu 35 vậy.
Phao-lô cũng cho biết có ba điều quan trọng trong đời sống người tin Chúa, là đức tin, sự trông cậy và tình yêu thương, và điều trọng hơn trong ba điều đó, chính là tình yêu thương (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 13, câu 13)
Lấy một đời sống vui mừng để sống và hầu việc Chúa hầu cho chúng ta được phước. Phao-lô khuyên: “Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa.” (Sách Ê-phê-sô, chương 5, câu 19)
Còn nhiều điều... lấy khác nữa, nhưng thiết nghĩ những điều... lấy ở trên đây là quan trọng hơn cả cho chúng ta, và không thể thiếu trong đời sống của một người tin Chúa vậy.
Bạn và tôi hãy xem lại thử mình đã... bỏ được bao nhiêu điều cần phải bỏ, và... lấy được bao nhiều đáng phải lấy cho đời sống tin kính Chúa của mình theo như lời Kinh Thánh đã dạy nhé.
Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho bạn và tôi để chúng ta có thể “vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.” Amen!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 324
Chuyện... Thờ Phượng
*Kinh Thánh: Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 3; Thi-thiên 95: 6; Ma-thi-ơ 4: 10; Rô-ma 1: 23, 25
Thờ phượng là một hành động chỉ có nơi con người. Các loài vật khác không thể có hành động nầy. Đó là một đặc ân mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người vậy.
Tại sao con người lại biết thờ phượng?
Lý do là vì con người được Đức Chúa Trời tạo nên theo hình ảnh của Ngài, có phần tâm linh hướng về Ngài.
Ngay từ lúc ban đầu, khi con người chưa phạm tội, thì con người chỉ biết thờ phượng một mình Đức Chúa Trời thôi. Nhưng kể từ khi con người phạm tội, bất tuân mạng lịnh của Đức Chúa Trời, thì tội lỗi đã vào trong thế gian, và con người bắt đầu xa rời Chúa, đi vào chỗ thờ phượng các thần khác thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời như đáng phải thờ.
Khi xa rời Chúa, con người đã thờ phượng đủ thứ thần, mà không phải là thần như lời Kinh Thánh đã cho biết: “Xưa kia, anh em chẳng biết Đức Chúa Trời chi hết, thì làm tôi các thần vốn không phải là thần.” (Sách Ga-la-ti, chương 4, câu 8)
Khi không thờ phượng Đấng Tạo Hóa, con người sẽ đi thờ phượng loài thọ tạo, thậm chí thờ cả điểu, thú, côn trùng. Kinh Thánh cho biết: “Họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát, lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng... Vì họ đã đổi lẽ thật Đức Chúa Trời lấy sự dối trá, kính thờ và hầu việc loài chịu dựng nên thế cho Đấng dựng nên, là Đấng đáng khen ngợi đời đời. A men!” (Sách Rô-ma, chương 1, câu 23, và 25)
Những ngày vừa qua, ở tại Huyện Chư Păh, Tỉnh Gia Lai, Việt Nam, có một gốc cây si khá bự, có hình mặt người mà người ta cho là giống mặt... Chúa Giê-su. Thế là nhiều người đem hương, hoa đến bái lạy, đọc kinh, cầu lộc, cầu phước. Sau đó, người ta đến xin đào gốc cây... linh thiêng đó đem về trồng trong khuôn viên một Nhà Thờ để tiện việc chăm sóc và... thờ lạy.
Cúi đầu cung kính bái lạy một... gốc cây rồi cho đó là thờ phượng Đức Chúa Trời, thì thật là mê tín hết biết!
Chính Đức Chúa Trời phán dạy cho con cái Ngài về sự thờ phượng đúng đắn rằng: “Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác.”(Sách Xuất Ê-díp-tô Ký, chương 20, câu 3)
Nói đến thờ phượng, trước hết phải nói đến đối tượng thờ phượng. Đối tượng thờ phượng đúng đắn duy nhất của con người là Đức Chúa Trời, vì chính Ngài là Đấng Tạo Hóa toàn năng. Ngài đã tạo ra vũ trụ và con người chúng ta. Ngài là nguồn cội của mọi sự trong thế giới nầy. Cho nên, con người rất đáng phải thờ phượng Đức Chúa Trời và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi.
Thờ phượng ai khác ngoài Đức Chúa Trời Ba Ngôi đều là sai trật và đáng tội với Ngài vậy.
Bạn đang thờ phượng ai? Đối tượng thờ phượng của bạn có phải là Đức Chúa Trời không?
Nếu bạn đang tôn một ai đó lên làm đối tượng để thờ phượng, mà đối tượng đó không phải là Đức Chúa Trời, thì bạn đang xúc phạm nghiêm trọng đến Ngài. Ví như một người con đi gọi một người nào đó là cha mình, thì người cha sinh ra người con đó chắc chắn là buồn và giận lắm phải không? Đức Chúa Trời cũng vậy!
Kinh Thánh dạy con người phải thờ phượng Đức Chúa Trời: “Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy. Khá quỳ gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo Hóa chúng tôi!” (Sách Thi-thiên, chương 95, câu 6)
Khi Chúa Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ trong đồng vắng, ma quỷ đã nói: “Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy.” Đức Chúa Giê-su đã phán với nó rằng: “Hỡi quỷ Sa tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.” (Sách Ma-thi-ơ, chương 4, câu 9, 10)
Sa-tan cám dỗ Chúa Giê-su thờ phượng nó, nhưng Chúa Giê-su đã dùng lời Kinh Thánh để chiến thắng cám dỗ... chết người đó: “Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.”
Đối tượng thờ phượng đúng đắn duy nhất là Đức Chúa Trời chứ không phải Sa-tan, dù Sa-tan rất muốn con người thờ phượng nó. Cho nên, nếu bạn không chịu thờ phượng Đức Chúa Trời thì bạn phải thờ phượng Sa-tan vậy, cho dù ở dưới bất cứ hình thức nào.
Được biết ở Ấn Độ, người ta thờ phượng đến hàng triệu thần, chứ không phải một hay hai thần, và một trong những thần đó là... thần Bò. Thần Bò rất được... sùng bái ở Ấn Độ, bởi người ta tin rằng, Bò chính là con vật được thần Shiva là thần tối cao của người Ấn cưỡi. Tượng thần Bò được đặt ở nhiều nơi, nhiều đền thờ một cách trang trọng. Người ta đến cúi lạy... thần Bò để cầu xin phúc lành và sự may mắn. Ở các nước khác, thịt bò là món ăn yêu thích và bổ dưỡng cho mọi người, nhưng nếu bạn đến Ấn Độ thì nhớ chớ có... dại mà đòi ăn thịt bò, dù có thèm mấy đi nữa, coi chừng mang họa vào thân chứ không phải chơi. Thịt bò trở thành “hàng quốc cấm” ở Ấn Độ. Người vi phạm buôn bán thịt bò, hay ăn thịt bò, có thể bị tù ít nhất 2 năm và bị phạt số tiền chừng 150 đô-la. Bò được... tự do đi lại trên đường phố hay ở bất cứ đâu, mà không ai dám có những hành động xúc phạm đến... thần cả. Cho nên, nếu ở Mỹ, Chó được đối xử... rất đẹp (chỉ không thờ... Chó mà thôi), thì ở Ấn Độ, Bò được đối xử... đẹp như thế và còn hơn thế nữa, vì Bò còn được tôn lên thành... thần để người ta... thờ luôn.
Ở Việt Nam, người ta thường ví những cô gái có đôi mắt đẹp là đôi mắt bồ câu, nhưng ở Ấn Độ, khi nói đến đôi mắt đẹp của các cô gái thì phải ví đẹp như đôi mắt của... con bò cái, chứ mắt bồ câu thì... bỏ đi.
Thế đấy, ở đời có nhiều chuyện thiệt một trăm phần trăm mà chúng ta nghe thật khó tin phải không bạn? Dù vậy, lại có rất nhiều người tin và thậm chí tôn thờ nữa, như chuyện thờ... thần Bò nầy chẳng hạn. Đúng ra, người ta phải ngước lên thờ Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa tuyệt đối quyền năng, khôn ngoan, mới phải lẽ; đằng nầy, lại cúi xuống thờ loài thọ tạo như... con bò? Thật đáng thương biết bao!
Chúng ta cũng nên nhớ điều nầy để mà thức tỉnh, không chỉ dân ngoại mới thờ... loài vật đâu, mà dân sự Chúa ngày xưa, một khi họ không vâng lời Ngài, đi xa Chúa, họ cũng thờ loài vật như thế. Kinh Thánh ghi lại việc Vua Giê-rô-bô-am đã đúc tượng bò con vàng để thờ như sau: “Vậy, vua bàn định, rồi truyền làm hai con bò con bằng vàng, và nói với dân sự rằng: Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem thật khó thay! Hỡi Y-sơ-ra-ên! Nầy là các thần ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Người đặt con nầy tại Bê-tên, và con kia tại Đan. Việc đó thành nên tội lỗi, vì dân chúng đi đến Đan đặng thờ lạy bò con ấy.” (Sách Các Vua thứ nhứt, chương 12, câu 28 đến 30)
Khi con người chối bỏ, không thờ phượng Đức Chúa Trời, xa rời Ngài, thì sẽ bị ma quỷ dẫn dụ vào những sự thờ phượng tối tăm, làm những việc tối tăm mà thôi, như Kinh Thánh đã khẳng định: “Họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt, đầy những sự tối tăm.” (Sách Rô-ma, chương 1, câu 21)
Tôi tạ ơn Chúa đã cho tôi biết thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật theo như lời Ngài dạy trong Kinh Thánh: “Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.” (Sách Giăng, chương 4, câu 24)
Nhà Bác Học lừng danh thế giới là Blaise Pascal (người Pháp) đã từng nói: “Trong tâm hồn con người có một khoảng trống mà chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy được.”
Trước khi tin thờ Chúa, nhiều người đã tìm cách lấp đầy khoảng trống đó bằng nhiều hình thức tôn giáo khác nhau đến từ thế gian nầy, nhưng rồi họ vẫn cảm thấy trống vắng trong sâu thẳm của tâm hồn. Cho đến một ngày, họ gặp được Chúa và thờ phượng Ngài, thì khoảng trống đó thực sự đã được lấp đầy. Và họ không còn mong muốn, khát khao thờ phượng ai khác nữa cả.
Đó cũng chính là điều mà tôi kinh nghiệm trong cuộc đời. Từ khi tôi tin Chúa và thờ phượng Ngài đến ngày hôm nay đã hơn... “60 năm cuộc đời” rồi, tôi thấy lòng mình bình an và vui thỏa vô cùng. Tôi không còn khao khát tìm kiếm một thần nào khác hơn Đức Chúa Trời để thờ phượng nữa.
Tôi nhớ Phao-lô đã từng tuyên bố: “Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự.” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 11). Lời tuyên bố ấy, có nghĩa Chúa Giê-su là tất cả cho cuộc đời của ông vậy.
Nếu bạn chưa tin nhận và thờ phượng Chúa Giê-su, thì hôm nay là cơ hội tốt nhất cho bạn làm điều đó.
Xin mời bạn “hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy Chúa Giê-su” như chúng tôi đã đến, cúi xuống và thờ lạy Ngài từ nhiều năm trước đây vậy.
Khi bạn quyết định tin Chúa Giê-su và thờ phượng Ngài, chắc chắn bạn sẽ có một đời sống bình an, thỏa nguyện và đầy hy vọng từ Chúa Giê-su ban cho. Chính Chúa Giê-su đã phán rằng: “Kẻ trộm (tức ma quỷ) chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật.” (Sách Giăng, chương 10, câu 10)
Chúa Giê-su đang chờ bạn, và chúng tôi cũng đang mong chờ bạn hãy sớm đến với Ngài! Amen!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 325
Chuyện... Hội Nhập Và... Phân Rẽ
*Kinh Thánh: Rô-ma 8: 38, 39: II Cô-rinh-tô 6: 14-18; Gia cơ 4: 4
Hội nhập và phân rẽ là hai hành động mà con người chúng ta thường hay làm trong cuộc sống.
Hội nhập có nghĩa là gia nhập vào một tổ chức, một cộng đồng nào đó để cùng làm việc chung với nhau và cùng nhau phát triển trong một hay nhiều lĩnh vực.
Còn phân rẽ là tách biệt mình riêng ra, đứng độc lập một mình, không chung chạ với bất cứ một tổ chức, hay cộng đồng nào cả.
Nói về sự phân rẽ, ca dao của ông cha ta có những câu đọc rất... thấm thía:
- Anh ơi hai mái đầu xanh có tội tình chi mà chia li Nam Bắc,
Để em sống một mình, gan thắt ruột đau
- Ngó lên trên trời, trời cao trăng tỏ,
Ngó xuống bụi cỏ, giọt nhỏ sương sa,
Nào ai phân rẽ đôi ta?
Thiếp một đường, chàng một nẻo, kêu ca không thấu trời
- Ai làm loan phụng rẽ bầy,
Cho em đau khổ làm vầy trời ơi!
- Hai ta đang nhớ đang thương,
Ai về phân quế, rẽ hương cho đành.
Hai ta đang nối dây dài,
Ai cầm dao sắc cắt hai dây lìa!
- Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng,
Đưa nhau một bước lên đàng,
Cỏ xanh hai dãy, mấy hàng châu sa
Có thể nói trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, sự hội nhập sẽ làm cho chúng ta có sức mạnh hơn, và đem lại kết quả tốt đẹp hơn cho các bên.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ hội nhập của hội nhập, có nghĩa là chúng ta không thể đứng riêng rẽ một mình được, mà phải... nương với nhau, kết hợp với nhau mới có thể sống còn trong thời đại toàn cầu hóa nầy.
Các quốc gia nhỏ và yếu càng cần phải hội nhập hơn lúc nào hết, vì nếu không, họ sẽ bị các quốc gia lớn và hùng mạnh ức hiếp và thôn tính.
Có rất nhiều các tổ chức quốc tế ra đời với mục đích là để cùng nhau phát triển và lớn mạnh. Chúng ta từng biết những tổ chức lớn như Liên Hiệp Quốc (UN), Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Liên Minh Châu Âu (EU), Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN)...
Có thể nói, hội nhập là xu thế chung của thời đại chúng ta đang sống.
Kinh Thánh trong sách Khải Huyền cho chúng ta biết rằng, trong một tương lai không xa nữa, cả thế giới sẽ dùng chung một loại tiền, và sẽ được cai trị bởi một nhân vật đầy quyền uy. Đó là một sự hội nhập cuối cùng và lớn nhất trước khi Chúa Giê-su trở lại trần gian nầy để phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, rồi Ngài sẽ cai trị một ngàn năm bình an trên đất cùng với các người thánh của Ngài.
Hội nhập, liên kết để làm ăn, phát huy sức mạnh kinh tế, quân sự... là điều nên làm và cần làm trong đời sống cá nhân cũng như tập thể; nhưng về phương diện đức tin nơi Chúa thì chúng ta cần nhớ là... không có chuyện hội nhập hay liên kết, liên minh gì cả ở đây.
Phân rẽ ra khỏi thế gian là điều chúng ta cần nhớ trong niềm tin đặt nơi Chúa.
Kinh Thánh nhiều lần truyền lệnh cho con cái Ngài phải phân rẽ ra khỏi thế gian, chứ không hề dạy hội nhập hay liên kết gì hết.
Hãy cùng lắng nghe lời Chúa dạy cho những người thuộc về Ngài trong việc phân rẽ ra khỏi tinh thần, lối sống của thế gian nầy: “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng? Đấng Christ và Bê-li-an nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại với hình tượng tà thần? Vì chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, và họ làm dân ta. Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi: Ta sẽ làm Cha các ngươi, Các ngươi làm con trai con gái ta, Chúa Toàn năng phán như vậy” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 6, câu 14 đến 18).
Sau khi phân tích rất rõ ràng về lý do của việc phải phân rẽ: Người tin không thể chung với kẻ chẳng tin; công bình với gian ác không thể hiệp với nhau; sự sáng không thể thông đồng với bóng tối; Chúa và quỷ không thể nào hòa hiệp được; phần của người tin khác với phần của kẻ không tin; đền thờ của Chúa không thể hiệp với đền thờ tà thần. Chúa truyền lệnh: “Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.”
Phao-lô cũng đã từng nhắc nhở con dân Ngài không sống theo tinh thần thế gian, làm theo cách thế gian, bắt chước thế gian:
“Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Sách Rô-ma, chương 12, câu 2).
Thánh Gia-cơ lên án rất mạnh mẽ những người đã theo Chúa rồi mà còn muốn theo thế gian, hội nhập với thế gian, có nghĩa là có đời sống ... tà dâm thuộc linh:
“Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Cho nên, ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy” (Sách Gia-cơ, chương 4, câu 4).
Một khi chúng ta là những người tin Chúa mà còn muốn hội nhập với thế gian, làm bạn với thế gian thì chúng ta trở nên kẻ thù nghịch với Đức Chúa Trời. Đây là lời cảnh báo đáng sợ mà chúng ta cần ghi nhớ để tránh xa tinh thần làm bạn hay hội nhập với thế gian trong niềm tin.
Chúa Giê-su đã từng phán:“Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình” (Sách Ma-thi-ơ, chương 10, câu 35, 36).
Ngài đến để... phân rẽ, có nghĩa là Chúa đến để phân chia người thuộc về Chúa với người thế gian ra, chứ không phải để hội nhập đâu.
Từ “Hội Thánh” có nghĩa là “được gọi ra khỏi”, hay “được biệt riêng ra”. Cho nên, Hội Thánh của Chúa không thể nào... hội nhập vào với bất cứ tổ chức nào của thế gian nầy cả.
Đó là về việc phân rẽ với thế gian trong niềm tin, còn sau đây là những điều Kinh Thánh dạy chúng ta... không được phân rẽ:
Trong vấn đề vợ chồng:“Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi! Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp” (Sách Ma-thi-ơ, chương 19, câu 6).
Vợ chồng là một thịt, nên không ai được phép phân rẽ họ riêng ra. Đó là mạng lệnh của Chúa.
Trong Hội Thánh:“Hỡi anh em, tôi nhân danh Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, khuyên anh em thảy đều phải đồng một tiếng nói với nhau, chớ phân rẽ nhau ra, nhưng phải hiệp một ý một lòng cùng nhau” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 1, câu 10).
Trong Hội Thánh của Chúa thì chúng ta phải hiệp một với nhau, chứ không được phân rẽ. Có một thực tế đáng buồn là trong Hội Thánh của Chúa lại có nhiều sự phân rẽ. Hệ phái nào cũng cho mình là đúng, là chính thống, các hệ phái khác mình đều là... sai, là... tà, và dựng lên hàng rào hệ phái để... phân rẽ nhau ra. Có hệ phái còn cho rằng, Mục Sư của hệ phái mình mới... đúng chuẩn, để rồi không công nhận Mục Sư của các hệ phái khác. Đó thật là một sự... ấu trĩ thuộc linh cần được loại bỏ.
Kinh Thánh cũng dạy cho chúng ta phải phân rẽ với những giáo sư giả, những kẻ phá hoại Hội Thánh: “Bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 3, câu 5).
Hiện nay, người ta đang hô hào kêu gọi các tôn giáo hãy hội nhập lại với nhau, và đã có các tổ chức tôn giáo lớn ra đời, như Hội Đồng Liên Tôn, phong trào Đại Kết... nhằm mục đích kết hợp tất cả các tôn giáo lại với nhau thành một... tôn giáo toàn cầu, để rồi sẽ được thống trị bởi một vị giáo chủ đầy quyền uy.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải hết sức nhờ ơn Chúa để tỉnh táo trước những chiêu trò lừa dối tinh quái đến từ Sa-tan nấp dưới những cái tên rất mỹ miều, hòng chiêu dụ con dân Ngài gia nhập vào những tổ chức tôn giáo của thế gian, nhằm mục đích lôi kéo con cái Chúa xa rời Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta luôn luôn ghi nhớ lời Chúa đã phán: “Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi: Ta sẽ làm Cha các ngươi, Các ngươi làm con trai con gái ta, Chúa Toàn năng phán như vậy” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 6, câu 18).
Đừng để bất kỳ điều gì như lời Chúa đã nhắc nhở chúng ta sau đây phân rẽ chúng ta xa khỏi Ngài:
“Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa chúng ta” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 38, 39).
Nguyền xin ân điển của Chúa Giê-su ở với mỗi một chúng ta luôn luôn! Amen!
California, Tháng 9/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 326
Chuyện... Gà Gáy
*Kinh Thánh: Gióp 6: 6; Ma-thi-ơ 23: 37; Ma-thi-ơ 26: 31, 33-35
Tiếng gà gáy là điều rất quen thuộc với tất cả những người dân sống ở miền thôn quê Việt Nam, vì gà là loại gia cầm được hầu hết người dân quê nuôi trong nhà. Thịt gà là thức ăn ngon và bổ dưỡng của người dân Việt, nói riêng và của nhiều dân tộc khác trên thế giới, nói chung.
Con gà vì vậy đã đi vào ca dao của ông cha ta từ thời xa xưa:
- Con gà cục tác lá chanh,
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
- Con gà con chó có lông,
Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai
- Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu
Bước chân xuống cánh đồng sâu,
Mắt nhắm mắt mở, dắt trâu ra cày.
- Gà ba lần vỗ cánh mới gáy,
Người ba lần ngẫm nghĩ mới nói
- Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua,
Gà trắng chân chì mua chi giống ấy
Thành ngữ về gà cũng rất nhiều:
- Gà trống nuôi con
- Con gà tức nhau tiếng gáy
- Gà què ăn quẩn cối xay
Ở thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, có Nhà Thờ Con Gà là một địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút rất đông khách đến tham quan. Ở đó, người ta đặt con gà lên trên đỉnh cao nhất của Nhà Thờ. Mỗi lần có dịp đi qua trước cổng Nhà Thờ Con Gà, tôi ngước nhìn vô Nhà Thờ và không quên nhướng mắt lên nhìn... con gà, và thắc mắc, không biết... con gà có... công trạng gì lớn lao mà lại được... tôn kính đến thế??? (tôn kính đến độ thập tự giá cũng phải... ở dưới con gà)
Có một số sự giải thích về tượng con gà đặt bên trên thập tự giá của nhà thờ là để làm... cột thu lôi chống sấm sét; để thức tỉnh mọi người rằng đêm đã qua, ngày gần đến và Chúa Giê-su sắp trở lại; và cũng để nhắc nhở chúng ta nhớ đến bài học chối Chúa của Phi-e-rơ.1
Trên thế giới, có lẽ Pháp là quốc gia... yêu gà, nhất là gà trống hơn cả. Bởi vì, ngoài tên là Pháp Quốc, nước Pháp còn có biệt danh thân thương khác nữa là xứ sở của Chú Gà Trống Goloa? Sở dĩ có tên nầy là vì tổ tiên của người Pháp ngày nay là người Goloa, và từ Goloa trong tiếng La-tinh cũng có nghĩa là con gà trống. Như vậy, biệt danh Chú Gà Trống Goloa có từ đó. Ở trên đỉnh cao nhất của nhiều nhà thờ tại Pháp, thường có hình con gà trống đứng rất... chễm chệ, oai vệ.
Chuyện câu hỏi lẩn quẩn về con gà có trước hay cái trứng có trước đã được đưa ra từ hàng chục thế kỷ qua để... bắt bẻ niềm tin của người tin Chúa. Câu hỏi tưởng có vẻ... hóc xương gà, nhưng thực ra chẳng phải thế. Kinh Thánh có câu trả lời rất dễ dàng cho chúng ta là con gà phải có trước, vì Đức Chúa Trời dựng nên muôn loài vạn vật, trong đó có con gà (Sách Giăng, chương 1, câu 3). Sau khi dựng nên con gà rồi thì Ngài khiến con gà đẻ ra trứng. Đức Chúa Trời không tạo nên trứng để đẻ ra con gà, mà Ngài tạo nên con gà để rồi nó đẻ ra trứng. Chính Ngài cũng khiến con gà ấp trứng để cho nó nở ra con gà, chứ có ai bắt được con gà phải ấp hai mươi mốt ngày sau khi đẻ trứng được đâu?
Nghe nói gần đây các nhà khoa học Anh mới tìm ra chất protein có ở trong buồng trứng của con gà mái, chính chất nầy đã hình thành nên vỏ quả trứng gà trong bụng con gà. Từ phát hiện nầy, các nhà khoa học đi đến kết luận là con gà có trước cái trứng, chứ cái trứng không thể có trước con gà.2 Thế là từ đây, người ta mới chịu tin là con gà có trước cái trứng. Phải chi, họ tin vào Kinh Thánh thì thắc mắc... dễ ợt ấy đã được giải quyết từ lâu rồi. Đâu có cần phải mất bao nhiêu thời gian dài để nhiều người phải... nhức đầu,... nhức óc cho mệt.
Trong Kinh Thánh, gà được nhắc đến khá nhiều.
Gióp có lẽ là người đầu tiên nhắc đến trứng gà trong Kinh Thánh: “Vật chi lạt lẽo, người ta nào ăn chẳng bỏ muối? Còn trong tròng trắng trứng gà, đâu có mùi lai gì?” (Sách Gióp, chương 6, câu 6). Khi ông gặp nhiều đau khổ như mất con cái, mất gia tài, rồi bị bệnh tật khủng khiếp, vợ ruồng bỏ, bạn bè hiểu lầm. Cuộc sống của ông lúc đó... nhạt nhẽo vô cùng, nhạt nhẽo như... tròng trắng trứng gà vậy.
Chính Chúa đã dùng hình ảnh ‘gà mái ấp con mình dưới cánh’ để bày tỏ tấm lòng yêu thương vô bờ bến của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ vẫn... làm ngơ. Cuối cùng, họ phải lãnh hậu quả đáng sợ là bị quân thù đến xâm chiếm xứ sở và làm tản lạc họ ra khắp bốn phương trời trong mười chín thế kỷ, đến năm 1948, họ mới được trở về lập quốc.
“Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các Đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng” (Sách Ma-thi-ơ, chương 23, câu 37).
Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh ‘gà gáy’ để nhắc con cái Ngài phải tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ đợi ngày Chúa trở lại: “Vậy, các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai” (Sách Mác, chương 13, câu 35).
Khi nói đến... chuyện gà gáy, chắc chắn rằng không ai trong những người tin Chúa mà lại không liên tưởng đến một vị sứ đồ nổi tiếng của Chúa Giê-su, có liên quan đến... con gà, đặc biệt là... tiếng gà gáy; đó chính là Phi-e-rơ.
Phi-e-rơ được mệnh danh là một sứ đồ... nhanh miệng, can đảm và trực tính hơn hết trong mười hai sứ đồ. Phi-e-rơ có những tuyên bố hùng hồn, nghe... rất “sốc”.
Có lần, trước khi chuẩn bị lên thập tự giá để chịu chết chuộc tội cho nhân loại, Chúa Giê-su đã báo trước cho các sứ đồ rằng: “Đêm nay, các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ Ta... Phi-e-rơ cất tiếng thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ Thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Quả thật, Ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối Ta ba lần. Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu tôi phải chết với Thầy đi nữa, tôi chẳng chối Thầy đâu. Hết thảy môn đồ đều nói y như vậy” (Sách Ma-thi-ơ, chương 26, câu 31, và câu 33 đến 35).
“Tôi chắc chắn không chối Thầy. Dầu phải chết với Thầy, tôi cũng không chối Thầy”. Phi-e-rơ đã tuyên bố rất hùng hồn và mạnh mẽ như thế đó. Ấy vậy mà chỉ vài giờ sau, khi Chúa Giê-su bị bắt thì Phi-e-rơ và hết thảy môn đồ đều bỏ trốn. Rồi sau đó, Phi-e-rơ đi theo Ngài xa xa, và chối Ngài lia lịa đến ba lần trước lúc gà gáy, đúng như lời Chúa Giê-su đã bảo trước cho ông.
Có Nhà Nghiên Cứu Kinh Thánh cho rằng: Nguyên ngữ Hy-lạp của từ ngữ “gà gáy” là chỉ về một ‘âm thanh’, và âm thanh có thể phát ra từ bất cứ nguồn nào: người ta, con vật, hoặc dụng cụ âm nhạc v.v... Vì vậy, tiếng ‘gà gáy’ ở đây là tiếng thổi kèn của lính canh La-mã, lúc đổi phiên gác. Khi nghe tiếng thổi kèn, người ta biết đó là khoảng 3 giờ sáng.3
Không biết điều nầy chính xác đến mức độ nào; nhưng thôi, ta cứ cho rằng tiếng gà gáy Kinh Thánh nói ở đây chính là tiếng gáy của một con gà cho dễ hiểu vậy.
Tiếng gà gáy chắc chắn có một sự nhắc nhở đối với Phi-e-rơ kể từ cái đêm hôm ông chối Chúa ba lần, vì ngay sau đó thì con gà cất tiếng gáy. Có lẽ ông khó mà quên được tiếng gà gáy của cái đêm... đặc biệt ấy. Tiếng gà gáy đó cũng là lời thức tỉnh, nhắc nhở cho Phi-e-rơ, nói riêng, và cho chúng ta, nói chung về bản chất yếu đuối của con người. Thay vì để lòng tin cậy vào Chúa thì ông lại tin cậy vào chính mình. Thay vì nương cậy vào sức toàn năng của Chúa thì ông lại quá tự tin vào sức mình. Cho nên, ông đã... vấp ngã, và ông đã khóc lóc một cách đắng cay về sai lầm của mình. Đó là một bài học nhớ đời không những cho Phi-e-rơ mà còn cho mỗi một chúng ta là những người theo Chúa Giê-su.
Lời Chúa nhắc nhở chúng ta: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con. Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Sách Châm Ngôn, chương 3, câu 5, 6).
Xin Chúa dùng bài học về tiếng gà gáy mà Ngài đã cảnh báo Phi-e-rơ khi xưa để nhắc nhở, thức tỉnh mỗi một chúng ta ngày hôm nay trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài. Amen!
Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(1): lavangtravel.com; maihoanggroup.vn
(2): trithucvn.org
(3): gianggiaithanhkinh.net
Bài 327
Chuyện... Chăn Bầy
(Kính tặng tất cả những Mục Sư kính yêu ở khắp mọi nơi nhân Ngày Tri Ân Mục Sư Năm 2023!)
*Kinh Thánh: Ga-la-ti 1: 10; Cô-lô-se 4: 17; I Ti-mô-thê 4: 11; 5: 17, 18
Chăn bầy chiên của Chúa là một công việc đặc biệt, vì đây là công việc không đến từ con người, nhưng đến từ trên cao. Chức vụ chăn bầy là một chức vụ được Đức Chúa Trời kêu gọi, chứ không phải ai muốn mà được. Kinh Thánh dạy: “Vì các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng hề đổi lại được bao giờ” (Sách Rô-ma, chương 11, câu 29).
Người chăn bầy chiên của Chúa được gọi là Mục Tử, hay Mục Sư.
Như nhiều người trong chúng ta đã biết, Tháng 10 hằng năm từ lâu đã được thế giới công nhận là Tháng Tri ân Mục Sư. Trong đó, Chúa Nhật thứ hai của Tháng Mười được chọn là Ngày Tri Ân Mục Sư, nhằm để con dân Chúa có dịp đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn công khó của các Mục Sư đã phục vụ giữa vòng họ.
Lịch sử Tháng và Ngày đặc biệt nầy có thể bắt nguồn từ sự dạy dỗ của Sứ Đồ Phao-lô trong thời Tân Ước. Trong thư Ti-mô-thê, Phao-lô khuyên Hội Thánh rằng: “Các Trưởng Lão khéo cai trị Hội Thánh, thì mình phải kính trọng bội phần, nhứt là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ. Vì Kinh Thánh rằng: “Ngươi chớ khớp miệng con bò đương đạp lúa, và người làm công thì đáng được tiền công mình” (Sách Ti-mô-thê thứ nhứt, chương 5, câu 17, 18).
Năm 1994, những người tin Chúa tại Hoa Kỳ bắt đầu quảng bá Tháng Tri Ân Mục Sư như một tháng lễ toàn quốc, nhằm khuyến khích các tín hữu công khai thể hiện lòng biết ơn đối với các nhà lãnh đạo tinh thần của mình trên bình diện quốc gia. Tiếp theo đó, họ quyết định chọn Ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng để làm Ngày Tri Ân Mục Sư trên toàn quốc.1
Một người làm công việc chăn bầy chiên của Chúa, trước hết, phải là người yêu mến Chúa trên tất cả mọi sự. Chỉ khi nào yêu Chúa trên hết mọi sự, thì người ấy mới có thể chăm sóc bầy chiên của Chúa được.
Chính Chúa Giê-su đã hỏi Phi-e-rơ đến ba lần rằng : “Hỡi Si môn, con Giô na, ngươi yêu Ta chăng?” (Sách Giăng, chương 21, câu 15 đến 17).
Chính Phi-e-rơ cũng đã xác nhận với Chúa Giê-su ba lần rằng là ông yêu Chúa: “Lạy Chúa, phải, Chúa biết rằng, tôi yêu Chúa” (Sách Giăng, chương 21, câu 15 đến 17).
Sau khi nghe Phi-e-rơ xác nhận một cách chắc chắn như thế, Chúa Giê-su mới phán với ông: “Hãy chăn chiên Ta” (Sách Giăng, chương 21, câu 17).
Nếu một người không yêu Chúa trên tất cả mọi sự, thì sẽ không yêu bầy chiên mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình cách hết lòng và sẽ không tận tâm để chăn bầy của Ngài giao phó.
Công việc quan trọng của người chăn chiên là phải lo cho chiên ăn.
Để có thể lo cho chiên ăn đủ dinh dưỡng hầu cho chiên khỏe mạnh, thì người chăn phải chuẩn bị thức ăn cho đầy đủ và kỹ lưỡng.
Nguồn thức ăn của chiên đã có sẵn. Nguồn đó chính là Kinh Thánh là Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời. Đây là nguồn thức ăn vô tận, không bao giờ vơi cạn cho bầy chiên.
Với nguồn thức ăn tuyệt vời ấy, người chăn bầy có trách nhiệm bỏ thì giờ, công sức ra nghiên cứu, chế biến, nấu nướng cho phù hợp với tình trạng của bầy chiên, hầu cho chiên ăn được tốt đẹp. Muốn món ăn được tốt đẹp, đủ chất dinh dưỡng cho chiên, thì ngoài... nghệ thuật nấu nướng của người chăn, thì họ phải cần nhờ cậy vị Thầy hướng dẫn vĩ đại để chỉ dạy cho mình trong việc chuẩn bị và nấu nướng thức ăn, khi cho chiên ăn và cả sau khi cho chiên ăn nữa, hầu cho thức ăn được đạt... tiêu chuẩn chất lượng. Vị Thầy vĩ đại đó chính là Đức Thánh Linh.
Ngoài nhiệm vụ cho chiên ăn, người chăn còn có trách nhiệm quan trọng khác là bảo vệ bầy chiên, cũng như có những hình thức kỷ luật đúng đắn với những con chiên nào vô kỷ luật trong bầy. Cả ba công việc: cho chiên ăn, bảo vệ chiên, và áp dụng kỷ luật đều phải được làm với lòng yêu thương, như Lời Chúa dạy: “Nhưng trên hết mọi sự đó, phải mặc lấy lòng yêu thương, vì là dây liên lạc của sự trọn lành” (Sách Cô-lô-se, chương 3, câu 14).
Còn nhớ Phao-lô đã từng khuyên Mục Sư trẻ Ti-mô-thê ngày xưa về công việc chăn bầy như sau: “Kìa là điều con phải rao truyền và dạy dỗ” (Sách Ti-mô-thê thứ nhứt, chương 4, câu 11). Đây là hai công tác chính yếu của một người chăn bầy. “Rao truyền và dạy dỗ” ở đây là rao truyền và dạy dỗ Kinh Thánh cho Hội Thánh, chứ không phải rao truyền và dạy dỗ bất cứ điều gì khác. Đây là hai công tác mà người Mục Sư phải đặc biệt quan tâm vì đó là cách tốt nhất làm cho con dân Chúa được tăng trưởng tâm linh đúng đắn và mạnh mẽ.
Ngoài việc giảng Lời Chúa đặc biệt vào mỗi Chúa Nhật cho bầy chiên, Mục Sư còn phải chuyên lo việc dạy dỗ Kinh Thánh hằng tuần để bầy chiên được lớn lên và được rỗi linh hồn.
Đây là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức của Mục Sư nhưng là một công việc thật phước hạnh, vì nó giúp cho Mục Sư được gần gũi với Chúa của mình hơn, hiểu biết Lời Ngài cách sâu nhiệm hơn và bầy chiên được lớn mạnh đúng cách, đẹp lòng Chúa.
Còn một công việc không thể thiếu trong chức vụ của Mục Sư, ấy là sự cầu nguyện:
“Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 6, câu 4).
Cầu nguyện là một việc làm có thể nói đem đến quyết định sự thành công hay thất bại của chức vụ Mục Sư.
Mục Sư có thể kém thiếu so với người khác điều nầy điều kia, phương diện nầy, phương diện nọ nhưng xin Chúa giúp cho các Mục Sư chúng ta đừng kém thiếu sự cầu nguyện trong đời sống chức vụ của mình. Sự cầu nguyện sẽ giúp chúng ta đến gần với Chúa nhận lãnh được linh năng từ trên cao để hầu việc Ngài mà không sợ hãi gì hết.
Một trong những điều mà một Mục Sư chúng ta cần nhớ trong chức vụ chăn bầy, ấy là phải cẩn thận về những tiếng khen đến từ con người.
Rất dễ để một Mục Sư đi đến chỗ lên mình kiêu ngạo khi được người ta khen ngợi về bài giảng, hay về sự dạy dỗ Kinh Thánh của mình, hoặc một ân tứ nào mà Chúa ban cho. Mỗi một khi nghe được tiếng khen, xin Chúa giúp đỡ cho chúng ta biết dâng mọi vinh hiển lên cho Đức Chúa Trời. Vì chỉ một mình Đức Chúa Trời mới xứng đáng được vinh hiển mà thôi, còn mỗi chúng ta, dù là Mục Sư đi nữa, cũng chỉ là con người yếu đuối, bất toàn, là đầy tớ của Chúa không hơn không kém, chứ chúng ta không phải là Chúa.
Phao-lô đã biết rõ những cám dỗ... chết người của lời khen, nên ông tuyên bố: “Còn bây giờ, có phải tôi mong người ta ưng chịu tôi hay là Đức Chúa Trời? Hay là tôi muốn đẹp lòng loài người chăng? Ví bằng tôi còn làm cho đẹp lòng người, thì tôi chẳng phải là tôi tớ của Đấng Christ” (Sách Ga-la-ti, chương 1, câu 10).
Một người chăn thật của Chúa sẽ chỉ muốn làm đẹp lòng Chủ của mình là Đức Chúa Trời mà thôi. Còn người chăn nào mà tìm kiếm sự đẹp lòng nơi con người, không sớm thì muộn, cũng sẽ bị ma quỷ dẫn dụ đi vào con đường sai trật, thất bại chẳng sai.
Xin Chúa thương xót giữ gìn mỗi một Mục Sư trong ơn lành của Ngài để chúng ta cẩn thận trong chức vụ cao quý mà mình đã nhận lãnh từ nơi Ngài mà làm cho thật trọn vẹn, hầu đẹp lòng Chúa của chúng ta.
Mục Sư Joe McKeever cho biết năm điều quan trọng mà một Mục Sư phải biết:
1.Mục Sư được kêu gọi bởi Đức Chúa Trời.
2. Mục Sư được kêu gọi bởi Chúa để làm người chăm sóc, trông nom Hội Thánh.
3. Mục Sư được kêu gọi làm kẻ chăm sóc, là người vào một ngày nào đó sẽ đứng trước Chúa để trình ra sự trung tín của mình.
4. Mục Sư được kêu gọi để phục vụ dân sự Chúa, chứ không phải để nhận sự sai bảo của họ.
5. Mục Sư được sai phái đến, không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để làm cho họ trở nên thánh, tốt lành, và để làm Chúa vui lòng.
Hỡi người chăn của Đức Chúa Trời! Đừng bao giờ ngưng dạy dỗ những chân lý này cho Hội Thánh của quý vị. Hãy làm điều này, tiếp tục yêu thương họ, phục vụ họ, rồi theo thời gian, chân lý sẽ đâm rễ, và quý vị sẽ sớm sánh bước trên con đường có được một Hội Thánh tốt lành, mạnh mẽ. (Mục Sư Joe McKeever)2
Kết thúc bài viết nầy, xin dẫn ra đây một câu Kinh Thánh quý báu để nhắc nhở cho chính mình tôi, một người chăn hèn mọn của Chúa, cũng như các Mục Sư là những người đang chăn bầy chiên của Ngài: “Rốt lại, hãy nói với A-chíp rằng: Hãy cẩn thận về chức vụ mà ngươi đã nhân danh Chúa nhận lãnh, để làm cho thật trọn vẹn” (Sách Cô-lô-se, chương 4, câu 17).
Kính chúc tất cả những Mục Sư, những Trưởng Lão kính yêu Ngày Tri Ân Mục Sư thật nhiều niềm vui và ơn phước đến từ Ngôi Ơn Phước trên Thiên Đàng vinh hiển! A men!
California, Ngày Tri Ân Mục Sư Năm 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
1. loisusong.net
2. huongdionline.com
Bài 328
Chuyện... Mang Vác
*Kinh Thánh: Thi-thiên 68: 19; Ê-sai 46: 3, 4; Ma-thi-ơ 11: 28; 16: 24
Khi nói đến chuyện... mang vác là ta như nghe thấy cái gì đó... nằng nặng, mệt mệt rồi phải không bạn?
Dù cho có... nằng nặng, mệt mệt thế nào đi nữa nhưng không có ai trong đời mà không một vài lần phải... mang vác cả.
Đức Chúa Trời đã tạo nên con người có đôi vai là dùng để... mang vác, nếu không... mang vác thì đôi vai đâu còn phải là đôi vai nữa.
Khi còn trai tráng thì chúng ta có thể mang vác được nhiều thứ đồ đạc nặng lên đến vài ba chục ký lô; nhưng khi lớn tuổi thì mang vác trên vai chừng chục ký lô là đã thấy... mệt rồi.
Còn nhớ khi đi lính, chúng tôi phải mang trên vai, trên lưng đủ thứ, nào súng, nào bao đai đạn, nào ruột tượng gạo, nào soong nồi, rồi ba lô áo quần... nặng ơi là nặng để đi hành quân. Dù nặng nhưng không thể không mang vác những thứ đó theo, vì tất cả những thứ ấy là... sự sống còn của người lính mà. Lúc đầu hơi mệt nhưng mang hoài trên lưng, vác miết trên vai đi đường trường trong rừng trong núi riết rồi thành... quen, và... quên luôn mệt. Mỗi khi mệt thì nghỉ một chút, hết mệt lại mang vác chúng lên vai tiếp tục đi cho đến nơi đóng quân mới bỏ xuống để lấy lại sức lực mà sẵn sàng chiến đấu với quân thù.
Nói đến mang vác thì thiết nghĩ ít có dân tộc nào trên thế giới mà phải mang vác nhiều gánh nặng như dân tộc Việt Nam ta. Chúng ta đã mang biết bao gánh nặng khi làm nô lệ cả ngàn năm cho giặc Tàu, rồi cả trăm năm làm nô lệ cho giặc Tây và đến hai mươi năm nội chiến từng ngày...
Tôi không thể nào quên được gánh nặng của người nông dân nước mình được miêu tả thật độc đáo qua câu ca dao:
Gánh cực mà đổ lên non,
Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo.
Cực đã mệt rồi mà còn gánh cực nữa, thì lại càng mệt thêm. Vậy mà còn gánh cực đem đổ lên non, lên núi cao, mới khiếp chứ, phải chi đem đổ xuống biển thì khỏe biết mấy. “Còng lưng mà chạy” nói đến việc mong cho mau đến nơi để quăng gánh cực đi, sớm thoát được cái cực, cái khổ nhưng nào có được, cái cực vẫn không chịu buông tha người nông dân, nó cứ chạy theo, đeo bám trên lưng họ. Ôi, khổ ơi là khổ! Cực chi mà cực kinh khủng!
Thật không ai có thể diễn tả được cái cực của người nông dân đắc địa hơn câu ca dao ấy!
Nói đến mang vác thì không thể không nói đến hình ảnh người nông dân Việt Nam, vì họ là những người ngày ngày đều phải mang vác trên vai hay trên lưng không thứ nầy thì thứ khác từ nhà ra đồng, rồi lại từ đồng về nhà.
Ca dao thể hiện rất rõ sự mang vác của người nông dân:
- Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu,
Bước chân xuống cánh đồng sâu,
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày.
- Ai đi gánh vác non sông,
Để ai chất chứa sầu đông vơi đầy.
- Anh đi em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
Kinh Thánh đề cập đến chuyện... mang vác khá nhiều.
Ca-in ngày xưa, sau khi đã phạm tội giết em mình là A-bên, thì Đức Chúa Trời đã hình phạt ông bằng cách làm cho đất không sanh ra hoa lợi cho ông khi trồng tỉa, ông sẽ sống cuộc đời lưu lạc rày đây mai đó và trốn tránh trên mặt đất. Khi nghe mình bị hình phạt như thế, Ca-in đã thốt lên: “Sự hình phạt tôi nặng quá, mang không nổi” (Sách Sáng thế ký, chương 4, câu 13).
Vua Đa-vít ca ngợi Chúa, vì Ngài đã gánh gánh nặng cho ông: “Đáng ngợi khen Chúa thay, là Đấng hằng ngày gánh gánh nặng của chúng tôi” (Sách Thi-thiên, chương 68, câu 19).
Mỗi chúng ta cũng nên học theo gương Đa-vít mà ca ngợi Đức Chúa Trời, vì Ngài cũng đã hằng ngày gánh gánh nặng của mỗi chúng ta vậy!
Tiên Tri Ê-sai đã nói về tình yêu và sự quan tâm, chăm sóc của Đức Chúa Trời dành cho con cái Ngài thật kỳ diệu: “Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẵm các ngươi từ trong lòng mẹ; cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, Ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi” (Sách Ê-sai, chương 46, câu 3, 4).
Nói về việc mang lấy gánh nặng đau khổ, tội lỗi của con người của Đấng Mết-si-a, Tiên Tri Ê-sai mô tả: “Thật Người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng Người đã bị Đức Chúa Trời đánh và đập và làm cho khốn khổ”(Sách Ê-sai, chương 53, câu 4).
Nếu Chúa Giê-su không mang lấy gánh nặng tội lỗi thay cho loài người chúng ta để chấp nhận hy sinh thân mình trên thập tự giá, thì cả nhân loại phải đắm chìm trong tội lỗi và vô phương tự cứu; nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giê-su đã làm điều đó thay cho chúng ta!
Trong Tân Ước, khi đề cập đến vấn đề niềm tin, Kinh Thánh dạy: “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng? Đấng Christ và Bê-li-an nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin?” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 6, câu 14, 15).
Người tin Chúa không thể đi chung đường với kẻ chẳng tin, không hội nhập hay hòa hiệp chi với người thế gian cả, vì chúng ta đã được Chúa biệt riêng ra khỏi thế gian rồi.
Về việc chia sẻ gánh nặng với anh em mình trong đức tin, lời Chúa cho biết: “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đấng Christ” (Sách Ga-la-ti, chương 6, câu 2).
Về việc chiến đấu chống lại Sa-tan, người tin Chúa cần phải được trang bị vũ khí thuộc linh đầy đủ: “Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ” (Sách Ê-phê-sô, chương 6, câu 11).
Việc mang vác thể hiện quyền năng của Chúa Giê-su trên bệnh tật, như khi Ngài chữa lành cho người bại đã ba mươi tám năm và bảo ông ta hãy đứng dậy, vác giường mình mà đi: “Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi. Tức thì, người ấy được lành, vác giường mình và đi. Vả, bấy giờ là ngày Sa-bát” (Sách Giăng, chương 5, câu 8, 9).
Hành động đứng dậy vác giường đi của người bại liệt đã ba mươi tám năm bày tỏ quyền năng siêu việt của Chúa Giê-su trên bệnh tật vượt cả không gian, thời gian.
Thật, không một ai trên trần gian nầy có quyền năng tuyệt đối như Chúa Giê-su!
Người tin Chúa phải vâng lời Chúa, phải chịu khổ vì danh Chúa, đó là điều mà chúng ta cần ghi nhớ. Chính Đức Chúa Giê-su đã phán: “ Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 24).
Chính Chúa Giê-su đã “vác thập tự giá mình, đi đến ngoài thành, tại nơi gọi là cái Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha” (Sách Giăng, chương 19, câu 17)
Hành động “vác thập tự giá” nói đến sự hy sinh, sự chịu khổ với Chúa của người theo Ngài.
Nhiều người theo Chúa lâu năm rồi, nhưng vẫn còn có suy nghĩ sai trật là, theo Chúa thì không bao giờ bị đau ốm, bịnh tật hay nghèo thiếu; theo Chúa là luôn luôn bước đi trên... thảm nhung của sự sung sướng, giàu có và hạnh phúc (theo ý nghĩa vật chất tạm bợ). Kinh Thánh không dạy như thế. Chúa dạy ai theo Ngài phải vác thập tự giá (chịu khổ, chịu hy sinh, thậm chí chấp nhận thiệt thòi so với người thế gian nữa) để theo Ngài.
Kinh Thánh dạy: “Anh em đã được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chơn Ngài” (Sách Phi-e-rơ thứ nhứt, chương 2, câu 21). “Noi dấu chơn Ngài” ở đây là noi theo gương... chịu khổ của Chúa vậy.
Phao-lô cũng khuyên Ti-mô-thê: “Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 2, câu 3).
Theo Chúa là phải... chịu khổ, phải chịu... thử thách, không chỉ một bề, mà đến... trăm bề (như Thánh Gia-cơ đã nói), vì chính sự chịu khổ, thử thách đó sẽ sanh ra sự nhịn nhục, và cuối cùng sẽ đem đến kết quả tuyệt vời là sự trọn lành toàn vẹn.
Cầu xin Đức Chúa Trời cho mỗi một chúng ta biết khôn ngoan như Đa-vít, ‘trao gánh nặng mình cho Đức Giê-hô-va, thì Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, và chúng ta sẽ chẳng hề bị rúng động bao giờ’ (Ý từ Sách Thi-thiên, chương 55, câu 22).
Chúa Giê-su cũng kêu gọi chúng ta: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Sách Ma-thi-ơ, chương 11, câu 28).
Đừng tự làm khổ đời sống mình khi cứ cố mang lấy gánh nặng của đời sống nhiều mệt mỏi và chán chường nầy trên vai để rồi kêu ca phàn nàn, than thân trách phận.
Sức người có hạn nhưng sức Chúa là toàn năng. Người khôn ngoan sẽ biết lựa chọn và quyết định.
Bạn muốn tiếp tục mang vác gánh nặng cuộc đời trên vai mình hay trao gánh nặng ấy cho Chúa ngay hôm nay?
Chúa Giê-su, Đấng toàn năng và mạnh sức đang chờ mỗi một người trong chúng ta!
Little Sài Gòn, Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 329
Chuyện... Làm Chứng (1)
*Kinh Thánh: Ê-sai 55: 10-11, 13; Ma-thi-ơ 9: 37, 38; 28: 18-20; I Phi-e-rơ 3: 15
Nói về Chúa cho người khác là trách nhiệm mà mỗi một người tin Chúa phải tham gia, vì đó là mạng lịnh của chính Chúa Giê-su đã để lại cho tất cả con dân Ngài.
Trước khi về Trời, Chúa Giê-su đã phán với các môn đồ: “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh mà làm phép báp têm cho họ và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 18 đến 20)
Trong sách Mác, Chúa Giê-su cũng đã phán: “Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp têm, sẽ được rỗi, nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt” (Sách Mác, chương 16, câu 15, 16).
Cũng một mạng lệnh ấy, trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, Chúa dạy: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 8).
Vâng theo mạng lịnh quan trọng đó, con dân Ngài trải qua các thời đại đã ra đi nói về Chúa cho người khác, để cho họ biết về Ngài và đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, hầu được hưởng sự sống đời đời.
Bạn có bao giờ ra đi nói về Chúa cho người khác chưa?
Nếu bạn đã tin Chúa rồi mà chưa dành thì giờ ra đi làm chứng về Chúa cho tha nhân, thì hôm nay, nên khởi sự làm điều đó, dù muộn còn hơn không và chắc chắn Chúa sẽ rất vui lòng.
Có lẽ bạn sẽ nói, tôi sợ đi ra nói về Chúa, họ hỏi mình không biết cách trả lời thì... xấu hổ lắm?
Vâng, đó là... nỗi sợ mà tôi cũng đã từng... sợ và có lẽ cũng có rất nhiều con cái Chúa cũng sợ như thế!
Có lẽ bạn sẽ hỏi, đi ra làm chứng về Chúa là nói những gì, mình đâu có biết?
Vâng, đó cũng là câu hỏi mà trước đây, tôi cũng đã từng thắc mắc trong đầu, trước khi ra đi nói về Chúa và rồi cuối cùng, không... dám đi luôn.
Có lẽ bạn sẽ hỏi tiếp, khi ra đi làm chứng về Chúa cho người ta, nếu... lỡ có ai đó bằng lòng tin Chúa, thì tôi đâu biết làm sao để hướng dẫn họ đến với Chúa?
Vâng, đó cũng là... thắc mắc mà tôi đã từng thắc mắc trước đây y như bạn vậy!
Có lẽ bạn sẽ còn nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc khác nữa phải không?...
Trước đây, tôi cũng thế, cho nên trong một thời gian dài sau khi tin Chúa, tôi cũng không dám... mở miệng ra nói về Chúa cho bạn bè thân hữu mà mình thường gặp.
Đó là... chuyện hồi lâu hoắc lâu huơ rồi, đã thành chuyện... xưa rồi Diễm, đã thành... cổ tích!
Nay, thì vấn đề ra đi chứng đạo đối với tôi là một việc làm mà tôi nhờ ơn Chúa thực hiện thường xuyên trong đời sống. Nói về Chúa cho người khác giờ trở thành như... lẽ sống của cuộc đời tôi vậy.
Chắc bạn sẽ nghĩ, nếu thế thì chắc là tôi làm chứng hay lắm và đem được nhiều người đến với Chúa lắm?
Nghĩ như thế là... không đúng. Nói về Chúa cho người khác thì không cần phải nói hay, nói giỏi mới làm chứng được, chỉ cần nói ra Lời Chúa cách chân thật và hết lòng, vì Chúa muốn thấy tấm lòng của chúng ta và sự chân thật của chúng ta.
Phao-lô là một con người có học thức uyên thâm nhưng ông không dùng sự khôn ngoan của mình để diễn thuyết cho hay. Chính ông đã tuyên bố: “Vì tôi đã đoán định rằng ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Đức Chúa Giê-su Christ và Đức Chúa Giê-su Christ bị đóng đinh trên cây thập tự... Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 2, câu 2 và 4).
Cảm tạ Chúa, qua sự chia sẻ Tin Lành của tôi, Chúa cho cũng có một số người tin Chúa, trở nên con cái của Ngài. Nhưng việc có người bằng lòng tin Chúa hay chưa có, không phải là công việc của chúng ta, mà là công việc của Đức Thánh Linh.
Nói về Chúa là trách nhiệm của mỗi một Cơ-đốc nhân, còn tội nhân quyết định tin Chúa là việc làm của Chúa Thánh Linh, chứ không phải là do sự tài giỏi của bất cứ ai. Gieo giống Tin Lành là công việc của chúng ta, còn cáo trách tội lỗi của tội nhân và khiến họ bằng lòng tin nhận Chúa Giê-su là công việc của Thần Lẽ Thật vậy.
Chính Chúa Giê-su đã cho biết: “Khi Ngài (tức Đức Chúa Thánh Linh) đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét” (Sách Giăng, chương 16, câu 8).
Còn nhớ câu nói của một Mục Sư đầy ơn Chúa như sau: “Làm chứng thành công là đơn sơ chia sẻ Đấng Christ trong quyền năng của Đức Thánh Linh và để kết quả cho Đức Chúa Trời lo liệu.”
Tâm lý thông thường của nhiều con dân Chúa khi ra đi chia sẻ Tin Lành cho người khác, ấy là mong muốn có được người cầu nguyện tin nhận Chúa liền ngay sau buổi mình đi ra làm chứng. Đó là một mong muốn quý báu nhưng chưa hẳn là... tốt lành, vì hạt giống Tin Lành mới gieo ra cần có thời gian để nó... đâm chồi và nẩy lộc.
Đây là điều Đức Chúa Trời phán và chúng ta cần phải tin khi ra đi chia sẻ Tin Lành của Chúa Giê-su cho mọi người: “Vả như mưa và tuyết xuống từ trên trời và không trở lại nữa, mà đượm nhuần đất đai, làm cho sanh ra và kết nụ, đặng có giống cho kẻ gieo, có bánh cho kẻ ăn, thì lời nói của Ta cũng vậy, đã ra từ miệng Ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều Ta muốn, thuận lợi công việc Ta đã sai khiến nó... Cây tùng sẽ mọc lên thay cho bụi gai và cây sim sẽ lớn lên thay cho gai gốc, điều đó sẽ làm cho biết danh Đức Giê-hô-va và là một dấu đời đời không hề tuyệt diệt” (Sách Ê-sai, chương 55, câu 10 đến 11, và câu 13).
Chúng ta phải tin rằng Lời Chúa một khi đã được gieo ra sẽ như mưa và tuyết xuống từ trên trời, sẽ không trở về luống công nhưng sẽ làm trọn điều Ngài muốn và công việc Ngài đã sai khiến. Chúng ta phải tin rằng Lời Chúa có quyền năng biến đổi điều xấu xa trở nên tốt đẹp, điều vô ích trở thành hữu ích, giống như cây tùng sẽ mọc lên thay cho bụi gai, cây sim sẽ lớn lên thay cho gai gốc vậy.
Một khi bạn và tôi có tấm lòng dành thì giờ ra đi chia sẻ Tin Lành cho người chưa tin, và tin rằng Lời Chúa có quyền năng và Thánh Linh là Đấng cáo trách tội lỗi và biến đổi tội nhân, thì chúng ta sẽ thấy những hạt giống Tin Lành chúng ta gieo ra hôm nay sẽ có kết quả trong tương lai, theo đúng thời điểm Chúa muốn đến nỗi một hột ra một trăm, hột khác sáu chục, hột khác ba chục (ý từ Sách Ma-thi-ơ, chương 13, câu 23).
Chúa đang cần những con người sẵn lòng để ra đi gieo giống Tin Lành. Chính Ngài đã từng phán với các môn đồ của Ngài ngày xưa rằng: “Mùa gặt thì thật trúng, song con gặt thì ít. Vậy hãy cầu xin chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa mình” (Sách Ma-thi-ơ, chương 9, câu 37, 38).
Đang có nhiều người sẵn sàng nghe Tin Lành của Chúa Giê-su bên ngoài bốn bức tường Nhà Thờ, nhưng số người sẵn sàng ra đi gieo giống (con gặt) thì lại ít. Bạn có sẵn sàng làm con gặt cho Chúa không?
Thánh Phi-e-rơ nhắc nhở chúng ta: “Hãy tôn Đấng Christ là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (Sách Phi-e-rơ thứ nhứt, chương 3, câu 15).
Có nhiều người đang sẵn sàng nghe Tin Lành, bạn có sẵn sàng trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong Chúa Giê-su của chúng ta không?
Nếu bạn sẵn sàng thì xin mời hãy bước vào trong đồng lúa thuộc linh cùng chúng tôi để gặt lúa về trong kho nhà Ngài.
Nếu bạn còn lo lắng, chưa biết nói gì khi ra đi gieo giống Tin Lành, hay còn lo sợ không biết sẽ trả lời làm sao khi người ta hỏi lẽ về sự trông cậy của chúng ta? Xin cứ mạnh dạn liên lạc với chúng tôi, dù bạn đang ở nơi đâu, chúng tôi nhờ ơn Chúa sẽ sẵn sàng chia sẻ cho bạn những điều cơ bản nhất của một người gieo giống Tin Lành và những câu Kinh Thánh cần thiết nhất cho bạn để ra đi mà không còn lo sợ gì nữa, vì đã được trang bị đầy đủ và có Chúa luôn luôn ở với chúng ta như lời Ngài hứa là “Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế”(Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 20).
Nếu bạn ở khu vực Little Sài Gòn (California), thì xin mời cùng tham gia ra đi gieo giống Tin Lành với chúng tôi vào mỗi Thứ Năm, lúc 10: 00 am và mỗi Thứ Bảy, lúc 8: 00 am hằng tuần.
Rất mong được đón tiếp quý tôi, con Chúa để cùng góp phần mở mang vương quốc của Chúa trên đất nầy.
Xin quý tôi, con Chúa có thể liên lạc với chúng tôi theo số điện thoại ở cuối bài viết nầy.
Cầu xin Chúa ban ơn phước dồi dào trên hết thảy mỗi một chúng ta! A men!
California, Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 330
Chuyện... Làm Chứng (2)
* Kinh Thánh: Mác 6: 7; Lu ca 10: 1; Ê-phê-sô 6: 19, 20; I Giăng 5: 19
Như đã nói trong bài trước, làm chứng về Chúa Giê-su cho người khác là trách nhiệm của mỗi một con dân Chúa theo như mạng lịnh Ngài đã truyền lại cho chúng ta cách đây gần hai ngàn năm trước khi Ngài trở về trời.
Một khi bạn đã được trang bị Lời Chúa một cách căn bản rồi và cầu nguyện xin Đức Thánh Linh ban ơn, giúp sức thì hãy mạnh dạn ra đi gieo giống Tin Lành. Đừng chần chừ, do dự gì nữa.
Lời Chúa phán: “Hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 19). “Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người” (Sách Mác, chương 16, câu 15).
Trước khi về trời, Chúa Giê-su dặn các môn đồ: “Còn về phần các ngươi, hãy đợi trong thành cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên cao” Sách Lu-ca, chương 24, câu 49).
Đó là thời gian các môn đồ cần phải chờ đợi, chưa được ra đi, vì Đức Thánh Linh chưa được ban xuống, mà không có Đức Thánh Linh ở cùng và ban cho quyền phép, thì không ai có thể làm gì được, nhất là đối với công tác gieo giống Tin Lành.
Sau khi Chúa Giê-su về trời, mười ngày sau, Đức Thánh Linh được ban xuống cho các môn đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần đầu nhứt, cách đây gần hai ngàn năm, được ghi lại trong Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 2. Kể từ đó trở đi, Đức Thánh Linh đến ở trong và ở với con dân của Ngài luôn cho đến tận thế.
Khi Đức Thánh Linh được ban xuống rồi, thì con dân Chúa nhận lấy quyền phép của Đức Thánh Linh và ra đi làm chứng về Chúa Giê-su cho mọi người như Kinh Thánh đã chép: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 8).
Xin mời bạn hãy dành thì giờ ra đi giới thiệu về Chúa Giê-su cho người khác ngay hôm nay, khi còn có cơ hội, dịp tiện, chứ không phải chờ đợi đến ngày mai, vì ngày mai không thuộc về chúng ta và cũng không ai biết ngày mai sẽ xảy ra điều gì, như Thánh Gia-cơ đã nói: “Song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết!” (Sách Gia-cơ, chương 4, câu 14a).
Khi ra đi gieo giống Tin Lành, hãy đi từng đôi như Chúa Giê-su đã dạy bảo: “Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu sai đi từng đôi, ban quyền phép trừ tà ma” (Sách Mác, chương 6, câu 7). Khi Ngài chọn bảy mươi môn đồ, Ngài cũng sai đi từng đôi như thế để rao giảng Tin Lành (Sách Lu-ca, chương 10, câu 1).
Đi từng đôi là để yểm trợ nhau trong khi làm chứng và cầu nguyện cho nhau cũng như cầu nguyện cho tấm lòng của thân hữu được mềm mại. Ta cũng nhớ một điều là đi từng đôi nam-nam, và nữ-nữ, tuyệt đối không nên đi từng đôi nam-nữ (trừ ra đó là vợ chồng), để tránh mọi cám dỗ và mọi điều dị nghị không tốt có thể xảy ra. Hãy nhớ rằng, ma quỷ không từ bất cứ một thủ đoạn, âm mưu, hay vũ khí nào để tấn công và phá hoại những “chiến sĩ thập tự của Chúa” ở nơi... chiến trường.
Ra đi gieo giống Tin Lành là chúng ta đang... chiến đấu để giành giựt từng linh hồn ở trong tay ma quỷ về cho Đức Chúa Trời. Bởi Kinh Thánh cho biết: “chúng ta biết mình thuộc về Đức Chúa Trời, còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỷ” (Sách Giăng thứ nhứt, chương 5, câu 19). Theo đó, tất cả những người chưa tin Chúa đều ở dưới quyền lực của Sa-tan. Họ sống trong tối tăm, làm những việc tối tăm do ma quỷ đứng đằng sau điều khiển.
Ra đi gieo giống Tin Lành là làm công việc mở mắt cho những người mù lòa tâm linh, “hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỷ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời và cho họ bởi đức tin nơi Ta (Chúa Giê-su) được tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 26, câu 18).
Chính vì lẽ đó mà người ra đi gieo giống Tin Lành rất cần nhiều người cầu nguyện cho mình và chính mình cũng phải dành thì giờ để cầu nguyện trước, trong và sau khi ra đi để Chúa thương xót, ban quyền năng bảo vệ, giữ gìn mình và những chiến sĩ thập tự của Ngài. Xin Chúa ban sự dan dĩ, can đảm để giải bày chân lý cách khôn ngoan, mạnh mẽ và nhu mì.
Phao-lô đã tha thiết kêu gọi con cái Chúa Hội Thánh Ê-phê-sô cầu nguyện cho ông trong việc rao giảng Tin Lành: “Cũng hãy vì tôi mà cầu nguyện, để khi tôi mở miệng ra, Chúa ban cho tôi tự do mọi bề, bày tỏ lẽ mầu nhiệm của đạo Tin Lành, mà tôi vì đạo ấy làm sứ giả ở trong vòng xiềng xích, hầu cho tôi nói cách dạn dĩ như tôi phải nói” (Sách Ê-phê-sô, chương 6, câu 19, 20).
Khi ra đi chia sẻ Tin Lành, chúng ta phải biết rằng có người chịu nghe lời chúng ta rao giảng, có người “bịt tai không nghe lẽ thật” (ý từ Sách Ti-mô-thê thứ nhất, chương 4, câu 4), thậm chí có người còn chống đối chúng ta nữa. Chớ lấy làm lạ về điều đó, vì đó là điều chắc chắn phải có. Phao-lô đã cho biết: “Nhưng chẳng phải mọi người đều nghe theo Tin Lành đâu” (Sách Rô-ma, chương 10, câu 16). Một chỗ khác, Lời Chúa cũng cho biết: “về phần Đạo nầy, chúng tôi biết người ta hay chống nghịch khắp mọi nơi” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 28, câu 22).
Điều quan trọng mà người ra đi gieo giống Tin Lành cần nhớ là chúng ta phải kiên trì và quyết tâm thi hành mạng lệnh của Chúa chúng ta, dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, như Kinh Thánh đã nhắc nhở, khích lệ: “Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì, chương 4, câu 2).
Hãy nhịn nhục và bền lòng trong công tác rao giảng Tin Lành, chớ có mệt nhọc, “Vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ chúng ta sẽ gặt” (ý từ Sách Ga-la-ti, chương 6, câu 9).
Khi ra đi chia sẻ Tin Lành, thì chúng ta sẽ nói gì?
Xin thưa, có một và chỉ một đề tài để chúng ta giới thiệu cho người chưa tin mà thôi.
Đề tài ấy là: NÓI VỀ SỰ CHẾT VÀ SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊ-SU.
Phao-lô đã quả quyết rằng: “Vì tôi đã đoán định rằng ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Đức Chúa Giê-su Christ và Đức Chúa Giê-su Christ bị đóng đinh trên cây thập tự” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 2, câu 2).
Một chỗ khác, Phao-lô cũng nhắc lại chân lý đó: “Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh. Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh Thánh” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 15, câu 3, và 4).
Sứ Đồ Phi-e-rơ cũng chỉ giảng về Đức Chúa Giê-su mà thôi: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 4, câu 12).
Chấp Sự Phi-líp cũng giảng cùng một đề tài như thế cho Hoạn Quan Ê-thi-ô-bi: “Phi-líp bèn mở miệng, bắt đầu từ chỗ Kinh Thánh đó mà rao giảng Đức Chúa Giê-su cho người” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 8, câu 35).
Khi ra đi chia sẻ Tin Lành, một điều mà chúng ta tưởng cũng nên nhớ là chúng ta không nên nói về bản thân mình, về Hội Thánh mình hay khoe về Giáo Phái của mình, vì mọi tổ chức đều có những thiếu sót, khuyết điểm vốn có của nó, chỉ có một mình Chúa Giê-su là Đấng tuyệt hảo mà thôi, nên hãy nói hãy khoe về Chúa Giê-su.
Phao-lô đã khẳng định rằng: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy!” (Sách Ga-la-ti, chương 6, câu 14).
Trên đây là một vài điều nho nhỏ xin được nhắc nhau để khích lệ những người ra đi rao giảng Tin Lành, tặng Chứng Đạo Đơn cho thân hữu của chúng ta.
Hy vọng sẽ giúp ích được một chút nào đó cho quý con cái Chúa khi ra đi chia sẻ Lời Chúa cho mọi người.
Xin mời bạn cùng tham gia vào công việc rao giảng Tin Lành với chúng tôi ngay hôm nay. Bạn đã sẵn lòng chưa?
Ông Robert Woodruff, Chủ Tịch của Hãng Nước Giải Khát nổi tiếng Coca-Cola có một khải tượng lớn như sau: “Trong cuộc đời của tôi sống, tôi ước mong thấy được mọi người trên thế giới nầy sẽ nếm được hương vị tuyệt vời của nước ngọt Coca-Cola.”
Hy vọng rằng mỗi một chúng ta cũng có một mong ước rằng là sẽ nhìn thấy được thật nhiều người nếm được hương vị tuyệt vời gấp trăm ngàn lần của nước ngọt Coca-Cola, đó là hương vị Tin Lành tuyệt hảo của Đức Chúa Giê-su Christ.
Hân hạnh được chào đón bạn bước vào trong đồng lúa đã chín vàng, sẵn cho mùa gặt để gặt lúa vào trong kho của Ngài.
Cầu xin Đức Thánh Linh bao phủ và ban quyền năng cho các chứng nhân để chúng ta cùng dạn dĩ ra đi rao báo Tin Mừng cho tội nhân và xin Chúa ban ơn cứu rỗi cho những người thuộc về Ngài! Amen!(*)
California, Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Nếu quý tôi, con Chúa nào ở vùng Little Sài Gòn (California, Hoa Kỳ), muốn cùng tham gia ra đi rao giảng Tin Lành với chúng tôi vào lúc 10: 00 am mỗi Thứ Năm, và 8: 00 am mỗi Thứ Bảy hằng tuần, xin vui lòng liên lạc các số Điện Thoại sau:
+ Mục Sư Nguyễn An Phú (657 296 7212)
+ Mục Sư Nguyễn Đình Liễu (909 642 0271)
Bài 331
Chuyện... Làm Chứng (3)
*Kinh Thánh: Châm Ngôn 24 : 11; Lu-ca 8: 5-8; I Cô-rinh-tô 9: 16
Qua hai bài viết “Chuyện... Làm Chứng” (1) và (2), tôi đã chia sẻ với bạn một số điều cơ bản của một người ra đi rao giảng Tin Lành cho những người chưa tin.
Nay, xin được chia sẻ một số những... trải nghiệm của chúng tôi khi đi ra giới thiệu về Chúa cho người khác.
Trước khi nói về những trải nghiệm đó, xin được nhắc lại rằng: Ra đi rao giảng Tin Lành là trách nhiệm của tất cả những người tin Chúa, chứ không phải là công việc dành riêng cho Mục Sư, hay Ban Chứng Đạo, hoặc riêng cho bất cứ ai.
Phao-lô đã tuyên bố: “Ví bằng tôi rao truyền Tin Lành, tôi chẳng có cớ gì khoe mình, vì có lẽ cần buộc tôi; còn không rao truyền Tin Lành, thì khốn khó cho tôi thay” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 9, câu 16).
“Có lẽ cần buộc” Phao-lô đó là gì, há không phải là mạng lịnh rao giảng Tin Lành mà Đức Chúa Giê-su đã truyền lại cho tất cả con dân Ngài sao?
Ví dụ, có một người bị bịnh thập tử nhất sinh, tưởng không thể nào qua khỏi, bỗng nhiên gặp được một thầy thuốc rất giỏi và chữa cho người đó được lành; nếu người đó biết có người cũng bị bịnh nan y như mình, thì theo bạn nghĩ, người ấy có sẵn sàng giới thiệu người bị bịnh đó đến với người thầy thuốc giỏi kia không? Hỏi có nghĩa là đã trả lời rồi vậy. Chắc chắn là người ấy sẽ giới thiệu cho người kia người thầy thuốc đó ngay liền phải không?
Bạn và tôi cũng vậy! Trước đây, chúng ta bị căn bịnh nan y tội lỗi cai trị trong đời sống mình, ở dưới sự điều khiển của Sa-tan, không thể nào thoát ra được. Ngay từ khi bạn và tôi tin nhận Chúa Giê-su, thì Ngài đã giải cứu chúng ta ra khỏi quyền lực của ma quỷ, đem chúng ta từ địa vị làm nô lệ cho Sa-tan đến chỗ được làm con cái sáng láng ở trong nhà của Ngài, được kêu Ngài là Aba! Cha! Bây giờ, bạn và tôi được sống trong bình an, hạnh phước và sống có hy vọng về một tương lai tươi sáng; thì làm sao chúng ta có thể im lặng, không giới thiệu vị Bác Sĩ của mọi bác sĩ, Danh Y của mọi danh y là Chúa Giê-su cho những người đang mắc bịnh tội lỗi hiểm nghèo như chúng ta ngày trước được phải không bạn?
Lời Chúa trong Châm Ngôn, chương 24, câu 11 nhắc nhở chúng ta mạnh mẽ biết bao: “Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết. Và chớ chối rỗi cho người đi xiêu tó tới chốn hình khổ.”
Nhiều người đang bị đùa đến sự chết, nhiều người đang đi xiêu tó tới chốn hình khổ, mà lẽ nào chúng ta là những người đã được cứu rồi, không mau chóng sẵn sàng nói vềc Chúa Giê-su cho họ sao?
Khi ra đi chia sẻ Tin Lành cho người chưa tin, chúng tôi đã trải nghiệm nhiều trường hợp khác nhau, vui có, buồn có.
Có nhiều người sẵn sàng đón nhận Chứng Đạo Đơn mà mình gởi tặng với lòng vui mừng và sẵn sàng lắng nghe mình chia sẻ Tin Lành cứu rỗi, dù chưa có quyết định tin Chúa, hay hứa hẹn gì với mình cả. Họ còn sẵn sàng cho mình số điện thoại để liên lạc đến nhà thăm hay mời đi Nhà Thờ nữa. Khi mình đến thăm, họ đón tiếp niềm nở và rồi họ cũng đồng ý đến Nhà Thờ tham dự thờ phượng Chúa với mình để tìm hiểu thêm, dù họ chưa bằng lòng tin nhận Chúa.
Ra đi gieo giống Tin Lành mà gặp được nhiều người như thế nầy thì những chiến sĩ thập tự vui mừng biết bao và... lên tinh thần nhiều lắm.
Cũng có người vui vẻ đón nhận Chứng Đạo Đơn mình gởi tặng, rồi vội vả đi công việc, không có thì giờ để nói chuyện với mình.
Có người khi nghe giới thiệu về Chúa Giê-su, liền... khoe là hồi nhỏ tôi cũng đi Nhà Thờ, đọc Kinh Thánh... gần thuộc hết luôn, nhưng bây giờ thì có vợ, đi theo... đạo của vợ, nên không thể tiếp tục tin Chúa được, mấy anh thông cảm.
Có người khi mình tặng Chứng Đạo Đơn và giới thiệu về Tin Lành, thì họ nói một cách... tỉnh bơ: “Tưởng cái chi, chứ Tin Lành thì thôi”, và không nhận Chứng Đạo Đơn luôn. Khi một người không muốn nhận... Tin Lành thì bạn biết họ muốn nhận... tin gì rồi?
Có người mình chia sẻ Tin Lành và tặng Chứng Đạo Đơn, thì họ nói tôi có đạo rồi ạ, tôi là Phật tử, xin cảm ơn và rồi từ chối không lấy Chứng Đạo Đơn.
Lại có khi ra đi làm chứng, gặp người theo Công Giáo, họ cũng nói tôi có đạo Thiên Chúa Giáo rồi, cảm ơn mấy anh nhé, hãy đi nói cho người khác đi.
Có người khi được giới thiệu về Chúa, thì họ chống đối: Ai muốn tin thì họ tin chứ hơi đâu mà mấy ông đi nói như thế nầy chi cho mệt. Đạo hay thì người ta tự tìm đến, “Hữu xạ tự nhiên hương” mà.
Cũng có người khi nghe Tin Lành thì họ bày tỏ thẳng thừng quan niệm của họ là “Chết là hết”, không có Đức Chúa Trời, không có Thiên Đàng hay Địa Ngục gì đâu. Đừng nói với tôi vô ích, tôi không tin!
Một trường hợp... ấn tượng khi đi rao giảng Tin Lành làm chúng tôi nhớ mãi. Có lần chúng tôi đi vào trong quán ăn để ăn, và thấy bàn bên cạnh có một cặp vợ chồng trẻ có hai con vừa ăn xong, chúng tôi liền tranh thủ giới thiệu về Chúa và tặng Chứng Đạo Đơn, thì hai vợ chồng vui mừng nhận lấy và nói chúng con cũng là tín đồ Tin Lành ạ. Chúng tôi cũng cảm thấy vui vui và nói, nếu hai con đã tin Chúa rồi, thì hãy giữ tờ Chứng Đạo Đơn nầy để tìm một người thân hay bạn bè chưa tin mà tặng cho họ nhé. Rồi đôi vợ chồng đó xin phép ra về. Chúng tôi ngồi ăn và sau đó ra quầy trả tiền thì chủ quán nói khi nãy có cặp vợ chồng trẻ ngồi bên bàn của anh chị đã trả tiền luôn rồi ạ. Chúng tôi thật bất ngờ trước việc làm... đáng yêu ấy của hai tín đồ nọ.
Tôi chợt nhớ đến Lời Kinh Thánh phán: “Chúa có truyền rằng ai rao giảng Tin Lành thì được nuôi mình bởi Tin Lành”(Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 9, câu 14).
Một lần khác, chúng tôi đến tiệm mua đồ ăn, khi mua xong, chúng tôi tranh thủ giới thiệu Tin Lành cho cô nhân viên vừa bán hàng cho, và nói mời cô tìm hiểu và tin Chúa Giê-su nhé. Sáng mai là Chúa Nhật, mời cô đi Nhà Thờ thờ phượng Chúa. Cô ta ngạc nhiên hỏi lại “Sao anh biết tôi tin Chúa mà mời đi Nhà Thờ?” Tôi đâu có biết cô đã tin Chúa đâu, chỉ mời cô đi Nhà Thờ để tìm hiểu thêm về Chúa và tin Chúa đó thôi. Rồi cô nói cô đang sinh hoạt ở một Hội Thánh gần đây, và hỏi chúng tôi ở Hội Thánh nào? Hai bên nói chuyện nhau vui vẻ rồi chúng tôi chào tạm biệt ra về.
Có thể nói rằng, có rất nhiều đối tượng thân hữu khác nhau mà những người ra đi chia sẻ Tin Lành sẽ gặp. Có người sẵn lòng nghe và muốn tìm hiểu để tin Chúa; có người không quan tâm, chỉ nghe qua loa rồi bỏ ngoài tai để đi lo công việc của mình; có người từ chối nhận Chứng Đạo Đơn vì cho rằng mình đã có tôn giáo rồi, không cần thêm một tôn giáo nữa làm gì. Chúng ta cũng sẽ gặp những người chống đối, không nhận Chứng Đạo Đơn và không tin có Đức Chúa Trời, không tin có Thiên Đàng hay Địa Ngục, vì “Chết là hết.” Cũng có người nheo mắt trề môi xem những người ra đi chia sẻ Tin Lành là làm chuyện... tào lao, mất thì giờ và tốn công vô ích...
Bạn và tôi hãy nhớ ẩn dụ mà Chúa Giê-su đã kể về Người Gieo Giống: “Người gieo đi ra để gieo giống mình. Khi vãi giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết. Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm. Một phần khác rơi vào bui gai, gai mọc lên với hạt giống, làm cho nghẹt ngòi. Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên và kết quả, một thành trăm. Đương phán mấy lời đó, Ngài kêu lên rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe!” (Sách Lu-ca, chương 8, câu 5 đến câu 8).
Chúa cho biết có bốn loại đất, tượng trưng cho bốn loại lòng người. Đất dọc đường tượng trưng cho hạng người từ chối Tin Lành, vì ma quỷ đã đến cướp lấy Đạo từ trong lòng họ rồi (Sách Lu-ca, chương 8, câu 12). Đất đá sỏi tượng trưng cho lòng người tin Đạo chỉ muốn được hanh thông, thịnh vượng, chứ không muốn chịu khổ vì danh Chúa, nên họ sẽ bỏ Chúa khi gặp khó khăn, thử thách xảy đến. Đất nơi bụi gai tượng trưng cho lòng người vừa muốn theo Chúa vừa không muốn bỏ đời, dở dở ương ương, lưng chừng, hàng hai, cuối cùng thế nào cũng bị ma quỷ bắt lấy. Chúa Giê-su đã tuyên bố: “Chẳng có ai được làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Ma-môn nữa” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 24). Cuối cùng là đất tốt tượng trưng cho lòng người chân thật, tìm kiếm chân lý, nên nhận lấy Đạo và được kết quả.
Trong bốn loại đất, tương ứng với bốn loại lòng người đó, chỉ có loại đất tốt (tức lòng người chân thật, tìm kiếm chân lý) là kết quả và kết quả tốt đẹp mà thôi.
Hãy nhớ lời Chúa Giê-su đã phán để chúng ta sẵn sàng ra đi gieo giống Tin Lành cho cả... bốn loại đất, vì chúng ta không biết đất nào là tốt hay đất nào là xấu cả. Chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới biết được lòng người mà thôi.
Trách nhiệm của chúng ta là gieo giống Tin Lành, còn trách nhiệm của Chúa là... làm cho hạt giống nẩy mầm và lớn lên trong lòng người.
Cầu xin Chúa Thánh Linh luôn ở cùng và thêm sức cho mỗi một chiến sĩ thập tự của Chúa để chúng ta sẵn sàng ra đi chia sẻ Tin Lành cho mọi người mà Chúa cho chúng ta có dịp được gặp họ.
Nguyện xin Chúa thương xót ban ơn cứu rỗi cho những tấm lòng chân thật, đang tìm kiếm chân lý của Ngài. Amen! (*)
California, Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Nếu quý tôi, con Chúa nào đang ở vùng Little Sài Gòn (Nam California, Hoa Kỳ), muốn than gia ra đi chia sẻ Tin Lành cùng chúng tôi vào lúc 10: 00 am mỗi sáng Thứ Năm, và lúc 8: 00 am, mỗi sáng Thứ Bảy hằng tuần, thì xin liên lạc với chúng tôi theo các số Điện Thoại sau đây:
+ Mục Sư Nguyễn An Phú (657 296 7212)
+ Mục Sư Nguyễn Đình Liễu (909 642 0271)
Xin Chúa cảm động lòng của nhiều tôi, con Chúa và cho có thêm nhiều con gặt cùng bước vào trong đồng lúa chín vàng, đã sẵn cho mùa gặt. Amen!
Hân hạnh được cùng làm việc với nhau để góp phần mở mang Vương Quốc của Chúa trên đất nầy!
Bài 332
Chuyện... Làm Chứng (4)
*Kinh Thánh: Ê-sai 55: 10-11; Ma-thi-ơ 24: 14; Rô-ma 1: 16
Quý bạn đọc đã có lòng đọc “Chuyện... Làm Chứng” (1), (2) và (3), nay, xin mời kiên nhẫn đọc tiếp “Chuyện... Làm Chứng” (4) cho... đủ bộ.
“Chuyện... Làm Chứng” (4) xin tiếp tục nói về những trải nghiệm của người ra đi gieo giống Tin Lành và những lời chứng của những người nhờ nghe rao giảng Tin Lành mà được cứu, được trở nên con cái của Ngài.
Trong “Chuyện... Làm Chứng” (3), có đề cập đến ẩn dụ “Người Gieo Giống” mà Chúa Giê-su đã kể trong Ma-thi-ơ chương 13 rất đáng để những người gieo giống Tin Lành học biết.
Chúa cho biết có bốn loại đất (tượng trưng cho bốn loại lòng người), trong đó chỉ có một loại đất tốt để cho hột giống Tin Lành gieo xuống sẽ đâm chồi nẩy lộc và ra hoa kết quả mà thôi.
Học biết ẩn dụ nầy, chúng ta sẽ không nãn lòng khi ra đi chia sẻ Tin Lành, vì Chúa Giê-su đã chỉ dạy cho chúng ta cách rõ ràng rồi. Việc của người gieo giống là kiên trì, cố gắng gieo giống trên bốn loại đất bằng cả tấm lòng của mình; còn việc của Đức Chúa Trời là Ngài sẽ làm cho hột giống chúng ta đã gieo ra sẽ nẩy mầm và kết quả trên mảnh đất tốt theo đúng thời điểm của Ngài.
Gieo giống là việc Chúa giao cho mỗi một con cái Ngài, còn kết quả là việc của Đức Chúa Trời, chứ không phải việc của chúng ta. Hãy nhớ điều đó để không nãn lòng thối chí khi ra đi gieo giống Tin Lành.
Mỗi một chứng nhân, nói riêng, tất cả con dân Chúa, nói chung, đừng quên lời Chúa Giê-su đã phán: “Tin Lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (Sách Ma-thi-ơ, chương 24, câu 14).
Tin Lành của Chúa Giê-su phải được giảng ra khắp đất thì Chúa mới trở lại và sự cuối cùng mới đến.
Làm sao để Tin Lành của Chúa Giê-su được giảng ra khắp đất để cho ngày tái lâm của Chúa Giê-su mau đến? Câu trả lời đúng đó là, mỗi một tín nhân phải tích cực, sốt sắng làm công tác rao giảng Tin Lành ra cho mọi người vậy.
Ngoài những trải nghiệm đã kể trong bài “Chuyện... Làm Chứng” (3), khi ra đi chia sẻ Tin Lành, chúng tôi cũng còn có một số... trải nghiệm khác nữa.
Khi ra đi rao giảng Tin Lành, chúng tôi cũng thường gặp hạng người... hứa suông hẹn hão. Có nghĩa là khi mình gặp họ, giới thiệu về Chúa cho họ, họ nghe rất hồ hởi (có lẽ để cho mình... vui) và rồi mình mời họ cầu nguyện tin Chúa, họ hẹn để tôi về tôi dẫn vợ con Chúa Nhật sẽ đến Nhà Thờ cầu nguyện tin Chúa luôn một lần. Mình xin số điện thoại và gọi thăm, nhắc nhở, họ cũng nói nghe chắc như... đinh đóng cột. Thế nhưng khi đến Chúa Nhật, mình chờ đợi để đón họ, giờ thờ phượng tới rồi, vẫn chưa thấy họ đến, gọi họ xem thử có bị trở ngại gì không, thì điện thoại đầu kia chỉ nghe tiếng đổ chuông mà không hề nghe tiếng trả lời. Có lẽ hạng người nầy thuộc thơ Hồ DZếnh, “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.”
Một trải nghiệm khác, một hôm, chúng tôi đi công việc về và gặp mưa lớn, nên vô một quán bên đường trú mưa. Trong khi trú mưa, chúng tôi tranh thủ giới thiệu về Chúa cho cô chủ quán và không ngờ, sau một hồi bày tỏ về Chúa và mời cô tin Chúa, thì chính Đức Thánh Linh đã bắt phục, cô sẵn lòng cầu nguyện giao phó đời sống cho Chúa. Chúa Nhật, cô đem theo đứa con gái đến Nhà Thờ để thờ phượng Chúa như lời cô đã hứa và rồi cô chịu báp têm, rồi tiếp tục học thêm lời Chúa để lớn lên trong Ngài. Tạ ơn Chúa cho cô đã đứng vững trong Ngài cho đến ngày hôm nay. Con gái cô sau đó cũng đã tin Chúa luôn. Cả hai mẹ con rất mừng khi được ở trong Chúa và được Ngài biến đổi đời sống.
Đây chính là trường hợp hạt giống đạo rơi nhằm nơi đất tốt, nên nẩy mầm và kết quả.
Còn sau đây là một số lời chứng từ những người được nghe Tin Lành khi mình rao giảng mà tin Chúa.
Khi còn là Giáo Viên, đi dạy ở một trường làng, có một lần, tôi mời các em học sinh trong lớp tôi làm Chủ Nhiệm đến thăm nhà. Các em đã đến nhà thăm chơi, và chúng tôi làm chứng cho các em về Chúa Giê-su. Mặc dù không có em nào tin Chúa hôm đó, nhưng tôi rất vui vì đã có cơ hội nói về Chúa cho mấy chục em học sinh mà mình đang dạy. Ở trường lớp, người ta không cho mình nói về Chúa cho các em. Không có cách nào khác hơn là mời các em đến nhà thăm chơi và tận dụng cơ hội đó để chia sẻ Tin Lành cho các em thôi. Ông bà ta nói “Cái khó bó cái khôn” nhưng trong trường hợp nầy thì “Cái khó... ló cái khôn” vậy.
Chúng tôi luôn có niềm tin vào lời Chúa đã phán trong Kinh Thánh rằng: “Vả như mưa và tuyết xuống từ trên trời và không trở lại nữa mà đượm nhuần đất đai, làm cho sanh hoa và kết nụ, đặng có giống cho kẻ gieo, có bánh cho kẻ ăn, thì lời nói của Ta cũng vậy, đã ra từ miệng Ta thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều Ta muốn, thuận lợi công việc Ta đã sai khiến nó.” (Sách Ê-sai, chương 55, câu 10, 11).
Quả thật, lời nói đã ra từ miệng Ngài sẽ không bao giờ trở về luống công! Khi chúng tôi qua Mỹ học thêm Lời Chúa và bất ngờ gặp lại được cô học trò cũ năm xưa. Gặp lại tôi, tôi không hề nhớ cô, vì thầy làm sao mà nhớ được hết học trò; nhưng cô thì nhớ rõ tên tôi và nhắc lại lần đến thăm nhà thầy năm xưa và được nghe nói về Chúa, em nhớ mãi. Khi qua Mỹ, Chúa cho em đã tin Chúa và em nhớ đến những lời làm chứng về Chúa của thầy hồi xưa, em biết ơn thầy nhiều lắm. Nghe cô nói mà tôi mừng đến rơi nước mắt, vì không ngờ những lời nói đơn sơ của mình về Chúa cho các em học sinh năm nào, có ngày Chúa đã làm cho đâm chồi, nẩy lộc và lớn thành cây vững vàng. Bây giờ, cô là vợ của một Mục Sư đang hầu việc Chúa tại vùng Nam California. Được biết cô hiện cũng là một chứng nhân đắc lực cho Chúa Giê-su, dắt đem được khá nhiều linh hồn tội nhân trở về cùng Chúa!
Tạ ơn Chúa về ơn cứu rỗi kỳ diệu của Ngài dành cho những người thuộc về Ngài!
Một lời chứng khác, có một người từ Việt Nam được sang Mỹ định cư. Khi mới qua, những người thân của ông dặn ông rằng, anh cẩn thận đó, bên ni mấy người theo Đạo Tin Lành hay... đi dụ dỗ mình theo Tin Lành lắm đó. Ông ta trả lời, “Tưởng họ dụ mình theo... Tin Dữ thì tôi phản đối, chứ họ... dụ mình theo... Tin Lành thì tốt quá đi chứ!”
Quả thật như lời ông nói, một ngày nọ, ông được nghe giới thiệu về Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giê-su và Đức Thánh Linh đã khiến ông mở lòng tin nhận Ngài.
Sau đó, ông học thành Bác Sĩ và hiện ông và gia đình đang sinh sống tại bang Florida. Ông không chỉ là Bác Sĩ mà còn là Nhà Báo Cơ-đốc, có nhiều bài viết rất hay dành cho lứa tuổi cao niên. Ông cũng đã xuất bản một số sách nữa.
Tạ ơn Chúa về ơn cứu rỗi kỳ diệu Chúa đã ban cho vị Bác Sĩ nầy.
Chữ Nho có câu “Nhơn hữu thiện nguyện Thiên tất tùng chi” (nghĩa là người có lòng thành thì Ông Trời ắt lắng nghe).
Trên đây là những... trải nghiệm của người ra đi chia sẻ Tin Lành và một số lời chứng từ những người nghe Tin Lành nhận được sự cứu rỗi của Chúa.
Còn rất nhiều, rất nhiều những trải nghiệm và lời chứng thú vị khác nữa nhưng không đủ thì giờ để có thể nói hết được.
Kết thúc bài viết nầy, tôi muốn khẳng định với bạn rằng, Tin Lành của Chúa Giê-su quả thật là đầy quyền phép để cứu mọi kẻ tin đúng như Thánh Phao-lô đã bày tỏ: “Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc” (Sách Rô-ma, chương 1, câu 16).
Tin Lành của Chúa Giê-su là Tin Lành quyền phép và Ngài muốn bạn và tôi phải dành thì giờ ra đi chia sẻ Tin Lành quyền phép ấy cho mọi người.
Nguyện xin Chúa dùng bài viết đơn sơ nầy để khích lệ quý tôi, con Chúa gần xa trong tinh thần ra đi gieo giống Tin Lành cho mọi người trước ngày Chúa Giê-su yêu dấu của chúng ta hồi lai trong một ngày rất gần trong tương lai.
Lời Chúa nhắc nhở chúng ta: “Hãy trách phạt những kẻ nầy là kẻ trù trừ, hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa; còn đối với kẻ khác, hãy có lòng thương lẫn với sợ, ghét cả đến cái áo bị xác thịt làm ô uế” (Sách Giu-đe, câu 22, 23).
Cứu vớt người ra khỏi lửa là một việc làm khẩn cấp, chứ không thể nào chần chừ, do dự được, bạn có đồng ý không? (*)
California, Tháng 10/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Nếu quý tôi, con Chúa nào đang ở vùng Little Sài Gòn (Nam California, Hoa Kỳ), muốn tham gia ra đi chia sẻ Tin Lành cùng chúng tôi vào lúc 10: 00 am mỗi sáng Thứ Năm, và lúc 8: 00 am, mỗi sáng Thứ Bảy hằng tuần, thì xin liên lạc với chúng tôi theo các số Điện thoại sau đây:
+ Mục Sư Nguyễn An Phú (657 296 7212)
+ Mục Sư Nguyễn Đình Liễu (909 642 0271)
Xin Chúa Thánh Linh cảm động lòng nhiều tôi, con Chúa để cho có thêm nhiều con gặt cùng bước vào trong đồng lúa chín vàng, đã sẵn cho mùa gặt. Amen!
Hân hạnh được cùng làm việc với nhau để góp phần mở mang Vương Quốc Nước Trời trên đất nầy!
Bài 333
Chuyện... Thờ Trời
*Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 1: 27; Thi-thiên 95: 6; Giăng 4: 23, 24; I Cô-rinh-tô 3: 16, 17
Thờ Trời là một nhu cầu tâm linh không thể thiếu của hầu hết các dân tộc trên thế giới nầy từ xưa cho đến nay.
Tại sao con người lại có nhu cầu thờ Trời?
Câu trả lời không lấy gì làm khó khăn, ấy là tại vì chính Ông Trời đã sáng tạo nên con người chúng ta cũng như muôn loài vạn vật.
Giống như người con phải hiếu kính cha mẹ, mà không cần phải thắc mắc hay lý luận gì cả, bởi vì cha mẹ là người đã sinh thành ra mình, thì con người phải thờ Trời vậy.
Dù bạn là ai, thuộc dân tộc nào trên thế giới nầy và đang theo một tôn giáo nào đi chăng nữa, bạn cũng dễ dàng nhận thấy chân lý nầy, khi một người gặp tai nạn hay chuyện gì bất trắc nguy hiểm đến tính mạng, thì tự nhiên người đó sẽ bật kêu lên mấy tiếng “Trời ơi, cứu tôi!”, chứ không kêu một ai khác. Vì sao, câu trả lời cũng rất tự nhiên là vì chính Ông Trời đã tạo nên mình.
Khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài set up (đặt để) hình ảnh của Ngài trong tâm hồn của họ. Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình Ngài. Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sách Sáng Thế Ký, chương 1, câu 27).
Có thể nói một cách mạnh mẽ rằng dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc có truyền thống thờ Trời rất sâu đậm trong tâm khảm.
Qua kho tàng ca dao, tục ngữ tuyệt vời của ông cha ta, chúng ta dễ dàng nhận thấy tấm lòng thờ Trời được hiện lên rất rõ:
+ Cho dù Trời hại mới hư,
Dù ai có hại cũng như phấn dồi
+ Ở xởi lởi Trời gởi cho,
Ở bo bo Trời lấy lại
+ Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp
+ Con chim nó hót trên cao,
Ông Trời không có làm sao có mình,
Con chim nó hót trên cành,
Ông Trời không có có mình làm sao?
+ Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
+ Trời cho không thấy, Trời lấy không hay
+ Người tính không bằng Trời tính
+ Thấp cổ kêu không thấu Trời
+ Trời sinh voi, Trời sinh cỏ
...
Trong văn chương bác học, chúng ta cũng thấy tấm lòng thờ Trời được hiển hiện một cách tự nhiên trong nhiều câu thơ của các nhà thơ:
+ Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời,
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Lý Thường Kiệt)
+ Gẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao,
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
(Kiều – Nguyễn Du)
+ Giang sơn còn nặng gánh tình,
Trời chưa cho nghỉ thì mình cứ đi,
Bao giờ Trời bảo thôi đi,
Giang sơn cất gánh ta thì nghỉ ngơi.
(Nguyễn Công Trứ)
...
Trong các Nhà Thơ Việt Nam, có người cho rằng Nguyễn Du là Nhà Thơ nói về đạo Trời nhiều hơn bất cứ ai:
“Nguyễn Du đã nhắc đến “Trời” trong suốt tác phẩm của mình. Hầu như những câu thơ hay nhất, thâm trầm, sâu sắc nhất đều có yếu tố “Ông Trời”... Nói về đạo Trời, Nguyễn Du có lẽ là một trong những nhà thơ nhắc đến Trời nhiều nhất.”(1)
Khi nói về tấm lòng thờ Trời của người dân Việt, một Nhà Nghiên Cứu đã nhận xét rằng:
“Dân Việt Nam là dân hữu thần, sống rất gần gũi với Trời. Từ khi chào đời tới khi qua đời, người ta nói rất nhiều tới Trời xanh cao cả trên đầu, qua trời xanh đó, người ta nhận rằng có Đấng Tối cao dựng nên trời đất, cai quản vũ trụ, nhất là loài người.”(2)
Một Nhà Nghiên Cứu khác cũng có một nhận xét tương tự về tấm lòng thờ Trời ấy của người Việt Nam:
“Ngày nay, xã hội đã phát triển, một số tín ngưỡng cổ sơ đã không còn tồn tại, nhưng tín ngưỡng thờ Trời vẫn mãi còn trong tâm thức người dân Nam Bộ nói riêng, người dân Việt Nam nói chung.”(3)
Đại Thi Hào của người Do-thái ngày xưa là vua Đa-vít đã từng kêu gọi mọi người hãy cùng đến tôn thờ Đức Chúa Trời: “Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy. Khá quỳ gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo Hóa chúng tôi” (Sách Thi-thiên, chương 95, câu 6).
Cho dù là người Do-thái hay người Việt Nam, hoặc là bất cứ một dân tộc nào khác, thì tấm lòng thờ Trời đều được thể hiện khá rõ ràng, tuy mỗi một dân tộc đều có cách thể hiện riêng của họ.
Tấm lòng thờ Trời của người Việt Nam thật rất đáng quý, vì nó cho thấy người Việt là một dân tộc giàu nhân nghĩa, trọng nguồn cội.
Người Việt Nam thường nhắc nhở nhau không được quên nguồn cội, gốc gác của mình qua nhiều câu nói rất sâu sắc:
+ Uống nước nhớ nguồn
+ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Uống nước nhớ người đào giếng
+ Cây có cội, nước có nguồn
+ Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Người Việt có truyền thống thờ Trời, luôn luôn suy nghĩ đến nguồn cội của mình để nhớ, để biết ơn. Tuy nhiên, truyền thống thờ Trời đó, tinh thần biết ơn nguồn cội đó chỉ mới xuất phát từ trong bản tánh tự nhiên mà Đức Chúa Trời đã đặt để (set up) trong họ khi Ngài tạo nên họ. Truyền thống ấy, tinh thần ấy nếu được Kinh Thánh soi sáng thì sẽ rất tuyệt vời.
Khi người thiếu phụ Sa-ma-ri gặp Chúa Giê-su và chuyện trò với Ngài, bà hãnh diện... khoe rằng tổ phụ bà thờ Đức Chúa Trời trên hòn núi Ga-ri-xim, thì Chúa Giê-su đã bày tỏ cho bà biết cách thờ phượng Đức Chúa Trời đúng nghĩa không phải là ở một nơi chốn, địa điểm nào, (không phải trên núi Ga-ri-xim hay là tại thành Giê-ru-sa-lem) mà bèn là trong tâm hồn của mình:
“Nhưng giờ hầu đến và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Sách Giăng, chương 4, câu 23, 24)
Nhận biết Ông Trời là Đấng tối cao và có tấm lòng thờ Trời là tốt nhưng chưa đủ. Người Việt cần phải biết cách thờ Trời đúng đắn theo như Kinh Thánh bày tỏ, theo như Con Trời là Chúa Giê-su đã chỉ dẫn, đó là “lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha” vì đó là cách thờ phượng duy nhất mà Cha Ngài ưa thích.
Phao-lô cũng đã học theo tấm gương thờ phượng Đức Chúa Trời của Con Ngài là Chúa Giê-su và ông đã khuyên những người tin Chúa về sự thờ phượng phải lẽ như sau:
“Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Sách Rô-ma, chương 12, câu 1). “Sự thờ phượng phải lẽ” ở đây chính là sự thờ phượng thật, trong nguyên văn là sự thờ phượng căn bản.
Như vậy, thờ Trời đúng và đẹp lòng Ngài ấy là lấy tấm lòng mà thờ phượng, chứ không phải lập bàn thờ để thờ. Đền thờ của người thờ Trời là chính thân thể của họ. Kinh Thánh cho biết rất rõ ràng: “Anh em chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ, vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh mà chính anh em là đền thờ” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 3 câu 16, 17).
Mong ước rằng ngày càng có nhiều người dân Việt Nam tìm đọc Kinh Thánh để biết cách thờ Trời đúng đắn như đáng phải thờ, chứ không phải theo cách “xưa bày nay bắt chước” như bao nhiêu năm qua, thì chắc chắn dân Việt mình sẽ được Ông Trời ban phước chẳng sai!
Tôi là người thuộc họ Nguyễn – Đình ở làng Ngọc Phô, Xã Bình Tú, Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam. Cảm tạ Chúa, cha mẹ tôi đã tin Trời và thờ Trời. Tôi đã tin Trời và thờ Trời. Gia đình tôi đã tin Trời và thờ Trời. Tôi cũng ước ao ngày càng có nhiều người trong dòng họ Nguyễn – Đình của tôi tìm đọc được Kinh Thánh để biết, rồi đem lòng tin trọn vẹn mà thờ Trời theo như cách Kinh Thánh dạy để dòng họ tôi cũng được Ông Trời ban phước một cách dồi dào!
California, Tháng 11/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(1): chunom.net/Truyen-Kieu-Ngam-hay-muon-su-tai-Troi-Troi-kia-da-bat-lam-nguoi-co-than-37.html
(2): http://e-cadao.com/tieuluan/tinnguong/ongtroicuannguoivietnamquacadaotucngu.htm
(3): http://nhipcautamgiao.net/tin-nguong-dan-gian/ong-troi/tin-nguong-tho-troi-o-nam-bo/
Bài 334
Chuyện... Bịnh Tật Và... Chữa Lành
*Kinh Thánh: Xuất Ê-díp-tô Ký 15: 26; 23: 25; Ê-sai 53: 5; Ma-thi-ơ 9: 35; Gia-cơ 5: 15
Chúng ta thường nghe câu nói khá quen thuộc nói về đời người là “Sinh, lão, bịnh, tử”. Câu nầy có lẽ bắt nguồn từ triết lý nhà Phật.
Sinh, lão, bịnh, tử đó là thế thường của con người, thế thường của một đời người.
Con người sinh ra, sống một thời gian rồi già đi (lão), khi về già thì thường hay đau bịnh và cuối cùng là sự chết chờ đợi.
Vua Tự Đức thời triều Nguyễn cũng là Nhà Thơ nổi tiếng đã nói:
Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê,
Sống gởi rồi ra thác lại về,
Khôn dại cùng chung ba thước đất,
Giàu sang chưa chín một nồi kê.
“Sống gởi rồi ra thác lại về” là một ý niệm có từ trong dân gian xa xưa của cha ông ta “Sống gởi thác về”.
Người ta thường nói sống, chết là một quy luật không ai tránh khỏi. Điều đó đúng nhưng cần biết là ai đã định ra quy luật ấy cho con người, thì không biết có sách vở nào nói đến không, nhưng Kinh Thánh thì cho biết rất rõ: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 9, câu 27).
Chết là luật định của Đức Chúa Trời dành cho con người khi họ phạm tội với Ngài. “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Sách Rô-ma, chương 3, câu 23).
Nhà Thơ Văn Thiên Tường của Trung Quốc cũng đã nói: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” (nghĩa là người sinh ra đời xưa nay ai mà không chết).
Trong khoảng thời gian từ sinh đến tử, con người còn phải trải qua sự đau ốm, bịnh tật nữa.
Có ai trong đời mà không bị đau bịnh một vài lần?
Khi đau bịnh, thông thường con người cần đi Bác Sĩ để khám bịnh, rồi uống thuốc để mong bịnh được lành.
Với người tin thờ Chúa Giê-su, thì khi đau ốm, bịnh tật, họ cầu nguyện với Chúa trước hết để xin sự chữa lành theo ý muốn của Ngài dành cho họ.
Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước đều nói đến sự chữa lành từ Thiên Thượng.
Sự chữa bịnh đầu tiên được nói đến là trường hợp Vua A-bi-mê-léc: “Áp-ra-ham cầu xin Đức Chúa Trời thì Ngài chữa bịnh cho Vua A-bi-mê-léc, vợ cùng các con đòi người; vậy, họ đều có con” (Sách Sáng Thế Ký, chương 20, câu 17).
Trong sách Xuất Ê-díp-tô ký, chương 15, câu 26 ghi lại lời chính Chúa đã phán về sự chữa bịnh, “Nếu ngươi chăm chỉ nghe Lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, làm sự ngay thẳng trước mặt Ngài, lắng tai nghe các điều răn và giữ mọi luật lệ Ngài, thì Ta chẳng giáng cho ngươi một trong đó các bịnh nào mà Ta đã giáng cho xứ Ê-díp-tô; vì Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bịnh cho ngươi.”
Cũng trong sách Xuất Ê-díp-tô Ký nhắc đến Đức Chúa Trời là Đấng tiêu trừ bịnh tật cho chúng ta: “Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng ngươi” (Sách Xuất Ê-díp-tô Ký, chương 23, câu 25).
Đây là những lời hứa có điều kiện, nếu chúng ta lắng nghe, vâng giữ Lời Ngài, sống ngay thẳng và hầu việc Ngài, thì Ngài sẽ chữa lành bịnh tật và tiêu trừ mọi bịnh hoạn của chúng ta.
Sách Ê-sai chương 53 cũng đề cập đến sự chữa bịnh của Đấng Mết-si-a: “Nhưng Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt Người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi Người chúng ta được lành bịnh” (Sách Ê-sai, chương 53, câu 5).
Có người cho rằng sự lành bịnh được nói đến ở câu Kinh Thánh nầy (cũng như trong sách Phi-e-rơ thứ nhứt, chương 2, câu 23) là nói đến sự chữa lành tâm linh mà thôi. Dĩ nhiên là như thế, nhưng tôi nghĩ cũng không có gì... sai nếu chúng ta tin rằng, nó cũng nói đến sự chữa lành thuộc thể nữa.
Vua Đa-vít đã đề cập đến sự chữa lành đến từ Chúa: “Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, chữa lành mọi bịnh tật ngươi” (Sách Thi-thiên, chương 103, câu 3).
Vua Ê-xê-chia cũng được Kinh Thánh ghi lại là Chúa đã chữa bịnh cho ông cách đặc biệt: “Ta có nghe lời cầu nguyện ngươi, thấy nước mắt của ngươi, nầy Ta sẽ chữa lành cho ngươi, đến ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên đền của Đức Giê-hô-va...Ê-sai bèn biểu: Hãy lấy một cái bánh trái vả. Người ta lấy nó đắp trên mụt ung, thì vua được lành” (Sách Các Vua thứ nhì, chương 20, câu 5, câu 7).
Trong Tân Ước, Kinh Thánh ghi lại trong khi thi hành chức vụ trên đất, Chúa Giê-su đã chữa lành mọi thứ bịnh tật: “Đức Chúa Giê-su đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng Tin Lành nước Đức Chúa Trời và chữa lành các thú tật bịnh” (Sách Ma-thi-ơ, chương 9, câu 35).
Bàng bạc trong bốn sách Tin Lành những hình ảnh về sự chữa lành cách siêu nhiên của Chúa Giê-su. Ngài đã chữa lành bịnh phung, bịnh rong huyết, Ngài làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ què được đi, thậm chí Ngài đã kêu kẻ chết sống lại (xem sách Ma-thi-ơ, chương 8, 9, cũng như những câu chuyện tương tự trong các sách Tin Lành khác)
Chúa Giê-su chữa lành người bệnh bằng nhiều phương cách khác nhau như bằng lời phán, bằng đưa tay rờ, bằng nắm tay...
Chúa Giê-su cũng đã ban quyền phép cho các Sứ Đồ để chữa bịnh: “Đức Chúa Giê-su gọi mười hai môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma và chữa các thứ tật bịnh” (Sách Ma-thi-ơ, chương 10, câu 1).
Các Sứ Đồ cũng đã thi hành phép lạ chữa bịnh cho nhiều người. Phi-e-rơ đã chữa lành người què chân từ lúc mới sanh ra; kêu Ta-bi-tha sống lại (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 3, câu 1 đến câu 8; chương 8, câu 36 đến 40). Phao-lô cũng chữa lành người què từ lúc mới sanh; kêu kẻ chết sống lại; chữa lành bịnh cho cha của Búp-li-u và nhiều người khác (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 14, câu 8 đến câu 10; chương 20, câu 9 đến câu 12 và chương 28, câu 8 đến câu 10)...
Điều kiện để được chữa lành, ấy là phải có đức tin.
Đức Chúa Giê-su đã khen thầy đội có một đức tin lớn: “Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ta chưa hề thấy ai trong dân Y-sơ-ra-ên có đức tin lớn dường ấy...Hãy về, theo như điều ngươi tin thì sẽ được thành vậy. Và chính trong giờ ấy, đứa đầy tớ được lành” (Sách Ma-thi-ơ, chương 8, câu 10 và câu 13).
Chúng ta còn nhớ, khi Đức Chúa Giê-su trở về Na-xa-rét, quê hương của Ngài. Tại đó, Ngài không làm nhiều phép lạ, vì dân sự không có lòng tin (Sách Ma-thi-ơ, chương 13, câu 58).
Thánh Gia-cơ cũng cho biết: “Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy; nếu kẻ bịnh có phạm tội cũng sẽ được tha” (Sách Gia-cơ, chương 5, câu 15).
Chúng ta cần luôn nhớ, sự chữa lành đến từ Chúa chứ không phải đến từ con người. Con người cần có đức tin nơi Chúa nhưng sự chữa lành là do Chúa và theo ý Chúa, chứ không phải là do người và theo ý người.
Chúng ta cũng đừng quên rằng, có nhiều khi Chúa... không chữa lành mà Ngài lại thêm sức để người bịnh có thể đủ sức để chịu đựng, như Phao-lô bị cái dằm xóc vào người, dù ông đã cầu nguyện đến ba lần, xin Chúa chữa lành cho ông nhưng Ngài...không chữa: “Đã ba lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi. Nhưng Chúa phán rằng: Ân điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 12, câu 8 và 9).
Chúng ta cũng cần nhớ rằng, mặc dù Chúa chính là Đấng chữa lành nhưng không vì thế mà chúng ta lên án việc dùng thuốc men. Chúa có thể chữa lành người bịnh bằng cách siêu nhiên, không cần thuốc men gì cả, nhưng nhiều khi Chúa cũng chữa lành người bịnh qua thuốc men, qua các thầy thuốc.
Hãy nhớ rằng trong phái đoàn truyền giáo của Phao-lô, có thầy thuốc Lu-ca đi theo: “Lu-ca là thầy thuốc rất yêu dấu, chào anh em” (Sách Cô-lô-se, chương 4, câu 14).
Chúng ta cần cẩn thận trong vấn đề chữa lành, nếu không sẽ dễ đi đến chỗ cực đoan, sai trật, không đúng với Lời Chúa dạy. Có không ít tôi, con Chúa quá mấu khi cho rằng người bịnh mà dùng thuốc men hay đi đến thầy thuốc để chữa bịnh là...yếu đuối, là thế nầy, là thế kia. Ngược lại, có nhiều người tin Chúa rồi mà không tin vào quyền năng chữa lành của Chúa, hễ bị bịnh là lo chạy đến thầy thuốc, lo uống thuốc, chứ chẳng lo gì đến việc cầu nguyện xin Chúa chữa lành cho mình trước tiên.
Còn nhớ Vua A-sa thời Cựu Ước, khi bị đau đã không tìm kiếm, cầu xin Chúa chữa lành mà chạy đến thầy thuốc và cuối cùng đành chết trên... đống thuốc: “A-sa bị đau chân, đến đỗi nặng lắm; trong cơn bịnh người không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, nhưng tìm kiếm những thầy thuốc. A-sa an giấc cùng tổ phụ người, băng hà năm thứ bốn mươi mốt đời người trị vì. Người ta chôn người nơi mồ mả chính người đã đào cho mình trong thành Đa-vít, để người nằm trên một cái giương đầy thuốc thơm, chế theo phép hòa hương. Đoạn người ta xông hơng cho người rất nhiều” (Sách Sử Ký thứ nhì, chương 15, câu 12 đến 14).
Có một sự thật là có một số người có đời sống tin kính Chúa tốt vẫn bị đau khổ, bịnh tật và chết, trong khi những kẻ ác thì lại sống khoẻ mạnh, sung sướng suốt cả cuộc đời của họ. Là con người hữu hạn, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được đường lối cao sâu, mầu nhiệm của Đức Chúa Trời: “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu” (Sách Ê-sai, chương 55, câu 8, 9).
Xin Chúa ban cho con dân Ngài có lòng tin cậy Chúa trước hết trong mọi sự, đừng để cho lòng tin cậy nơi xác thịt yếu đuối, hữu hạn của con người làm quên đi lòng tin cậy nơi Chúa là chúng ta đáng tội với Ngài!
California, Tháng 11/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 335
Chuyện... Sống Hy Vọng... Chết Bình An
*Kinh Thánh: Gióp 31: 15; Thi-thiên 139: 13-16; Lu-ca 2: 29, 30; Khải Huyền 14: 13
Sống chết là chuyện con người luôn luôn phải đối diện ngay từ khi mới chào đời.
Thựa ra, sự sống là một huyền nhiệm mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người, con người không thể nào hiểu được sự huyền nhiệm của nó.
Khi nói đến sự sống, chúng ta cần phải nói đến nguồn gốc của sự sống.
Có thể nói rằng khoa học không thể nào giải thích được nguồn gốc của sự sống, hay sự sống bắt đầu từ đâu, nếu không công nhận Đức Chúa Trời chính là Đấng đã ban nó cho con người và cho muôn loài vạn vật?
Thánh Tổ Gióp từ ngàn xưa đã xác nhận: “Đấng đã tạo thành tôi trong lòng mẹ tôi, há chẳng có dựng nên chúng nó sao? Há chẳng phải cùng một Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta trong lòng mẹ sao?...Thần Đức Chúa Trời đã sáng tạo tôi. Hơi thở của Đấng Toàn Năng ban cho tôi sự sống” (Sách Gióp, chương 31, câu 15, và chương 33, câu 4).
Sống sau Gióp cả ngàn năm, Vua Đa-vít cũng công nhận sự sống của ông bắt nguồn từ Đức Chúa Trời: “Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi. Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm. Khi tôi được dựng nên trong nơi kín, chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất, thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa. Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi. Số các ngày định cho tôi. Đã biên vào sổ Chúa trước khi chưa có một ngày trong các ngày ấy” (Sách Thi-thiên, chương 139, câu 13 – 16).
Chính Chúa đã tạo nên hai con người đầu tiên là A-đam và Ê-va từ bụi đất (và ngay cả bụi đất ấy cũng do Ngài sáng tạo luôn). Từ bụi đất... vô hồn ấy, Đức Chúa Trời đã... hà hơi sống của Ngài vô và... bụi đất ấy trở nên một loài sanh linh (tức có sự sống). Từ... bụi đất bất động, không có sự sống, trở thành... bụi đất sống động, có linh hồn sống. Thật kỳ diệu! Đó là việc chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới làm được mà thôi: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh” (Sách Sáng Thế Ký, chương 2, câu 7).
Chính Đức Chúa Giê-su đã phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Sách Giăng, chương 14, câu 6).
Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời, Ngài là nguồn của sự sống, cho nên sự sống của con người đến từ Ngài và qua Ngài.
Một khi bạn và tôi đã biết được nguồn gốc của sự sống, chúng ta sẽ sống một cuộc đời biết ơn Đấng Tạo Hóa và sống trong sự tin yêu và đầy hy vọng nơi Ngài.
Khi nhìn một cái cây với cành lá xanh tươi sum suê, tự nhiên bạn sẽ biết là nhờ có gốc rễ của nó ăn sâu vào lòng đất, để hút chất dinh dưỡng từ trong đó cung cấp cho cả cây mới làm cho cành lá xanh tươi được. Nếu không gắn chặt vào gốc cây, thì cành lá kia không thể nào xanh tươi, đẹp đẽ được cả.
Cũng một lẽ ấy, cuộc đời của bạn và tôi cũng sẽ tràn đầy nhựa sống của tin yêu và hy vọng khi chúng ta sống ở trong Chúa Giê-su, gắn chặt cuộc đời mình vào với Ngài là nguồn sống của chúng ta.
Chúa Giê-su đã từng phán: “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái, vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Sách Giăng, chương 15, câu 5).
Bí quyết của một cuộc đời đầy tin yêu và hy vọng là đây: Ở trong Chúa Giê-su và Chúa Giê-su ở trong mình.
Bạn có muốn cuộc đời mình tràn đầy tin yêu và hy vọng không? Xin mời bạn hãy bước vào trong mối liên hệ với Chúa Giê-su và mời Ngài bước vào trong cuộc đời của mình ngay hôm nay, chắc chắn bạn sẽ cảm nhận được một sự đổi thay kỳ diệu trong đời sống.
Lời Chúa phán: “Vì chính Ta biết rõ chương trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an, thịnh vượng cho các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy vọng”(Sách Giê-rê-mi, chương 29, câu 11).
Thánh Phi-e-rơ cũng nói đến một đời sống đầy hy vọng của một người ở trong Chúa Giê-su: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, Ngài đã lấy lòng thương xót cả thể khiến chúng ta lại sanh, đặng chúng ta nhờ sự Đức Chúa Giê-su Christ sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 1, câu 3, 4).
Một khi bạn sống ở trong Chúa Giê-su, chắc chắn bạn sẽ thấy cuộc đời mình là một cuộc đời ý nghĩa, vì có một tương lai đầy hy vọng như lời Chúa đã hứa với chúng ta.
Kinh Thánh không những chỉ cho chúng ta cách để sống một đời sống đầy hy vọng, nhưng còn cho chúng ta biết... cách để chết bình an nữa.
Có khá nhiều những nhân vật rất bình an khi đối diện với sự chết, hay chết một cách bình an được Kinh Thánh ghi lại để cho chúng ta thêm lên lòng tin cậy mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã ban sự sống cho chúng ta,và cũng là Đấng cầm quyền trên sự chết của chúng ta nữa.
Vua Đa-vít nói rằng: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi cũng chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi” (Sách Thi-thiên, chương 23, câu 4).
Người có Chúa trong cuộc đời thì dầu cho có đối diện với sự chết cũng không còn lo sợ gì.
Cụ Si-mê-ôn sau khi được bồng ẵm Con Trẻ là Hài Nhi Giê-su trong lòng mình rồi, thì ông đã thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho tôi tớ Chúa được qua đời bình an theo như lời Ngài. Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 29, 30).
Theo cụ Si-mê-ôn, ông tin rằng ông sẽ được Chúa cho qua đời bình an, vì ông đã hưởng được sự cứu rỗi của Ngài dành cho mình rồi.
Một người chỉ có thể chết bình an khi cuộc đời mình đã sở hữu được sự cứu rỗi từ Chúa Giê-su ban cho. Hay nói cách khác, bất cứ ai thật tâm tin nhận Chúa Giê-su làm Chúa, làm Chủ cuộc đời thì người đó sống có hy vọng và chết được bình an vậy.
Chúa Giê-su đã phán rằng: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (Sách Giăng, chương 14, câu 1). Bí quyết để không còn bối rối, lo âu, ngay cả khi đối diện với sự chết, ấy là tin Đức Chúa Trời và tin Chúa Giê-su.
Sứ đồ Phao-lô đã bày tỏ: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy... Tôi bị ép giữa hai bề muốn đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn; nhưng tôi cứ ở trong xác thịt, ấy là sự cần hơn cho anh em” (Sách Phi-líp, chương 1, câu 21, và câu 23, 24).
Phao-lô nói, ông muốn đi ở với Đấng Christ (có nghĩa là được Chúa gọi về) là điều rất tốt hơn. Ông rất bình an khi đối diện với cái chết, vì ông biết chết là được về ở bên Chúa yêu thương của mình.
Sở dĩ những người thật tâm tin Chúa có được một sự bình an khác thường khi đối diện với sự chết, ấy là vì ho biết rằng sau khi chết, họ sẽ được gặp Đấng yêu thương họ, đã lấy huyết mình chuộc tội cho họ và ban cho họ sự sống đời đời. Kinh Thánh khẳng định: “Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Giê-su Christ đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời cũng sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Giê-xu cùng đến với Ngài.” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất, chương 4, câu 14).
Sau khi một người tin Chúa qua đời, thì họ sẽ được thiên sứ tiếp rước về Thiên Đàng ở mãi với Chúa trong niềm phước hạnh miên viễn.
Nhà Thơ A-sáp nổi tiếng của người Do-thái khi xưa đã viết: “Song tôi cứ ở cùng Chúa luôn luôn. Chúa đã nắm lấy tay hữu tôi. Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi. Rồi sau tiếp rước tôi trong sự vinh hiển” (Sách Thi-thiên, chương 73, câu 23, 24).
Trong sách cuối cùng của Kinh Thánh có một câu nghe rất... lạ: “Phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán: Phải, vì những người ấy nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc và việc làm mình theo sau” (Sách Khải Huyền, chương 14, câu 13).
Kinh Thánh không dạy, chết là phước, vì sự chết là hậu quả kinh khiếp do tội lỗi mang lại (tiền công của tội lỗi). Kinh Thánh chỉ dạy “Chết trong Chúa là phước!”
Vì sao chết trong Chúa là phước? Vì chết trong Chúa là không còn bị sự đoán phạt nào của Đức Chúa Trời nữa, như Lời Chúa đã công bố: “Cho nên, hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 1).
Chết mà không có Chúa Giê-su trong cuộc đời thì không bao giờ bình an được, vì phải đối diện với sự hình phạt của Đức Chúa Trời.
Chết mà có Chúa Giê-su trong cuộc đời là chết bình an, vì sẽ bước vào ở trong sự hiện diện vinh hiển tuyệt vời với Đức Chúa Trời!
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, chết không phải là hết mà là một sự chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ tình trạng tạm thời sang cõi đời đời.
Đối với người chưa tin Chúa, thì sự chết là một điều gì đó rất kinh khiếp, đáng sợ vô cùng; còn đối với người tin Chúa rồi thì sự chết là bóng đêm cuối cùng của trần gian trước bình minh rực rỡ của Thiên Đàng.
Có một câu chuyện kể đại ý rằng: Một bác sĩ người Anh đến nhà khám bệnh cho một bệnh nhân, ông dắt theo một con chó con. Khi bước vào phòng riêng của bệnh nhân, bác sĩ đóng cửa lại và để con chó bên ngoài.
Bệnh nhân ốm nặng và có vẻ như sắp chết, hỏi bác sĩ:
– Thưa bác sĩ, bên kia sự chết có gì?
Bác sĩ giật mình, vì đây là lần đầu tiên ông được một bệnh nhân sắp chết hỏi câu hỏi..khó trả lời như thế này. Ông suy nghĩ và cầu nguyện để tìm câu trả lời cho phù hợp để khích lệ tinh thần bệnh nhân. Ngay lúc đó, chú chó con ở bên ngoài lấy chân cào cào cánh cửa đòi vào bên trong. Bác sĩ nẩy ra một ý tưởng mới, ông nói:
-Ông có nghe tiếng cào cánh cửa ở bên ngoài không? Đó là chú chó con mà tôi thường dắt đi theo đang ở bên ngoài. Nó không biết bên trong phòng ông có cái gì, và nó cũng chưa từng vào bên trong này, nhưng nó đòi vào vì biết chủ của nó đang ở bên trong. Cũng vậy, người tin Chúa không biết hết bên kia cánh cửa giữa sống và chết có gì, nhưng nhận thức và tin rằng bên kia sự chết có Chúa Giê-su của sự sống đang đợi ở đó, Ngài đang sẵn sàng để đón chúng ta về nhà trên Thiên Đàng ở với Ngài.
Bệnh nhân nghe xong, thở một hơi nhè nhẹ rồi mỉm cười cách bình an ra đi về bên kia thế giới.(*)
Bạn có muốn sống một đời sống đầy hy vọng và chết một cái chết bình an không?
Xin mời bạn hãy mời Chúa Giê-su ngự vào trong cuộc đời mình ngay hôm nay!
California, Tháng 11/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
(*): Website: nguonsuoitamlinh.net, mục “thơ văn”
Bài 336
Chuyện... Cảm Ơn Và... Tạ Ơn
*Kinh Thánh: I Cô-rinh-tô 15: 10; Gia-cơ 1: 17
Mỗi năm cứ đến Tháng Mười Một là chúng ta biết Mùa Tạ Ơn lại về với chúng ta. Ngay từ những ngày đầu Tháng Mười Một thì ở nước Mỹ nầy, không khí của Mùa Lễ Tạ Ơn như đã tràn ngập khắp nơi rồi.
Có thể nói rằng nước Mỹ là nước đi đầu trên thế giới về việc cảm ơn và tạ ơn. Người Mỹ tổ chức Lễ Tạ Ơn lớn hơn và trang trọng hơn bất cứ quốc gia nào khác. Điều đó cho thấy người Mỹ rất trọng ơn nghĩa, không bao giờ quên cảm ơn người và đặc biệt không bao giờ quên tạ ơn Trời.
Không ai trong cuộc đời mà lại không chịu ơn một ai đó, vì tất cả chúng ta đều là những con người nhỏ bé, đầy khiếm khuyết, nên cần được giúp đỡ từ người khác, không nhiều thì ít.
Ta biết ơn cha mẹ đã sinh thành, dưỡng dục mình nên người như ngày hôm nay. Ta biết ơn thầy cô đã dạy dỗ mình để có được tri thức mà sống trong cuộc đời với mọi người. Ta biết ơn những người thân yêu, bè bạn, hàng xóm đã nâng đỡ, khích lệ mỗi khi gặp khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Ta biết ơn những người nào đó âm thầm cầu nguyện cho mình để mình có thêm sức lực để sống và phục vụ Chúa...
Trên hết và trước hết, ta tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã tạo nên muôn loài vạn vật và con người để chúng ta được sống và được hưởng; vì nếu không có Đức Chúa Trời thì sẽ không có muôn loài vạn vật và con người, và cũng sẽ không có gì cả.
Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời là nguồn của mọi sự tốt lành: “Mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào”(Sách Gia-cơ, chương 1, câu 17).
Một trong những điều thiếu sót lớn nhất nơi con người khi nói đến lòng biết ơn, ấy là nhiều người không biết ơn Đức Chúa Trời. Người ta thường hay nói và thuộc lòng câu “Cây có cội, nước có nguồn”, nhưng nhiều người chỉ mới biết ơn ông bà, cha mẹ, chứ không nghĩ đến cao hơn nữa, trên hơn nữa, chưa nghĩ đến... cội, chưa nghĩ đến... nguồn.
Cảm ơn cha mẹ, ông bà là điều tốt, vì không có ông bà, cha mẹ làm sao có mình, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Con người cần và rất cần phải biết ai tạo nên tổ tiên đầu tiên của con người? Không cần phải học cao hiểu rộng, không cần phải có một đầu óc uyên bác, chỉ cần nhìn vào chính thân thể mình và nhìn ra ngoài thiên nhiên mênh mông, xinh tươi, nhìn lên bầu trời bao la vô tận, thì tự nhiên đầu óc ta phải nhận biết rằng có một Đấng đã tạo nên thế giới tuyệt đẹp nầy. Và Đấng đó không ai khác hơn là Đức Chúa Trời. Một khi ta nhận biết được điều đó, thì chắc chắn ta sẽ không thể nào không nói lời tạ ơn Thượng Đế quyền năng cao cả.
Ca dao người Việt Nam có câu thật hay:
Con chim nó hót trên cao,
Ông Trời không có làm sao có mình?
Con chim nó hót trên cành,
Ông Trời không có có mình làm sao?
Đúng thế! Không có Ông Trời thì sẽ không có chim, không có cây, không có núi, không có biển, không có con người và không có tất cả mọi sự! Vì từ Ông Trời mà có mọi sự và khi nhìn thấy mọi sự, ta suy ra thì biết có Ông Trời. Chính vì vậy, con người rất cần phải biết tạ ơn Đức Chúa Trời!
Người Mỹ thật hay khi họ đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời. Không một người Mỹ nào mà không biết câu “IN GOD WE TRUST” (Chúng Tôi Tin Cậy Đức Chúa Trời, hay Chúng Tôi Thờ Trời). Người Mỹ được phước vì họ đặt đức tin vào Đức Chúa Trời, đồng tiền Mỹ cũng... được phước vì có dòng chữ “In God We Trust” trong đó.
Y học nghiên cứu cho ta thấy, lòng biết ơn rất tốt cho sức khỏe của tim mạch cũng rất bổ ích cho trí não nữa. Còn những người vô ơn thì hại đến tâm thần, trí não rất nhiều.
Còn tâm lý học thì cho biết, lòng biết ơn giúp hạn chế lòng tham cố hữu trong con người, bởi người trọng ơn nghĩa luôn cảm thấy mình đầy đủ, hạnh phúc và biết thỏa lòng trong cuộc sống. Ngược lại, sự vô ơn sẽ làm cho lòng tham nơi con người càng nhiều hơn, không bao giờ biết dừng, biết đủ.
Có thể nói nhớ ơn, biết ơn và tạ ơn là ba hành động không thể thiếu của người nhận ơn. Con người ta thường chỉ muốn nhận ơn thật nhiều, nhưng khó nhớ ơn và tạ ơn thì càng hiếm. Nhiều người quên ơn người đã giúp đỡ mình và nhiều người vô ơn với Đấng Tạo Hóa!
Lạy Chúa, dù cho có nhiều người vô ơn với Ngài, nhưng xin cho con đừng học theo thói xấu ấy, hãy giúp con luôn luôn biết tạ ơn Ngài trong đời sống.
Người Trung Hoa có câu chuyện kể như sau: “Ở vùng núi Hô-Phu, có một người đàn bà bán rượu tên là Wong. Một hôm, xuất hiện một người đạo cao đức trọng đến trọ ở gần quán, dù không có tiền, ông cũng được bà chủ quán tiếp đãi nồng hậu. Ông ở đó chừng ba năm. Trước khi từ biệt, ông đào một giếng cạnh quán. Mọi người ngạc nhiên khi một dòng nước trong vắt vọt lên, họ nếm thử thì thấy đó là một loại rượu hảo hạng. Từ đó, bà chủ quán trở thành nổi tiếng và giàu có.
Ít lâu sau, người đạo cao đức trọng đó có công việc nên ghé lại quán, hỏi thăm bà chủ quán về giếng rượu. Bà than phiền:
- Rượu tốt nhưng tôi không bao giờ có dư để dự trữ ông ạ!
Ông ta mỉm cười rồi lẳng lặng viết lên tường:
- Trời đất thật bao la, nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế nữa. Dù không tốn kém bà chủ vẫn có rượu để bán thế mà vẫn không hài lòng.
Viết xong con người tốt bụng đó nhè nhẹ ra đi, và từ đó giếng rượu cũng khô cạn luôn."
Lòng tham đã làm cho con người trở nên ích kỷ và vô ơn cũng như làm... tắt đi nguồn của sự phước hạnh nữa.
Một khi chúng ta không biết cảm ơn những người đã giúp đỡ mình, một khi chúng ta không biết tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng đã ban mọi vật cho chúng ta được hưởng một cách miễn phí, thì chúng ta càng ngày càng trở nên ích kỷ và vô ơn hơn, rồi sẽ chết trong sự cô đơn, héo hon của tâm hồn.
Thánh Phao-lô là một người luôn luôn bày tỏ lòng tạ ơn Đức Chúa Trời trong đời sống của mình: “Nhưng tôi nay là người thể nào là nhờ ơn Đức Chúa Trời, và ơn Ngài đã ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy. Trái lại, tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 15, câu 10).
Ít nhất ba lần trong chỉ một câu Kinh Thánh ngắn ngủi nầy, Phao-lô nhắc đến ơn Đức Chúa Trời đã dành cho ông. Bàng bạc trong các thư tín của Phao-lô là lòng tạ ơn Đức Chúa Trời!
Nhân mùa Tạ Ơn, xin Chúa cho mỗi chúng ta luôn luôn biết CẢM ƠN những người đã giúp đỡ mình như cha mẹ, ông bà, thầy cô, bè bạn và những người thân yêu chung quanh mình. Đặc biệt, xin Chúa cho chúng ta luôn luôn biết TẠ ƠN Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo nên mình và ban mọi vật để mình được hưởng bao nhiêu năm qua trong cuộc đời nầy.
Chúng ta có thể thiếu điều nầy điều kia, nhưng đừng thiếu sự cảm tạ Đức Chúa Trời trong đời sống mình. Xin Chúa cho chúng ta “dư dật trong sự cảm tạ” (Sách Cô-lô-se, chương 2, câu 7). Amen!
California, Mùa Tạ Ơn 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 337
Chuyện... Chúa Tạ Ơn... Tạ Ơn Chúa
*Kinh Thánh: Thi-thiên 50: 14, 23; Ma-thi-ơ 14: 19; 15: 36; 26: 26-28; I Ti-mô-thê 1: 12, 13
Cảm ơn, tạ ơn là hành động không thể thiếu trong cuộc sống của con người chúng ta.
Có ai trong cuộc đời nầy mà không mang ơn một ai đó không? Hỏi có nghĩa là đã trả lời rồi vậy. Câu trả lời đó là không!
Người Việt Nam có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ nhắc nhở chúng ta phải biết ơn, nhớ ơn người đã giúp đỡ mình, nhất là nhớ ơn, biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên:
Câu ca dao nhắc mọi người đừng quên ơn mà tôi rất thích và hay đọc đi đọc lại là câu:
Ai mà phụ nghĩa quên ơn,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Hoa hồng là nữ hoàng của các loài hoa, có mùi thơm rực rỡ, đáng yêu, ấy vậy mà người phụ nghĩa quên ơn thì dù có đeo cả trăm cánh đi chăng nữa cũng không thể thơm được. Vì sao vậy? Vì cái mùi xấu xa của kẻ vong ơn đã làm mất đi mùi thơm đáng yêu của hoa hồng rồi.
Nếu có người nào không cần phải tạ ơn bất cứ ai thì người đó không ai khác hơn là Đức Chúa Giê-su, vì Ngài chính là Đức Chúa Trời, Đấng đã sáng tạo nên muôn loài vạn vật và con người trên thế giới nầy.
Kinh Thánh cho biết: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (Sách Giăng, chương 1, câu 3). Chúa Giê-su có từ ban đầu và Ngài là Đấng Tạo Hóa toàn năng, Ngài không mang ơn bất cứ ai, nên Ngài cũng không cần phải cảm ơn hay tạ ơn ai cả.
Thế nhưng, trong cương vị là Con Người khi giáng thế để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giê-su đã để lại một tấm gương về sự tạ ơn rất đáng cho chúng ta ghi nhớ và học hỏi.
Trong các phép lạ hóa bánh, Chúa Giê-su đã tạ ơn Đức Chúa Cha trước khi làm phép lạ để nuôi đoàn dân đông đúc hàng ngàn người: “Ngài bèn truyền cho chúng ngồi xuống trên cỏ, đoạn, lấy năm cái bánh và hai con cá đó, ngửa mặt lên trời mà tạ ơn, rồi bẻ bánh ra đưa cho môn đồ, môn đồ phân phát cho dân chúng” (Sách Ma-thi-ơ, chương 14, câu 19). “Ngài lấy bảy cái bánh và cá, tạ ơn rồi, bẻ bánh ra đưa cho môn đồ, môn đồ phân phát cho dân chúng” (Sách Ma-thi-ơ, chương 15, câu 36).
Chúng ta rất dễ tạ ơn Chúa khi dư dật, đủ đầy, nhưng lại rất khó tạ ơn Chúa khi ở trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn như trường hợp chỉ có vài cái bánh và ít con cá như Chúa Giê-su và các môn đồ gặp phải trước một đoàn dân vô cùng đông đúc lên cả chục ngàn người.
Chúa Giê-su thì khác, dù chỉ có vài cái bánh và ít con cá, nhưng Ngài vẫn ngửa mặt lên trời, tạ ơn Đức Chúa Cha trước khi hóa bánh cho đoàn dân ăn một cách no nê, thỏa thích và còn dư lại nhiều giỏ đầy bánh và cá.
Thật là tuyệt vời!
Trong khi thiết lập Lễ Tiệc Thánh trước khi chịu treo mình trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại, Chúa Giê-su cũng đã tạ ơn Đức Chúa Cha khi cầm bánh và bưng chén: “Khi đương ăn, Đức Chúa Giê-su lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể Ta. Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi, vì nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước mới đã đổ ra cho nhiều người được tha tội” (Sách Ma-thi-ơ, chương 26, câu 26 đến 28).
Lời Chúa nhắc nhở chúng ta rằng: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-su Christ đối với anh em là như vậy” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất, chương 5, câu 18).
Hãy biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Hãy tập sống một lối sống tạ ơn Chúa mọi lúc mọi nơi thì chúng ta sẽ kinh nghiệm được một đời sống dư dật, không thiếu thốn, vì chính Chúa Giê-su đã đến để ban cho chúng ta một đời sống sung mãn: “Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt, còn Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và sự sống dư dật” (Sách Giăng, chương 10, câu 10).
Đức Chúa Giê-su mà còn tạ ơn Đức Chúa Cha, thế thì chúng ta rất cần phải biết tạ ơn Chúa là dường nào!
Một trong những tấm gương về sự tạ ơn Chúa mà Kinh Thánh ghi lại, đó chính là Sứ Đồ Phao-lô. Phao-lô là người luôn luôn sống trong tinh thần tạ ơn Chúa.
Ở hầu hết các bức thư Phao-lô viết trong Kinh Thánh, trong phần đầu của bức thư, ta thường thấy ông luôn luôn dành để bày tỏ lòng tạ ơn Chúa về ân điển và sự thương xót của Ngài trên đời sống của chính ông và của con dân Ngài:
+ “Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 1, câu 4).
+ “Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em không thôi, thì cảm tạ Đức Chúa Trời là Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta” (Sách Cô-lô-se, chương 1, câu 3).
+ “Chúng tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca, thứ nhứt, chương 1, câu 2).
Ngay cả khi đang ở trong cảnh nguy nan nhất như bị bão và chìm tàu, Phao-lô cũng không quên tạ ơn Chúa: “Hôm nay là ngày thứ mười bốn mà các ngươi đang trông đợi, nhịn đói, chẳng ăn chút nào. Vậy, ta khuyên các ngươi hãy ăn, vì thật là rất cần cho sự cứu của các ngươi và chẳng ai trong vòng các ngươi sẽ mất một sợi tóc trên đầu mình. Nói như vậy rồi, người bèn lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời, rồi thì bẻ ra và ăn” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 27, câu 33-35).
Đặc biệt trong thư Ti-mô-thê thứ nhất, ông đã thể hiện sự tạ ơn Đức Chúa Trời cách thật đặc biệt:
“Ta cảm tạ Đấng ban thêm sức cho ta là Đức Chúa Giê-su Christ, Chúa chúng ta, về sự Ngài đã xét ta là trung thành, lập ta làm kẻ giúp việc. Ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đương lúc ta ngu muội chưa tin” (Chương 1, câu 12, 13).
Được cứu để trở nên con cái của Ngài và được Chúa dùng để hầu việc Ngài là một phước hạnh vô cùng lớn lao cho mỗi một chúng ta.
Phao-lô nói ông đã “đội ơn thương xót” (Nhiều bản dịch Việt Ngữ khác dịch là “nhận ơn thương xót” từ tiếng Anh và tiếng Hy-Lạp. Mỗi bản dịch đều có ý nghĩa riêng của nó giúp cho chúng ta hiểu rõ thêm sự sâu nhiệm của lời Kinh Thánh). Bản Truyền Thống 1926 dịch là “đội ơn thương xót”. Tôi thích cách dịch của Bản Truyền Thống ở riêng chỗ nầy hơn. “Đội” là ở vị trí trên đầu, chỗ cao nhất, thể hiện tấm lòng trân quý ơn thương xót của Đức Chúa Trời dành cho mình. Đúng ra chúng ta bị hình phạt, nhưng Ngài giữ sự hình phạt lại, không hình phạt chúng ta. Đó là sự thương xót. Đúng ra, chúng ta không xứng đáng để hưởng được sự cứu rỗi, nhưng Ngài đã ban sự cứu rỗi quý giá cho chúng ta. Đó chính là ân điển lớn lao của Ngài đã ban cho chúng ta.
Mùa Tạ Ơn đến là cơ hội, dịp tiện quý báu để chúng ta ghi sâu ơn Chúa trong đời sống của mình, vì bản tính con người chúng ta rất dễ... quên ơn, và rất dễ... vô ơn.
Warren Weirsbe, một Nhà Bình Luận Kinh Thánh nổi tiếng đã nói: “Lòng vô ơn chính là vùng đất màu mỡ cho mọi điều ác.”
Hãy cảnh giác sự vô ơn đang... tiềm ẩn đâu đó trong đời sống chúng ta!
Nhà Thơ kiêm Nhạc Sĩ A-sáp đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Đức Chúa Trời, và trả sự hứa nguyện ngươi cho Đấng Chí Cao... Kẻ nào dâng sự cảm tạ làm của lễ, tôn vinh Ta. Còn người nào đi theo đường ngay thẳng, Ta sẽ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời” (Sách Thi-thiên, chương 50, câu 14 và câu 23).
Sự cảm tạ phải là lễ vật mà mỗi con dân Chúa dành để dâng lên cho Đức Chúa Trời, vì Ngài xứng đáng được như thế. Khi chúng ta dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Chúa là chúng ta đang tôn vinh Ngài vậy!
Vua Đa-vít cũng khích lệ chúng ta: “Chúng tôi hãy lấy lời cảm tạ mà đến trước mặt Chúa. Vui mừng mà hát thơ ca cho Ngài” (Sách Thi-thiên, chương 95, câu 2).
Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta một tấm gương về sự tạ ơn Đức Chúa Cha. Phao-lô cũng đã để lại cho chúng ta một tấm gương về sự tạ ơn Chúa Giê-su, hầu cho chúng ta ghi nhớ và làm theo, sống một đời sống tạ ơn, để danh Chúa luôn được tôn cao!
Kính chúc mọi người một Lễ Tạ Ơn năm 2023 thật nhiều niềm vui và bình an bên gia đình và những người thân yêu!
California, Mùa Tạ Ơn 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 338
Chuyện... Những Người Nữ Trong Giáng Sinh Xưa
*Kinh Thánh: Lu-ca 1: 26-28, 41-45; Lu-ca 2: 36-38
Mỗi năm một lần, những người tin Chúa, nói riêng và nhân loại trên khắp hoàn vũ nói chung, đều hân hoan đón mừng ngày Thiên Chúa giáng trần vào những ngày cuối của năm.
Nhân mùa Giáng Sinh, chúng ta dành thì giờ để nói chuyện về những người nữ xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa.
Trong dịp Giáng Sinh năm xưa, có nhiều những nhân vật nữ xuất hiện trước và sau đêm Chúa giáng sinh để lại cho chúng ta những bài học thuộc linh quý báu trên linh trình theo Chúa.
Trước hết, chúng ta đề cập đến Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa Giê-su.
Có lẽ, Ma-ri là nhân vật nữ nổi bật hơn hết trong những người nữ xuất hiện trong dịp Giánh Sinh năm xưa. Kinh Thánh nhắc đến khá nhiều về người nữ nầy, dù nàng chỉ là một cô thôn nữ ở một làng quê nhỏ ít có tiếng tăm gì và ít người biết đến là làng Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê:
“Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít. Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi, Chúa ở cùng ngươi... Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Giê-su” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 26-28, và 31).
Sau những thắc mắc vốn có về sự chịu thai mầu nhiệm mà thiên sứ đã cho nàng biết, thì nàng đã trả lời: “Tôi đây là tôi tớ Chúa, xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 38).
Qua những câu Kinh Thánh nầy, trước hết, chúng ta thấy Ma-ri là một người nữ được ơn. Một người được ơn là một người như thế nào? Ấy là người được Chúa ở cùng. Người được ơn là người luôn biết vâng lời Chúa. Ma-ri đã nói: “Xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền.”
Trong khi đang mang thai thì nàng đi đến thăm một người nữ bà con với mình là Ê-li-sa-bét. Sau khi bà Ê-li-sa-bét khen ngợi nàng là người được phước và thai trong lòng nàng cũng được phước nữa, thì Ma-ri đã nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi. Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 46-48).
Qua lời bày tỏ của Ma-ri, chúng ta được biết thêm, một người được ơn không những là người được Chúa ở cùng, không những là người biết vâng lời Ngài, mà còn là người luôn biết ngợi khen Chúa và vui mừng trong Chúa nữa.
Khi ngày sanh đẻ của Ma-ri đã đến, Kinh Thánh cho biết nàng sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở. Câu chuyện Chúa giáng sinh đã được Nhà Văn Kiêm Sử Gia Kiêm Bác Sĩ Lu-ca thuật lại trong chương 2 của sách mang tên ông thật kỳ diệu, lạ lùng. Khi Ma-ri sanh Hài Nhi Giê-su thì có thiên sứ từ trời đến loan báo Tin Lành cho các anh chăn chiên đang trú ngoài đồng giữa đêm khuya giá lạnh.
Sau khi nghe Tin Lành từ thiên sứ loan báo, các anh chăn chiên đã rủ nhau đi đến nơi Chúa vừa sanh hạ là tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê để được tận mắt chiêm ngưỡng Hài Nhi Thánh. Họ thấy tất cả mọi sự đã diễn ra đúng y như lời thiên sứ đã phán truyền, họ bèn thuật lại những lời thiên sứ nói về Con Trẻ Giê-su cho mọi người.
Về phần Ma-ri, người vừa sanh hạ Chúa Giê-su thì được Kinh Thánh ghi lại rằng: “Còn Ma-ri thì ghi nhớ mọi lời ấy và suy nghĩ trong lòng” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 19).
Kinh Thánh cũng cho biết: “Khi Giô-sép và Ma-ri đã làm trọn mọi việc theo luật pháp Chúa rồi thì trở về thành của mình là Na-xa-rét trong xứ Ga-li-lê” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 39).
Như vậy, chúng ta thấy một người được ơn thì luôn luôn ghi nhớ lời Chúa và suy niệm trong lòng mình. Một người được ơn thì sẽ luôn luôn cố gắng nhờ ơn Chúa hoàn thành mọi công việc Chúa giao cho mình cách tốt đẹp nhất. Không bỏ dở công việc, không thả trôi công việc, vì thả trôi công việc là đồng nghĩa với phá hoại công việc vậy: “Kẻ thả trôi trong công việc mình cũng là anh em của kẻ phá hoại” (Sách Châm Ngôn, chương 18, câu 9).
Người nữ thứ hai hiện diện trong dịp Giáng Sinh năm xưa, đó là bà Ê-li-sa-bét.
Kinh Thánh giới thiệu về Ê-li-sa-bét như sau: “Trong đời Hê-rốt, vua nước Giu-đê, có một thầy tế lễ, về ban A-bi-a, tên là Xa-cha-ri, vợ người là Ê-li-sa-bét, thuộc về chi phái A-rôn. Cả hai đều là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn và lễ nghi của Chúa một cách không chỗ trách được” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 5, 6).
Sau khi nghe biết về việc Đức Chúa Trời sẽ ban cho hai vợ chồng bà một đứa con trong khi ông bà đã cao tuổi, thì bà đã xác nhận: “Ấy là ơn Chúa đã làm cho tôi, khi Ngài đã đoái đến tôi, để cất sự xấu hổ tôi giữa mọi người.” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 25).
Ê-li-sa-bét là người đầu tiên đã có lời khen ngợi Ma-ri về việc nàng mang thai Chúa Giê-su: “Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót, và Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy là mẹ Chúa ta đến thăm ta? Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!” (Sách Lu-ca, chương 1, câu 41-45).
Qua những gì Kinh Thánh nói về Ê-li-sa-bét và qua lời bà bày tỏ, cũng như qua những lời khen tặng của bà dành cho Ma-ri, chúng ta thấy mấy điều tốt đẹp về người nữ nầy:
- Thứ nhất, Ê-li-sa-bét là người công bình và vâng giữ Lời Chúa một cách tuyệt vời.
- Thứ nhì, Ê-li-sa-bét là người luôn nhớ ơn và biết ơn, chứ không phải là người quên ơn hay vô ơn.
- Thứ ba, Ê-li-sa-bét là người không so bì, ganh tỵ. Không ít người khi thấy người khác nhận được phước hạnh gì đó, thì liền so bì, ganh tỵ. Người đó có hơn gì tôi mà lại nhận được phước ấy? Tại sao tôi lại không được nhận? Thật là không công bằng!...v.v... và v.v...
- Thứ tư, Ê-li-sa-bét là người có tinh thần khích lệ người khác. Bà nói với Ma-ri: “Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước”
- Thứ năm, Ê-li-sa-bét có lòng vui mừng trước phước hạnh của người khác. Bà nói: “Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy là mẹ Chúa ta đến thăm ta. Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng”
Sở dĩ, bà Ê-li-sa-bét có được những điều đáng quý ấy là vì Kinh Thánh cho biết bà là người được đầy Đức Thánh Linh.
Đó là những điều đáng quý từ bà Ê-li-sa-bét mà chúng ta học được.
Người nữ thứ ba xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa là Nữ Tiên Tri An-ne.
Kinh Thánh viết về bà rằng: “Lại có bà Tiên Tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, về chi phái A-se, đã cao tuổi lắm. Từ lúc còn đồng trinh đã ở với chồng được bảy năm, rồi thì ở góa. Bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi, chẳng hề ra khỏi đền thờ, cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Một lúc ấy, người cũng thình lình đến đó, ngợi khen Đức Chúa Trời, và nói chuyện về Con Trẻ với mọi người trông đợi sự giải cứu của thành Giê-ru-sa-lem” (Sách Lu-ca, chương 2, câu 36-38).
An-ne là một Nữ Tiên Tri của Đức Chúa Trời. Tên của bà có nghĩa là “Ân sủng”, hay “Ân Điển”. Bà được Chúa dùng như là một phát ngôn nhân của Ngài.
Bà có chồng và sống với chồng được bảy năm, rồi sau đó ở góa. Có lẽ chồng bà đã qua đời vì một lý do nào đó, chúng ta không biết, vì Kinh Thánh không có nói đến. Khi ở vào tuổi hơn bát tuần (tám mươi bốn tuổi), bà vào ở luôn trong đền thờ để hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Có lẽ vì tuổi tác quá cao, đi lại không còn khỏe như trước, nên bà đã xin vào ở luôn trong đền thờ để phục vụ Chúa cho thuận tiện.
Nữ Tiên Tri An-ne có những đức tính đáng quý đáng cho chúng ta học hỏi và làm theo:
- Bà là người luôn sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ngày xưa, nói đến đền thờ là nói đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời. An-ne “chẳng hề ra khỏi đền thờ”, có nghĩa bà là người luôn ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
- Bà là người hầu việc Chúa cách sốt sắng hiếm có. Cụm từ “cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời” cho thấy tinh thần hầu việc Chúa quý báu đó của bà.
- Bà là người có một đời sống thuộc linh gương mẫu thể hiện qua việc bà kiêng ăn, cầu nguyện với Chúa.
Có thể nói rằng lòng bà luôn hướng về Chúa, không lúc nào ngơi nghỉ. Lòng bà giống như lời Chúa chép rằng: “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất, chương 5, câu 16, 17).
- Bà là người có tấm lòng ngợi khen Đức Chúa Trời. Nữ Tiên Tri An-ne là người đã có mặt trong thời điểm sau khi Chúa Giê-su sanh ra và khi Ngài được đem đến đền thờ để dâng cho Đức Chúa Trời. Bà xuất hiện một cách thình lình, bất ngờ với mục đích là ca ngợi Chúa và nói chuyện với mọi người về Con Trẻ Giê-su. Lòng bà trước đó có lẽ luôn hướng về Đấng Mết-si-a đến để ban sự cứu rỗi cho nhân loại. Cho nên khi được biết Chúa Giê-su được đem đến đền thờ thì bà rất vui mừng, liền đến để chiêm ngưỡng, ngợi khen và giới thiệu với mọi người về Đấng mà bà đã mong đời từ lâu.
Có thể nói rằng, nếu các anh chăn chiên là những người nam đầu tiên rao báo Tin Lành về Chúa Giê-su giáng sinh, thì An-ne là người nữ đầu tiên được Chúa dùng để giới thiệu về Đấng Cứu Thế cho người khác vậy.
Thật đáng quý cho một tấm lòng như thế!
Đó là một số những người nữ xuất hiện trong dịp Giáng Sinh năm xưa, cách đây hơn hai ngàn năm đã qua. Cuộc đời theo Chúa của họ đã để lại cho chúng ta nhiều bài học thuộc linh quý báu, để chúng ta có thể học hỏi và làm theo trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài của mình ngày hôm nay.
Họ là một trong nhiều gương mẫu thuộc linh đáng kính mà Kinh Thánh đã ghi lại để đem lại sự khích lệ cho nhiều người trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong niềm tin đặt nơi Chúa!
Giáng Sinh lại về, những nhân vật nữ đáng yêu nầy chắc chắn sẽ lại được con dân Chúa khắp nơi nhắc đến đời sống tin kính của họ để lan tỏa tình yêu của Đấng Cứu Thế cho mọi người gần xa!
California, Mùa Giáng Sinh 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 339
Mùa Giáng Sinh, Nói Chuyện... Biết Để Biết Hay... Biết Để Làm
Mùa Giáng Sinh 2023 đang về với mọi người mọi nhà. Không khí Giáng Sinh như đang tràn ngập khắp mọi nơi trên hoàn vũ. Các cửa hàng, các chợ búa, các siêu thị đều náo nhiệt ngày đêm để buôn bán.
Nhân mùa Giáng Sinh, xin mời bạn cùng tôi làm một chuyến... trở về với sự kiện không tiền khoáng hậu nầy năm xưa được ghi lại trong Kinh Thánh, để tìm hiểu về những cách đáp ứng của người thời đó với sự kiện Chúa Giê-su giáng sinh đã xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm.
Nói về chuyện... biết, tôi có đọc được ở đâu đó những câu nói rất hay:
- Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.
- Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa.
- Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận là không biết, như vậy mới là biết.
- Biết đến đâu, làm đến đấy.
- Khôn chết, dại chết, biết thì sống.
Có được sự hiểu biết nhứt định ở đời để sống với người ta là điều rất quan trọng. Nhưng sự hiểu biết chỉ thực sự có giá trị là khi ta áp dụng nó vào trong cuộc sống, chứ nếu chỉ biết để mà biết thì chẳng có ý nghĩa gì cả.
Trong câu chuyện về sự giáng sinh của Chúa Giê-su được ký thuật lại trong sách Ma-thi-ơ, chương 2, từ câu 1 đến câu 12, ta thấy có hai hạng người biết. Một là hạng người biết để biết và hạng người thứ hai là biết để làm.
Các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo là hạng người biết để mà biết, chứ không làm gì cả.
Trong Ma-thi-ơ chương 2, chúng ta thấy các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo là những người biết rõ về sự giáng sinh của Chúa Giê-su hơn ai hết.
Kinh Thánh cho biết, khi Vua Hê-rốt “nhóm các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo trong dân lại mà tra hỏi rằng Đấng Christ phải sanh tại đâu”, thì họ liền tâu với Vua rất nhanh chóng rằng: “Tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, vì có lời của Đấng Tiên Tri chép như vầy: Hỡi Bết-lê-hem, đất Giu-đa! Thật ngươi chẳng kém gì các thành lớn của xứ Giu-đa đâu, vì từ ngươi sẽ ra một tướng, là Đấng chăn dân Y-sơ-ra-ên, tức dân Ta” (Ma-thi-ơ, chương 2, câu 4-6).
Các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo là những thành phần lãnh đạo dân sự của Chúa, những thành phần chóp bu trong tôn giáo.
Thầy Tế Lễ là người trung gian giữa Đức Chúa Trời với dân sự và giữa dân sự với Đức Chúa Trời. Nhiệm vụ chính của Thầy Tế Lễ là dâng của tế lễ cho Đức Chúa Trời, lo công việc trong nơi thánh và cầu thay cho dân sự.
Trong vòng các Thầy Tế Lễ, sẽ có người được chọn để trở thành Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm (Thầy Tế Lễ Cả) để dâng huyết lên cho Đức Chúa Trời trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội mỗi năm một lần để chuộc tội cho chính mình và cho dân sự. Thầy Tế Lễ Cả đầu tiên đó chính là A-rôn.
Thầy Thông Giáo là những người sao chép luật pháp của Chúa, là những người thông thạo luật pháp Môi se, chuyên nghiên cứu và giải nghĩa Lời Chúa.
Trong Tòa Công Luận là Tòa Án Tôn Giáo của người Do-thái ngày xưa có rất nhiều Thầy Tế Lễ Cả và Thầy Thông Giáo.
Ma-thi-ơ chương 23 là đoạn Kinh Thánh mà Chúa Giê-su dành để lên án mạnh mẽ Thầy Thông Giáo và người Pha-ri-si. Điều đầu tiên mà Chúa lên án họ, đó là họ nói mà không làm: “Các Thầy Thông Giáo và người Pha-ri-si đều ngồi trên ngôi của Môi se. Vậy, hãy làm và giữ theo mọi điều họ đã bảo các ngươi, nhưng đừng bắt chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm” (Sách Ma-thi-ơ chương 23, câu 2, 3)
Khi Vua Hê-rốt hỏi “Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu?” thì Thầy Tế Lễ Cả và Thầy Thông Giáo trả lời vanh vách, nhanh chóng, rõ ràng và rành mạch, không còn gì rõ ràng, rành mạch hơn: “Tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, vì có lời của Đấng Tiên Tri chép như vầy: Hỡi Bết-lê-hem, đất Giu-đa! Thật ngươi chẳng kém gì các thành lớn của xứ Giu-đa đâu, vì từ ngươi sẽ ra một tướng, là Đấng chăn dân Y-sơ-ra-ên, tức dân Ta”.
Họ biết rất rõ nơi Chúa Giê-su sanh ra, nhưng có điều là họ không làm theo những gì họ biết đó.
Họ chỉ biết bằng trí, chứ không biết bằng lòng. Những người biết bằng trí mà không biết bằng lòng sẽ là những người không làm theo những gì họ biết.
Từ Giê-ru-sa-lem đến Bết-lê-hem chỉ cách nhau chừng năm dặm (độ tám ki-lô-mét) mà họ cũng không thèm đến để thờ lạy Chúa.
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
(Tương Tư – Nguyễn Bính)
Cách có năm dặm (tám cây số) chứ mấy mà sao tình của các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo lại xa xôi với Ngài như vậy nhỉ?
Ngược lại với các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo, các Nhà Thông Thái (các Bác Sĩ) biết Chúa đã giáng sinh thì liền đi tìm đến tận nơi để thờ phượng Ngài cho bằng được, dù họ ở cách rất xa nhà của Chúa.
Kinh Thánh ghi: “Khi Đức Chúa Giê-su đã sanh tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, đang đời vua Hê-rốt, có mấy thầy Bác Sĩ ở đông phương đến thành Giê-ru-sa-lem mà hỏi rằng: Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu? Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài” (Sách Ma-thi-ơ, chương 2, câu 1, 2).
Các Nhà Thông Thái nầy không phải ở ngay tại Giê-ru-sa-lem như các Thầy Tế Lễ Cả hay các Thầy Thông Giáo, họ ở tận bên đông phương, có lẽ thuộc nước I-ran ngày hôm nay. Khoảng cách từ quê hương của họ đến Thủ Đô Giê-ru-sa-lem độ chừng năm trăm dặm (chừng tám trăm ki-lô-mét), một quãng đường quá xa vào thời xa xưa, nhưng họ vẫn không từ nan, họ vẫn quyết tâm tìm đến tận nơi để thờ phượng Chúa Giê-su.
Các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo chỉ cách chỗ Chúa Giê-su sinh chừng 8 ki-lô-mét mà thôi, nhưng hoàn toàn dửng dưng trước sự giáng sinh của Vua Trời. Còn các Nhà Thông Thái cách nhà chỗ Chúa ở gấp cả trăm lần hơn, nhưng họ quyết định vượt mọi trở ngại để tìm thờ Chúa Cứu Thế.
Thật quá sức nể nang cho tấm lòng tìm cầu Chúa của họ!
Nhà Văn Nguyễn Bá Học của Việt Nam có nói một câu rất chí lí: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.”
Ca Dao vùng Quảng Nam có câu:
Dầu xa chỗ ngõ cũng xa.
Dầu gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần.
Kinh Thánh tường thuật tiếp về các Bác Sĩ: “Khi vào đến nhà, thấy Con Trẻ cùng Ma-ri, mẹ Ngài, thì sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài, rồi bày của báu ra, dâng cho Ngài những lễ vật là vàng, nhũ hương và một dược” (Sách Ma-thi-ơ, chương 2, câu 11).
Các Bác Sĩ không phải đi hai tay không, nhưng còn mang theo lễ vật rất quý để dâng cho Vua Trời nữa.
Quý hơn hết cả là hành động sấp mình xuống trước Vua Trời mà thờ lạy. Họ không thờ lạy mẹ Chúa Giê-su mà thờ lạy chính Chúa Giê-su. Họ không thờ lạy người mà thờ lạy Trời.
Các Bác Sĩ đúng là những người biết để mà làm, chứ không thuộc hạng người biết để mà biết như các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo.
Chúa Giê-su phán: “Ví bằng các ngươi biết những sự nầy thì có phước, miễn là các ngươi làm theo” (Sách Giăng, chương 13, câu 17).
Thánh Gia cơ cũng dạy: “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Sách Gia cơ, chương 1, câu 22).
Nếu biết chỉ để mà biết thì chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí có khi còn đem lại nguy hiểm cho người khác nữa; nhưng biết để mà làm thì sẽ được phước và đem lại sự khích lệ cho nhiều người.
Ma quỷ biết rất rõ về Chúa và về Lời của Ngài, nhưng có điều nó không tin Ngài và cũng không thờ lạy Ngài nữa: “Ngươi tin rằng chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, ngươi tin phải; ma quỷ cũng tin như vậy và run sợ” (Sách Gia cơ, chương 2, câu 19).
Nếu bạn biết Chúa và Lời của Ngài mà bạn không làm theo, không tìm kiếm Ngài để thờ phượng, thì bạn đang ở về phe với ma quỷ, dầu muốn hay không, giống như Vua Hê-rốt với các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo ngày xưa đã ở về phe với ma quỷ vậy.
Mùa Giáng Sinh năm nay, một lần nữa, câu chuyện Giáng Sinh trong Ma-thi-ơ chương 2 lại được con dân Chúa đọc đi đọc lại để được nhắc nhớ về những tấm gương xấu và tốt, hầu thức tỉnh và khích lệ mỗi một người trong chúng ta trên bước đường theo Chúa và hầu việc Ngài.
Cầu xin Chúa ban phước cho mỗi một chúng ta!
Chúc Mừng Giáng Sinh 2023 Và Năm Mới 2024!
California, Tháng 12/ 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 340
Mùa Giáng Sinh, Nói Chuyện... Tìm Để Diệt Và... Tìm Để Cứu
*Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 2: 1-8, 16; Giăng 8: 44; 10: 10; Rô-ma 5: 8; Hê-bơ-rơ 2: 14, 15
Mùa Giáng Sinh theo đúng chu kỳ ấn định của vòng tròn thời gian lại trở về với nhân loại trên cả địa cầu.
Có thể nói rằng, Giáng Sinh là Lễ Mừng Sinh Nhật của một nhân vật vĩ đại nhất đã từng hiện diện trong lịch sử loài người. Nhân vật đó không ai khác hơn là chính Chúa Cứu Thế Giê-su.
Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giê-su đã xuống thế làm người tại một tiểu thôn cô quạnh là thành Bết-lê-hem, nước Do-thái ngày xưa để cứu rỗi con người ra khỏi tội.
Dù Chúa Giê-su giáng sinh tại một tiểu thôn thôi, nhưng sau khi Ngài giáng sinh rồi, thì làm cho cả kinh đô Giê-ru-sa-lem nổi tiếng, trong đó có cả vua quan và quần thần đều phải bối rối, lo sợ. Ngược lại, cũng có những nhà thông thái từ phương đông xa xôi lên đường tìm kiếm Đấng Cứu Thế cho bằng được để thờ lạy. Chỉ những điều đó thôi cũng đủ cho ta thấy sự vĩ đại của Hài Nhi Thánh là không ai sánh được.
Chính vì sự vĩ đại của Ngài, sự vinh hiển tột cùng của Ngài mà sau khi Ngài giáng sinh, Vua Hê-rốt đã lập tức tìm mọi cách để tiêu diệt Ngài.
Nhân mùa Giáng Sinh về, chúng ta cùng nói chuyện về... tìm để diệt và... tìm để cứu.
Câu chuyện Giáng Sinh được Ma-thi-ơ ghi lại trong sách của mình cho chúng ta thấy dã tâm của Vua Hê-rốt sau khi nghe tin Chúa Giê-su giáng sinh:
“Khi Đức Chúa Giê-su đã sanh tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, đang đời vua Hê-rốt, có mấy thầy bác sĩ ở đông phương đến thành Giê-ru-sa-lem, mà hỏi rằng: Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu? Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài. Nghe tin ấy, vua Hê-rốt cùng cả thành Giê-ru-sa-lem đều bối rối. Vua bèn nhóm các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo trong dân lại mà tra hỏi rằng Đấng Christ phải sanh tại đâu. Tâu rằng: Tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đê; vì có lời của đấng tiên tri chép như vầy: Hỡi Bết-lê-hem, đất Giu-đa! Thật ngươi chẳng phải kém gì các thành lớn của xứ Giu-đa đâu, Vì từ ngươi sẽ ra một tướng, Là Đấng chăn dân Y-sơ-ra-ên, tức dân ta. Vua Hê-rốt bèn vời mấy thầy bác sĩ cách kín nhiệm, mà hỏi kỹ càng về ngôi sao đã hiện ra khi nào. Rồi vua sai mấy thầy đó đến thành Bết-lê-hem, và dặn rằng: Các ngươi hãy đi, hỏi thăm cho chắc về tích con trẻ đó; khi tìm được rồi, hãy cho ta biết, đặng ta cũng đến mà thờ lạy Ngài...
Vua Hê-rốt thấy mình đã bị mấy thầy bác sĩ đánh lừa, thì tức giận quá, bèn sai giết hết thảy con trai từ hai tuổi sấp xuống ở thành Bết-lê-hem và cả hạt, theo đúng ngày tháng mà mấy thầy bác sĩ đã cho vua biết” (Sách Ma-thi-ơ, chương 2, câu 1-8 và 16).
Sau khi nghe tin Chúa Giê-su đã giáng sinh, Vua Hê-rốt bối rối, lo sợ bèn vời những người giỏi nhất, đáng tin cậy nhất là các Thầy Tế Lễ Cả và các Thầy Thông Giáo lại để... xác minh cho chắc chắn. Và quả thật Vua dân Giu-đa vừa mới sinh ra y như tin tức mà các Bác Sĩ đã cho biết. Sau đó, để thêm phần chắc chắn một trăm phần trăm, Vua bèn vời các Bác Sĩ đến một chỗ kín đáo để... xác minh lại lần chót: “Vua Hê-rốt bèn vời mấy thầy bác sĩ cách kín nhiệm, mà hỏi kỹ càng về ngôi sao đã hiện ra khi nào. Rồi vua sai mấy thầy đó đến thành Bết-lê-hem, và dặn rằng: Các ngươi hãy đi, hỏi thăm cho chắc về tích con trẻ đó; khi tìm được rồi, hãy cho ta biết, đặng ta cũng đến mà thờ lạy Ngài” (Sách Ma-thi-ơ, chương 2, câu 7, 8).
Vua Hê-rốt rất cẩn thận trong việc tìm biết nơi Vua dân Giu-đa vừa mới sinh ra. Tại sao ông lại tìm biết nơi Chúa Giê-su sanh ra một cách cẩn thận như thế? Theo như lời ông nói, thì là để ông cũng đến mà... ”thờ lạy Ngài” như các Bác Sĩ kia. Đó là lời ông nói, nhưng lòng ông thì lại khác, không giống như lòng ông:
Vua Hê-rốt thấy mình đã bị mấy thầy bác sĩ đánh lừa, thì tức giận quá, bèn sai giết hết thảy con trai từ hai tuổi sấp xuống ở thành Bết-lê-hem và cả hạt, theo đúng ngày tháng mà mấy thầy bác sĩ đã cho vua biết” (Sách Ma-thi-ơ, chương 2, câu 16).
Lời Vua Hê-rốt thật tốt đẹp, nhưng lòng ông thì lại vô cùng xấu xa, độc ác, đúng như câu Thành Ngữ trong dân gian của người Việt Nam “Miệng Nam Mô mà lòng thì bồ dao găm”
Quả thật, Hê-rốt là ông Vua độc ác. Không những ông giết không thương tiếc tất cả những em bé trai từ hai tuổi trở xuống ở thành Bết-lê-hem và cả hạt là thần dân của ông; nhưng lịch sử còn cho biết vì lo sợ mất ngài vàng, nên ông đã đan tâm ra tay giết vợ và mẹ vợ, giết luôn cả con trai của mình nữa.
Chúa Giê-su đã phán: “Kẻ trộm (tức ma quỷ) chỉ đến để cướp giết và hủy diệt” (Sách Giăng, chương 10, câu 10 phần a).
Trong một chỗ khác, Chúa Giê-su cũng phán: “Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối” (Sách Giăng, chương 8, câu 44).
Những đặc điểm cướp giết, hủy diệt và nói dối là những đặc điểm nổi bật của ma quỷ. Hay nói đúng hơn, đó là bản chất của chúng.
Vua Hê-rốt có đầy đủ những bản chất nầy: Ông nói dối là đến để thờ lạy, nhưng nói như người Sài Gòn thường nói là “nói dậy mà không phải dậy”. Ông không đến để thờ lạy Chúa Giê-su như lời ông đã nói. Sau đó, ông đã cho giết hết thảy các bé trai từ hai tuổi trở xuống, nhằm mục đích là có thể giết được Chúa Giê-su trong số những đứa bé trai đó. Ông là hiện thân của cha ông là ma quỷ, đến để cướp giết và hủy diệt mà thôi.
Chúa Giê-su thì khác. Nếu ma quỷ là kẻ đến để cướp giết và hủy diệt, thì Chúa Giê-su là Đấng đến để cứu con người ra khỏi tội.
“Kẻ trộm (ma quỷ) chỉ đến để cướp giết và hủy diệt, còn Ta đã đến để cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Sách Giăng, chương 10, câu 10).
Sử Gia kiêm Bác Sĩ Lu-ca cho biết: “Bởi Con Người (tức Chúa Giê-su) đã đến để tìm và cứu kẻ bị mất” (Sách Lu-ca, chương 19, câu 10).
Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giê-su đã giáng sinh xuống trần gian nầy với một mục đích là để tìm và cứu tội nhân.
Kinh Thánh cho biết “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời... Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Sách Rô-ma, chương 3, câu 23, và chương 6, câu 23).
Tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời, và hậu quả (tức tiền công) mà họ phải nhận lãnh là sự chết. Cả nhân loại khi phạm tội thì bị ma quỷ cầm buộc trong vòng tôi mọi trọn đời, vô phương tự cứu: “Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Giê-su cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết là ma quỷ, lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự chết, bị cầm trong vòng tôi mọi trọn đời” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 2, câu 14, 15).
Thật rõ ràng, Chúa Giê-su đến để phá diệt kẻ cầm quyền sự chết là ma quỷ để giải thoát (cứu rỗi) con người bị ma quỷ cầm buộc trọn đời trong sự chết kinh khiếp đó. Và cái giá Chúa Giê-su phải trả để giải thoát con người ra khỏi bàn tay của ma quỷ, đó chính là sự chết của Ngài trên thập tự giá cách đây gần hai ngàn năm đã qua.
Có câu chuyện kể, có lần, Vua Ấn Độ thắc mắc với người Cố Vấn của mình là một người tin Chúa rằng, nghe nói Chúa Giê-su là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa, có quyền năng thì chỉ cần ra lịnh là nhân loại được cứu, đâu cần phải giáng thế để cứu người làm chi cho mất công? Giống như ta là vua đây, muốn gì chỉ cần sai bảo cận thần một tiếng là họ phải làm ngay. Vị Cố Vấn xin Vua đợi cho vài ngày rồi sẽ trả lời. Ông cho người làm một hình gỗ giống Hoàng Tử mà Vua rất yêu quý. Một hôm, Vua đi du ngoạn trên sông cùng vị Cố Vấn, vị Cố Vấn cho người đem xô “Hoàng Tử” xuống sông trước mặt Vua. Vua nhìn thấy liền lập tức nhảy xuống để cứu con mình. Vị Cố Vấn nói “Sao Vua không ngồi yên ra lệnh mà phải nhảy xuống sông để cứu con?” Vua nói, “Ta hiểu rồi! Ta hiểu rồi! Tất cả chỉ vì yêu mà thôi!”
Thánh Phao-lô xác quyết: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8).
Chúa Giê-su giáng sinh là vì yêu thương nhân loại. Chúa Giê-su chịu chết cho nhân loại cũng chỉ vì yêu thương mà thôi!
Ma quỷ đến để cướp giết và hủy diệt vì sự hận thù, ghen ghét; còn Chúa Giê-su đến để tìm và cứu nhân loại vì yêu thương họ. Vì yêu thương con người bị cầm buộc trong tội lỗi nên Chúa phải giáng sinh, vì sự công bình nên Chúa phải chết thay cho tội nhân để ai tin nhận Ngài thì được sự sống và được sự sống dư dật.
Mùa Giáng Sinh nầy, tôi mong bạn dành thì giờ suy gẫm lời Kinh Thánh để nhận biết hai điều quan trọng mà tôi vừa thưa chuyện với bạn:
Ma quỷ đến chỉ để cướp giết và hủy diệt, vì đó là bản chất của nó. Còn Chúa Giê-su đến là để ban sự cứu rỗi và sự sống dư dật cho người nào tin nhận Ngài, vì bản chất của Ngài là yêu thương và công bình.
Sau khi nhận biết được bản chất của vấn đề, thì bạn cần đi đến một quyết định sinh tử cho cuộc đời của mình, ấy là hãy mở lòng ra đón nhận Chúa Giê-su vào lòng để nhận được sự sống đời đời. Nếu bạn chần chừ, do dự, không chịu tiếp nhận Chúa Giê-su, thì có nghĩa là bạn chấp nhận để cho ma quỷ cướp giết và hủy diệt cuộc đời của bạn vậy.
Một là chọn Chúa Giê-su là Đấng yêu thương bạn và đã hy sinh mạng sống của Ngài cho bạn, hai là làm tôi mọi trọn đời trong vòng tay của kẻ cướp giết và hủy diệt là ma quỷ. Không có con đường trung dung.
Khi một ai yêu thương bạn đến nỗi hy sinh mạng sống vì bạn, thì có lẽ không còn cần phải đắn đo, hồ nghi gì nữa về tình yêu của người ấy dành cho mình.
Chúa Giê-su là Đấng duy nhất đã làm điều đó cho bạn hai ngàn năm đã qua, vậy thì sao bạn còn chần chờ gì nữa mà chưa đến với Ngài, chưa tin nhận Ngài?
Mùa Giáng Sinh là một cơ hội tốt cho bạn trở thành con cái của Ngài!
California, Mùa Giáng Sinh 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 341
Mùa Giáng Sinh, Nói Chuyện... Tuyệt
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 1: 18; Phi-líp 2: 6-8; I Ti-mô-thê 1: 15
Mỗi năm một lần, nhân loại trên khắp hoàn cầu đều vui mừng kỷ niệm sự giáng sinh của Chúa Giê-su, cho dù đó là người tin Chúa hay chưa tin.
Sự giáng sinh của Chúa Giê-su nghiễm nhiên trở thành sinh nhật lớn nhất trên hành tinh. Không một nhân vật nào có sự kỷ niệm sinh nhật lớn như thế.
Đức Chúa Trời là Đấng có tất cả mọi điều tuyệt vời ở trong Ngài, không một thần nào sánh được với Ngài, vì Ngài vượt cao hơn tất cả và tất cả đều ở dưới Ngài. Tất cả đều bất toàn và hữu hạn.
Kinh Thánh dạy: “Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời rất lớn, là Vua cao cả trên hết các thần... Tôi biết rằng Đức Giê-hô-va là lớn. Chúa chúng tôi trổi cao hơn hết các thần” (Sách Thi-thiên, chương 95, câu 3, và Thi-thiên chương 135, câu 5).
Đức Chúa Trời quả thật là Đấng cao cả tuyệt đỉnh, vĩ đại tuyệt đỉnh. Vì vậy, Ngài là Đấng duy nhất đáng để con người thờ phượng và hầu việc mà thôi. Thờ phượng ai khác ngoài Đức Chúa Trời Ba Ngôi đều là sai trật, vì thờ chưa tới nơi, chưa đúng chỗ.
Hôm nay, nhân mùa Giáng Sinh, chúng ta cùng nói chuyện... tuyệt qua sự giáng sinh của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su giáng sinh là một sự kiện đặc biệt có một không hai trong lịch sử loài người.
Không có bất cứ sự sinh ra của con người nào trên trần gian nầy sánh được với sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế. Mọi người đều được sinh ra theo công lệ thiên nhiên mà Đức Chúa Trời đã “đặt để” (set up) từ khi dựng nên loài người là vợ chồng ăn ở với nhau và sinh con cái, tức sinh bởi khí huyết, bởi tình dục (Sách Giăng, chương 1, câu 13). Nhưng Đức Chúa Giê-su thì được sinh ra một cách siêu nhiên. Kinh Thánh khẳng định:
“Vả, sự giáng sinh của Đức Chúa Giê-su Christ đã xảy ra như vầy: Khi Ma-ri, mẹ Ngài đã hứa gả cho Giô-sép, song chưa ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh”(Sách Ma-thi-ơ, chương 1, câu 18).
Ma-ri mang thai không phải bởi do ăn ở với Giô-sép, nhưng nàng mang thai Chúa Giê-su là bởi sự hoài thai của Đức Thánh Linh.
Chính vì Chúa Giê-su không sinh ra theo công lệ thiên nhiên mà Ngài được sinh ra cách siêu nhiên, vượt lên trên và ngoài công lệ thiên nhiên; cho nên sự giáng sinh của Ngài là vô cùng kỳ diệu mà con người không thể hiểu được bằng trí óc hữu hạn của mình.
Ta có thể nói rằng sự sinh ra của Ngài là... tuyệt diệu vậy.
Chúa Giê-su giáng sinh với một mục đích là để tìm và cứu tội nhân.
Kinh Thánh chép: “Bởi Con Người đã đến để tìm và cứu kẻ bị mất” (Sách Lu-ca, chương 19, câu 10).
“Đức Chúa Giê-su Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy” (Sách Ti-mô-thê thứ nhất, chương 1, câu 15).
Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối, đúng ra, theo suy luận thông thường của đầu óc con người chúng ta, thì Ngài phải đến thế gian nầy để cứu những người trong sạch, xứng đáng mới hữu lý chứ. Nhưng không, trăm lần không, ngàn lần không. Ngài đến để tìm và cứu tội nhân.
Mục đích Chúa Giê-su giáng sinh là để cứu vớt những kẻ có tội, đó là một mục đích... tuyệt vời.
Để có thể cứu vớt kẻ có tội, Đức Chúa Giê-su phải làm một công việc mà không ai có thể và có đủ tư cách để làm, đó là Ngài phải hy sinh chính mạng sống của Ngài trên thập tự giá, đổ huyết vô tội của Ngài ra để cứu chuộc tội nhân ra khỏi tội lỗi, ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan.
Mọi người đều là tội nhân, nên không ai có thể chết thay cho tội nhân được, họ chỉ có thể chết vì tội của chính mình mà thôi. Để chết thay cho tội nhân, thì cần phải có một con người hoàn toàn vô tội mới có đủ tư cách (qualified) để làm điều đó, và mới hợp pháp và công bình. Chúa Giê-su Christ là Đấng đó: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 5, câu 21).
Kinh Thánh dạy: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8).
“Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 15, câu 3).
Chúa Giê-su giáng sinh là để chết cho tội nhân, hầu cứu họ ra khỏi tội lỗi. Đấng vô tội đã chết cho kẻ có tội, chỉ vì yêu thương mà thôi.
Tình yêu của Chúa dành cho tội nhân là tình yêu lớn nhất, không có tình yêu nào sánh bằng. Cho nên, tình yêu của Chúa dành cho kẻ có tội là tình yêu... tuyệt đỉnh.
Sự kiện Chúa Giê-su giáng sinh bày tỏ sự khiêm nhường cùng tột của Ngài để cứu rỗi con người.
Kinh Thánh cho biết: “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 6-8).
Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời, nhưng Ngài bằng lòng từ bỏ địa vị cao sang tột đỉnh trên Thiên Đàng, lấy hình tôi tớ giáng sinh xuống trần gian đầy tội lỗi nầy và trở nên con người, sống giữa vòng loài người.
Trời trở thành người đã là một sự hạ mình, khiêm nhường không hiểu nổi rồi; nhưng chưa dừng ở đó, Chúa Giê-su còn tình nguyện chấp nhận chết trên cây thập tự nữa. Chết trên thập tự giá là cái chết đớn đau nhất, xấu xa nhất và nhục nhã nhất vào thời ấy.
Có thể nói không một ai có một đời sống khiêm nhường như Chúa Giê-su. Có bài Thánh Ca ca ngợi sự khiêm nhường của Ngài có đoạn lời như sau: “Chẳng có ai khiêm ty như Giê-su bạn hiền. Chẳng có ai, chẳng ai bằng!” Sự hạ mình của Chúa Giê-su mà Kinh Thánh đã bày tỏ là cùng tột, không còn có chỗ nào để có thể hạ thấp hơn được nữa.
Cho nên, sự khiêm nhường, hạ mình của Chúa Giê-su là không ai sánh bằng. Đó là một sự khiêm nhường... tuyệt đối vậy!
Đó là một số điều... tuyệt về Chúa Giê-su khi chúng ta suy gẫm về sự giáng sinh của Ngài nhân mùa Giáng Sinh.
Sự sinh ra của Ngài là... tuyệt diệu!
Mục đích Chúa Giê-su giáng sinh là để cứu vớt những kẻ có tội, đó là một mục đích... tuyệt vời.
Tình yêu của Chúa dành cho kẻ có tội là... tuyệt đỉnh!
Sự khiêm nhường, hạ mình của Chúa Giê-su là... tuyệt đối!
Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài dành cho nhân loại là... tuyệt vời, vì Ngài đã không tiếc chính Con mình (là Đức Chúa Giê-su Christ) mà phó cho chúng ta, và Ngài cũng đã ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta nữa (ý từ sách Rô-ma, chương 8, câu 32).
Vì yêu thương chúng ta là những tội nhân mà Đức Chúa Trời đã bằng lòng dành tất cả những gì tốt đẹp nhất của Ngài cho chúng ta, cao điểm của mọi điều tốt đẹp ấy là ban Chúa Giê-su, Con độc sanh của Ngài xuống thế gian nầy chết làm của lễ chuộc tội chúng ta.
Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta là quá đỗi nhiệm mầu, không thể nào diễn tả được bằng ngôn ngữ của loài người hữu hạn nầy vậy!
California, Mùa Giáng Sinh 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 342
Chuyện... Trở Về Sau Giáng Sinh
*Kinh Thánh: Lu-ca 2: 15-20; I Cô-rinh-tô 3: 6-8
Vậy là mùa Giáng Sinh vừa trôi qua với tất cả những gì mà mỗi một người trong chúng ta (là những con dân Chúa) đã làm để góp phần tôn vinh, ca ngợi Chúa Cứu Thế, Đấng đã xuống thế làm người để cứu con người ra khỏi tội.
Từ khi tin Chúa đến bây giờ, mỗi một chúng ta đều đã tham dự khá nhiều lần Lễ Kỷ Niệm Chúa Giê-su giáng sinh rồi, và chắc chắn không nhiều thì ít, ai trong chúng ta cũng đều nhận được những phước hạnh và niềm vui từ Chúa giáng sinh ban cho chúng ta.
Ngay từ những ngày đầu của Tháng Mười Hai, con dân Chúa ở khắp nơi đều đã chuẩn bị để góp phần lo cho Lễ Giáng Sinh từ gia đình đến Hội Thánh của mình được diễn ra cách tốt đẹp nhất có thể.
Chúng ta thấy có nhiều Hội Thánh giàu có đã dành một số tiền khá lớn để chi cho Lễ Giáng Sinh hầu góp phần làm cho buổi Lễ thật sôi động, thu hút thật nhiều người đến với Lễ Giáng Sinh của Hội Thánh mình. Những Hội Thánh giàu có ấy, không nhiều thì ít, chắc trong lòng cũng có chút... tự hào về Lễ Giáng Sinh của Hội Thánh mình thật... ấn tượng. Chúng ta cũng thấy có không ít Hội Thánh nghèo nên chỉ dám chi một số tiền nho nhỏ để trang trí cho Lễ Giáng Sinh cho có... không khí Giáng Sinh với người ta mà thôi. Những Hội Thánh nghèo nầy, không nhiều thì ít cũng có chút gì đó... tự ty mặc cảm trong lòng, vì Lễ Giáng Sinh của Hội Thánh mình... nhỏ quá, đơn sơ quá. Ấy là tôi tự... suy bụng tôi ra bụng người như thế thôi, không biết có đúng không? Nhưng dù trang trí cho Lễ Giáng Sinh như thế nào đi chăng nữa, tôi xin mượn ý của Phao-lô mà nói như thế nầy: “Song có hề gì! Dẫu thế nào đi nữa, hoặc làm bộ, hoặc thật thà, Đấng Christ cũng được rao truyền; ấy vì đó, tôi đương mừng rỡ, và sẽ còn mừng rỡ nữa.” (Sách Phi-líp 1: 18).
Bạn và tôi đều vừa trải qua Lễ Kỷ Niệm Chúa Giê-su giáng sinh tại nơi mình ở, với gia đình của mình, hoặc với một Hội Thánh mà mình đang sinh hoạt cùng với những niềm vui của mùa Giáng Sinh, kèm theo một số những nỗi niềm ưu tư nào đó về mùa Lễ, như sức khỏe không được tốt của mình hay của người, số thân hữu (người chưa tin Chúa) đến tham dự Lễ ít quá (hay không có), và không có người nào tin Chúa trong dịp Lễ... v... v... và... v... v...
Về phần tôi, Giáng Sinh năm nay, tôi được tham dự Lễ Giáng Sinh ở bốn Hội Thánh trong vùng Nam California. Tôi tham dự Lễ ở Một Hội Thánh Trưởng Nhiệm, tôi được mời đọc Thơ Giáng Sinh ở một Hội Thánh Baptist Ân Điển, và tôi được mời giảng Lời Chúa ở hai Hội Thánh (một Hội Thánh Baptist và một Hội Thánh Độc Lập). Ở Hội Thánh Độc Lập, Chúa cho có một người tin nhận Chúa. Tất nhiên, người tin nhận Chúa nầy là công khó của nhiều người góp phần vào, chứ không phải chỉ do tôi giảng mà họ đến với Chúa đâu. Đặc biệt là bởi quyền năng của Đức Thánh Linh cáo trách tội lỗi của tội nhân và khiến người ấy đến với Chúa Giê-su vậy! Tự nhiên, tôi nhớ đến Lời Chúa nhắc nhở rằng: “Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên. Vậy, người trồng kẻ tưới, đều không ra gì, song Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên. Người trồng, kẻ tưới, đều bằng nhau; ai nấy sẽ nhận phần thưởng tùy theo việc mình đã làm” (Sách I Cô-rinh-tô 3: 6-8).
Chính Đức Chúa Trời mới là Đấng bắt phục tội nhân ăn năn, đem họ đến với Ngài và làm cho họ lớn lên. Chúng ta không làm được điều đó, chúng ta chỉ là người trồng, người tưới mà thôi, và mong chờ được Chúa ban thưởng trong tương lai.
Tại Hội Thánh Độc Lập mà tôi được góp phần giảng Lời Chúa trong Lễ Giáng Sinh, tôi thấy có một sức sống mới từ nơi Hội Thánh nầy. Từ tinh thần phục vụ Chúa và phục vụ nhau, đến tinh thần làm chứng, mời thân hữu, đến tinh thần thờ phượng, ca ngợi Chúa, đến tinh thần thông công thân ái sau giờ Lễ, đều có sự nhịp nhàng, tay trong tay, và tim đến tim. Tôi có một niềm tin rằng, Hội Thánh nầy sẽ trưởng thành và lớn mạnh với một sức sống thuộc linh mới trong tương lai.
Cầu xin Chúa ban phước cho người chăn và bầy chiên của Chúa tại Hội Thánh nầy cách dư dật, tràn trề! Xin Chúa ban cho “các vựa lẫm của Hội Thánh nầy sẽ đầy dư dật, và các thùng của Hội Thánh nầy sẽ tràn rượu mới” từ Thánh Linh của Ngài theo như Lời Chúa trong Châm Ngôn 3: 10 vậy.
Thường thì sau Lễ Giáng Sinh, tất cả mọi người đều cảm thấy rất mệt mỏi, từ Mục Sư cho đến tín đồ, vì tất cả đều đã dành sức lực để lo cho Lễ, nên Lễ xong rồi, thể xác ai nấy đều mỏi mệt là chuyện bình thường, không có gì ngạc nhiên cả. Tôi cũng cảm thấy mỏi mệt và muốn được nghỉ ngơi một hai ngày cho lại sức.
Chúa Giê-su khi còn thi hành chức vụ trên trần gian nầy, trong thân xác con người, Ngài cũng mỏi mệt cơ mà, thì chúng ta là ai mà dám nói rằng mình... không mỏi mệt sau một thời gian dài làm việc cơ chứ: “Vậy, Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhân đi đường mỏi mệt, Đức Chúa Giê-su ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu” (Sách Giăng 4: 5, 6).
Trở về sau Giáng Sinh, thể xác mệt mỏi cần phải được nghỉ ngơi là điều tốt, không có gì sai trật; nhưng tấm lòng của mỗi một người trong chúng ta, trở về sau Giáng Sinh thì cần như thế nào?
Tôi chợt nhớ đến các anh chăn chiên ngày xưa trong đêm Chúa giáng Sinh, các anh được Thiên Sứ loan báo về Tin Mừng trọng đại đó; các anh đã hăm hở, hăng hái vội vàng lên đường tham dự Lễ Giáng Sinh, tìm kiếm Chúa, tôn thờ Chúa, và ca ngợi Chúa. Và rồi, sau Lễ Giáng Sinh, các anh trở về, thì Kinh Thánh ghi lại: “Bọn chăn chiên trở về, làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều mình đã nghe và thấy y như lời đã bảo trước cùng mình” (Sách Lu-ca 2: 20).
Chắc chắn các anh chăn chiên ngày xưa cũng như chúng ta ngày hôm nay, thể xác cũng rất mệt mỏi sau khi tham dự Lễ Giáng Sinh; nhưng chúng ta thấy tấm lòng của các anh thì khác, các anh trở về sau Lễ Giáng Sinh vẫn giữ tấm lòng làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều các anh đã nghe và đã thấy trong Lễ Giáng Sinh.
...
Rất nhiều lần, không biết bạn thì sao, chứ riêng tôi đã trở về sau Lễ Giáng Sinh, không còn giữ được tấm lòng làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời như các anh chăn chiên ngày xưa.
Trước Giáng Sinh và trong Giáng Sinh, có thể chúng ta rất hăng say cất tiếng ngợi khen Chúa; nhưng sau Giáng Sinh, khi trở về nhà rồi, chúng ta rất dễ... tắt tiếng ca, không chỉ bằng giọng nói mà còn cả bằng tấm lòng. Không chỉ thể xác mệt mỏi, mà tấm lòng của chúng ta cũng mỏi mệt luôn, không còn sức lực thuộc linh để làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời nữa.
Lý do của mọi lý do khi trở về sau Giáng Sinh, chúng ta không còn sức lực cả thể xác lẫn thuộc linh để làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời nữa, là vì trong Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe và thấy những điều... râu ria, xung quanh Lễ Giáng Sinh, chứ không phải những điều chính yếu, trọng tâm của Lễ Giáng Sinh. Sở dĩ các anh chăn chiên ngày xưa trở về sau Giáng Sinh vẫn tiếp tục giữ được tinh thần làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời, là vì trong Lễ Giáng Sinh các anh đã nghe và thấy được những điều trọng tâm của Lễ Giáng Sinh, đó chính là nghe được Lời Chúa phán qua các Thiên Sứ và thấy được chính Chúa Giê-su là linh hồn của Lễ Giáng Sinh. Mặc dù, các anh vẫn nghe thấy những tiếng nói khác từ những người khác như từ Giô-sép và Ma-ri, và thấy Giô-sép, thấy Ma-ri, thấy máng cỏ, thấy cả những còn lừa nữa... ; nhưng các anh không để những điều đó lấn át việc nghe Lời Chúa và thấy được Chúa Giê-su. Các anh không chú tâm để tai để mắt đến những điều xung quanh Lễ Giáng Sinh, mà chú tâm để tai, để mắt đến những điều trọng tâm của Lễ Giáng Sinh là Lời Chúa và chính Ngài vậy.
Lạy Chúa, xin giúp con mỗi lần dự Lễ Giáng Sinh biết ghi nhớ hai điều trọng tâm nầy như bài học mà các anh chăn chiên trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên đã để lại; để chúng con có thể trở về sau Giáng Sinh mà vẫn giữ được tấm lòng làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời trong cuộc đời theo Chúa của mỗi một chúng con!
Xin đừng để những bận rộn của đời sống, những lo lắng trong cuộc đời tạm bợ nầy làm tắt lịm đi tinh thần ca hát, ngợi khen Chúa trong trái tim của mỗi một chúng con! Amen!
California, Kỷ Niệm Mùa Giáng Sinh 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 343
Đón Chào Năm Mới 2024
* Kinh Thánh: Giăng 14: 27; Phi-líp 4: 6-9
Năm 2023 đang dần đi đến những giờ phút cuối cùng của nó, và cả thế giới đang chuẩn bị để đón chào năm mới 2024 đang đến với những mong muốn sẽ có nhiều điều tốt đẹp hơn năm 2023.
Năm 2023 chuẩn bị khép lại để nhường chỗ cho năm mới 2024 bước vào.
Năm 2023 với bạn thì như thế nào?
Thế thường thì hầu như người Á-đông... không thích năm 2023, vì nó có con số 23 là con số... không được may mắn, nếu không muốn nói đó là con số... xui xẻo theo quan niệm của nhiều người.
Chẳng thế mà người Việt mình đã từng... khuyến cáo qua Ca Dao:
Mùng Năm, Mười Bốn, Hăm Ba
Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn
Không biết là bạn có tin theo những quan niệm như thế không? Hay là bạn tin như thế nào? Tin vào ai trong cuộc sống của mình?
Nếu bạn theo quan niệm cho rằng năm 2023 là năm không được tốt, trông cho nó mau qua cho đỡ... xui xẻo, thì nó đang sắp qua rồi đó, và năm 2024 đang chờ đón bạn cũng như hết thảy mọi người.
Hãy bình tâm, đừng lo lắng quá mà... tổn thọ bạn nhé!!!
Con số 24 chắc không phải là con số... không may mắn như con số 23 như nhiều người thường hay... gán cho nó. Thật tội nghiệp con số 23 vô tội kia!
Năm 2023 khép lại với những dấu ấn buồn không quên được như cuộc chiến gay cấn giữa Nga và Ukraine, cuộc xung đột đẫm máu giữa Ít-ra-ên và Hamas, trận động đất kinh hoàng ở Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều sự kiện không mấy tốt đẹp khác nữa...
Năm 2024, như chúng ta biết, chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi, cụ thể là cuộc chiến Nga và Ukraine vẫn chưa thể có hồi kết được, dù cả hai nước trong cuộc và cả thế giới đều muốn; nhưng ngược lại, nó còn có thể xảy ra với cường độ mạnh hơn và ác liệt hơn nữa cơ, dù không ai muốn điều đó. “Gặp thời thế, thế thời phải thế” *chứ có biết làm sao hơn? Chiến tranh giữa Ít-ra-ên và Hamas cũng sẽ tiếp tục và tiếp tục một cách lâu dài. Tình hình tại vùng eo biển Đài Loan cũng sẽ là điểm nóng chiến tranh căng thẳng vào năm 2024 và những năm tiếp theo.
Có thể nói rằng, tình hình thế giới những năm tháng tới trong tương lai sẽ... không bình yên mà sẽ có chiến tranh nhiều hơn với cường độ lớn hơn, kinh hoàng hơn, để rồi cuối cùng sẽ phải xảy ra cuộc chiến tranh toàn thế giới tập trung tại vùng Trung Đông với sự thiệt hại về nhân mạng là chưa từng có. Những điều đó phải xảy ra vì là những điều mà Kinh Thánh đã nói trước về ngày Chúa Giê-su sẽ trở lại lần thứ hai để đoán phạt thế gian nầy: “Khi người ta sẽ nói rằng: Bình hòa và yên ổn, thì tai họa thình lình vụt đến, như sự đau đớn xảy đến cho người đàn bà có nghén, và người ta chắc không tránh khỏi đâu” (Sách I Tê-sa-lô-ni-ca 5: 3). Hãy ghi nhớ cụm từ “Người ta chắc không tránh khỏi đâu” để không bất ngờ, ngạc nhiên và bối rối về những sự sẽ xảy đến trong tương lai. (Xem thêm Lời Chúa trong Ê-xê-chi-ên 38, 39, Ma-thi-ơ 24 và Khải Huyền 9).
Trong tương lai, nhân loại sẽ phải đi từ lo sợ nầy đến lo sợ khác, đi từ hoang mang nầy đến hoang mang kia, vì chiến tranh, chết chóc, điêu tàn... Sẽ không có hòa bình trên thế giới nầy như nhiều người vẫn mong muốn bao lâu nay.
Đó là một bức tranh ảm đạm về thế giới, về tương lai; nhưng có một Tin Mừng cho những ai thuộc về Chúa Giê-su. Ấy là họ vẫn được bình an trong tâm hồn, vì Chúa Giê-su đang ở trong lòng họ.
Chính Đức Chúa Giê-su đã từng tuyên bố: “Ta để sự bình an lại cho các ngươi, Ta ban sự bình an Ta cho các ngươi, Ta cho các ngươi sự bình an, chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Sách Giăng 14: 27).
Đứng trước một thế giới đầy những biến động trong tương lai, mọi người đều hoang mang, lo lắng, không biết rồi ngày mai đây, cuộc sống sẽ ra thế nào? Mình sẽ phải sống ra sao? Tương lai thế giới nầy sẽ đi về đâu??? Nhưng người nào thật sự tin Chúa thì lòng vẫn luôn bình an, bởi vì có CHÚA BÌNH AN cư ngụ trong cuộc đời của họ.
Trước thềm năm mới 2024 đang đến với chúng ta, xin gởi đến quý độc giả, thính giả Lời Kinh Thánh để quý vị được nâng đỡ, khích lệ, lòng được bình an và vững tâm khi bước vào năm mới với nhiều thách thức mới:
“Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Giê-su Christ. Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thánh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em” (Sách Phi-líp 4: 6-9).
Trong mấy câu Kinh Thánh nầy, Phao-lô cho biết mấy điều rất quý báu để chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn:
+ Thứ nhất, thay vì lo phiền, bôi rối như người chưa tin, hãy cầu nguyện, trình dâng mọi việc lên cho Đức Chúa Trời và tạ ơn Ngài về mọi điều trong cuộc sống.
+ Thứ hai, hãy để tâm trí mình suy nghĩ đến những điều tích cực, tốt đẹp, ít nhất có bảy điều tốt lành được nêu ra ở đây: Chân thật, đáng tôn trọng, công bình, thánh sạch, những điều đáng yêu, điều có tiếng tốt và những điều nhân đức.
+ Thứ ba, tất cả những điều tốt đẹp trên và những điều tốt đẹp khác mà chúng ta có dịp được học, được nhận, được nghe và được thấy qua đời sống của Phao-lô, nói riêng và qua đời sống của những con người tin kính trong Kinh Thánh cũng như trong cuộc sống hằng ngày, nói chung, hãy thực hành những điều ấy cho mình.
Làm được ba điều đó, thì chắc chắn sự bình an của Đức Chúa Trời là sự bình an kỳ diệu, vượt ngoài sự hiểu biết giới hạn của con người sẽ gìn giữ tâm trí chúng ta cách trọn vẹn. Và cuối cùng là Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng mỗi một chúng ta.
Phao-lô thật tinh tế và thật sâu nhiệm trong đời sống thuộc linh, khi ông dùng lối đảo ngữ để nhấn mạnh đến nguồn gốc của Sự Bình An và Đấng ban Bình An: SỰ BÌNH AN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (nói đến nguồn gốc của sự bình an)– ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA SỰ BÌNH AN (nói đến Đấng ban bình an).
Bạn sẽ có được sự bình an của Đức Chúa Trời khi và chỉ khi bạn có Đấng ban bình an trong cuộc đời của mình mà thôi.
Năm 2024 đang đến, bạn có đang lo lắng, bồn chồn trong tâm hồn không? Bạn có đang lo sợ không biết sẽ có điều gì nguy hiểm xảy đến với mình và gia đình mình trong tương lai?
Bạn muốn có được một tâm hồn bình an trước những bất an của thế giới tương lai?
Xin mời bạn hãy mở cửa tâm hồn mình và mời Chúa Giê-su ngự trị, chắc chắn bạn sẽ được bình an như chúng tôi đã được bình an, vì Ngài đã ngự trị trong tâm hồn chúng tôi từ bao nhiêu năm nay rồi.
Nguyện xin Chúa Giê-su, Chúa của sự bình an luôn ở cùng mỗi một chúng ta trong suốt năm mới 2024!
Xin Chào Năm Mới 2024!
Happy New Year 2024!
California, Ngày Cuối Cùng Của Năm 2023!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
*Ý từ câu đáp của Ngô Thì Nhậm đối lại về ra của Đặng Trần Thường:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Nguyên văn cả hai câu như sau:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai đã biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Bài 344
Năm Mới, Nói Chuyện... Nghĩ Đến Và... Làm Đi
Kinh Thánh: Giăng 5: 24; Phi-líp 4: 8, 9; I Phi-e-rơ 1: 15, 16; I Giăng 5: 20.
Năm mới 2024 đã về với nhân loại trên khắp địa cầu.
Như thường lệ, mọi người dù cuộc sống ra sao, hay đang ở trong hoàn cảnh nào, thì cũng cố gắng giũ bỏ hết những vướng bận của năm cũ, để lấy một tâm thế tốt nhất đón chào năm mới đến với mình.
Để có thể có một tâm thế tốt, thì trước hết, mỗi chúng ta cần phải suy nghĩ đến những điều tích cực, tốt đẹp trong tâm trí mình, và rồi sau đó thực hành những suy nghĩ, những tư tưởng đã được thai nghén trong đầu vào trong cuộc sống.
Mỗi khi nói đến suy nghĩ, thì ta không thể nào không nói đến bộ óc của chúng ta.
Bộ óc là cơ quan đầu não chi phối toàn bộ con người. Bộ óc suy nghĩ, nghiền ngẫm những ý tưởng một cách... chín chắn, rồi sau đó... chỉ đạo toàn bộ con người thực hiện những tư tưởng đã được suy nghĩ.
Theo sự nghiên cứu của các Nhà Thần Kinh Học, thì bộ óc chúng ta được cấu tạo bởi hơn một trăm tỷ nơ-ron thần kinh, và nặng chừng trên dưới 1, 4 ký lô.
Mỗi ngày bộ óc con người có chừng bảy chục ngàn ý tưởng xuất hiện. Cả năm số lượng ý tưởng xuật hiện trong đầu chúng ta lên đến con số mà chúng ta không tưởng tưởng nổi, là hai mươi lăm chấm năm triệu ý nghĩ.
Năm mới đến, Kinh Thánh dạy chúng ta cần nghĩ đến những điều gì?
Lời Chúa trong thơ Phi-líp dạy:
“Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thánh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em” (Sách Phi-líp chương 4 câu 8 và 9).
Sau khi Phao-lô đã tâm tình, chỉ bảo cho Hội Thánh Phi-líp những điều cần thiết trong nếp sống Cơ-đốc, đặc biệt là nêu tấm gương hy sinh, tận hiến mẫu mực của Chúa Giê-su (đoạn 2); trong phần kết luận của bức thư, ông đã nhấn mạnh đến bảy điều quan trọng mà tất cả người theo Chúa cần phải để tâm suy nghĩ và thực hiện trong đời sống.
Bảy điều quan trọng đó là:
+ Điều chân thật: Chận thật là điều đầu tiên mà Phao-lô đề cập đến ở đây, vì chân thật chính là lối sống của người tin Chúa.
Kinh Thánh cho biết, Chúa Giê-su là Đấng chân thật: “Nhưng chúng ta biết Con Đức Chúa Trời đã đến, Ngài đã ban trí khôn cho chúng ta đặng chúng ta biết Đấng chân thật, và chúng ta ở trong Đấng chân thật, là ở trong Đức Chúa Giê-su Christ, Con của Ngài. Ấy chính Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời” (Sách Giăng thứ nhất chương 5 câu 20).
Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời. Ngài là Chân Lý (Giăng chương 14 câu 6). Lời Ngài cũng là Chân Lý: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh, Lời Cha tức là Lẽ Thật” (Sách Giăng chương 17 câu 17).
Là con cái của Đấng Chân Thật, chúng ta phải suy nghĩ những điều chân thật trong tâm trí của mình. Nếu chúng ta không suy nghĩ những điều chân thật, thì những tư tưởng dối trá sẽ ở trong tâm trí của chúng ta vậy, vì tâm trí chúng ta không thể để trống được. Nó luôn luôn cần phải được lâp đầy, nếu không phải là những điều tốt đẹp, thì sẽ là những điều ngược lại thôi.
Bạn có biết Chúa Giê-su thích... quả gì nhất không? Là người Do-thái, dĩ nhiên, Chúa thích quả nho, quả vả, quả ô-liu; nhưng quả mà Ngài thích nhất và thường hay đề cập đến nhất đó là... quả thật. Ngài thường xuyên dùng cụm từ “Quả thật, quả thật” trong các lời phán của mình:
“Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Sách Giăng chương 5 câu 24); “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời” (Sách Giăng chương 6 câu 47), và nhiều lời phán khác nữa của Ngài...
- Thứ hai là điều đáng tôn: Có nhiều điều đáng khinh bỉ; đáng xem thường; nhưng cũng có những điều đáng tôn trọng, có những người đáng tôn trọng trong cuộc sống; có những gương mẫu tin kính đáng để chúng ta tôn trọng. Lời Chúa dạy: “Phải trả cho mọi người điều mình đã mắc; nộp thuế cho kẻ mình phải nộp thuế; đóng góp cho kẻ mình phải đóng góp; sợ kẻ mình đáng sợ; kính kẻ mình đáng kính” (Sách Rô-ma chương 13 câu 7).
- Thứ ba là điều công bình: Sống công bình với mọi người, không nên “nhất bên trọng, nhất bên khinh”. Không nên trọng người giàu, người có thế lực mà khinh người nghèo, người thân cô thế cô. Thánh Gia-cơ dạy: “Hỡi anh em, anh em đã tin đến Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa vinh hiển chúng ta, thì chớ có tây vị người nào. Giả sử có người đeo nhẫn vàng, mặc áo đẹp, vào nơi hội anh em, lại có người nghèo, quần áo rách rưới, cũng vào nữa; nếu anh em ngó kẻ mặc áo đẹp, mà nói rằng: Mời ngồi đây, là chỗ tử tế; lại nói với người nghèo rằng: Hãy đứng đó, hoặc ngồi dưới bệ chân ta, thế có phải anh em tự mình phân biệt ra và lấy ý xấu mà xét đoán không?” (Sách Gia-cơ chương 2 câu 1 đến 4). Tránh những suy nghĩ phân biệt hay phe đảng trong Hội Thánh.
- Thứ tư là điều thanh sạch: Có nghĩa là điều thánh khiết. Chúa chúng ta là Đấng thánh, cho nên chúng ta phải thánh trong cách ăn ở của mình. “Nhưng như Đấng đã gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình, bởi có chép rằng: Hãy nên thánh vì Ta là thánh” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất chương 1 câu 15 và 16).
- Thứ năm là điều đáng yêu chuộng: Có biết bao điều đáng yêu chuộng được Kinh Thánh bày tỏ để chúng ta nghĩ đến cho tâm trí mình, như lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ (Sách Ga-la-ti chương 5 câu 22); như sự nhơn từ, lòng thương xót, sự tha thứ (Sách Ê-phê-sô chương 4 câu 32); như sự khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục, nhường nhịn (Sách Cô-lô-se chương 3 câu 12 và 13)...
- Thư sáu là điều có tiếng tốt: Hành động cao đẹp của Ma-ri xức dầu thơm quý giá cho Chúa là việc làm có tiếng tốt, nên đã được Chúa tuyên bố: “Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành nầy được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người” (Sách Mác chương 14 câu 9). Vua Sa-lô-môn đã từng nói: “Danh tiếng tốt còn hơn tiền của nhiều, và ơn nghĩa quý hơn bạc và vàng” (Sách Châm Ngôn chương 22 câu 1). Tin Lành của Chúa Giê-su sẽ được vang ra qua những đời sống tin kính tốt đẹp của những con cái Ngài.
- Thứ bảy là điều nhân đức đáng khen: Nghĩa là có một đời sống đạo đức, tốt lành. Chúa chúng ta là Đấng nhân lành, nên chúng ta phải sống nhân lành, mới xứng đáng là con cái của Ngài. “Vậy nên, về phần anh em, phải gắng hết sức thêm cho đức tin mình sự nhân đức, thêm cho nhân đức sự học thức, thêm cho học thức sự tiết độ, thêm cho tiết độ sự nhịn nhục, thêm cho nhịn nhục sự tin kính, thêm cho tin kính tình yêu thương anh em, thêm cho tình yêu thương anh em lòng yêu mến” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì chương 1 câu 5 đến 7). Ở đây, trong tám điều cần thêm vào trong đời sống theo Chúa của chúng ta, thì có điều nhân đức vậy.
Từ “nghĩ đến” ở đây trong nguyên ngữ Hy Lạp của nó có nghĩa là suy nghĩ một cách hợp lý (logic), đúng đắn.
Nếu chúng ta không bắt tâm trí chúng ta suy nghĩ một cách hợp lý, đúng đắn, thì nó sẽ suy nghĩ những điều sai trật, bậy bạ. “Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự cao tự nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì chương 10 câu 4 và 5).
Sau khi khuyên con cái Chúa suy nghĩ đến những điều cao quý, tốt lành đó, Phao-lô kêu gọi họ làm theo những điều ấy trong đời sống mình.
Từ suy nghĩ sẽ biến thành hành động. Chúng ta thường làm những điều chúng ta nghĩ. Thánh Gia-cơ cho biết: “Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Sách Gia-cơ chương 1 câu 14 và 15).
Chúng ta cưu mang điều gì trong lòng, chúng ta sẽ... đẻ ra điều ấy. Chúng ta suy nghĩ điều tốt, chúng ta sẽ làm điều tốt. Chúng ta suy nghĩ điều xấu, chúng ta sẽ làm điều xấu.
Còn nhớ lời Chúa Giê-su đã phán: “Vì từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối và lộng ngôn” (Sách Ma-thi-ơ chương 15 câu 19).
Chúa Giê-su đã từng làm gương và từng dạy: “Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm theo” (Sách Giăng chương 13 câu 17).
Phao-lô thật can đảm khi nói rằng: “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em”
Nếu không có một đời sống gương mẫu theo gương Đấng Christ, thì không dám nói như thế đâu; nhưng Phao-lô đã sống như những gì ông đã dạy dỗ và khuyên bảo, nên ông mạnh dạn kêu gọi mọi người noi theo gương ông trong nếp sống Cơ-đốc.
Khi chúng ta làm theo những gì lời Chúa dạy, thì chúng ta sẽ nhận được phước hạnh rất lớn, ấy là Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng mình.
Nếu chúng ta hiểu biết lời Chúa mà không làm theo, thì coi chừng chúng ta sẽ trở nên... hậu duệ của người Pha-ri-si thời xưa là chỉ nói mà không làm, biết mà không thực hành: “Vậy, hãy làm và giữ theo mọi điều họ đã bảo các ngươi; nhưng đừng bắt chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm” (Sách Ma-thi-ơ chương 23 câu 3)
Nguyện xin Chúa cho lòng mỗi chúng ta trong năm mới nầy trước lời Chúa sẽ giống như sáp trước ánh nắng mặt trời là sẽ tan chảy ra, chứ không như đất sét cứng lại trước ánh sáng mặt trời. Vua Đa-vít nói rằng: “Trái tin tôi khô như sáp. Tan ra trong mình tôi” (Sách Thi-thiên chương 22 câu 14).
Mark Twain, Nhà Văn nổi tiếng của Mỹ và của thế giới đã nói một câu đáng để ý như sau: “Không phải những điều tôi không hiểu trong Kinh Thánh làm tôi bận tâm; mà bèn là chính những điều tôi hiểu mới làm tôi bận tâm.”
Xin Chúa cho mỗi một chúng ta luôn luôn thật sự bận tâm về điều chúng ta hiểu trong Kinh Thánh để chúng ta có thể “vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Sách Phi-líp chương 2 câu 13).
A men!
California, Đầu Năm Mới 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 345
Mùa Xuân, Nói Chuyện... Tuổi Đời Và... Tuổi Trời
Kinh Thánh: Thi-thiên 146: 4; Ma-thi-ơ 6: 27; Giăng 3: 36; Hê-bơ-rơ 9: 27
Năm mới, mùa Xuân mới 2024 đã về thật mới mẻ trên khắp thế giới. Mọi người đang vui vẻ những ngày đầu năm mới, đầu Xuân mới với nhau bên gia đình và người thân.
Mỗi khi mùa Xuân về, một trong những điều mà người ta thường làm là mừng tuổi cho nhau, chúc cho nhau được thêm tuổi mới với đời với người.
Vào mùa Xuân nầy, bạn được bao nhiêu... tuổi đời rồi?
Vào mùa Xuân nầy, tôi bước vào tuổi sáu mươi ba. Wow! Mới đó mà nay tôi đã được sáu mươi ba mùa Xuân của cuộc đời! Tóc trên đầu bây giờ không còn bạc... lém đém như trước đây nữa, mà bạc trắng cả đầu rồi. Thời gian trôi đi nhiều khi ta cứ tưởng chậm, nhưng mà không ngờ, nó đi nhanh đến không thể tưởng tượng nổi luôn phải không bạn?
Người ta nói, mỗi năm một tuổi như đuổi Xuân đi. Xuân đến rồi Xuân đi và cứ thế, cứ thế tiếp diễn, ta thêm tuổi tác trong cuộc đời. Ta mới từ trẻ thơ ngày nào, vụt một cái, giờ ta già đi hồi nào không hay luôn.
Tôi có được đọc một bài thơ nói về tuổi tác rất hay của Nhà Thơ Thanh Hữu, một Nhà Thơ kỳ cựu trên Thi Đàn Cơ-đốc, xin chia sẻ với bạn đọc nhân mùa Xuân mới đến để nghe thử cách Thi Nhân tính tuổi có... thi vị không?
Khi tính tuổi lấy năm nay làm mốc,
Đem trừ đi sinh nhật đã ra đời,
Anh còn lại hai con số chơi vơi,
Gọi là "tuổi" của cuộc đời trên đất.
Anh và tuổi tưởng như hai mà một,
Anh ra đời tuổi mới được đặt tên,
Cứ mỗi năm khi anh được lớn lên,
Tuổi cũng lớn và cùng thêm một nấc...
Anh và tuổi như tình nhân linh động,
Anh sống còn, tuổi sinh động bên anh.
Anh qua đi, lìa cõi tạm dương trần,
Tuổi chung thủy, thề cùng anh chấm dứt.
Tuổi của anh tính bằng con số chục,
Rất hiếm người đạt đến tuổi hằng trăm.
Khi chết đi vào lòng đất anh nằm,
Tuổi chấm dứt theo thời gian quên lãng...
(Tuổi Tác – Thanh Hữu)
Thi Nhân tính tuổi thật đầy... thi vị phải không bạn?
Đó là ... tuổi đời trên đất mà Đấng Tạo Hóa ban cho mỗi một con người trên trần gian nầy.
Tuổi luôn luôn đi theo mỗi một con người một cách khắng khít mỗi năm cho đến khi nào Đức Chúa Trời quyết định chấm dứt cuộc đời của họ, thì tuổi đời của họ cũng bắt buộc phải chấm dứt theo, không thể kéo dài thêm được nữa.
Tuổi đời chấm dứt khi tim ta ngừng đập, khi lỗ mũi ta không còn hơi thở nữa. Hay nói theo cách nói của một Thi Nhân người Do-thái ngày xưa: “Hơi thở tắt đi, loài người bèn trở về bụi đất mình; Trong chính ngày đó các mưu mô nó liền mất đi” (Sách Thi-thiên chương 146 câu 4).
Cho dù bạn có được Ông Trời cho sống thọ đến cả trăm năm đi chăng nữa, có một điều chắc chắn là rồi sau đó, bạn cũng sẽ phải chết mà thôi, vì luật định của Đức Chúa Trời dành cho con người tội lỗi chúng ta là như thế: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Sách Hê-bơ-rơ chương 9 câu 27). Không ai có thể làm khác đi được, dù chỉ một vài giây phút, ta cũng không có thể kéo dài thêm được trong cuộc đời của mình đâu: “Vả lại, có ai trong vòng các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình được dài thêm một khắc không?” (Sách Ma-thi-ơ chương 6 câu 27).
Tuổi đời của mỗi một con người trên trần gian nầy kể từ khi loài người phạm tội là có giới hạn, chứ không ai có thể... lột da sống đời được, cũng không có thuốc nào của khoa học có thể làm cho cuộc đời của con người trở nên... trường sinh bất tử được cả. Khoa học có giới hạn của nó, vì khoa học là con người, chứ không phải là Đấng Tạo Hóa, cho nên khoa học cũng không thể nào vượt qua quyền của Đấng Tạo Hóa tối cao được.
Tuổi đời của mỗi một chúng ta phải chấm dứt theo thời điểm của Đức Chúa Trời dành cho mỗi một người, dù người đó là ai, giáo chủ, hiền nhân, quân tử, hay vua chúa, chính khách hoặc học giả, triết gia...đi chăng nữa.
Nhưng có một Tin Mừng cho chúng ta, ấy là chúng ta còn có cơ hội có được... tuổi trời nữa.
Tuổi đời được Chúa ban cho tất cả mọi người khi được sinh ra trên trần gian nầy, có người được nhiều, có người được ít, không ai giống ai; nhưng... tuổi trời thì khác.
Tuổi trời có được khi và chỉ khi một người đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận Chúa Giê-su làm Chúa, làm Chủ cuộc đời.
Làm sao để có được... tuổi trời?
Kinh Thánh khẳng định: “Ai tin Con (tức tin Chúa Giê-su) thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu; nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Sách Giăng chương 3 câu 36).
Chính Chúa Giê-su cũng đã phán: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời” (Sách Giăng chương 6 câu 47).
Bất kể bạn là ai, giàu sang hay nghèo hèn, trí thức hay bình dân ít học; bất kể bạn thuộc tầng lớp nào trong xã hội, một khi bằng lòng mở lòng ra tin nhận Chúa Giê-su là ngay thời điểm đó, bạn được trở nên con cái Đức Chúa Trời và bắt đầu được hưởng... tuổi trời. Tuổi trời được tính ngay khi bạn đặt đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su. Và khi... tuổi trời mở ra trong cuộc đời bạn, thì bạn thực sự được trường sinh bất tử (sự sống đời đời), như Nhà Thơ Thanh Hữu đã bày tỏ trong bài thơ của mình:
Anh tin Chúa, khi "tuổi đời" khép lại,
Thì "tuổi trời" tiếp tục được mở ra,
Hồn linh anh như được trở về nhà,
Bên chân Chúa không thời gian xán lạn.
Ân sủng Chúa với tình yêu vô hạn,
Cứu thân hồn thoát biển khổ trần gian.
Ban cho anh hy vọng sống thiên đàng,
Được tiếp nối tuổi đời sau khi chết,
Anh đạt đến không thời gian bất diệt,
Vào cõi trời trong vô hạn ngàn khơi.
Anh thỏa vui với Thiên Chúa đời đời,
Bên Cứu Chúa cùng thiên binh ca ngợi.
(Tuổi Tác – Thanh Hữu)
Tuổi đời thì hữu hạn, và chấm dứt khi trái tim mình ngừng đập; nhưng... tuổi trời thì Chúa ban cho vô hạn, đời đời, không bao giờ chấm dứt cả. Chính vì thế nên người nào thực sự tin Chúa thì đó là người có phước hơn mọi người, vì họ có được... tuổi đời như mọi người, và họ còn có được... tuổi trời nữa.
Bạn có được... tuổi đời trên trần gian nầy, tôi xin chúc mừng bạn, và cầu xin Ông Trời ban cho bạn thêm những năm tháng nữa trong cuộc đời.
Nếu bạn mới chỉ có... tuổi đời mà chưa có... tuổi trời, thì niềm hạnh phúc mới chỉ một nửa, chưa trọn vẹn. Bạn cần phải nhận lấy Chúa Giê-su cho cuộc đời mình để có được... tuổi trời nữa, thì cuộc đời bạn mới thực sự là cuộc đời đầy ý nghĩa và phước hạnh vô biên vậy.
Tôi đã và đang có... tuổi đời, và tôi cũng đã và đang có... tuổi trời. Tôi thực sự cảm nhận được một cuộc đời hạnh phước khi được làm con cái của Đức Chúa Trời.
Đến mùa Xuân năm nay, tôi đã được sáu mươi ba tuổi đời, tôi không biết Chúa cho tôi còn được bao nhiêu năm... tuổi đời nữa. Khi nào... tuổi đời tôi chấm dứt, tôi không biết, nhưng Đức Chúa Trời biết, vì Ngài và chỉ Ngài mới là Đấng có quyền quyết định sự sống, sự chết của mọi người trên trần gian nầy. Nhưng... tuổi trời của tôi thì còn mãi mãi, miên viễn, không bao giờ chấm dứt.
Tạ ơn Đức Chúa Trời về sự ban cho kỳ diệu nầy của Ngài!
Tôi ước ao ngay trong mùa Xuân nầy, bạn sẽ quyết định tin nhận Chúa Giê-su để nhận được... tuổi trời Ngài ban cho, thì chắc chắn không còn phước hạnh gì hơn cho bạn nữa đâu.
Nguyện xin Đức Chúa Trời thương xót và ban ơn lành của Ngài cho hết thảy mỗi một chúng ta, và nguyện xin Ngài cho ngày càng có thêm nhiều người Việt thân yêu nhận được... tuổi trời nữa!
California, Những Ngày Đầu Năm Mới 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 346
Năm Mới, Nói Chuyện... Tuổi Già
Kinh Thánh: Thi-thiên 16: 2; Truyền Đạo 11: 9; 12: 1, 6, 7 và 13
Mỗi khi năm mới đến là ta được thêm một tuổi, và có nghĩa là đời ta lại xích gần đến tuổi già hơn. Tuổi già là điều phải đến, nếu ông Trời còn cho chúng ta sống trên trần gian nầy.
Khi còn nhỏ, ta thường nghĩ chừng nào cho mình đến được tuổi già cho... oai nhỉ? Chắc là lâu lắm, năm, sáu chục năm nữa kia. Ôi, hơn nửa thế kỷ sau, biết bao giờ mới tới! Và thế là không ít người trẻ tuổi cứ tưởng đời mình còn dài lắm, nên cứ thế ăn chơi cho “đã” tấm thân nầy, theo những gì mình ưa muốn và theo quan niệm “không ăn cũng uổng, không chơi cũng thừa”.
Vua Sa-lô-môn đã viết: “Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích; nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét” (Sách Truyền Đạo, chương 11, câu 9).
Nhưng nào ngờ, thoáng một cái, ta thấy tuổi hoa niên đi qua nhanh như chớp, nhanh đến độ ta không ngờ là mình đã qua thời hoa niên lúc nào không hay luôn.
Tuổi hoa niên là tuổi nào?
Người ta cho biết, tuổi hoa niên là độ tuổi từ 13 đến 19. Vì trong tiếng Anh, các con số từ 13 đến 19 đều có tiếp vỹ ngữ “tin” (teen), nên người ta còn gọi là... “tuổi tin”.
Còn nhớ Nhạc Sỹ Phạm Duy có bài hát dành cho tuổi “tin” nầy thật hay, có đoạn lời như sau:
“Em ước mơ mơ gì, tuổi mười hai, tuổi mười ba?
Em ước mơ em là, em được là tiên nữ,
Ban phép tiên cho hoa biết nói cả tiếng người,
Ban phép tiên cho người chắp cánh bay giữa trời,
Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ tiên!...”
(Tuổi Mộng Mơ – Phạm Duy)
Tuổi hoa niên là tuổi của mộng mơ. Tuổi hoa niên mà không lo học hành, chỉ lo chơi bời cho thỏa thích, vì cứ nghĩ rằng thời gian còn dài, học hành làm chi cho mệt, thì khi nó... bay đi rồi, có nuối tiếc cũng đã muộn.
Tôi cảm tạ ơn Chúa đã cho tôi dù sinh ra trong gia đình nhà nghèo, cha mẹ tôi phải “chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi” (Trần Tế Xương); nhưng tôi đã cố gắng vượt qua mọi khó khăn để học hành, và nhờ đó mà ngày nay cũng có được... một ít chữ trong bụng để sống với người ta.
Tuổi hoa niên qua đi nhanh chóng, nhường chỗ cho tuổi thanh niên, tráng niên là độ tuổi sung sức nhất của đời người.
Tuổi thanh niên, tráng niên là tuổi lập gia đình, có con cái, xây dựng cuộc sống riêng tư cho gia đình mình, cũng như đóng góp công sức mình xây dựng quê hương, đất nước.
Tuổi thanh niên, tráng niên rồi cũng qua đi nhanh chóng, nhường chỗ cho tuổi trung niên.
Tuổi trung niên, ở quê Quảng Nam tôi gọi là độ tuổi sồn sồn. “Sồn sồn” có nghĩa là trẻ thì không còn trẻ nữa, mà già thì mới gần tới, chứ chưa già.
Đây có thể là lứa tuổi có sự hiểu biết khá chín chắn, nắm bắt được thời cuộc, thế sự khá rõ ràng, vì đã thu hoạch được ít nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống.
Sau tuổi trung niên là đến... tuổi già.
Người Á Đông quan niệm rằng một người Trời cho sống đến được một hoa giáp (5 lần của chu kỳ 12 con giáp), tức 60 tuổi, thì được kể là thọ, tức là bước vào được chiếu... tuổi già.
Tôi vừa được bước vào chiếu... tuổi già được 3 năm.
Cảm ơn Chúa về sự ban cho của Ngài!
Tôi nhớ câu thơ nầy từ khi còn trẻ:
Mới vừa chị chị anh anh đó,
Nay đã ông ông, cụ cụ rồi.
Thật vậy, mới ngày nào người ta gọi tôi là thằng cu, nay thì chẳng ai dám gọi tôi là... thằng cu nữa, mà gọi là ông, vì hiện tôi đã là... ông nội của ba đứa cháu rồi.
Đúng là thời gian trôi nhanh không thể tưởng!
Cuộc đời một con người thường được chia ra làm những giai đoạn nào?
Theo Khổng Tử, thì cuộc đời con người có 6 giai đoạn như sau:
- “Thập hữu ngũ nhi chi vu học” (15 tuổi thì để hết tâm trí vào việc học): Tuổi thiếu thời con người cần tập trung vào việc học để tích lũy kiến thức cho mình.
- “Tam thập nhi lập” (30 tuổi thì tự lập): Lo gây dựng sự nghiệp cho mình, xác định một chỗ đứng trong xã hội.
- “Tứ thập nhi bất hoặc” (40 tuổi có thể hiểu được mọi sự, không nghi ngờ): Tuổi 40 là tuổi có chính kiến rõ ràng, kiên định, không dễ chao đảo, nghi ngờ (bất hoặc)
- “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” (50 tuổi thì có thể hiểu được mệnh Trời): Tuổi 50 là tuổi nắm được các quy luật của tự nhiên và xã hội, hiểu được thời cuộc, thế sự trước mắt.
- “Lục thập nhi nhĩ thuận” (60 tuổi thì điều gì cũng nghe thuận tai): Tuổi 60 thì không còn thấy gì cũng chướng tai gai mắt như khi còn trẻ. Hiểu biết nhân tình thế thái, nên dễ thông cảm và khoang dung hơn trước những việc xảy ra trong đời.
- “Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (70 tuổi thì đạt đến tình trạng xử thế tốt đẹp, nề nếp, quy củ): Tuổi 70 luôn biết giữ gìn khuôn khổ, mực thước (bất du củ là không vượt ra ngoài quy tắc, nề nếp)
Đó cũng là một cách chia thời gian của đời người khá hợp lý và ý nghĩa.
Mác-Tuên, Nhà Văn vĩ đại của Mỹ và cả thế giới đã nói: “Chúng ta hãy sống như thế nào để ngay cả người phu đào mộ cũng thương tiếc ta.”
A-léc-xan-đơ Đu-ma, một Nhà Văn lớn của Pháp thì nói: “Có ba điều giúp con người có thể đạt được hạnh phúc: Thân thể khỏe mạnh, trí óc minh mẫn, và trái tim trong sạch.”
Những câu nói thật ý nghĩa và đáng để ý, nhưng không dễ để sống được một cuộc đời như thế.
Vua Đa-vít của người Do-thái ngày xưa có một câu nói mà tôi đọc đi đọc lại thấy thật sâu sắc, và nay đến tuổi già, lại càng thấy chính xác:
“Tôi đã nói cùng Đức Giê-hô-va rằng: Ngài là Chúa tôi. Trừ Ngài ra tôi không có phước gì khác” (Sách Thi-thiên, chương 16, câu 2).
Đa-vít không nói ngai vàng ông đang có là phước, mà ông nói Đức Chúa Trời là phước duy nhất cho cuộc đời của ông. Trừ Ngài ra thì ông không có phước gì khác nữa.
Điều đó có nghĩa là có Chúa trong cuộc đời là có phước, và ngược lại, không có Chúa trong cuộc đời là không có phước gì hết.
Sống được đến tuổi già trong mạnh khỏe và bình an với con với cháu, đó là một trong những ơn phước Trời cho. Điều đó không ai muốn mà được, nhưng nó đến từ Đức Chúa Trời.
Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi sống được đến... tuổi già như ngày hôm nay.
Còn bao nhiêu năm nữa trong cuộc đời còn lại, tôi không biết, nhưng Đức Chúa Trời biết, và tôi yên tâm khi bước đi với Ngài mà không lo sợ gì hết, vì Ngài là Cha thiêng liêng của tôi, luôn yêu thương và chăm sóc cuộc đời của tôi từ khi còn nằm trong bụng mẹ cho đến ngày Ngài đưa tôi về với Ngài trên Thiên Đàng vinh hiển trong tương lai.
Nhưng thưa bạn,
Cuộc đời con người có giá trị hay không, không tùy thuộc vào độ dài của đời sống mà vào ý nghĩa của nó. Không phải là bạn sống bao lâu mà bèn là bạn sống như thế nào?
Dưới ánh sáng của Thánh Kinh, chúng ta biết rằng cuộc đời con người chỉ có ý nghĩa khi chúng ta sống trong mối tương quan đúng đắn với Đức Chúa Trời là Đấng đã sáng tạo nên chúng ta và ban cho chúng ta cuộc sống nầy và mọi sự trong đó để chúng ta được hưởng.
Kinh Thánh cho biết: “Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa ngươi, trước khi những ngày gian nan chưa đến, trước khi những năm tới mà ngươi nói rằng: Ta không lấy làm vui lòng... Lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa trước khi dây bạc đứt và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra trên giếng, và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã ban nó... Chúng ta hãy nghe lời kết của lý thuyết nầy: Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài, ấy là trọn phận sự của ngươi” (Sách Truyền Đạo, chương 12, câu 1, 6, 7 và 13).
Nếu trong thời tuổi trẻ (thơ ấu), bạn đã tưởng nhớ (tin nhận) Đấng Tạo Hóa mình, thì thật là tốt đẹp thay! Nếu trong tuổi hoa niên, bạn chưa tưởng nhớ đến Ngài, thì hôm nay, ngay khi Ông Trời còn cho có hơi thở trong lỗ mũi (trước khi dây bạc đứt và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra trên giếng, và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã ban nó), hãy tưởng nhớ đến Đấng Tạo Hóa. Đừng bao giờ quên điều đó.
Người khôn ngoan không chờ đến tuổi già mới tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa, vì chưa chắc mình có thể sống đến tuổi già. Người khôn ngoan là tin Chúa ngay khi có cơ hội, dịp tiện, hoặc ngay lúc còn thơ ấu (tuổi trẻ) thì thật là quý báu.
Thời điểm tin Chúa là ngay ngày hôm nay, chứ không phải ngày mai, vì ngày mai chưa chắc sẽ đến với chúng ta, và không ai trong chúng ta biết ngày mai sẽ sanh ra điều gì?
Kinh Thánh dạy: “Kìa, hiện nay là thì thuận tiện. Kìa, hiện nay là ngày cứu rỗi” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 6, câu 2).
Tôi tạ ơn Chúa, vì tôi đã tin nhận Ngài từ khi còn thơ ấu, tuổi hoa niên và trung tín theo Ngài cho đến tuổi già hôm nay. Tôi cầu xin Chúa cho tôi trung tín theo Ngài cho đến khi được vào trong Thiên Đàng vinh hiển tuyệt vời trong tương lai.
Hỡi các bạn còn trẻ tuổi, hãy tin Chúa ngay khi còn tuổi trẻ, đừng chờ đợi ngày mai hay tương lai, vì ngày mai không thuộc về chúng ta.
Hỡi những người tuổi già, xin mời quý vị sớm quyết định tin nhận Chúa Giê-su ngay hôm nay, khi còn có cơ hội, khi sự chết chưa đến.
Xin mượn lời của Vua Đa-vít ngày xưa để khích lệ mọi người đặt đức tin nơi Đức Chúa Trời là Đấng không bao giờ lìa bỏ bất cứ người nào có lòng tin nhận Ngài:
“Trước tôi trẻ, rày đã già, nhưng chẳng hề thấy người công bình (người tin Chúa) bị bỏ, hay là dòng dõi người đi ăn mày” (Sách Thi-thiên, chương 37, câu 25).
Chúa Giê-su đang chờ quý vị và các bạn đến với Ngài, và tôi, tôi cũng mong chờ điều đó!
Cầu xin Đức Chúa Trời nhớ đến mỗi một chúng ta và làm ơn cho chúng ta trong năm mới nầy! A men!
California, Tháng 1/ 2024
Mục Sư Nguyễn – Đình – Liễu
Bài 347
Mùa Xuân, Nói Chuyện... Viết
Kinh Thánh: Phục Truyền 9: 9-10; Thi-thiên 45:1; Giăng 8: 6-8; II Cô-rinh-tô 3: 3
Một trong những điều mà những người cầm bút thường làm mỗi khi Xuân về, Tết đến là... khai bút đầu Xuân.
Khai bút đầu Xuân, hay viết cái gì đó mở đầu cho năm mới (khai là mở đầu) là một thói quen tốt cần phát huy để ngòi bút được luôn luôn sắt nhọn, đầy bút lực.
Bạn có thích viết không? Bạn có đam mê viết không?
Viết là một công việc không đơn giản chút nào, nếu không muốn nói là khá khó khăn, vất vả và nhọc óc lắm lắm. Cho nên, nếu không có đam mê viết thì rất dễ... buông bút như chơi.
Như chúng ta đều biết, viết là cách quan trọng để lưu giữ lại những kiến thức cho con người. Và sách là một phương tiện quan trọng bật nhất để lưu giữ lại những kiến thức đó. Bạn thử nghĩ nếu thế giới nầy mà không có những người viết và không có sách thì đầu óc con người sẽ... trống vắng đến mức nào?
Thử tìm hiểu một chút về lịch sử của việc viết và lưu giữ sách.
Người Do Thái là một trong những người đi tiên phong trong việc giữ nghệ thuật sao chép sách để có thể lưu lại được cho đến ngày nay. Theo truyền thống Do Thái, cuốn giấy cuộn Torah đặt trong các Hội đường Do Thái giáo phải được viết bằng tay trên giấy da. 1
Ngay từ khi chữ viết đầu tiên được loài người phát triển, khoảng 3000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã viết trên nhiều bề mặt khác nhau, như kim loại, da, đất sét, đá và xương. Tới thế kỷ 4 trước Công Nguyên, người Ai Cập đã biết sử dụng bút sậy để viết trên các cuộn giấy cói làm từ những cây lau sậy mọc nhiều ở vùng thung lũng sông Nile. 2
Đó là vài nét về lịch sử của việc viết và lưu giữ sách cho con người.
Tôi thích viết, tôi cũng đam mê viết nữa, nên mới còn giữ được ngòi bút trên tay cho đến nay, chứ nếu không thì cũng... xếp bút nghiên từ lâu rồi.
Kinh Thánh đề cập nhiều đến tầm quan trọng của việc viết lắm.
Còn nhớ, khi Môi se lên núi theo lệnh của Đức Chúa Trời để lãnh hai bảng Luật Pháp được viết trên đá, thì Kinh Thánh ghi lại như sau:
“Khi ta đi lên núi đặng lãnh hai bảng đá, tức là hai bảng về sự giao ước mà Đức Giê-hô-va đã lập cùng các ngươi, ta ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh, chẳng uống nước; và Đức Giê-hô-va trao cho ta hai bảng đá, bởi ngón tay Đức Chúa Trời viết ra” (Sách Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 9 câu 9 và 10).
Chúng ta không biết Đức Chúa Trời viết bằng cách nào, vì Ngài là Thần, đâu có tay chân, thân thể như con người chúng ta; nhưng Kinh Thánh cho biết chính Ngài đã viết ra hai bảng đá đó và đưa cho đầy tớ Ngài là Môi se. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc viết là dường nào!
Khi đọc Thi-thiên, đến chương bốn mươi lăm, tôi rất ấn tượng với con cháu Cô-rê, khi họ viết những dòng nầy: “Lòng tôi tràn đầy những lời tốt. Tôi nói điều tôi vịnh cho Vua. Lưỡi tôi như ngòi viết của văn sĩ có tài” (Sách Thi-thiên chương 45 câu 1).
Khi trong lòng tràn đầy những điều tốt lành, thì phải bày tỏ ra bên ngoài mà thôi. Có nhiều cách bày tỏ ra, như nói, hát hoặc viết. Ở đây, con cháu Cô-rê chọn cách bày tỏ là viết ra thành thơ để ca ngợi Chúa, vì họ được Chúa ban cho ơn tứ viết văn, làm thơ. Họ là những Văn Sĩ, Thi Sĩ có tài của người Do-thái, và những bài thơ của họ còn được lưu lại cho đến ngày nay cho chúng ta được đọc và thưởng thức.
Tôi ước ao và cầu xin Chúa cho ngòi bút của tôi cũng như ngòi bút của các Văn Nhân, Thi Sĩ Cơ-đốc sẽ như ngòi bút của văn sĩ có tài để viết văn, làm thơ ca ngợi Vua của các vua, Chúa của các chúa là Đức Chúa Giê-su Christ.
Tôi cũng rất... tò mò khi đọc phần đầu của sách Giăng, chương 8 nói về người đàn bà tà dâm.
Khi người ta dẫn đến cho Chúa Giê-su một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội tà dâm để thử xem Ngài sẽ xử lý như thế nào với người đàn bà tội lỗi nầy?
“Họ nói vậy để thử Ngài, hầu cho có thể kiện Ngài. Nhưng Đức Chúa Giê-su cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi nữa, thì Ngài ngước lên và phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người. Rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết trên mặt đất” (Sách Giăng chương 8 câu 6 đến câu 8).
Đứng trước tình thế... bất ngờ nầy, Chúa Giê-su biết hết ý tưởng, mưu đồ xấu xa của họ (Thầy Thông Giáo và người Pha-ri-si), Ngài chưa vội đáp gì cả, chỉ cúi xuống lấy tay viết viết trên đất. Sau đó, Ngài ngước lên phán với họ “Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người”, rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết tiếp trên đất (Có lẽ dịch là “trên nền” thì chuẩn hơn chăng, vì các bản Tiếng Anh đều dịch là “on the ground”?)
Kinh Thánh không tiết lộ cho chúng ta biết Ngài đã viết những gì trên đất, nhưng Nhà Thơ Tường Lưu rất có lý khi ông... đoán rằng Chúa Giê-su đã viết chữ “THA”:
Chúa ôi, lòng Chúa thật bao la,
Chúa đã thương con lượng hải hà,
Con đến cùng Ngài bao tội lỗi,
Ngài thương, Ngài viết mãi chữ “tha”...
Vâng, luật pháp thì định tội và chỉ cho con người biết họ là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời; nhưng ân điển là tha thứ và chữa lành như Kinh Thánh đã dạy: “Luật pháp đã ban cho bởi Môi se, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Giê-su Christ mà đến” (Sách Giăng chương 1 câu 17).
Sứ Đồ Giăng được mệnh danh là vị Sứ Đồ của tình yêu và ông được Chúa dùng để viết ít nhất năm sách trong Kinh Thánh. Năm sách đó là sách Tin Lành Giăng, các Thơ tín Giăng thứ nhất, thứ nhì và thứ ba, và sách Khải Huyền.
Trong phần kết của sách Giăng, vị Sứ Đồ đã viết:
“Đức Chúa Giê-su đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-su là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (Sách Giăng chương 20 câu 30 và 31).
Rồi trong phần cuối của Thơ Giăng thứ nhất, Sứ Đồ cũng viết:
“Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (Sách Giăng thứ nhất chương 5 câu 13).
Mục đích của các sách Sứ Đồ Giăng viết ra là để đem người ta đến chỗ tin nhận danh Con Đức Chúa Trời (là Chúa Giê-su) và khi họ tin nhận Danh ấy, thì họ biết mình có sự sống đời đời.
Có thể nói đó cũng chính là mục đích của cả Kinh Thánh vậy!
Như chúng ta đã biết, Phao-lô là người đã được Chúa dùng để viết nhiều sách trong Kinh Thánh nhất. Có ít nhất là mười ba sách trong Tân Ước là do Sứ Đồ Phao-lô viết, từ sách Rô-ma cho đến sách Phi-lê-môn. Chưa kể sách Hê-bơ-rơ, có nhiều Học Giả Kinh Thánh cũng cho là sách của Phao-lô. Trong các sách của Phao-lô, chúng ta thường thấy trong phần kết các bức thư, Phao-lô đã cho độc giả của mình biết rằng chính ông là người đã tự tay mình viết các bức thư ấy để gởi cho họ.
“Chính tay tôi, là Phao-lô, viết lời chào thăm nầy cho anh em: ấy đó là dấu ký của tôi trong mọi thơ từ của tôi, tôi viết như vậy” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhì chương 3 câu 17).
“Chính tay tôi, Phao-lô, viết chào thăm anh em. Hãy nhớ về xiềng xích của tôi. Nguyền xin ân điển ở cùng anh em!” (Sách Cô-lô-se chương 4 câu 18).
“Hãy xem chính tay tôi viết thư này cho anh em, chữ lớn là dường nào!” (Sách Ga-la-ti chương 6 câu 11).
Không ai có thể phủ nhận sự uyên bác của Phao-lô, và cũng không ai có thể phủ nhận ơn tứ viết sách một cách đặc biệt mà Chúa đã ban cho Phao-lô.
Phao-lô ham đọc, ham học, ham viết đến nỗi khi đang bị ở tù tại La-Mã vì rao giảng Tin Lành, ông cũng tiếp tục viết thư gởi cho các Hội Thánh , và nhờ đó mà chúng ta có được các sách rất quý giá có mặt trong Kinh Thánh như Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se và Phi-lê-môn. Phao-lô quả là một ngòi bút sáng chói mà không một người ham đọc, ham học, ham viết nào mà không biết đến.
Phao-lô quả là một tấm gương đam mê viết đáng để cho bạn và tôi noi gương biết bao!
Một trong những lời mà Phao-lô đã viết ra rất sâu sắc cho chúng ta, đó là những lời nầy: “Vả, rõ thật rằng anh em là bức thơ của Đấng Christ, bởi chức vụ chúng tôi viết ra, chẳng phải viết bằng mực, nhưng bằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời hằng sống, chẳng phải viết trên bảng đá, nhưng trên bảng thịt, tức là trên lòng anh em” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì chương 3 câu 3).
Ở đây, Phao-lô nói ông không viết bằng mực bình thường như mọi người thường dùng để viết, mà ông viết bằng một loại... mực đặc biệt là Thánh Linh. Không viết trên một loại giấy bình thường mà người ta thường dùng để viết, nhưng trên một loại... giấy đặc biệt là lòng chúng ta.
Thật là những lời viết sâu sắc, quý giá làm sao!
Trong Kinh Thánh chúng ta biết có nhiều những Tiên Tri được Chúa dùng để rao ra sứ điệp cho dân sự Ngài. Trong những Tiên Tri đó, có những Tiên Tri nói và cũng có những Tiên Tri viết sách để lại cho thế hệ mai sau còn có thể đọc được và vâng giữ. Những Tiên Tri rao ra sứ điệp của Đức Chúa Trời bằng cách nói thì có các Tiên Tri như Ê-li, Ê-li-sê, Na-than... Còn Tiên Tri rao ra sứ điệp bằng cách viết sách như các Tiên Tri Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Đa-ni-ên...
Nhờ vậy mà ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn được đọc những sứ điệp đầy ơn Chúa của họ.
Tôi đã viết bao nhiêu năm qua, đang viết hôm nay và sẽ tiếp tục viết trong tương lai, chừng nào tôi còn sống với mục đích để ca tụng Vua của các vua, Chúa của các chúa là Đức Chúa Giê-su Christ, Đấng đã yêu thương tôi và phó mạng sống Ngài vì tôi, Đấng đã chết và đã sống lại và sống mãi mãi để ban cho tôi và những người tin nhận Ngài sự sống đời đời.
Xin Chúa ban phước cho ngòi bút đơn sơ nầy cũng như nhiều ngòi bút Cơ-đốc khác để góp phần tôn vinh Ngài trên đất nầy không thôi, không thôi! Amen!
California, Những Ngày Đầu Năm Mới 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
1 wikipedia.org
2 “Lịch Sử Của Sách” – tác giả James Raven (What is the History of the Book?)
Bài 348
Năm Mới, Nói Chuyện... Đổi Mới Người Bề Trong
Kinh Thánh: II Cô-rinh-tô 4: 16-18; Rô-ma 8: 18; Ê-phê-sô 4: 22-24.
Mùa Xuân đã về và đang về với mọi người mọi nhà ở khắp mọi nơi.
Mùa Xuân về luôn luôn mang theo sự mới mẻ cho tạo vật từ cây cối, chim muông, hoa lá đến con người.
Nói đến mùa Xuân, không thể nào không nói đến sự mới mẻ. Nhân mùa Xuân về, xin mời bạn cùng suy gẫm về... đổi mới người bề trong.
Con người chúng ta được Đức Chúa Trời tạo nên có thân thể và linh hồn. Thân thể là cái bên ngoài thấy được, còn linh hồn là cái ở bên trong không thấy được. Thân thể chứa đựng linh hồn và linh hồn làm cho thân thể sống động được. Một khi linh hồn lìa khỏi thân thể thì thân thể không còn sống động được nữa. Vua Sa-lô-môn đã cho biết: “bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó” (Sách Truyền Đạo, chương 12, câu 7). Khi linh hồn trở về nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã ban nó, thì thân thể phải trở vào đất y như nguyên cũ vậy.
Kinh Thánh có nói đến người bề ngoài và người bề trong.
Phao-lô cho biết: “Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 4, câu 16 đến 18).
Người bề ngoài là phần thể chất bằng xương bằng thịt có thể thấy được. Kinh Thánh gọi người bề ngoài là “nhà tạm” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 5, câu 1 và 2). Lời Chúa cho biết con người bề trong của chúng ta ở trong cái “nhà” đó. Một ngày nào đó, cái “nhà” đó sẽ đổ nát, và con người bề trong của chúng ta sẽ đi vào một trong hai nơi ở trong cõi đời đời là Thiên Đàng hay Địa Ngục. Con người bề trong là linh hồn phi vật chất, không thấy được, nhưng còn mãi đời đời, mãi mãi.
Có thể ví thân thể giống như cái nhà, còn linh hồn giống như người ở trong nhà đó vậy!
Thân thể là... người bề ngoài của chúng ta.
Bạn và tôi đều muốn đổi mới người bề ngoài của mình cho đẹp đẻ, cho trẻ trung. Hằng ngày chúng ta đều muốn làm đẹp con người bề ngoài nầy. Và đặc biệt, mỗi khi năm mới đến, mọi người đều muốn làm đẹp để đón Xuân, vui Tết với người ta.
Người ta cho biết kỹ nghệ làm đẹp là một trong những kỹ nghệ hái ra tiền nhất trong các ngành kỹ nghệ của thế giới.
Ngày nay, kỹ nghệ làm đẹp mọc lên ở khắp mọi nơi để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, nhất là của giới nữ.
Ngày nay, không chỉ nữ giới mới làm đẹp, mà nam giới cũng muốn... làm đẹp nữa.
Làm đẹp thiết nghĩ đó là nhu cầu chính đáng của con người.
Đức Chúa Trời ban cho con người có thân thể, và Chúa muốn chúng ta chăm sóc thân thể của mình cho đẹp đẻ, sạch sẽ, khỏe mạnh, vì thân thể chúng ta là đền thờ Chúa ngự (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 6, câu 19), miễn là đừng thái quá là được.
Nhưng, chúng ta nên nhớ, cho dù chúng ta có chăm sóc thân thể nầy, con người bề ngoài nầy tốt đến đâu đi chăng nữa, thì theo thời gian, con người bề ngoài nầy cũng sẽ hư nát mà thôi.
“Sinh, lão, bịnh, tử” là quy luật tất yếu của Tạo Hóa dành cho con người tội lỗi chúng ta. Không ai có thể... lột da sống đời; và cũng không có khoa học nào có thể chế ra được loại thuốc... trường sinh bất tử nào để làm cho thân thể con người mãi mãi trẻ đẹp, mà không già, không chết được cả. Khoa học là con người nên khoa học ở dưới quyền của Đấng Tạo Hóa, khoa học không thể nào vượt qua được quyền của Đức Chúa Trời được đâu.
Chúng ta biết rằng thân thể con người từ khi phạm tội, thì nó đã được lập trình để hướng tới sự chết. Các nhà khoa học sử dụng thuật ngữ “a-pôp-tô-sít” để mô tả “sự chết tế bào đã được lập trình” nầy. Trong thân thể người lớn, trung bình giữa 50 và 70 tỉ tế bào dãy chết mỗi ngày. Hãy suy nghĩ về sự ấy. Bạn mất đi ít nhất 50 tỉ tế bào ngày hôm qua, bạn sẽ mất đi ít nhất con số ấy hôm nay. Vào thời điểm nầy tuần tới, bạn sẽ mất đi 350 tỉ tế bào phải chết vì nó đã được lập trình như thế. Không có gì phải ngạc nhiên, hết thảy chúng ta đều cảm thấy mình đang bị hư nát. Điều đó rất thực. Khi Phao-lô nói rằng “sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người” ở Rô-ma, chương 5, câu 12, không những điều đó rất thực trong lãnh vực thuộc linh, mà nó còn rất thực trong lãnh vực thuộc thể nữa.
Con người bề ngoài thì hay hư nát và tạm thời, thì chúng ta không nên tập chú cả đời vào chỉ để chăm lo con người bề ngoài nầy.
Vậy, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Chúa đây?
Lời Chúa dạy chúng ta phải chăm sóc con người bề trong.
Người bề trong chính là tâm linh chúng ta, linh hồn chúng ta. Tâm linh, linh hồn chúng ta là phần không thấy được và là phần còn lại đời đời, không bao giờ qua đi.
Nếu chỉ lo đổi mới người bề ngoài mà không quan tâm đến việc đổi mới người bề trong là một mối nguy đang tiềm ẩn trong đời sống của người tin Chúa. Vì nếu chỉ lo chăm sóc người bề ngoài thì chúng ta đang chăm sóc sự thấy được, mà sự thấy được chỉ là tạm thời mà thôi, không lâu dài, trường cửu. Và như vậy là chúng ta đang đi... trật mục tiêu mà Chúa muốn chúng ta hướng đến.
Người bề trong mới cần phải đổi mới càng ngày càng hơn, có nghĩa là phải được quan tâm nhiều hơn, chăm sóc nhiều hơn là người bề ngoài. Vì người bề trong là sự không thấy được, và sự không thấy được đó mới là đời đời không cùng cho chúng ta.
Đổi mới người bề trong có nghĩa gì?
Có nghĩa là chúng ta phải luôn luôn làm mới lại mối liên hệ giữa chúng ta với Đấng mà chúng ta đang tôn thờ. Một đời sống keo sơn, gắn bó, gần gũi với Chúa luôn luôn mỗi ngày qua sự cầu nguyện, học lời Chúa, phục vụ Ngài, phục vụ anh em của mình trong đức tin.
Những điều chúng ta thấy trước mắt chỉ là tạm thời vì “trần thế chẳng phải quê hương” của chúng ta. Vì với cuộc đời nầy, chúng ta là “người ở trọ, kẻ đi đường” mà thôi (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 2, câu 11). Khi chúng ta tin Chúa Giê-xu, chúng ta hướng đức tin mình về những điều không thể thấy, nhưng biết chắc sẽ đến trong tương lai, đó là sự sống vĩnh cửu (Sách Hê-bơ-rơ, chương 11, câu 1). Chúng ta cần hướng về những điều vĩnh cửu, không hư mất trên Thiên Đàng để tập trung đầu tư cuộc đời mình vào nơi ấy.
Phao-lô tiếp tục nhắc nhở, khích lệ chúng ta: “rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Sách Ê-phê-sô, chương 4, câu 22-24).
“Làm nên mới trong tâm chí mình”, có nghĩa là “đổi mới người bề trong” chúng ta. Làm mới lại mối liên hệ tâm linh giữa chúng ta với Chúa.
Người bề ngoài nầy sẽ phải càng ngày càng già đi, càng yếu đi, càng xuống cấp cho đến khi... nằm xuống dưới ba thước đất; nhưng người bề trong, xin Chúa cho chúng ta càng ngày càng đi tới, sức lực lần lần thêm (như Lời Chúa trong Thi-thiên, chương 84, câu 7), càng ngày càng lên chốn cao hơn cho đến khi lên đến chốn Thiên Đàng vinh hiển tuyệt vời ở với Chúa mãi mãi không thôi.
Phao-lô khẳng định: “Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến là sự sẽ được bày ra trong chúng ta” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 18).
Phao-lô nói thêm: “Còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 30).
Người bề ngoài càng ngày càng hư nát theo thời gian có lẽ không nhiều thì ít cũng làm cho chúng ta buồn vương một chút nào đó. Khi chúng ta còn ở trong thân thể nầy, chúng ta phải gặp đau ốm, bệnh tật, nguy nan, khốn khó, thậm chí phải chết mất nữa; nhưng nếu đem so với sự vinh hiển mà chúng ta sẽ nhận được sau khi kết thúc cuộc sống nầy, thì không thể nào so sánh được đâu. Phao-lô mô tả sự vinh hiển đó bằng cụm từ “vô lượng vô biên”, không thể nào tưởng tượng nổi sự phước hạnh khi được ở với Chúa trong Thiên Đàng.
Hiện tại khi còn sống trong thân xác nầy, chúng ta phải chấp nhận một số những đau khổ, khó khăn mà Chúa cho phép xảy đến trên đời sống chúng ta, không phải là để làm chúng ta ngã quỵ, lui đi trong đức tin, mà bèn là để trui rèn đức tin chúng ta, làm cho chúng ta con người bề trong chúng ta càng ngày càng giống như Chúa hơn.
Thánh Phi-e-rơ nhắc nhở, khích lệ chúng ta: “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 3, câu 18).
Đó là cách để chúng ta đổi mới con người bề trong của mình.
Nguyện xin Chúa ban cho mỗi chúng ta đừng ngã lòng khi thấy con người bề ngoài càng ngày càng già đi, thân thể yếu đi, tai nghe yếu hơn, mắt nhìn kém hơn, chân đi chậm chạp hơn... Nói chung hễ càng lớn tuổi thì cái gì cũng hơn người ta hết, nhưng hơn ở chiều hướng đi xuống chứ không phải chiều hướng đi lên. Nhưng về con người bề trong, xin Chúa cho mỗi chúng ta càng ngày càng có chiều hướng đi lên, càng ngày càng tấn tới trong sự hiểu biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ. Mỗi chúng ta cứ càng ngày càng “lên chốn cao hơn” cho đến chừng nào chúng ta gặp được Chúa trên Thiên Đàng và ở mãi với Chúa kính yêu của mình, thờ phượng Ngài, ca ngợi Ngài, hầu việc Ngài ngàn muôn năm không dứt.
Kính chúc mọi người một Mùa Xuân mới tràn đầy ơn phước mới từ Chúa Giê-su là Chúa của Mùa Xuân ban cho.
California, Đầu Xuân Mới 2024
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 349
Xuân Về, Ngẫm Nghĩ Một Chút Về... Thơ Xuân Ngoài Chúa Và... Thơ Xuân Trong Chúa
Kinh Thánh: Giăng 3: 36; Ga-la-ti 5: 22
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
(Nguyễn Bính)
Vâng, bạn đã thấy Xuân về chưa?
Mùa Xuân đã và đang về với mọi người, mọi nhà rồi đấy. Hãy đưa tầm mắt nhìn lên bầu trời, rồi nhìn cảnh vật chung quanh mình, bạn sẽ thấy mùa Xuân như đang đứng trước của nhà đấy thôi.
Nói đến thơ Xuân ngoài đời, một trong những bài thơ Xuân kinh điển mà ta không thể nào không nhắc đến, đó là bài thơ “Ông Đồ” của Nhà Thơ tài hoa nổi tiếng Vũ Đình Liên. “Ông Đồ” là một bài thơ hoài cổ nổi tiếng trong những bài thơ hoài cổ nổi tiếng của thơ ca Việt Nam như “Thăng Long Thành Hoài Cổ” (Bà Huyện Thanh Quan), “Sông Lấp” (Trần Tế Xương)...
Hai khổ thơ kết của bài thơ đượm một nỗi buồn hiu hắt dường như bất tận về một thời Nho Học sôi nổi đang đi dần vào quên lãng thật đáng thương biết bao:
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Với Nhà Thơ Đoàn Văn Cừ, sau cái chết của hai người thân yêu trong gia đình là ông và bà của mình, thì Tết đến Xuân về chẳng còn ý nghĩa gì nữa, chỉ thêm buồn thêm khổ khi nhớ về ký ức Tết xưa khi còn ông bà yêu dấu:
Từ khi ông tôi mất,
Bà tôi đã qua đời,
Tôi mỗi ngày mỗi lớn,
Nên chẳng thấy gì vui.
Tết đến tôi càng khổ,
Tôi nhớ bức tranh gà,
Chiếc phong bao giấy đỏ,
Bánh pháo tép ba xu.
(Đoàn Văn Cừ)
Chế Lan Viên Thi Sĩ thì càng buồn khổ đáng sợ hơn khi nghe Tết đến Xuân về. Buồn khổ đến nỗi thấy tất cả cuộc đời như vô nghĩa, chỉ toàn khổ đau mà thôi. Buồn khổ đến nỗi muốn nhặt lá, nhặt hoa của mùa Thu trước để đem về chặn đường, không cho Xuân sang.
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước,
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
(Chế Lan Viên)
Với Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng thì mùa Xuân đến là mùa báo hiệu sự chết đang chờ đợi ngay ở phía sau:
Xin chào nhau giữa con đường,
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau,
Tóc xanh dù có phai màu,
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng.
(Bùi Giáng)
Ông Hoàng thơ tình Xuân Diệu dù rất hăng hái với mùa Xuân, có những bài thơ Xuân đầy hương sắc; nhưng cũng không ít những vần thơ Xuân mang giọng điệu buồn. Buồn vì sợ Xuân qua đi mất, mình không còn được vui hưởng những khoái lạc của tuổi trẻ, của tình yêu, nên than van với trời với đất:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất,
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại,
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
(Xuân Diệu)
Thơ Xuân của Huy Cận Thi Sĩ thì càng buồn biết bao nhiêu, vì chính Nhà Thơ đã khẳng định “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Hãy nghe Thi Sĩ nói về mùa Xuân:
Đời mất về đâu, hỡi tháng, năm?
Xuân không mọc nữa với trăng rằm!
Chẳng bao lâu ngủ sầu trong đất,
Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm.
Thơ của Huy Cận là thơ của sầu muộn, của cô độc, lạc loài:
Tuổi non dại lòng tôi say mến bạn,
Khi thanh xuân tôi mỏi chạy theo tình,
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán,
Lòng lạc loài ngay từ thưở sơ sinh.
(Huy Cận)
Điểm một vài Nhà Thơ khá tiêu biểu ngoài Chúa khi bày tỏ cảm xúc về Xuân qua thơ ca như thế để ta thấy được rằng, hầu hết đều mang một giọng thơ đượm buồn, có khi còn chua chát nữa.
Người ta nói thơ là tiếng nói của tâm hồn. Tâm trạng của tâm hồn như thế nào thì biểu lộ ra bên ngoài như thế ấy. Tâm trạng buồn thì làm sao có thơ vui được.
Nhưng với các Thi Nhân của Chúa thì thơ của họ mang một giọng điệu khác. Hãy nghe Nhà Thơ Cơ-đốc kỳ cựu Thanh Hữu đón Xuân sang. Không gom nhặt lá vàng, xác hoa của mùa Thu trước đến chắn nẻo Xuân về; nhưng chờ đón Xuân sang với một tâm trạng háo hức:
Đây mùa xuân mới tuyệt vời,
Linh Xuân! ta đợi, Xuân ơi ta chờ.
Ngày nào ta đạt ước mơ?
Bước vào xuân thắm nên thơ thiên thành.
(Thanh Hữu)
Không những Thi Nhân háo hức đợi Xuân về, mà Thi Nhân còn gọi mời người khác cùng đón Xuân sang với mình một cách tha thiết nữa. Hình ảnh mùa Xuân hiện lên trong thơ Thanh Hữu một cách thật ấn tượng. Bằng cách sử dụng từ “đầy” để diễn tả một mùa Xuân đầy quyến rũ, đáng yêu, đó là mùa Xuân tuyệt vời của Thiên Đàng:
Vườn xuân mới, đầy phước ân năng động,
Đầy vui mừng, thương xót trái xanh tươi.
Đầy hương thơm, của tha thứ tuyệt vời,
Đầy uy lực, của quyền năng chói sáng...
Bạn đang đứng, cạnh vườn xuân xán lạn,
Xin mời vào, xin đăng ký tham quan.
Chủ Vườn Xuân, đang mở lối thiên đàng,
Mời bước đến nhận ân ban cứu rỗi.
Vườn xuân mới, mở ra trời đất mới,
Trong đời nầy tiếp nối cõi lai sinh.
Trong vinh quang, trong hạnh phước an bình,
Bên Cứu Chúa, bao ngàn năm thịnh trị.
(Thanh Hữu)
Cùng một giọng thơ đầy hy vọng, đầy sinh lực ấy, Nhà Thơ kêu gọi mọi người hãy bước vào Vườn Xuân Bất Tận là Thiên Đàng để thưởng thức cho thỏa lòng hả dạ:
Em đứng dậy, ngắm Thiên Xuân bát ngát,
Hít vào hồn, nguồn thiên lực vĩnh sinh..
Em bơi trong, sông Linh Thánh an bình,
Em ca ngợi, lời Thiên ca uy dũng.
Em trải lòng, dâng hồn linh chúc tụng
Cùng hòa đồng, nguồn sinh lực thiên ân
Em chìm trong vinh quang thánh vô ngần
Cùng Cứu Chúa hưởng Mùa Xuân Bất Tận.
(Thanh Hữu)
Nữ Thi Sĩ Tiểu Minh Ngọc, một Nhà Thơ nữ nổi tiếng trên Thi Đàn Cơ-đốc, không ai không biết cũng để lại nhiều những vần thơ Xuân rất ấn tượng.
Nữ Sĩ của Chúa đón Xuân với lòng thật vui mừng và bình an vì tâm của Nữ Sĩ đang hướng về chốn Thiên Đàng phước hạnh:
Trời Xuân lòng thật vui mừng,
Bình an miên viễn, bước chân vững vàng,
Mọi người hướng đến Thiên Đàng,
Đón Xuân trong Chúa, sẻ san phước lành!
(Tiểu Minh Ngọc)
Không những Thi Sĩ đón Xuân trong vui mừng và bình an mà Thi Sĩ còn chúc cho bạn bè thân hữu gần xa những lời chúc bình an và phước hạnh nữa:
Xuân vui bên Chúa tôn thờ,
Tạ ơn, khen ngợi Đấng chờ đợi ta!
Chúc cho thân hữu gần xa,
Bạn bè, gia quyến, mọi nhà bình an,
Sống trong phước hạnh Chúa ban,
Mùa Xuân én lượn, ngày càng thỏa vui!
(Tiểu Minh Ngọc)
Lòng Thi Sĩ đầy nhựa sống, đầy nhiệt huyết vươn lên như loài hoa vẫn nở đầy tin yêu và hy vọng vậy:
Ta ước muốn như loài hoa vẫn nở,
Vẫn vươn lên, tràn nhựa sống trong Ngài,
Vẫn bình an, giữa thế giới chuyển xoay,
Vẫn bày tỏ, Tình Yêu Trời bất diệt!
Ta khẩn nguyện, cho lòng tràn nhiệt huyết,
Đầy vui mừng, đi đến khắp mọi nơi,
Nói Tin Lành, sự cứu rỗi cho người,
Giê-su Christ, là Con Đường duy nhất!
Ôi xin Chúa, Đấng quyền năng, chân thật,
Đến mở lòng, cho tất cả trọn tin,
Yêu mến Ngài, phục vụ Chúa hết mình,
Và ta thấy, một vườn hoa vẫn nở...
(Tiểu Minh Ngọc)
Đọc thơ Tiểu Minh Ngọc, nói chung, thơ Xuân của Nữ Sĩ, nói riêng, tôi nhận ra được điều nầy, sở dĩ thơ của Tiểu Minh Ngọc được nhiều độc giả gần xa đón đọc và yêu mến là vì thơ của cô đầy dẫy sự vui mừng, bình an và hy vọng. Sỡ dĩ thơ cô đầy dẫy sự vui mừng, bình an và hy vọng là vì lòng cô có Chúa Giê-su ngự trị:
Mùa Xuân xin gửi biển cười,
Vững tin, phước hạnh, tốt tươi không ngừng,
Sẵn sàng, hầu việc, vui mừng,
Trọn năm trung tín, phấn hưng theo Ngài!
Hết lòng hết sức mỗi ngày,
Yêu người, kính Chúa, Danh Ngài truyền ra,
Gia đình, Hội Thánh gần xa,
Mùa Xuân có Chúa thật là phước thay!
(Tiểu Minh Ngọc)
Vâng! “Mùa Xuân có Chúa thật là phước thay!”
Một Nữ Thi Sĩ Cơ-đốc khác cũng đã từng viết những vần thơ Xuân rất đáng nhớ. Đó chính là Nữ Sĩ Thái Trịnh. Cho dù bà đã lớn tuổi, nhưng thơ của bà đầy sức sống của mùa Xuân, đầy sự tươi thắm, mới mẻ đến không ngờ:
Nguyện xin Chúa cho con mùa xuân thắm,
Cho vườn hồn nỡ rộ đóa thanh tân.
Dựng trong con mới lại một tâm thần,
Mới tất cả trong mùa xuân của Chúa.
(Thái Trịnh)
Thơ Thái Trịnh đầy sức sống và sự tươi thắm như đã nói, và sự tươi thắm đó không chóng qua, không phai tàn như Xuân của thời gian mỗi năm đến rồi đi, vì lòng bà có Thánh Linh ngự trị mà Thánh Linh chính là Đấng ban mùa Xuân cho tâm hồn của bà và trái Thánh Linh thì không bao giờ tàn héo cả:
Dựng trong con mới lại một tâm thần,
Mới tất cả trong mùa Xuân của Chúa
Trái Thánh Linh không bao giờ héo úa
Thắm tươi hoài trong sức sống Cha ban.
(Thái Trịnh)
Cũng giống như thơ của Nữ Sĩ Tiểu Minh Ngọc, thơ Thái Trịnh chứa chan sự tươi thắm, sáng sủa và mới mẻ, vì nguồn cảm hứng thơ của bà đến từ Đấng ban mùa Xuân cho con người chúng ta, Đấng đó không ai khác hơn là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa của muôn loài vạn vật:
Xuân ban từ Đức Chúa Trời;
Ta nghe lòng thật thảnh thơi lạ thường,
Xuân Ngài có Ánh Chiêu Dương,
Có hoa cứu rỗi mùi hương ngát trời,
Ta cùng thầm nguyện Chúa ơi!
Cho con Xuân thắm không thời tàn phai.
(Thái Trịnh)
Nhân mùa Xuân về, xin có vài ngẫm nghĩ nho nhỏ về thơ Xuân ngoài Chúa và thơ Xuân trong Chúa để gởi tặng bạn đọc yêu thơ gần xa.
Tại sao giọng thơ của những Nhà Thơ Cơ-đốc hầu như tất cả đều mang một âm hưởng vui mừng và đầy hy vọng? Câu trả lời chính xác đó là thơ của họ bắt nguồn từ Lời Chúa và từ chính Chúa là Nguồn của sự vui mừng:
Nhà Vua kiêm Nhà Thơ Đa-vít nổi tiếng của người Do-thái đã khẳng định: “Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc. Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng” (Sách Thi-thiên, chương 16, câu 11)
Tôi muốn mượn mấy câu thơ kết trong bài thơ “Ông Đồ” của Nhà Thơ tài hoa Vũ Đình Liên để kết thúc bài viết nầy:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa,
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
“Hồn ở đâu bây giờ?” là một câu hỏi thiết nghĩ không chỉ dành cho... những Ông Đồ xưa thôi đâu mà còn là một câu hỏi rất thực tế dành cho tất cả mọi người chúng ta nữa đấy.
“Hồn ở đâu?” sau khi chúng ta kết thúc cuộc sống trên trần gian nầy là một câu hỏi đáng để mỗi một người dành thì giờ suy nghĩ một cách nghiêm túc, để rồi có một quyết định đúng đắn cho cuộc đời mình trước khi quá muộn.
Kinh Thánh cho biết linh hồn con người sẽ đi về một trong hai nơi là Thiên Đàng vui mừng, phước hạnh miên viễn hay Địa Ngục đau khổ triền miên không dứt sau khi cuộc đời của mỗi một chúng ta kết thúc, là tùy thuộc vào việc chúng ta tin Chúa Giê-su hay chối từ Ngài khi còn sống:
“Ai tin Con (Chúa Giê-su) thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu; nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Sách Giăng, chương 3, câu 36).
Cảm tạ Chúa, tôi đã tin nhận Chúa Giê-su bao nhiêu năm qua, và theo lời hứa đó của Chúa, tôi biết chắc linh hồn của tôi sẽ được ở với Chúa trên Thiên Đàng vinh hiển sau khi tôi đi qua cuộc đời nầy.
Còn bạn thì sao? Bạn có biết chắc linh hồn mình đi về đâu sau khi chấm dứt cuộc sống hữu hạn nầy không?
Cầu xin Chúa của mùa Xuân ban cho chúng ta một mùa Xuân vui mừng, tươi thắm và đầy phước hạnh ở trong Ngài!
California, Đầu Xuân mới 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 350
Xuân Về, Mời Bạn Cùng Đón Xuân Qua... Lời Nhạc (1)
Kinh Thánh: Thi-thiên 96: 1; 98: 1
Xuân mới đã về khắp nơi nơi, và mọi người cùng đang vui mừng đón Xuân về.
Người ta có nhiều cách đón Xuân khác nhau. Đón Xuân qua ấm trà và đĩa mứt; đón Xuân qua đĩa bánh chưn với dưa hành, củ kiệu; đón Xuân qua tách cà phê với đĩa hạt dưa; đón Xuân qua những trang báo Xuân; đón Xuân qua những bài thơ Xuân; đón Xuân qua những bài hát Xuân; đón Xuân qua những ly rượu mừng Xuân, và nhiều cách đón Xuân khác nữa...
Xin mời bạn cùng tôi đón Xuân qua... lời những bài nhạc Xuân Cơ-đốc.
Trước hết, chúng ta cùng đến với bài Thánh Ca Xuân xưa nhất của người Việt Nam.
Trong Thánh Ca cũ nhất của người Tin Lành tại Việt Nam in vào năm 1950, có ít nhất ba bài hát viết về chủ đề mùa Xuân, đó là các bài: “Vùn Vụt Năm Cũ Nay Đã Qua”, dịch từ lời tiếng Anh của một bài Thánh Ca ngoại quốc. Bài thứ hai là “Năm Mới Mời Chúa Vô Nhà”. Bài hát này cũng dựa theo giai điệu của một bài Thánh Ca nước ngoài. Riêng bài thứ ba “Ngày Giờ Qua” là có lời nhạc do Mục Sư Ông Văn Huyên, nguyên Hội Trưởng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam sáng tác dựa vào giai điệu của một Thánh Ca ngoại quốc.
Có thể nói lời nhạc của bài Thánh Ca “Ngày Giờ Qua” rất tươi sáng và rộn ràng. Lời nhạc mang âm hưởng thơ ca rất rõ nét. Xin mời bạn cùng lắng lòng nghe lời của bản nhạc “Ngày Giờ Qua” nổi tiếng:
Ngày giờ qua, qua, qua dường như tên bắn chóng quá.
Nước chảy qua, bóng cũ qua.
Kìa một năm qua, đâu còn lưu giây phút nấn ná.
Cảnh cũ qua, hết thảy qua.
Bầu trời đông mông lung ngày nay đâu có thấy bóng.
Chúa tử vong, hết ruổi dong.
Bầu trời xuân mênh mông nghìn muôn tia, lớp lớp sóng.
Phước mãn song, rất thỏa mong.
Ngày hùng thiêng, non sông hùng thiêng, vui hát lớn tiếng.
Khắp hải xuyên, hưởng phước thiêng.
Nguyện cùng nhau trên con đường thiêng năm mới cứ tiến.
Bước chẳng nghiêng, đứng vững yên.
Kìa vườn lan tươi xanh, kìa sương mai chiếu lóng lánh.
Cảnh tú thanh, ánh vĩnh sanh.
Cùng mừng xuân ta vui hòa thanh ca khúc phước khánh.
Chúa vĩnh sanh, rất sáng danh.
Điệp Khúc:
Kìa tân xuân đến kia, chim ca hoa nghinh.
Khắp non sông báo tin bình minh.
Cùng nhau ta sống vui trong ơn quang vinh.
Chúc cho nhau khúc ca vĩnh sinh.
(Ngày Giờ Qua – Ông Văn Huyên, Thánh Ca 509, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (MN)
Với chỉ lời nhạc của một bài Thánh Ca nầy thôi, chúng ta thấy rất rõ rằng Mục Sư Ông Văn Huyên đích thực là một Nhà Thơ Tin Lành chẳng sai.
Có thể nói, “Ngày Giờ Qua” là một trong những bài Thánh Ca viết về mùa Xuân được cộng đồng tín hữu Tin Lành Việt Nam yêu mến nhất hằng mấy thập kỷ qua. Mỗi khi mùa Xuân về là bài Thánh Ca đáng yêu nầy được vang lên khắp các Hội Thánh người Việt của Chúa ở khắp mọi nơi trong cũng như ngoài nước.
Đó là bài Thánh Ca xưa nhất viết về mùa Xuân của người Tin Lành Việt Nam.
Còn về Thánh Ca viết về mùa Xuân về sau và những năm gần đây, thì có nhiều những bản nhạc có lời khá sâu sắc, đem lại niềm tin yêu cho nhiều con dân Chúa gần xa để sống một đời sống đầy sức sống tươi mới cho Chúa.
Nhạc Sĩ Lương Văn Sấm viết bài “Xuân Vinh Quang” với lời rạng ngời đầy hy vọng như sau:
Kìa mùa xuân vinh quang bừng lên tô non sông
Từng đàn chim tung cánh hót vang
Bầu trời xanh xanh xanh
Hoa thơm nồng ngọt ngào
Xuân đã về gieo muôn tia sáng
Họp đoàn ca vui lên mừng tân xuân vinh quang
Anh em vui ca khúc xuân sang
Kìa một năm qua mau
Bao lo buồn ngại gì
Christ là nguồn sống vui vô vàn
Điệp Khúc:
Xin kíp đến! Christ Chân Chúa tôi
Hãy gieo ánh sáng vui ngàn nơi
Ban ơn lành tràn tuôn, tưới gội nhuần hằng ngày
Xin kíp đến, Chúa xuân thiên đài.
Xuân Vinh Quang –Lương Văn Sấm, Thánh Ca 890, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (MN)
Mục Sư Nhạc Sĩ Nguyễn Lĩnh sáng tác bài “Hát Xuân” dù lời rất ngắn, nhưng rất vui tươi, rộn ràng và đầy sắc xuân với vui, với hoa, với gió, với chim, để qua đó bày tỏ lòng biết ơn Chúa Giê-su đã ra đời để cứu nhân loại và đem đến mùa Xuân cứu rỗi cho mọi người.
Tết ta vui không chi bằng, ngợi khen Chúa Cha toàn năng
Hoa đào cười đùa trong gió, đàn chim lượn bay đây đó
Nhớ ơn Giê-su ra đời, tình yêu Chúa Cha nào vơi
Cầu chúc hạnh phúc nơi nơi.
(Hát Xuân, Nguyễn Lĩnh, Thánh Ca 422, Baptist Bắc Mỹ)
Nhạc Sĩ Vĩnh Phúc có bài “Xuân Về” lời cũng rất ngắn như nhạc phẩm “Hát Xuân” của Mục Sư Nguyễn Lĩnh, nhưng khơi gợi nhiều hình ảnh về mùa Xuân rất ấn tượng, như gió xuân, như chim, như mây, như núi đồi, như hoa lá...
Mùa xuân về trong gió ngàn, mùa xuân về trong gió đàn
Trong ánh xuân vui, chim tung cánh xa khơi, theo áng mây xanh lững lờ trôi
Nhìn xuân về trên núi đồi, cùng nhau ca ngợi Chúa Trời
Hoa lá thôi rơi, thiên nhiên quá xinh tươi
Xuân đến đem vui bốn phương trời.
(Xuân Về - Vĩnh Phúc, Thánh Ca 429, Baptist Bắc Mỹ)
Với Nhạc Sĩ Trần Thượng Trí qua nhạc phẩm “Mùa Xuân Vĩnh Viễn”, ta thấy được tấm lòng của Nhạc Sĩ rất yêu mùa Xuân của thiên nhiên, và đặc biệt là yêu mùa Xuân thiêng liêng, vì đó mới là mùa Xuân chẳng hề nhạt phai theo năm tháng:
Lời nguyện cầu bên nhau dài lâu.
Trong Giê-su yêu thương càng sâu.
Mùa đông đã qua, mùa mưa đã dứt rồi.
Kìa mùa xuân vĩnh viễn với muôn hoa tươi.
Đừng buồn phiền nước mắt trào mi.
Như mưa đêm mưa rơi ủ ê.
Thỏa lòng đợi trông, mùa xuân thiêng đã về.
Kìa đàn chim ríu rít khúc ca say mê.
Điệp Khúc:
Ôi! Hương mùa xuân, hoa mùa xuân khúc hát tuyệt vời.
Ôi! Hương mùa xuân, hoa mùa xuân thắm trên môi cười.
Xin cho đời tôi gần luôn bên Ngài,
Cho bình an hạnh phúc thiên đài, chẳng hề nhạt phai.
(Mùa Xuân Vĩnh Viễn, Trần Thượng Trí - thuvientinlanh.org)
Một trong những Mục Sư kiêm Nhạc Sĩ nổi tiếng của người Tin Lành, không ai không biết, đó chính là Mục Sư Nhạc Sĩ Lê Ngọc Vinh. Ông cũng còn là một Bác Sĩ nữa. Nhạc Sĩ Lê Ngọc Vinh sáng tác nhiều nhạc phẩm với nhiều chủ đề khác nhau, và được khá nhiều người yêu mến những tác phẩm của ông. Với chủ đề Xuân, Nhạc Sĩ có bài “Mừng Xuân Mới” với lời nhạc nhẹ nhàng nhưng đằm thắm, dễ thương và cũng dễ nhớ:
Một bầu trời xuân thanh thanh
Ngàn hoa hương ngát sắc thắm
Hòa khúc ca mừng xuân mới
Đón mùa xuân sang hân hoan
Cùng nhau ta hát chúc tán
Ngợi Chúa ban mùa xuân thắm tươi
Một bầu trời xuân thanh thanh
Ngàn hoa hương ngát sắc thắm
Hòa khúc ca mừng xuân mới
Đón mùa xuân sang hân hoan
Cùng nhau ta hát chúc tán
Ngợi Chúa ban mùa xuân thắm tươi.
Xuân về, Ngợi khen Giê-xu Chúa Xuân
Xuân về, Cùng mời Chúa Xuân vô lòng.
(Mừng Xuân Mới, Lê Ngọc Vinh - thuvientinlanh.org)
Mục Sư Nhạc Sĩ Lê Phước Thiện sáng tác khá nhiều những ca khúc về Xuân. Có thể nói Xuân trong ca khúc của Nhạc Sĩ rất là tha thiết và da diết. “Xuân Đến Bên Nhà” là một ca khúc Xuân có lẽ nổi tiếng nhất trong các ca khúc Xuân của Lê Phước Thiện. Lời bài hát nầy tha thiết và da diết biết bao, không khác chi lời của một bài thơ đẹp!
Kìa đàn chim đùa bay trên khóm hoa,
Báo tin vui xuân đến bên hiên nhà.
Cười đùa bay đi ca vang khắp nơi,
Hát câu ca vui chúc Xuân về.
Người người vui Xuân trong câu chúc nhau,
Chúc nhau câu thuận hòa an vui,
Và được thêm ơn trong khi tuổi cao.
Chúa ban cho trọn đời vui tươi.
Cành đào mong manh đưa theo gió mây,
Cánh Xuân vui tươi lướt bên hiên nhà.
Tràn ngập vui tươi trên muôn cánh hoa,
Gió heo mây đưa bước vô nhà.
Mọi sự do nơi tay Thiên Chúa thôi,
Chúa ban cho người mùa Xuân tươi.
Ngài làm nên hoa xuân để ngát hương.
Chúa ban cho trời đẹp muôn phương.
Điệp Khúc:
Xin Cha Ngài ban phước thiêng,
Cho con được vui xuân hoài.
Xin cho được may mắn luôn.
Cất tiếng ca mừng Xuân.
Kìa một năm trôi đi thật rất nhanh,
Giờ mùa Xuân tươi vui đã đến rồi.
Mọi buồn đau xin trôi theo tháng năm.
Cầu nguồn Phước trong tôi.
(Xuân Đến Bên Nhà – Lê Phước Thiện, Thánh Ca 889, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (MN)
Lời nhạc trong ca khúc “Xuân Tạ Ơn” của Nhạc Sĩ Châu Hoàng Phúc rất rộn rã, đầy sức sống và dồi dào ý thơ:
Kìa mùa xuân đã về, ngàn muôn hoa khoe sắc khoe hương
Bầu trời xanh én lượn, chào đón Chúa xuân sang
Nào cầm tay hát mừng, chào mùa xuân đã đến bên ta
Một mùa xuân thái bình, một năm mới sum vầy.
Người người vui chúc mừng, mừng cho nhau năm mới an khang
Mừng một năm phước hạnh, cuộc sống ấm no hơn
Người người không oán hờn, tình yêu thương xóa hết thương đau
Tình yêu của Chúa Trời, là sự sống cho đời.
Điệp Khúc:
Tạ ơn Thiên Chúa, đã ban mùa xuân trở về
Mừng một năm mới với bao niềm vui đón chờ
Nguyện xin dâng Chúa khúc ca mừng xuân mới về
Thành tâm dâng Chúa tuổi xuân ngát hương.
(Xuân Tạ Ơn - Châu Hoàng Phúc)
Một trong những ca khúc viết về mùa Xuân được khá nhiều con dân Chúa thuộc lòng và hát vang lên mỗi khi mùa Xuân về, đó là ca khúc “Dâng Cha Đóa Hoa Lòng”, có lẽ do lời bài hát dễ thương và đầy ắp hơi ấm từ trái tim yêu thương của tác giả; nhưng có điều tiêng tiếc là không biết tác giả của nhạc phẩm nầy là ai?
Ngày đầu năm con xin kính dâng Cha
Đoa hoa thiêng là bao đóa hoa lòng
Xin dâng lên trong ngày đầu năm mới
Xin dâng lên trong ngày đầu xuân nầy
Cha ơi, xin thương nhậm cho con
Để đầu năm yêu thương sẽ lên ngôi
Chúa Xuân sang điểm tô thắm cho đời
Bao yêu thương chan hòa mùa xuân mới
Trong ơn Cha vui vầy trọn an bình
Xuân năm nay thêm đẹp xinh.
(Dâng Cha Đóa Hoa Lòng – Thánh Ca 453, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Hoa Kỳ)
(Xin mời bạn cùng xem Phần 2 của bài viết nầy vào kỳ sau) Cảm ơn!
Kính chúc mọi người một năm mới an vui và thỏa nguyện trong tình yêu của Chúa Giê-su!
California, Những Ngày Cận Tết Nguyên Đán 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 351
Xuân Về, Mời Bạn Cùng Đón Xuân Qua... Lời Nhạc (2)
Kinh Thánh: Thi-thiên 96: 1; 98: 1
(Tiếp theo Phần 1)
Những năm gần đây, ta thấy có một Nhạc Sĩ có sức sáng tác đáng nể, đó là Nhạc Sĩ SI-ÔN Trương Văn Xê. Nhạc Sĩ có sáng tác một số nhạc phẩm về Xuân cũng được đón nhận nồng nhiệt từ nhiều con dân Chúa. Một trong những ca khúc như thế là ca khúc “Xuân Mới, Sức Sống Mới”. Lời của ca khúc nầy rất tươi sáng và đầy sức sống đúng như tên bài hát vậy:
Xuân đến, xuân đi, xuân lại đến
Mỗi năm gieo vui tươi rộn ràng
Muôn hoa khoe hương cùng nắng sớm
Gió xuân ru lâng lâng hồn ai
Ô, ngắm thiên nhiên sao tuyệt quá
Chim hót líu lo vang khắp trời
Xuân sang cho muôn vật sắc mới
Xuân đến đem vui tươi mọi nhà
Xuân mới, sức sống mới, thắm ngát hương hạnh phúc,
chứa chan bao tin yêu, ơn phước đến với người
Xuân đến sống với Chúa, luôn đêm ngày theo Chúa
Hát vang mừng thanh bình, hy vọng tràn nơi nơi
Duy Chúa chính Giê-su, sức thiêng không tàn héo
Chúa đem bao yêu thương, ân điển xuống thế trần
Dâng Chúa sức sống mới, trao năng lực cho Chúa
Thỏa vui tựa Thiên Đàng, nơi trần gian hôm nay
Xuân bên Chúa.
(Xuân Mới, Sức Sống Mới – SI ÔN Trương Văn Xê, Thánh Ca 383, Tôn Vinh Chúa Hằng Hữu)
Mục Sư Nhạc Sĩ Phạm Toàn Ái cũng là một người sáng tác nhiều những ca khúc Xuân, trong đó có những ca khúc có lời nhạc khá nhẹ nhàng và dễ thương. “Xuân Trong Tôi” là một trong những nhạc phẩm như thế:
“Xuân trong tôi là khúc hát trên môi
Xuân trong tôi là hoa thắm bừng lên
Xuân trong tôi là nhịp cảm thông người
Xuân trong tôi là tình Chúa muôn đời
Mừng xuân vui hát (có Chúa trong tôi)
Chào nụ hoa thắm (Chúa ở trong tâm)
Người người thân mến (Phước Chúa ban cho)
Xuân trong tình yêu Chúa dịu vời.”
(Xuân Trong Tôi –Mục Sư Phạm Toàn Ái, Thánh Ca 380, Tôn Vinh Chúa Hằng Hữu)
Trong lời của Nhạc phẩm “Chúa Xuân”, Mục Sư Phạm Toàn Ái đã viết những lời rất sâu sắc về Chúa Giê-su: Ngài là Đấng đem về mùa Xuân nơi nơi. Ngài cũng là Đấng đem về mùa Xuân mãi mãi.
“Từng đàn chim ríu rít tung bay, chào mừng mùa xuân đến
Từng cánh hoa tỏa ngát hương thơm, chào mừng xuân thắm tươi
Người người tay nắm tay cùng mừng vui đón xuân
Một mùa xuân êm ấm, đầy tình thương chan hòa, ta cùng hát Thánh Ca vui mừng
Giê-su, Chúa Xuân đem về mùa xuân nơi nơi
Giê-su xuống đời đem về mùa xuân mãi mãi
Xua tan giá băng khi mặt trời xuân lên ngôi
Bao nhiêu ước vọng vui mừng tràn mãi trong tôi.”
(Chúa Xuân- Mục Sư Phạm Toàn Ái, Thánh Ca 387, Tôn Vinh Chúa Hằng Hữu)
Một Nhạc Phẩm Xuân khá quen thuộc khác được hát khá nhiều trong vòng các con dân Chúa mỗi khi Xuân về, Tết đến, đó là “Xuân An Lành”, không biết tác giả là ai; nhưng lời nhạc thật tràn đầy sự tươi vui và hy vọng như lời mời gọi, chào đón Xuân về rất nồng nhiệt:
Xuân, xuân đã về thắm tươi trên đồng lúa vàng
Xuân, xuân đã về huy hoàng ngàn tia nắng
Xuân, xuân đã về ngát hương đêm mộng thanh bình
Xuân, xuân đã về khắp nơi tràn ngập tiếng ca
Xuân, xuân đã về, gió xuân xao động muôn loài
Xuân, xuân đã về muôn ngàn mầm xanh mới
Xuân, xuân đã về, điểm tô tâm hồn nhân loại
Xuân ơi, hãy đẹp mãi trên môi cười thế nhân.
Xuân, xuân đã về thắm tươi trên đồng lúa vàng
Xuân, xuân đã về trong lòng người con Chúa
Bao nhiêu ước nguyện thiết tha khi mùa xuân về
Mong nhân thế trọn ước mơ thanh bình ngát hương.
Điệp Khúc:
Lòng mừng chào đón xuân về muôn sắc hoa
Nguyện cầu mùa xuân an lành trên dân Chúa
Người người cùng hát vang lừng vui đón xuân
Người người cùng vui chúc nhau xuân an lành.
(Xuân An Lành, Không rõ tác giả, Thánh Ca 428, Báp-tít Bắc Mỹ)
Một ca khúc Xuân không rõ tác giả khác có tựa đề là “Xuân Hứa Nguyện” có lời nhạc nhẹ nhàng, đằm thắm với thời gian trôi êm đềm, với trời xanh biếc mơ màng, với nắng Xuân chan hòa, với tình Xuân tha thiết, chứ không ồn ào, huyên náo, đưa hồn ta vào một mùa Xuân êm đềm, dễ thương một cách không ngờ:
Dòng thời gian trôi, trôi mãi êm đềm, mặc bao đổi thay
Mùa đông vui tươi đón Chúa ra đời, đã dần khuất xa
Kìa bầu trời trong xanh biếc mơ màng ngàn hoa tươi thắm
Với tiếng gió reo nhạc khúc tưng bừng, đón xuân đã về
Nắng xuân chan hòa tràn lòng người ấm êm
Hãy trao nụ cười bằng tình xuân tha thiết
Chúa xuân lại về, lòng ngập tràn vui mừng
Mùa xuân mãi tươi sáng, xóa tan bao ưu phiền.
Mừng xuân vui tươi, xin chúc bao người tình yêu Chúa ban
Dù gặp mừng vui hay lúc u sầu, xin đừng rối reng
Vì kìa Giê-su luôn ở bên mình dịu dàng nâng đỡ
Có Chúa dẫn đưa từng bước thăng trầm, quyết không nao sờn
Hãy trao cho Ngài mọi ưu tư vấn vương
Hãy nương nơi Ngài vượt trên bao giông tố
Tháng năm phai tàn niềm tin càng vững bền
Tình yêu rắc gieo mãi giống hương xuân thơm nồng.
Giờ đây hân hoan vui đón xuân về, lòng con ước mơ
Được Cha ban phước tha thứ bao lần con lìa cách Cha
Và nguyện ngày nay in bước theo Ngài bằng tâm tươi mới
Chúa hỡi, hãy luôn dìu dắt đêm ngày mãi không xa rời
Chúc cho bao người một mùa xuân thái an
Biết bao ưu phiền giờ đây xin xa hết
Tháng năm qua dần niềm tin càng vững bền
Nguyện luôn bước theo Chúa, hỡi Chúa Xuân thiên đài.
(Xuân Hứa Nguyện, Không rõ tác giả, Thánh Ca 425 Báp-tít Bắc Mỹ)
Nữ Nhạc Sĩ Hồng Phước có một ca khúc... trước Xuân nghe rất lạ và rất cảm động. Lời ca khúc thể hiện tấm lòng ăn năn, thống hối của tác giả với Chúa trước khi đón mùa Xuân về với mình một cách vui thỏa nhất, an bình nhất:
Trước thềm năm mới, ôi Chúa Giê-su, con nguyện trở về
Cuộc đời con từ bao năm trước nổi trôi vô cùng
Ôi, Cha yêu, nhìn lại lỗi lầm, lòng con đau xót vô cùng
Trước thềm năm mới, xin Ngài thứ tha mọi tội lỗi con, xin cảm ơn Ngài
Trước thềm năm mới, ôi Chúa Giê-su, con đã trở về
Rồi từ đây lòng con vui sướng thỏa vui an bình
Ôi, Cha yêu, làm sao nói được, tình yêu Cha quá vô ngần
trước thềm năm mới, con nguyện hiến dâng cuộc đời từ nay, xin cảm ơn Ngài.
(Lời Cầu Nguyện Đêm Ba Mươi (Giao Thừa Ăn Năn) - Hồng Phước, Bài Ca Mới)
David Dong là một Nhạc Sĩ và cũng là một Mục Sư nữa, David Dong sáng tác khá sung sức. Ca khúc viết về mùa Xuân cũng dồi dào. Tôi thích ca khúc “Đón Xuân với Giê-su” của Nhạc Sĩ, vì lời nhạc đầy niềm tin, đầy tình yêu, đầy ước vọng và đầy say đắm trong tình yêu Thiên Chúa:
Mùa xuân về trong niềm vui cùng muôn ngàn câu hát
Mùa xuân về trong niềm tin cùng với bao mơ ước
Đón xuân với Giê-su, chúc nhau câu an lành
Năm mới với tình yêu thân mến
Mùa xuân về khắp mọi nơi khi Chúa Xuân ta đến
Phước ân và may mắn đến trong tiếng ca chúc xuân về cùng niềm vui Chúa nhân lành
Mùa xuân về trong niềm tin tình xuân ngàn hoa sắc
Mùa xuân làm cho tình yêu Thiên Chúa càng say đắm
Chúc nhau câu an lành, đón xuân trong năng quyền. Năm mới với lời Cha nhân ái
Ngàn đóa hoa kính dâng Chúa đầu năm dịp xuân đến
Chính là tấm lòng con, hỡi Cha dấu yêu, kính dâng Ngài
Nguyện theo Chúa, sống cho Ngài.
Điệp Khúc:
Đón xuân với nhiều ước vọng
Xuân về trong ngàn tiếng ca. Có Giê-su đời tươi thắm. Chúa ơi, hãy luôn ở cùng. Ngài luôn dẫn dắt con suốt năm mới an lành.
(Đón Xuân Với Giê-su – David Dong, Paslm Music)
Người ta nói thơ và nhạc luôn đi đôi với nhau, như... chị em sinh đôi vậy.
Có không ít những Nhạc Sĩ cũng được Chúa cho có ân tứ làm thơ, nên họ vừa sáng tác nhạc, vừa viết luôn lời nhạc, và những lời nhạc ấy không khác chi một bài thơ hay, như người viết đã tâm sự tản mạn ở trên.
Lại có nhiều những bài thơ của các Nhà Thơ đã được các Nhạc Sĩ chọn phổ thành nhạc, và trở thành những bài hát nổi tiếng.
Ước mong rằng các Nhạc Sĩ Cơ-đốc sẽ dành thì giờ để đọc và lựa chọn những bài thơ hay của các Thi Sĩ Cơ-đốc và phổ thành nhạc để ca ngợi Chúa. Làm được như thế, hy vọng cộng đồng người tin Chúa sẽ có thêm được nhiều những bài hát hay và đầy ý nghĩa.
Mong ước của các Thi Sĩ Cơ-đốc là làm được nhiều những bài thơ hay và ý nghĩa để ca ngợi Chúa và khích lệ người khác trên linh trình theo Chúa.
Mong ước của các Nhạc Sĩ Cơ-đốc có lẽ cũng không khác hơn điều đó.
Mong ước chung của những Văn Sĩ, Thi Sĩ, Nhạc Sĩ, Ca Sĩ, và cả Họa Sĩ Cơ-đốc nữa là muốn làm vinh hiển danh Chúa qua những sáng tác của mình.
Người viết bài nầy biết rằng còn khá nhiều những Nhạc Sĩ Tin Lành khác có những ca khúc Xuân mới và hay nữa, nhưng trong bài viết ngắn ngủi và hạn hẹp nầy, không thể trích dẫn ra nhiều hơn được.
Hy vọng một dịp nào đó, người viết sẽ có dịp được... tản mạn tiếp chuyện đón Xuân qua... lời nhạc, thì sẽ có cơ hội để điểm qua nhiều những Nhạc Sĩ yêu dấu khác của Chúa vậy.
Lời Chúa dạy chúng ta: “Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va. Hỡi cả trái đất, khá hát xướng cho Đức Giê-hô-va... Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm những sự lạ lùng” (Thi-thiên 96 câu 1, và 98 câu 1).
Nhân mùa Xuân mới đến, xin kính chúc tất cả những Văn Nghệ Sĩ Cơ-đốc một mùa Xuân tràn đầy sức sống mới từ Chúa của mùa Xuân ban cho, để tiếp tục sáng tác được nhiều những tác phẩm mới, hay và sâu sắc, góp phần ca ngợi Đấng đã ban mùa Xuân mới mẻ, tươi đẹp cho con người chúng ta được hưởng. Amen!
California, Những Ngày Cận Tết Nguyên Đán 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 352
Tết Về, Nhớ... Giọng Nói Quê Hương
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 26: 73, 74; Giăng 1: 46
Xuân về Tết đến tới nơi rồi đây. Người người, nhà nhà hăm hở kéo nhau lũ lượt về quê ăn Tết sau cả năm xa quê để mưu sinh; nhưng mà mình vẫn còn ở tít bên trời Tây.
Hơn chín cái Tết xa quê, nên nhớ nhà, nhớ quê là cái chắc. Một trong nhiều những nỗi nhớ đó là nhớ...giọng nói quê hương Quảng Nam thân thương, đáng yêu của tôi.
Tôi là người Quảng Nam chính hiệu... con nai vàng. Tôi cũng được Chúa cho có nhiều cơ hội đi nơi nầy chỗ kia: Huế, Sài Gòn, Hà Nội đủ cả, và còn nhiều hơn thế nữa. Thậm chí đi tới bên kia bờ Đại Tây Dương luôn và hiện đang ở tại California của xứ Hoa Kỳ xinh đẹp đây. Thế nhưng, dù đi đâu, ở đâu, tôi cũng không thể nào quên được giọng nói Quảng Nam chất phát, chân tình như hột lúa, củ khoai của quê nhà tôi vậy.
Nói đến giọng Quảng Nam, người quê tôi không bao giờ quên được câu nói...đặc trưng đã trở thành...đặc sản của mình, không ai không biết: Eng không eng, tét đèng đi ngủ, đừng có kèng nhèng mà chó kéng nheng reng (Ăn không ăn, tắt đèn đi ngủ, đừng có cằn nhằn mà chó cắn nhăn răng). Một câu nói khác cũng mang đầy chất giọng quê nhà: Choa ơi choa, anh boa ảnh câu con cóa, ảnh để trên hòn đóa, con gòa héng eng (Cha ơi cha, anh Ba ảnh câu con cá, ảnh để trên hòn đá, con gà hắn ăn), v...v...
Mỗi khi có việc phải đi xa quê, thì tôi thường hay thầm nói với mình những câu ấy để cho...đỡ nhớ quê và rồi tự cười một mình một cách sung sướng về giọng nói thân thương ấy.
Bây giờ, dù đang ở xứ Mỹ, mỗi khi nghe được đâu đó giọng nói của người cùng quê (có khi nghe ở ngoài đời, có khi nghe ở trên mạng), tôi cũng...nhớ đến mấy câu nói...đặc sản ấy để rồi tự cười vui với chính mình.
Nghe đâu tiếng Quảng Nam quê tôi đã từng được coi là...ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ... quốc gia luôn đó. Chính Vua Tự Đức đã từng khẳng định: “Bình văn, xướng văn tất phải dùng tiếng Quảng Nam, được xem là trung thanh.”
Có thế chứ lị!!!
Mỗi khi nhớ đến giọng nói quê nhà, tôi cũng không thể quên được bài thơ...đặc trưng giọng Quảng Nam rất nổi tiếng của Nhà Thơ trào phúng Tú Rua quê tôi cũng rất nổi tiếng:
Rứa (thế) mới kêu là chất Quảng Nôm (Nam)
Ăn hòn nói cục chẳng thôm lôm (tham lam)
Có chàng công tử quê Đà Nẽng (Nẵng)
Cưới ả Thúy Kiều xứ Phú Côm (Cam)
Cha vợ đến thăm chào trọ trẹ
Mẹ chồng không hiểu nói cồm rồm (càm ràm)
Thêm ông hàng xóm người Hà Nội
Chả hiểu mô tê (gì đâu) cũng tọa đồm (tọa đàm)
Theo một bài báo cho biết: “Có nghiên cứu cho rằng bởi đó là giọng của người Chăm nói tiếng Việt. Cho đến thế kỉ 11, vùng đất này vẫn thuộc vương quốc Chăm Pa, vì lãnh thổ Đại Việt khi đó chỉ đến “Đèo Ngang bóng xế tà” thôi. Năm 1306 vua Trần gả công chúa Huyền Trân, vua Chế Mân sướng quá, cắt luôn cho Đại Việt hai châu Ô, Rí làm lễ cưới. Một thế kỉ sau, năm 1402 Hồ Quý Ly mở mang bờ cõi đến sông Thu Bồn. Năm 1471 vua Lê Thánh Tông tiến quân đến đèo Cả, sau rút về lập biên giới tại đèo Cù Mông, ranh giới hai tỉnh Bình Định, Phú Yên ngày nay. Thế là trong suốt mấy trăm năm, trai tráng Việt vào đây lập nghiệp, lấy vợ người Chăm. Các cô gái Chăm lấy chồng Việt tất nhiên phải học tiếng Việt, nhưng nói bằng giọng Chăm lơ lớ, vừa biến âm méo tiếng như ă thành e (ắt/ét), am thành ôm, ôm thành ơm, ao thành ô, vừa pha lẫn những từ Chăm, ví như mô (đâu), tê (kia), ni (này), răng (sao), rứa (thế), ri (vậy), chừ (hiện tại), rị (kéo), truất (tệ quá), thộn (túi áo quần), cà rịch cà tang (đủng đà đủng đỉnh), v...v... Thứ giọng và vốn từ ấy truyền cho con cái, những thế hệ người Việt gốc Chăm, tạo nên giọng Quảng Nam ngày nay.” (Hữu Thọ) *
Còn theo nghiên cứu của một Tiến Sĩ Ngôn Ngữ Học người Quảng Nam về giọng nói quê mình, thì cho biết: “Có thể rằng những vần lạ lùng kia ngày xưa là đặc điểm khá chung ở giọng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Những di dân đầu tiên vào đất Quảng Nam đã đem theo giọng nói ấy. Sau khi bị tách rời khỏi quê hương cũ một thời gian dài, nhất là trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, một số đặc trưng ấy đã hòa nhập vào giọng Quảng Nam hiện đại và được giữ lại cho đến nay. Trong khi đó ở quê nhà, giọng nói vẫn không ngừng thay đổi. Một số vùng, nhất là quanh các trung tâm tỉnh, qua tiếp xúc với các phương ngữ khác, nhiều giọng địa phương đã rũ bỏ dần những nét quá đặc trưng để gần với giọng "chuẩn" Bắc Bộ hơn. Giọng Quảng Nam vô tình trở thành một cổ viện, lưu giữ một số dấu vết đặc biệt của giọng Thanh - Nghệ xưa " (p. 211) **
Dường như chưa ai có đủ luận chứng để có thể khẳng định cách chắc chắn về nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam một cách thuyết phục. Hy vọng rằng trong tương lai, sẽ còn có nhiều người khác sẽ tìm kiếm, nghiên cứu về nguồn gốc của... giọng nói đặc biệt nầy.
Khi nói đến giọng nói đặc trưng của quê mình, không lẫn vào đâu được, tôi chợt nhớ Kinh Thánh cũng có nói đến giọng nói...đặc trưng của xứ Ga-li-lê, quê hương của Chúa Giê-su và của các Sứ Đồ của Ngài ngày xưa cũng có giọng nói không lẫn vào đâu được như thế.
Còn nhớ, khi Chúa Giê-su, Thầy mình bị bắt và bị giải đến sân của Thầy Cả Thượng Phẩm để tra khảo. Phi-e-rơ (một phát ngôn nhân trong Mười Hai Sứ Đồ của Chúa Giê-su) yêu Thầy, nên cũng đi theo để xem sự việc ra thể nào, và mình có thể làm gì đó để...cứu Thầy mình được không?
Kinh Thánh ghi lại: “Một chặp nữa, những kẻ ở gần đó đến gần nói với Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng thuộc về đảng ấy, vì tiếng nói của ngươi khai ngươi ra. Người bèn rủa mà thề rằng: Ta không biết người đó đâu! Tức thì gà gáy!” (Sách Ma-thi-ơ, chương 26, câu 73 và 74).
“Tiếng nói của ngươi khai ngươi ra.” Phi-e-rơ là một ngư phủ vùng Ga-li-lê. Chắc có lẽ, người sống tại vùng Ga-li-lê có một giọng nói mộc mạc, chân chất, cục mịch khá...đặc trưng như giọng nói...đặc trưng của vùng Quảng Nam quê tôi, không lẫn vào đâu được chăng? Cho nên, dù ông cố tình ngồi lẫn vào trong đám đông để sưởi ấm giữa lúc thời tiết giá lạnh lúc bấy giờ, hầu cho không ai nhận ra mình cũng là môn đồ của Chúa Giê-su. Ấy vậy mà cũng có người tinh ý nghe giọng nói của ông liền chỉ ra ông cũng là một người thuộc...đảng của Giê-su (vì Chúa Giê-su cũng là người Ga-li-lê).
Giọng xứ Ga-li-lê của Phi-e-rơ sao mà... giống giọng xứ Quảng Nam của tôi đến thế?
Khi tôi đi bất cứ nơi đâu làm việc hay giảng Kinh Thánh, người ta thường hỏi tôi câu hỏi như đã biết rồi: Anh/ Chú/ Ông/ Mục Sư là người Quảng Nam hả? Tôi... giả vờ hỏi lại: Sao biết hay vậy? Thì giọng Quảng Nam nghe biết liền mà!
Không ngờ giọng Quảng Nam quê mùa, chân chất, cục mịch cũng... nổi tiếng ai cũng biết đó chứ!
Chúng ta biết rằng, quê hương của Chúa Giê-su là ở Ga-li-lê, nằm ở phía Bắc xứ Do-thái. Đây là nơi Đức Chúa Giê-xu đã sống hầu hết thời gian hơn ba mươi năm cuộc đời của Ngài trên đất.
Mười một trong số Mười Hai Sứ Đồ của Đức Chúa Giê-xu cũng xuất thân từ vùng Ga-li-lê, trừ Giu-đa.
Tân Ước, địa danh Ga-li-lê được nhắc đến rất nhiều lần vì đây là quê hương của Đức Chúa Giê-xu. Đức Chúa Giê-xu đã khởi hành chức vụ của Ngài tại vùng Ga-li-lê. Vùng Ga-li-lê có hồ nổi tiếng cùng tên là hồ Ga-li-lê. Người ta còn gọi là hồ Ghê-nê-sa-rết (Sách Lu-ca, chương 5, câu 1), hay hồ Ti-bê-ri-át (Sách Giăng, chương 6, câu 1).
Chúa Giê-su đã trải qua phần lớn thì giờ trong chức vụ của Ngài tại vùng hồ Ga-li-lê. Chúa gọi các môn đồ đầu tiên tại đây (Sách Ma-thi-ơ, chương 4, câu 18 đến 22). Ngài làm phép lạ đầu tiên tại thành Ca-na thuộc xứ Ga-li-lê (Sách Giăng, chương 2, câu 1 đến 11). Ngài giảng “Bài Giảng Trên Núi” (Sách Ma-thi-ơ, chương 5 đến 7), Chúa hóa hình (Sách Ma-thi-ơ, chương 17), rồi hóa bánh nuôi 5000 người ăn (Sách Ma-thi-ơ, chương 14) đều ở tại vùng Ga-li-lê thân yêu nầy.
Có thể nói, Ga-li-lê là vùng đất, nơi Chúa được người ta mến mộ nhất. Sau ngày Chúa phục sinh, hai lần Ngài xuất hiện quan trọng nhất cũng xảy ra tại Ga-li-lê. Chúa ban hành Ðại Mạng Lệnh (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 16 đến 20). Chúa gặp bảy môn đồ đang đánh cá (Sách Giăng, chương 21, câu 1) đều tại vùng Ga-li-lê.
Một vùng đất không có gì là đặc biệt trong suy nghĩ của người thời bấy giờ, đến nỗi Na-tha-na-ên đã không chút e dè mà nói rất thật từ lòng mình rằng: “Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao? Phi-líp nói: Hãy đến xem” (Sách Giăng, chương 1, câu 46). Thành Na-xa-rét là thành thuộc vùng Ga-li-lê, quê hương của Chúa.
Nghe câu nói rất thật đó, Chúa Giê-su không những không buồn, không quở trách, nhưng đã khen ông: “Nầy, một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết” (Sách Giăng, chương 1, câu 47). Nhưng từ vùng đất đó, Đức Chúa Trời đã làm cho xuất hiện những con người kiệt xuất nhất của thế giới từ xưa cho đến nay. Mười Hai Sứ Đồ của Chúa Giê-su đã làm rung chuyển cả thế giới thời bấy giờ. Nổi bật nhất trong số đó là Chúa Giê-su, một con người vĩ đại nhất của mọi thời đại, một con người vô tội duy nhất trong vòng lịch sử con cái loài người, và là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại. Đấng đã được Đức Chúa Trời đem lên rất cao và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh. Đấng mà rồi đây, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất thảy đều quỳ xuống trước Ngài, và mọi lưỡi thảy đều xưng Ngài là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha (Sách Phi-líp, chương 2, câu 9 đến 11).
Tôi liên tưởng đến vùng đất “Quảng Nam chưa mưa đà thấm” của tôi. Quảng Nam là một vùng đất nghèo, đến nỗi được mệnh danh là xứ “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, tức rất nghèo khó. Nhưng có lẽ Đức Chúa Trời biết người Quảng Nam có lòng cần mẫn, chịu thương, chịu khó, và kiên trì vượt khó, cũng là người cởi mở, sẵn sàng tiếp thu cái mới, nên Chúa đã cho hột giống Tin Lành được gieo ra tại đây và được kết quả đầu tiên. Chính vì vậy mà xứ Quảng Nam được trở thành “Cái nôi của Đạo Tin Lành ở Việt Nam” từ năm 1911 cho đến nay. Từ cái nôi nầy, Chúa đã cho có hàng trăm con cái Chúa được Chúa sử dụng trở nên những Mục Sư để hầu việc Ngài ở khắp ba miền Bắc Trung Nam của Việt Nam và ở trên khắp thế giới nữa. Đó là việc Đức Chúa Trời làm chứ không có ai làm được.
Cảm tạ Chúa về sự ban cho của Ngài trên vùng đất Quảng Nam, nói riêng, và trên đất nước Việt Nam, nói chung!
Để kết thúc bài viết tản mạn nầy, tôi có bài thơ nói về giọng nói và món ăn đặc trưng của quê hương Quảng Nam yêu dấu của mình, xin được viết ra đây để bạn đọc cùng... thưởng thức với tôi cho vui nhân dịp Xuân về, Tết đến:
Tôi nhớ quê tôi vùng Quảng Nam,
Miền Trung nước Việt đã bao năm.
Nắng mưa bão lụt, bao gian khó,
Vất vả miết rồi, chẳng... thở than.
Tôi nhớ quê tôi, nhớ rành rành,
Quảng Nam – cái nôi đạo Tin Lành. (1)
Từ đây, danh Chúa đồn khắp nước,
Thị thành, vùng biển với non xanh.
Tôi nhớ quê tôi, nhớ làm sô (sao),
Giọng nói Quoảng... Nôm (Quảng Nam) mới ngọt ngồ (ngào).
Nghe rồi, nghe nữa, hoài không chán
Giọng nói quê mình đẹp biết bô (bao) (2)
Tôi nhớ quê tôi, nhớ món mì,
Mì Quảng với tôi nhứt, không nhì.
Đi mô (đâu) cũng nhớ về... mì Quảng,Mà nghe lòng dạ đã chi chi.
Tôi nhớ quê tôi, nhớ tình người,
Dù bao gian khó vẫn cứ cười.
Có sao nói vậy, không chải chuốt,
Chân chất, đậm đà đáng yêu thôi.
Tôi nhớ quê tôi, nhớ đủ điều,
Làng trên, xóm dưới, nhớ sớm chiều.
Một thời thuở nhỏ vui chi lạ,
Mãi mãi sau này vẫn cứ yêu.
Tôi nhớ quê tôi, khi đi xa,
Chợt nghe giọng Quảng ở quê nhà.
Đâu đó trên đài hay trên mạng,
Mà thương, mà nhớ thật thiết tha.
Tôi nghĩ đến quê hương trên trời (3),
Mai kia, được về đó nghỉ ngơi.
Mà lòng vui sướng không thể tả,
Nghỉ yên trong tình Chúa đời đời.
Bạn hỡi, sống gởi rồi thác về,
Một cảnh nhưng mà có hai quê.
Thiên Đàng phước hạnh hay Địa Ngục?
Lựa chọn hôm nay, chớ bỏ bê.
Mời bạn cùng tôi hướng Thiên Đàng,
Quê hương vĩnh cửu thật cao sang.
Quê hương trên đất là quê tạm,
Quê ở trên trời mãi vinh quang.
(Tôi Nhớ Quê Tôi – Bình Tú Ngọc)
Kính chúc mọi người gần xa hưởng một mùa Xuân mới trong sum họp đầy yêu thương và bình an!
California, Đón Mừng Xuân Mới 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
* nongnghiep.vn/tri-thuc-nong-dan/giong-quang-nam-d329277.html
** Andrea Hoa Pham, Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam, Nxb Đà Nẵng, 2022.
1 Đạo Tin Lành được truyền đến Việt Nam có lẽ trước đó nhiều năm, nhưng đến năm 1911 mới thành lập được Hội Thánh đầu tiên là Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng thuộc vùng đất Quảng Nam.
2 Người Quảng Nam khi nói đều phát âm những chữ có vần “ao” thành “ô” hết, nhưng khi viết, người dân xứ Quảng viết đúng chứ không sai.
3 Sách Hê-bơ-rơ, chương 11, câu 16.
Bài 353
Năm Thìn, Nói Chuyện... Rồng
*Kinh Thánh: Gióp 41: 24, 25; Thi-thiên 74: 13, 14; Ê-sai 27: 1; Khải Huyền 12: 7-9; 20: 1-3
Theo Âm lịch ở một số nước Á-Đông như Trung Quốc, Việt Nam thì năm 2024 nầy người ta gọi là năm Giáp Thìn, tức năm con Rồng.
Rồng là một con vật hiện diện trong 12 con giáp của năm Âm Lịch, gồm: Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), và Hợi (Heo).
Người ta định nghĩa về rồng như sau: “Rồng là động vật tưởng tượng theo truyền thuyết, mình dài, có vẩy, có chân, biết bay, được coi là cao quý nhất trong các loài vật.” 1
Tục Ngữ, Ca Dao nói về... rồng khá nhiều:
- Người Việt tự đề cao mình là “Con Rồng, cháu Tiên” (chỉ dòng giống cao quý như Rồng, như Tiên)
- Rồng bay phượng múa (Chỉ hạng người phóng khoáng, bay bướm, không gò bó, câu nệ trong cách viết chữ)
- Rồng đến nhà tôm (Chỉ người sang trọng đến thăm nhà người hèn hạ).
- Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa (Ăn nhiều, nói gian, nói dối, làm thì chẳng ra chi)
- Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu thì nở ra dòng liu điu (Dòng giống sang trọng thì đẻ ra dòng giống sang trọng, dòng giống tầm thường thì đẻ ra dòng giống tầm thường, hay dòng nào, giống đó)
Và nhiều những câu Ca Dao khác:
- Rồng vàng xuống tắm ao tù,
Người khôn ở với người ngu bực mình. (Bạn có bao giờ ở với người ngu để cảm nhận được cái bực mình như câu Ca Dao nầy nói chưa?)
- Có chồng thì phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng đi. (Gái có chồng thì chỉ theo chồng mà thôi. Chồng đi đâu vợ theo đó là... tuyệt vời)
- Nhớ chàng như vợ nhớ chồng,
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây. (Một khi bạn nhớ người mình yêu đến độ như Ca Dao mô tả đây thì chắc chắn đó đích thị là yêu rồi đấy!)
- Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu, chồng bảo râu rồng trời cho... (Ai có được một người chồng... dễ tính, dễ thương như thế nầy thì không còn gì bằng!)
- Phận gái lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hoá rồng. (Chúc cho các bạn nữ lấy được người chồng khôn như cá vượt được vũ môn nhé!)
Ở cả phương Đông và phương Tây, hình ảnh con rồng đều được người ta lấy làm biểu tượng cho loài linh vật huyền thoại, có sức mạnh phi thường. Nếu ở phương Đông, rồng được dùng làm biểu tượng cho quyền lực, và những điều cao quý, tốt lành, thì ở phương Tây rồng lại là con vật tượng trưng cho điều xấu, cái ác và sức mạnh của nó.
Tại nhiều nước Á-Đông, rồng là một trong bốn con vật linh thiêng "Long, lân, quy, phụng” (Rồng, kỳ lân, rùa, phượng hoàng)
Tại Thành Phố Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam thân yêu, có một cây cầu có tên gọi là cầu Rồng, vì nó được xây dựng có hình dáng là một con Rồng. Được biết chiều dài tổng cộng của cây cầu nầy là 666 mét. Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà người ta lại cho xây cây cầu nầy với độ dài đúng 666 mét. Đây là một con số đã xuất hiện trong sách Khải Huyền, chương 13 của Kinh Thánh từ hai ngàn năm qua: “Đây tỏ ra sự khôn ngoan: Kẻ nào thông minh, hãy tính số con thú, vì đó là một số người; số nó là sáu trăm sáu mươi sáu” (Sách Khải Huyền, chương 13, câu 18).
Bạn có... ngạc nhiên về sự trùng hợp của con số nầy không?
Hầu như phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả các nhà Nghiên Cứu Kinh Thánh và con dân Chúa đều đồng ý rằng 666 là con số của kẻ địch lại Đấng Christ, là con số thuộc về Sa-tan.
Với người Việt Nam, thì con rồng có ý nghĩa như thế nào?
Theo Nhà Nghiên Cứu Nguyễn Dư, hiện đang cư ngụ tại Pháp, có nhận xét:
«Con rồng đối với người Việt Nam rất đặc biệt vì chúng ta là « con Rồng cháu Tiên », nhưng rồng chỉ là con vật tưởng tượng và tiên cũng chỉ là nhân vật tưởng tượng, sống trên trời, trên núi. Có lẽ con rồng đặc biệt quá nên trong 12 con Giáp, 11 con là có thật, sống trên mặt đất, chỉ có rồng là con vật tưởng tượng, mà lại sống trên trời. Từ xưa đến nay, rồng luôn là biểu hiện của nhà vua, cái gì đụng đến vua đều có rồng bên cạnh cả. Ví dụ như thấy vua thì mình gọi là « long nhan », « long thể » là thân hình của vua, áo vua mặc được gọi là « long bào », chỗ vua ở mình gọi là « bệ rồng », thuyền vua đi cũng được gọi là « thuyền rồng ». Các đền đài ngày xưa cũng được trang trí bằng rồng rất nhiều.
Dưới vua là hàng các quan lớn, tức là xuất thân từ giới sĩ tử. Khi sĩ tử đi học thì ai cũng mong thi đỗ để ra làm quan. Người nào thi đỗ thì ta gọi là « cá hóa rồng », xuất phát từ tích « Cá vượt vũ môn ». Đây là những con cá anh vũ, khi mà vượt qua được vũ môn, thì hóa thành con rồng. Các ông quan của mình ngày xưa thì ông nào cũng phải thơ văn cho thật hay, chữ viết cho thật đẹp. Dân gian mình qua bài « Ông Đồ » rất nổi tiếng của Vũ Đình Liên thì khen các ông là chữ viết như « rồng bay phượng múa ». 2
Giáo Sư Kinh Thánh,Tom Meyer, thuộc Đại học Kinh Thánh và Cao học Shasta ở California, Hoa Kỳ thì cho biết: “Rồng thường được nhắc đến trong Kinh Thánh. Từ Sáng Thế Ký đến Khải Huyền, có tổng cộng 35 lần xuất hiện”. 3
Sách Gióp có đề cập đến một con vật... vĩ đại có tên là “Lê-vi-a-than” như sau:
“Ai hay rủa sả ngày, và có tài chọc lê-vi-a-than dậy. Hãy rủa sả nó” (Sách Gióp, chương 3, câu 8).
“Tại thế thượng chẳng có vật chi giống như nó. Nó được dựng nên để không sợ gì hết. Nó nhìn xem các vật cao lớn. Nó làm vua của các loài thú kiêu ngạo” (Sách Gióp, chương 41, câu 24, 25).
Trong tiếng Hê-bơ-rơ, thì cụm từ “các loài thú kiêu ngạo” trong bản Kinh Thánh Việt Ngữ, có nghĩa là là “mọi con cái của sự kiêu ngạo”, vì loài thú dường như không biết... kiêu ngạo bao giờ!
Khi chúng ta nghe “Nó làm vua của mọi con cái của sự kiêu ngạo” thì chúng ta biết “vua” ở đây... đích thị là Sa-tan, chứ không ai khác được. Vì Sa-tan chính là vua kiêu ngạo và nói dối.
Những câu Kinh Thánh tiếp theo trong sách Thi-thiên và Ê-sai sau đây cũng nói về nhân vật Lê-vi-a-than:
“Chúa đã dùng quyền năng Chúa mà rẽ biển ra. Bẻ gãy đầu quái vật trong nước. Chúa chà nát đầu lê-vi-a-than. Ban nó làm thực vật cho dân ở đồng vắng” (Sách Thi-thiên, chương 74, câu 13, 14).
“Còn biển lớn và rộng mọi bề này! Ở đó sanh động vô số loài vật nhỏ và lớn. Tại đó tàu thuyền đi qua lại. Cũng có lê-vi-a-than mà Chúa đã nắn nên đặng giỡn chơi nơi nó” (Sách Thi-thiên, chương 104, câu 25, 26).
“Trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ dùng gươm cứng, lớn, và mạnh mà phạt lê-vi-a-than, là con rắn lẹ làng, phạt lê-vi-a-than là con rắn cong queo; và Ngài sẽ giết con vật lớn dưới biển” (Sách Ê-sai, chương 27, câu 1).
Cụm từ “Chúa chà nát đầu lê-vi-a-than” trong Thi-thiên, chương 74, câu 14 gợi cho chúng ta nhớ lại Sáng Thế Ký, chương 3, câu 15 rằng: “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chơn người”
Rồi trong Ê-sai, chương 27, câu 1, thì cho biết: “Chúa sẽ phạt lê-vi-a-than, là con rắn lẹ làng, phạt lê-vi-a-than là con rắn cong queo; và Ngài sẽ giết con vật dưới biển.”
Xâu chuỗi những câu Kinh Thánh nầy lại với nhau, chúng ta thấy con vật lê-vi-a-than nầy chính là hình ảnh về Sa-tan là con rồng, con rắn xưa khá rõ ràng.
Một số nhà giải Kinh cho rằng lê-vi-a-than chính là loài khủng long biển tên là kronosaurus.
Trong một ý nghĩa thuộc linh, bê-hê-mốt và lê-vi-a-than đều được dùng để tiêu biểu cho sự hung hãn của Sa-tan, cũng chính là con rồng trong Khải Huyền, và con rắn xưa trong Sáng Thế Ký.
Giờ, chúng ta cùng xem Lời Chúa nói về con rồng trong sách Khải Huyền. Khải Huyền là sách nói về nhân vật “Rồng” nầy nhiều nhất trong Kinh Thánh:
“Trên trời cũng hiện ra một dấu khác nữa: Là một con rồng lớn sắc đỏ, có bảy đầu mười sừng, và trên đầu có bảy mão triều thiên. Đuôi kéo một phần ba các ngôi sao trên trời, đem quăng xuống đất. Con rồng ấy chực trước người đàn bà gần đẻ, hầu cho khi đẻ ra thì nuốt con người đi” (Sách Khải Huyền, chương 12, câu 3, 4).
“Bấy giờ có một cuộc chiến đấu trên trời: Mi-chen và các sứ người tranh chiến cùng con rồng, rồng cũng cùng các sứ mình tranh chiến lại; song chúng nó không thắng, và chẳng còn thấy nơi chúng nó ở trên trời nữa. Con rồng lớn đó bị quăng xuống, tức là con rắn xưa, gọi là ma quỉ và Sa-tan, dỗ dành cả thiên hạ; nó đã bị quăng xuống đất, các sứ nó cũng bị quăng xuống với nó... Khi rồng thấy mình bị quăng xuống đất, bèn đuổi theo người đàn bà đã sanh con trai. Nhưng người được ban cho một cặp cánh chim phụng hoàng, đặng bay về nơi đồng vắng là chỗ ẩn náu của mình; ở đó được nuôi một thì, các thì, và nửa thì, lánh xa mặt con rắn. Bấy giờ con rắn phun nước ở miệng mình ra như sống theo sau người đàn bà, hầu cho kéo người xuống sông. Nhưng đất tiếp cứu người đàn bà, vì đất hả miệng nuốt sông mà con rồng đã phun ra từ miệng nó. Con rồng giận người đàn bà bèn đi tranh chiến cùng con cái khác của người, là những kẻ vẫn giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và lời chứng của Đức Chúa Giê-su. Con rồng đứng trên bãi cát của biển” (Sách Khải Huyền, chương 12, câu 7-9, 13-18).
“Con thú tôi thấy đó giống như con beo; chân nó như chân gấu, miệng như miệng sư tử, và con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi, và quyền phép lớn mà cho nó. Một cái trong các cái đầu nó như bị thương đến chết; nhưng vít thương chết ấy được lành, và cả thế gian đều lấy làm lạ mà theo con thú đó. Người ta khởi thờ phượng con rồng, bởi nó đã lấy quyền phép cho con thú; và họ cũng thờ phượng chính con thú, mà rằng: Ai sánh được với con thú, ai giao chiến cùng nó được?” (Sách Khải Huyền, chương 13, câu 2-4).
“Đoạn, tôi thấy một vị thiên sứ trên trời xuống, tay cầm chìa khóa vực sâu và một cái xiềng lớn. Người bắt con rồng, tức là con rắn đời xưa, là ma quỉ, là Sa-tan, mà xiềng nó lại đến ngàn năm. Người quăng nó xuống vực, đóng cửa vực và niêm phong lại, hầu cho nó không đi lừa dối các dân được nữa, cho đến chừng nào hạn một ngàn năm đã mãn. Sự đó đoạn, Sa-tan cũng phải được thả ra trong ít lâu” (Sách Khải Huyền, chương 20: câu 1-3).
Những phân đoạn Kinh Thánh trong sách Khải Huyền vừa nêu ở trên nhắc đi nhắc lại nhiều lần về... nhân vật “Rồng”, tức là con rắn đời xưa đã cám dỗ Ê-va và A-đam phạm tội với Đức Chúa Trời trong vườn Ê-đen. Con rắn đời xưa đó là hiện thân của ma quỷ, của Sa-tan vậy.
Như vậy, qua Kinh Thánh, chúng ta được biết hình ảnh con rồng là biểu tượng của Sa-tan, của ma quỷ, tượng trưng cho điều ác.
Người Việt Nam tự cho mình có nguồn gốc là “Con Rồng, cháu Tiên”: Con Rồng cháu Tiên“ bắt nguồn từ Tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ . Một người là Rồng ngự trị trên vùng sông nước, một kẻ là Tiên ngất ngưỡng nơi chốn núi rừng . Hai tổ gặp nhau và sinh được một bọc trứng, nở thành trăm con. Năm mươi theo Tổ Âu Cơ về núi, năm chục ở lại với Tổ Lạc Long nơi đồng bằng và hình thành nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của VN ) cho tới ngày nay. 4
Kinh Thánh cho chúng ta biết rồng là biểu tượng cho Sa-tan là kẻ thù của Đức Chúa Trời và của người thuộc về Ngài. Cho nên, là con cái Chúa, dưới ánh sáng của Kinh Thánh, chúng ta không tin vào một điều mang đầy tính chất thần thoại, hoang đường như thế.
Vả lại, trong muôn loài vạn vật mà Đức Chúa Trời tạo nên, thì duy con người được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, cho nên con người cao quý hơn muôn loài vạn vật rất nhiều. Con người chỉ kém thua Đức Chúa Trời một chút mà thôi, như Kinh Thánh đã dạy: “Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút, đội cho người sự vinh hiển và sang trọng. Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chân người” (Sách Thi-thiên, chương 8, câu 5, 6). Không có lý gì khi con người được tạo nên cao quý hơn muôn vật mà lại đi chấp nhận con rồng làm tổ tiên của mình cả.
Một khi con người từ chối tin thờ Đức Chúa Trời thì con người sống trong tối tăm, và bị Sa-tan bắt phục thờ lạy nó để chống lại Đấng tạo nên mình là Đức Chúa Trời.
Tạ ơn Đức Chúa Trời đã mở mắt lòng chúng ta “từ tối tăm qua sáng láng” để chúng ta nhận biết được Ngài là Cha thiêng liêng cao quý duy nhất của mình, và ban cho chúng ta địa vị làm con của Ngài ở trong danh của Chúa Cứu Thế Giê-su!
Nhân năm Âm Lịch năm nay có tên là năm Giáp Thìn (năm con Rồng), xin có vài lời... tản mạn về rồng để hầu chuyện quý độc giả gần xa, nhất là quý độc giả là những tín nhân của Chúa Giê-su Christ; hầu cho chúng ta nhận chân được về nhân vật “Con Rồng”. Qua lăng kính Lời Kinh Thánh, chúng ta không tin và làm theo đời nầy mà chỉ tin và làm theo những gì Kinh Thánh đã dạy bảo chúng ta mà thôi, như Lời Chúa đã phán: “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Sách Rô-ma, chương 12, câu 2).
Một chỗ khác, Kinh Thánh cũng dạy: “Xưa kia, anh em chẳng biết Đức Chúa Trời chi hết, thì làm tôi các thần vốn không phải là thần” (Sách Ga-la-ti, chương 4, câu 8).
Xưa kia, khi chưa tin Chúa, có thể mỗi chúng ta cũng tin những điều như người thế gian tin, theo kiểu “xưa bày nay bắt chước”; nhưng bây giờ, chúng ta đã trở nên con cái Đức Chúa Trời rồi, đã trở nên “người sáng láng trong Chúa”, thì không còn tin những điều ấy nữa, và không “làm tôi các thần vốn không phải là thần” nữa.
Cầu xin Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo nên muôn loài vạn vật và con người, ban phước cho mỗi một chúng ta, để chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa trong năm mới và trong suốt cuộc đời theo Chúa của mình!
California, Những Ngày Cận Tết Nguyên Đán 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
1 Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, Nxb Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2011, p. 1069.
2 (rfi.fr/vi/chau-a/20120123-chuyen-con-rong-xua-va-nay)
3 trithucvn.co/doi-song/chuyen-gia-nghien-cuu-kinh-thanh-rong-that-su-ton-tai.html
4 anhdao.org/a623/rong-qua-van-chuong-dien-tich-va-cuoc-song-con-nguoi-muong-giang
Bài 354
Mùa Chay, Nói Chuyện... Yêu Và Hy Sinh
Kinh Thánh: Rô-ma 5: 6-10; 8: 32; I Giăng 4: 7-10.
Mùa Chay năm nay đã đến với tất cả những Cơ-đốc nhân trên toàn thế giới.
Bốn Mươi ngày trước Lễ Phục Sinh được những người tin Chúa gọi là mùa Chay (Lent).
Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào Thứ Năm Tuần Thánh trước Lễ Phục Sinh. Lễ Phục Sinh luôn luôn rơi vào một Chúa Nhật trong khoảng thời gian giữa ngày 22 tháng 3 đến 25 tháng 4 hằng năm. Vì vậy, Thứ Tư Lễ Tro có thể rơi vào bất cứ ngày Thứ Tư nào giữa ngày 4 tháng 2 và 10 tháng 3.
Mùa Chay là khoảng thời gian mà những người tin Chúa dành ra để suy niệm về tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa dành cho mình.
Con số “Bốn Mươi” mang nhiều ý nghĩa và nhắc ta nhớ đến nhiều sự kiện đã xảy ra trong Kinh thánh như: Đức Chúa Trời làm trận Đại hồng thủy để hủy diệt nhân loại độc ác thời Nô-ê trong bốn mươi ngày đêm. Bốn mươi ngày vị Lãnh tụ Môi se chờ đợi trên Núi Sinai với Thiên Chúa để nhận lãnh hai bảng Luật Pháp cho dân sự Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên phải hành trình bốn mươi năm trong sa mạc vì tội vô tín của mình trước khi đến Đất Hứa trong xứ Ca-na-an. Bài giảng của Tiên Tri Giô-na cho dân thành Ni-ni-ve là “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống” (Sách Giô-na, chương 3, câu 4).
Thời gian bốn mươi ngày cũng nhắc ta nhớ đến bốn mươi ngày Chúa Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ trong sa mạc và Ngài đã chiến thắng một cách vẻ vang nhờ vào Lời Kinh Thánh và Thánh Linh của Đức Chúa Trời...
Nói đến tình yêu thì không thể nào không nói đến sự hy sinh, vì tình yêu thật luôn luôn có sự hy sinh.
Kinh Thánh dạy rằng: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. (Sách Giăng thứ nhứt, chương 4, câu 7-9).
Những câu Kinh Thánh đó cho chúng ta biết Đức Chúa Trời là nguồn của tình yêu và chính Ngài là sự yêu thương.
Đức Chúa Trời yêu tội nhân một cách chân thật, và một tình yêu như thế không thể không có sự hy sinh. Ngài đã thật sự hy sinh vì tội nhân: “Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta” (Sách Giăng thứ nhứt, chương 4, câu 10).
Thánh Phao-lô cho biết: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết... Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8, và chương 8, câu 32).
Vì yêu thương nhân loại đang chết mất trong tội lỗi, nên Ngài đã không tiếc chính Con Một của mình là Chúa Cứu Thế Giê-su, mà ban Con ấy cho chúng ta để cứu con người chúng ta ra khỏi tội lỗi, ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan.
Ai đó đã nói rằng “Nói yêu thương mà không có hy sinh thì chỉ là nói dối” là rất hữu lý!
Chính Chúa Giê-su đã từng phán: “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình” (Sách Giăng, chương 15, câu 13).
Khi một ai đó đã yêu bạn đến độ sẵn sàng hy sinh mạng sống để cứu bạn ra khỏi chỗ chết, thì có thể nói một cách chắc chắn và không sợ sai trật gì cả rằng, tình yêu của người đó dành cho bạn là một tình yêu đích thực vậy.
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại tình yêu tuyệt vời của Chúa Giê-su dành cho con người tội lỗi chúng ta: “Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 8).
Đức Chúa Giê-su đã yêu thương bạn và tôi bằng một tình yêu như thế!
Đó là một tình yêu tuyệt đỉnh và tuyệt đối! Không có ai yêu bạn và tôi như Chúa Giê-su đã yêu bạn và tôi. Không có tình yêu nào lớn hơn thế! Chắc chắn không! Và nhất định không!
Có một câu chuyện về tình yêu cảm động như sau:
Vào thế kỷ thứ 17, vị Tể Tướng của Anh Quốc, một ngày kia đã kết án tử hình một người lính bị vi phạm pháp luật. Đến ngày xử tử, người ta đợi cho tiếng chuông chiều cấm trại nổi lên là thi hành lệnh bắn anh nầy. Nhưng đợi mãi chuông chiều không thấy đánh. Tể Tướng truyền lệnh tìm ra lý do vì sao? Thì ra, cô người yêu của anh này, vì quá thương anh, nên đã trèo lên tận lầu chuông cao, đu mình trên quả chuông, Vi thế, chuông có lắc mà không thể phát ra tiếng kêu. Cảm động trước hành động yêu thương đầy can đảm của cô gái dành cho người yêu của mình, nên quan tòa đã quyết định tha tội chết cho anh chàng tử tù nầy.
Còn rất nhiều những câu chuyện khác về sự hy sinh trong tình yêu rất cảm động trong cuộc sống thường ngày; nhưng chắc chắn không thể nào có sự hy sinh nào trong tình yêu lớn như sự hy sinh của Đấng Cứu Thế vì tội của nhân loại.
Yêu người mình yêu và sẵn sàng chết cho người mình yêu để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu, thì đó là một sự hy sinh đáng quý; nhưng cũng dễ hiểu, vì đó là người mình yêu và là người yêu mình.
Yêu quý một thánh nhân và sẵn sàng chết cho thánh nhân đó, cũng là một sự hy sinh đáng trân trọng ; nhưng cũng dễ hiểu, vì đó là một thánh nhân mình yêu.
Nhưng yêu một đối tượng mà không xứng đáng để yêu đó là những tội nhân xấu xa như chúng ta; song Ngài vẫn yêu và bằng lòng chết cho những con người xấu xa ấy, để cứu họ ra khỏi tội lỗi ; thì đó mới chính là một tình yêu cao cả tuyệt đối, một tình yêu không thể nào hiểu được bằng trí óc hữu hạn của con người.
Một tình yêu cao cả tuyệt đối như thế chỉ có ở nơi Đức Chúa Trời mà thôi!
Và tình yêu ấy chỉ có thể được thể hiện qua một nhân vật duy nhất là Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng vô tội duy nhất trong toàn cõi vũ trụ nầy!
Để kết thúc bài viết nầy, xin mời bạn cùng lắng nghe lại một khúc Kinh Thánh nói về sự hy sinh cao quý của Chúa Giê-su dành cho chúng ta là những tội nhân:
“Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết. Huống chi nay chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi cơn thạnh nộ là dường nào! Vì nếu khi chúng ta còn là thù nghịch cùng Đức Chúa Trời, mà đã được hòa thuận với Ngài bởi sự chết của Con Ngài, thì huống chi nay đã hòa thuận rồi, chúng ta sẽ nhờ sự sống của Con ấy mà được cứu là dường nào!” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 6-10).
Chính nhờ sự hy sinh cao cả, vĩ đại có một không hai của Chúa Giê-su trong suốt cả cõi lịch sử của con người, đã đem chúng ta từ địa vị một tội nhân thành thánh nhân; từ một người bị ở dưới cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời thành một người được cứu ra khỏi nơi kinh khủng đó; từ địa vị thù nghịch cùng Đức Chúa Trời thành một người được hòa thuận lại với Ngài.
Qua đó, chúng ta nhận biết, nếu Đức Chúa Trời không yêu thương con người tội lỗi chúng ta, và nếu Đức Chúa Giê-su không xuống thế làm người để chịu chết chuộc tội cho chúng ta; thì con người mãi mãi ở trong tội lỗi, ở trong sự cai trị độc ác của Sa-tan, và rồi sẽ chết mất dưới bàn tay tàn độc của nó. Con người mãi mãi không có hy vọng, không có bình an, không có sự cứu rỗi nào cho con người cả.
Tạ ơn Đức Chúa Trời đã yêu thương nhân loại, và tạ ơn Đức Chúa Giê-su đã thể hiện tình yêu của Đức Chúa Trời qua sự chết của Ngài trên thập tự giá, và rồi Ngài đã sống lại để mở ra cho nhân loại một con đường mới và sống: Đó là con đường cứu rỗi phước hạnh, bình an!
Cảm tạ Chúa Giê-su đã chết để cho chúng ta được sống, và cảm tạ Ngài đã sống lại và sống mãi mãi để cho chúng ta có thể được sống cho Ngài hôm nay cũng như sống với Ngài trong cõi đời đời trong tương lai! A men!
California, Viết Nhân Mùa Chay 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 355
Mùa Phục Sinh, Nói Chuyện... Mắt Mở Và... Mở Mắt
Kinh Thánh: Thi-thiên 119: 18; Lu-ca 24: 13-35; Công Vụ Các Sứ Đồ 26: 17, 18
Chúng ta đang ở trong Mùa Phục Sinh 2024.
Lễ Phục Sinh là một sự kỷ niệm vô cùng trọng đại của Cơ-đốc giáo, vì Lễ Phục Sinh khiến cho Đạo Chúa trở nên khác biệt với mọi tôn giáo trên thế gian nầy trải qua mọi thời đại.
Bạn sẽ không thể tìm thấy sự Phục Sinh ở bất cứ kinh kệ của bất cứ tôn giáo nào đến từ con người và do con người lập ra cả. Đó là điều chắc chắn một trăm phần trăm! Tất cả các giáo chủ của các tôn giáo xưa nay đều chết và thân xác của họ mãi mãi nằm trong phần mộ để cho tín đồ của họ đến chiêm bái, phụng thờ.
Nhưng nếu bạn có dịp được đọc Kinh Thánh là Kim Chỉ Nam của người tin Chúa Giê-su, thì bạn sẽ thấy sự phục sinh của Ngài được ghi lại bàng bạc trong đó, rất nhiều lần (ít nhất là hơn 100 lần) trong rất nhiều sách của Tân Ước.
Hôm nay, nhân mùa Lễ Phục Sinh, xin mời bạn cùng tôi suy gẫm một câu chuyện Phục Sinh thú vị, có nhiều sự dạy dỗ thuộc linh quý báu, được ghi lại trong Kinh Thánh, mà tôi xin tạm đặt một đề tài là “Mùa Phục Sinh, Nói Chuyện... Mắt Mở và... Mở Mắt”.
Bác Sĩ Lu-ca có ghi lại một câu chuyện Phục Sinh độc đáo như sau:
“Cũng trong ngày ấy, có hai môn đồ đi đến làng kia, gọi là Em-ma-út, cách thành Giê-ru-sa-lem sáu mươi ếch-ta-đơ; họ đàm luận về những sự đã xảy ra. Đang khi nói và cãi lẽ nhau, chính Đức Chúa Giê-xu đến gần cùng đi đường với họ; nhưng mắt hai người ấy bị che khuất không nhìn biết Ngài được. Ngài phán cùng họ rằng: Các ngươi đang đi đường, nói chuyện gì cùng nhau vậy? Họ dừng lại, buồn bực lắm. Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-ba, trả lời rằng: Có phải chỉ ngươi là khách lạ ở thành Giê-ru-sa-lem, không hay việc đã xảy đến tại đó cách mấy bữa rày sao? Ngài hỏi rằng: Việc gì vậy? Họ trả lời rằng: Ấy là việc đã xảy ra cho Giê-xu Na-xa-rét, một đấng tiên tri, có quyền phép trong việc làm và trong lời nói, trước mặt Đức Chúa Trời và cả chúng dân; làm sao mà các thầy tế lễ cả cùng các quan đề hình ta đã nộp Ngài để xử tử, và đã đóng đinh trên cây thập tự. Chúng tôi trông mong Ngài sẽ cứu lấy dân Y-sơ-ra-ên; dầu thể ấy, việc xảy ra đã được ba ngày rồi. Thật có mấy người đàn bà trong vòng chúng tôi đã làm cho chúng tôi lấy làm lạ lắm: khi mờ sáng, họ đến mồ, không thấy xác Ngài, thì về báo rằng có thiên sứ hiện đến, nói Ngài đang sống. Có mấy người trong vòng chúng tôi cũng đi thăm mồ, thấy mọi điều y như lời họ nói; còn Ngài thì không thấy. Đức Chúa Giê-xu bèn phán rằng: Hỡi những kẻ dại dột, có lòng chậm tin lời các đấng tiên tri nói! Há chẳng phải Đấng Christ chịu thương khó thể ấy, mới được vào sự vinh hiển mình sao? Đoạn, Ngài bắt đầu từ Môi se rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh. Khi hai người đi gần đến làng mình định đi, thì Đức Chúa Giê-xu dường như muốn đi xa hơn nữa. Nhưng họ ép Ngài dừng lại, mà thưa rằng: Xin ở lại với chúng tôi; vì trời đã xế chiều hầu tối. Vậy, Ngài vào ở lại cùng họ. Đang khi Ngài ngồi ăn cùng hai người, thì lấy bánh, chúc tạ, đoạn, bẻ ra cho họ. Mắt họ bèn mở ra, mà nhìn biết Ngài; song Ngài thoạt biến đi không thấy. Hai người nói cùng nhau rằng: Khi nãy đi đường, Ngài nói cùng chúng ta và cắt nghĩa Kinh Thánh, lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao? Nội giờ đó, họ liền đứng dậy, trở về thành Giê-ru-sa-lem, gặp mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác đang nhóm lại, nói với họ rằng: Chúa thật đã sống lại, và hiện ra với Si-môn. Rồi hai người thuật lại sự đã xảy đến khi đi đường, và nhìn biết Ngài lúc bẻ bánh ra là thể nào” (Sách Lu-ca, chương 24, câu 13-35).
Dầu đã nhiều lần, Chúa Giê-su phán dạy với các môn đồ về việc Ngài sẽ chịu chết vì tội của nhân loại, và sẽ sống lại sau ba ngày nằm trong phần mộ; nhưng các môn đồ vẫn... vô tín, không chịu tin. Cho nên, sau khi Ngài sống lại từ trong phần mộ, họ vẫn không tin đó là sự thật. Chính vì vậy, mà có hai môn đồ đã nãn lòng, thối chí, rời Thủ đô Giê-ru-sa-lem đi đến làng Em-ma-út. Họ đi với một tâm trạng buồn chán, thất vọng ê chề. Họ cãi lẽ nhau nữa. Chúa phục sinh đến gần và cùng đi với họ. Có một điều rất lạ là mặc dù mắt họ vẫn mở ra đó, nhưng họ lại không nhìn biết Ngài. Họ còn trách móc Ngài, cho Ngài là “vị khách lạ” ở Giê-ru-sa-lem nên mới không biết “tin động trời” (breaking news) là Chúa Giê-su đã chết và đã sống lại mà thôi. Nói theo cách nói ngày hôm nay là “Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu”.
Tại sao mắt hai môn đồ vẫn mở, vẫn sáng bình thường mà họ lại không nhìn biết Chúa phục sinh đang đi cùng với mình?
Câu trả lời là do lòng vô tín, không tin vào lời phán của Ngài, nên họ không nhìn biết được Ngài. Lòng vô tín đã che khuất tầm nhìn của họ, nên họ không nhận ra người đang đi cùng mình chính là Chúa phục sinh.
Ngày hôm nay, bạn và tôi chắc cũng không hơn gì hai môn đồ ngày xưa (Các Vua thứ nhất, chương 19 câu 4). Nhiều khi chúng ta cũng vô tín trước Lời Ngài mà chúng ta đọc, chúng ta học, chúng ta nghe hằng ngày, hằng tuần. Và với lòng vô tín ấy, chúng ta sống và lấy mắt nhìn cuộc đời nầy như là Chúa đang chết, mặc dù Chúa phục sinh vẫn đang đồng hành cùng mỗi một chúng ta.
Còn nhớ câu chuyện người đầy tớ của Tiên Tri Ê-li-sê ngày xưa khi thấy quân Sy-ri đang vây quanh mình: “Tôi tớ của người Đức Chúa Trời chỗi dậy sáng sớm đi ra, thấy một đạo binh cùng ngựa và xe đương vây thành. Người nói với Ê-li-sê rằng: Hỡi ôi! chúa, chúng ta sẽ làm sao? Ê-li-sê đáp rằng: Chớ sợ, những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó. Đoạn, Ê-li-sê cầu nguyện mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được. Đức Giê-hô-va mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Ê-li-sê” (Sách Các Vua thứ nhì, chương 6, câu 15-17).
Mắt thuộc thể của người đầy tớ Ê-li-sê dù vẫn đang mở, nhưng ông không thấy được “những người thuộc về phe mình” đông hơn quân thù, mà ông chỉ thấy quân thù đông nghịt mà thôi. Ngược lại, Tiên Tri Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời với đôi mắt đức tin mạnh mẽ đang mở ra và thấy rất rõ “những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó”. Sau đó, Ê-li-sê cầu nguyện xin Đức Chúa Trời mở mắt đức tin cho người đầy tớ của mình. Đức Chúa Trời mở mắt người và người thấy đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Ê-li-sê.
Có đôi mắt đức tin tin cậy Chúa hay không mới là điều quan trọng và là điều làm nên sự khác biệt giữa những người cùng gọi là tin Chúa với nhau.
Thật là một bài học về đôi mắt đức tin quý giá cho những người thuộc về Ngài!
Nhưng hãy nhớ rằng, cho dù chúng ta như thế nào, yếu đuối hay mạnh mẽ trong đức tin, thì Chúa phục sinh vẫn luôn đồng hành cùng chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống; như Ngài đã từng đồng hành với hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út ngày xưa vậy.
Sau khi để cho hai môn đồ kể lể, giải bày hết mọi nỗi niềm trong lòng của mình rồi, thì Chúa phục sinh mới dùng Kinh Thánh để cắt nghĩa cho họ, nhắc nhở họ nhớ lại những điều họ đã được dạy trong khi đi theo Ngài làm môn đệ. Rồi Ngài ăn tối cùng họ và sau đó, mắt họ được mở ra và nhận biết Chúa phục sinh đang ở với mình.
Cũng đôi mắt ấy, nhưng hai người không nhận ra Chúa phục sinh quyền năng đang cùng đi với mình trên suốt một chặng đường dài, vì lòng vô tín; cho đến khi Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh cho và ngồi ăn với họ, thì mắt tâm linh họ được mở ra và nhìn biết được “người khách lạ” cùng đi chính là Chúa phục sinh.
Khi thấy Ngài lấy bánh chúc tạ, rồi bẻ ra cho họ, thì họ mới nhớ lại những phép lạ Chúa hóa bánh ra cho đoàn dân đông ăn trước đây (Sách Ma-thi-ơ, chương 14, câu 19; chương 15, câu 36), và họ nhận biết được đây chính là Chúa Giê-su của họ.
Lời Chúa có một tầm quan trọng vô cùng lớn trong đời sống người theo Chúa.
Đọc, nghe, suy gẫm lời Chúa chưa đủ, cần phải ghi nhớ và làm theo nữa thì đức tin của chúng ta mới lớn lên, mắt tâm linh của chúng ta mới thấy rõ được Chúa và những công việc lạ lùng của Ngài đã làm, đang làm và sẽ làm nữa.
Hai môn đồ nầy đã có thời gian mấy năm theo Chúa và hầu việc Ngài, được nghe Ngài giảng dạy, hóa bánh, làm biết bao phép lạ diệu kỳ; nhưng rồi... cũng không để tâm đến,... quên mất tiêu hết, nên hóa ra vô tín, không tin là Chúa đã sống lại.
Cảm tạ Chúa, Đấng “không bẻ cậy sậy đã dập, không dụt tim đèn còn hơi cháy” (Sách Ê-sai, chương 42, câu 3) đã thương yêu họ, cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ để họ nhớ lại những gì mình đã nghe, đã học trước đó. Và rồi mắt tâm linh họ được mở ra để có thể nhìn biết Chúa phục sinh.
Khi họ hiểu được lời Chúa và mắt tâm linh được mở ra, lòng họ trở nên nóng nảy, sốt sắng, hớn hở vui mừng và đầy linh lực, dù Chúa phục sinh đã thoạt biến đi khỏi họ. Nội trong giờ đó, họ hăng hái quay trở về Giê-ru-sa-lem để rao báo tin mừng Chúa phục sinh cho các Sứ Đồ.
Chúng ta cần nhớ: Kinh Thánh cho biết không tin Đức Chúa Trời là ngu dại: “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng chẳng có Đức Chúa Trời” (Sách Thi-thiên, chương 14, câu 1). Chúa Giê-su cũng khẳng định chậm tin lời Kinh Thánh cũng là dại dột: “Đức Chúa Giê-xu bèn phán rằng: Hỡi những kẻ dại dột, có lòng chậm tin lời các đấng tiên tri nói!” (Sách Lu-ca, chương 24, câu 25).
Lời Chúa thật đáng tin cậy cho con người chúng ta biết bao! Chúng ta rất cần phải mau nghe lời của Chúa và mau tin lời của Ngài để chúng ta được phước.
Tác giả Thi-thiên 119 có kinh nghiệm quý báu: “Lời Chúa làm cho tôi được sống lại” (Sách Thi-thiên, chương 119, câu 50).
Chúng ta rất cần cầu xin Chúa mở mắt tâm linh chúng ta ra để chúng ta tin cậy Ngài và thấy được những sự lạ lùng trong Lời Chúa: “Xin Chúa mở mắt tôi, để tôi thấy sự lạ lùng trong luật pháp của Chúa” (Sách Thi-thiên, chương 119, câu 18).
Chúng ta cũng phải cầu nguyện xin Chúa mở mắt tâm linh nhiều người chưa tin Chúa để họ sớm nhận biết Chúa phục sinh như Chúa đã phán dạy Phao-lô ngày xưa: “Ta sẽ bảo hộ ngươi khỏi dân nầy và dân ngoại là nơi Ta sai ngươi đến, đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỷ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi Ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 26, câu 17 và 18).
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm linh chúng con ra để con thấy được Chúa phục sinh quyền năng đang cùng đi với chúng con trong mọi nẻo đường của cuộc đời nầy, hầu cho chúng con đặt đức tin trọn vẹn nơi một mình Ngài là Chân Thần mà thôi, không tin vào bất cứ thần nào khác của thế gian nầy.
Cầu xin quyền năng phục sinh của Chúa phục sinh luôn ở với chúng con từ nay cho đến khi Ngài trở lại lần thứ hai để tiếp rước chúng con về trong Nước Vinh Hiển của Ngài. A men!
Kính chúc mọi người một Lễ Phục Sinh tràn đầy tin yêu và hy vọng trong Chúa Giê-su phục sinh!
California, Mùa Thương Khó và Phục Sinh 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 356
Mùa Phục Sinh, Nói Chuyện... Hột Giống
Kinh Thánh: Giăng 11: 25, 26; 12: 24; I Cô-rinh-tô 15: 13-50
Mùa Phục Sinh 2024 đang về với mọi người trên khắp hành tinh nầy.
Mỗi năm một lần, toàn thể nhân loại, nhất là những tín nhân của Chúa Giê-su đều hân hoan, long trọng kỷ niệm sự sống lại của Chúa Cứu Thế vào dịp tháng Ba hoặc tháng Tư.
Cũng giống như Lễ Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh từ lâu đã trở thành ngày lễ của cả thế giới, chứ không chỉ riêng của những người tin Chúa Giê-su mà thôi.
Lễ Phục Sinh năm nay nhằm vào ngày Chúa Nhật 31 Tháng Ba.
Mỗi khi đến Lễ Phục Sinh, những người tin Chúa dành nhiều thì giờ để hát mừng ca ngợi Đấng Phục Sinh, và đặc biệt dành thì giờ để đọc, học, suy gẫm những Lời Kinh Thánh đã dạy về sự sống lại vinh hiển, quyền năng và kỳ diệu của Chúa Giê-su. Tôi cũng không là ngoại lệ!
Nói về chuyện phục sinh (tức chuyện chết rồi mà sống lại) thì thời nào cũng có người cho là chuyện... hoang đường, là điều không thể tin được. Chính vì vậy mà Thánh Phao-lô đã dành nguyên chương 15 trong sách Cô-rinh-tô thứ nhứt của mình để luận giải về sự sống lại, đặc biệt là sự sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-su cho chúng ta được rõ.
Sau khi luận về sự sống lại vinh hiển của Chúa Giê-su để làm cho vững đức tin của con dân Chúa lúc bấy giờ, Phao-lô tiếp tục dùng hình ảnh hột giống để làm minh họa cho sự chắc chắn của sự sống lại:
“Nhưng có kẻ sẽ nói rằng: Người chết sống lại thể nào, lấy xác nào mà trở lại? Hỡi kẻ dại kia, vật gì ngươi gieo, nếu không chết đi trước đã, thì không sống lại được. Còn như vật ngươi gieo, ấy không phải là chính hình thể sẽ sanh ra, chẳng qua là một cái hột, như hột lúa mì hay là hột giống nào khác. Đức Chúa Trời cho nó hình thể tùy ý Ngài lấy làm tốt, mỗi một hột giống, cho một hình thể riêng. Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt loài người khác, xác thịt loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác. Lại cũng có hình thể thuộc về trời, hình thể thuộc về đất, nhưng vinh quang của hình thể thuộc về trời với vinh quang của hình thể thuộc về đất thì khác nhau. Vinh quang của mặt trời khác, vinh quang của mặt trăng khác, vinh quang của ngôi sao khác; vinh quang của ngôi sao nầy với vinh quang của ngôi sao kia cũng khác. Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy. Thân thể đã gieo ra là hay hư nát, mà sống lại là không hay hư nát; đã gieo ra là nhục, mà sống lại là vinh; đã gieo ra là yếu, mà sống lại là mạnh; đã gieo ra là thể huyết khí, mà sống lại là thể thiêng liêng. Nếu đã có thể huyết khí, thì cũng có thể thiêng liêng; ấy vậy, có lời chép rằng: Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh hồn sống. A-đam sau hết là thần ban sự sống. Nhưng chẳng phải thể thiêng liêng đến trước, ấy là thể huyết khí; rồi thể thiêng liêng đến sau. Người thứ nhứt bởi đất mà ra, là thuộc về đất, người thứ hai bởi trời mà ra. Người thuộc về đất thể nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy; người thuộc về trời thể nào, thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời. Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 15, câu 13 đến 50).
Quy luật của sự sống của muôn loài là phải trải qua sự chết thì mới có sự sống lại tươi mới, vinh diệu được. Giống như hột giống phải được gieo xuống đất và phải chết đi thì mới mọc lên cây mới xinh đẹp và kết quả.
Mỗi loại hột giống đều có hình thể riêng của nó, “Đức Chúa Trời cho nó hình thể tùy ý Ngài lấy làm tốt, mỗi một hột giống, cho một hình thể riêng”, như Đức Chúa Trời đã sáng tạo nên từ buổi ban đầu: “Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy. Đất sanh cây cỏ: cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba” (Sách Sáng Thế Ký, chương 1, câu 11 đến 13).
Mỗi loài xác thịt cũng khác nhau, “mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt loài người khác, xác thịt loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác”, như Đức Chúa Trời đã sáng tạo nên từ buổi đầu tiên: “Đức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm. Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành” (Sách Sáng Thế Ký, chương 1, câu 21 đến 25).
Cũng có các hình thể khác nhau trong cõi vũ trụ mà Đức Chúa Trời đã đặt để, và vinh quang của mỗi hình thể ấy cũng khác nhau, “lại cũng có hình thể thuộc về trời, hình thể thuộc về đất, nhưng vinh quang của hình thể thuộc về trời với vinh quang của hình thể thuộc về đất thì khác nhau. Vinh quang của mặt trời khác, vinh quang của mặt trăng khác, vinh quang của ngôi sao khác; vinh quang của ngôi sao nầy với vinh quang của ngôi sao kia cũng khác”, như lời Chúa đã chép trong sách Sáng Thế Ký:“Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm; lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao. Đức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất, đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư” (Sách Sáng Thế Ký, chương 1, câu 14 đến 19).
Những lý luận của Phao-lô ở đây nhằm xác định một chân lý rằng, muôn loài vận vật hiện hữu trong cõi vũ trụ nầy là do chính Đức Chúa Trời đã sáng tạo nên từ buổi ban đầu, chứ nó không tự nhiên mà có, cũng không phải nhờ quá trình tiến hóa nào đó mà thành; và cũng không đến từ một nguồn vô tri, vô giác nào khác như nhiều giả thiết đã đặt ra nhằm chối bỏ Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa.
Từ hình ảnh hột giống ấy, Phao-lô cho biết sự sống lại của kẻ chết cũng như thế:
“Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy. Thân thể đã gieo ra là hay hư nát, mà sống lại là không hay hư nát; đã gieo ra là nhục, mà sống lại là vinh; đã gieo ra là yếu, mà sống lại là mạnh; đã gieo ra là thể huyết khí, mà sống lại là thể thiêng liêng. Nếu đã có thể huyết khí, thì cũng có thể thiêng liêng; ấy vậy, có lời chép rằng: Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh hồn sống. A-đam sau hết là thần ban sự sống. Nhưng chẳng phải thể thiêng liêng đến trước, ấy là thể huyết khí; rồi thể thiêng liêng đến sau. Người thứ nhứt bởi đất mà ra, là thuộc về đất, người thứ hai bởi trời mà ra. Người thuộc về đất thể nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy; người thuộc về trời thể nào, thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 15, câu 42 đến 48).
Và rồi, Phao-lô kết luận: “Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời. Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, chương 15, câu 49 và 50).
Sự luận giải rất lo-gic của Phao-lô về sự sống lại của thân thể chắc chắn bắt nguồn từ sự giảng dạy của Chúa Giê-su dành cho các môn đồ trước đó.
Chúa Giê-su đã từng phán: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều” (Sách Giăng, chương 12, câu 24).
Chúa Giêsu dùng hình ảnh hột lúa thật gần gũi với dân chúng thời bấy giờ để áp dụng cho cuộc đời của Ngài, Đó là hạt giống sau khi được gieo xuống đất thì phải chết đi, trước khi phát triển thành một cây mới tươi đẹp, kết quả. Ngài muốn nói về chính Ngài sẽ phải chết và sau đó sẽ sống lại cách vinh hiển, khải hoàn.
Phao-lô khẳng định, Chúa Giê-su đã sống lại thì những người thuộc về Ngài cũng sẽ sống lại, đó là điều dĩ nhiên phải xảy ra, vì Ngài đã trở nên trái đầu mùa của sự sống lại rồi.
Tôi thật sự thích thú và thêm lòng tin chắc vào Chúa Giê-su, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, và sống đời đời, mỗi khi đọc và suy gẫm chương cuối cùng của sách Cô-rinh-tô thứ nhất nầy.
Không có ai yêu thương bạn và tôi như Chúa Giê-su đã yêu thương, vì Ngài đã chết trên thập tự giá để cứu bạn và tôi ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan!
Không có ai quyền năng như Chúa Giê-su, vì Ngài là Đấng duy nhất chiến thắng sự chết và sống lại, nhờ đó nên bạn và tôi tin Ngài, chúng ta được hưởng sự sống đời đời!
Chúa Giê-su đã sống lại sau khi chết, bạn và tôi cũng vậy, khi bạn và tôi chết đi; đến ngày Ngài trở lại, Ngài sẽ kêu bạn và tôi sống lại để được cất lên trời ở với Ngài trong niềm phước hạnh tuyệt vời! Còn nếu chúng ta sống cho đến ngày Ngài trở lại, thì Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt nầy ra giống như thân thể vinh hiển của Ngài!
Chúa Giê-su đã phán: “Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?” (Sách Giăng, chương 11, câu 25 và 26).
Đó chính là phước hạnh tuyệt vời của những người thuộc về Chúa!
Đó cũng chính là niềm hy vọng không gì có thể lay chuyển được của những người tin nhận Chúa Giê-su!
Ước mong những ai chưa đọc chương cuối cùng của sách Cô-rinh-tô thứ nhứt, hãy dành thì giờ để tìm đọc phần Kinh Thánh cực kỳ quý báu nầy ngay. Tôi tin rằng, bạn sẽ được vững vàng thêm trong đức tin đặt nơi Đấng Sống là Chúa Cứu Thế Giê-su. Và nếu bạn chưa tin Ngài, thì mong bạn cũng sẽ sớm mở lòng ra tin Chúa Giê-su để được hưởng sự sống đời đời như chúng tôi đã được hưởng.
Chúa Giê-su là Đấng duy nhất đã chết và sống lại và sống đời đời, mới có thể cứu bạn ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan và ban cho bạn sự sống đời đời mà thôi! Ngài Ngài ra, chắc chắn không ai có thể làm được điều đó cho bạn!
Chúc mọi người một Lễ Phục Sinh tràn đầy tin yêu và hy vọng trong Chúa Phục Sinh!
California, Mùa Phục Sinh 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 357
Mùa Chay, Nghĩ Về Chuyện... Miễn Phí
Kinh Thánh: Ê-sai 55: 1-3; Ê-phê-sô 2: 8, 9; Tít 3: 4-7; I Phi-e-rơ 1: 18-20
Chúng ta đang ở trong mùa Thương Khó và Phục Sinh 2024.
Mùa Chay hay Mùa Thương Khó là dịp để những người tin Chúa dành thì giờ suy niệm về tình yêu và sự hy sinh mầu nhiệm của Chúa Giê-su dành cho mình, hầu biết sống đẹp lòng Chúa hơn mỗi ngày.
Ngay từ khi tổ phụ của con người phạm tội, thì cả dòng dõi loài người trở nên tội nhân và làm tôi mọi cho tội lỗi, cho Sa-tan.
Một khi con người ở trong sự cai trị độc ác của Sa-tan, thì con người không thể nào tự mình giải thoát ra được, vì Sa-tan có sức mạnh nhiều lần hơn con người. Vả lại, Sa-tan không bao giờ muốn con người được giải thoát ra khỏi sự trói buộc của nó cả. Sa-tan là kẻ thù của Đức Chúa Trời và nó luôn luôn muốn con người thờ phượng nó thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời.
Vì con người không thể nào tự thoát ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan được, nên Đức Chúa Trời đã ban một phương cách cứu rỗi cho con người. Phương cách đó chính là Ngài ban Đức Chúa Giê-su đến để chịu chết thay cho tội của con người. Kinh Thánh dạy: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội (tội nhân), thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8).
Kinh Thánh cho biết, “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Sách Ê-phê-sô, chương 2, câu 8, 9).
Ơn cứu rỗi là một quà tặng. Đã là quà tặng thì người nhận chắc chắn không phải trả tiền, dù chỉ một xu. Chúng ta không cần phải làm bất cứ điều gì để có thể nhận món quà cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho. Điều cần “làm” duy nhất là đưa đôi tay đức tin ra để nhận mà thôi: Đây là điểm khác biệt cốt lõi giữa Đạo Chúa với các tôn giáo khác trên thế giới nầy trải qua mọi thời đại.
Cơ-đốc giáo là tôn giáo duy nhất đặt nền tảng trên ân điển của Chúa để được cứu. Còn các tôn giáo khác đều dựa trên việc làm lành, lánh dữ để được siêu thoát, để được cứu rỗi.
Từ "ân điển" trong tiếng Hi Lạp là “charis”, nghĩa là "đặc ân hay phước hạnh."
Bởi lòng nhân từ, thương xót, Đức Chúa Trời đã chọn phương cách xóa bỏ món nợ tội lỗi của con người qua việc hy sinh Con Một của Ngài là Chúa Giê-su Christ để chịu chết trên thập tự giá thay cho tội nhân, như Kinh Thánh đã bày tỏ: “Nhưng từ khi lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, và tình thương yêu của Ngài đối với mọi người ta đã được bày ra, thì Ngài cứu chúng ta, không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh mà Ngài đã rải ra trên chúng ta cách dư dật bởi Đức Chúa Giê-xu Christ, Cứu Chúa chúng ta; hầu cho chúng ta nhờ ơn Ngài được xưng công bình, trở nên con kế tự của Ngài trong sự trông cậy của sự sống đời đời” (Sách Tít, chương 3: 4-7).
Mục Sư Rick Warren kể lại rằng, có lần, có một người hỏi ông, “Xin Mục Sư cho biết, tôi phải làm gì để được sự cứu rỗi?” Mục Sư đã đáp, “Quá muộn rồi! Anh đã muộn đến hai ngàn năm! Những gì cần phải làm để anh có được sự cứu rỗi đã được Chúa Giê-su thực hiện rồi, anh không cần phải làm gì nữa. Chỉ tin mà thôi!” Câu trả lời làm anh ta giật mình kinh ngạc.
Không ai có thể vào Thiên Đàng dựa trên những việc làm lành của mình được cả. Một người chỉ có thể vào được Thiên Đàng dựa trên những điều Chúa Giê-su đã làm cho họ mà thôi. Kinh Thánh ghi lại rằng, trước khi Chúa Giê-su tắt thở trên thập tự giá, Ngài đã nói lời cuối cùng: “Mọi việc đã được trọn” (Sách Giăng, chương 19, câu 30).
Chúa Giê-su đã làm trọn công việc cứu rỗi cho bạn và tôi. Cho nên, bạn và tôi không cần phải làm gì nữa cả, chỉ đón nhận bằng đức tin.
Từ Cựu Ước đến Tân Ước đều xác quyết chân lý cứu rỗi là chỉ tin Đức Chúa Trời mà thôi.
“Áp-ra-ham tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sách Sáng Thế Ký, chương 15, câu 6).
“Hãy tin Đức Chúa Giê-su thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 16, câu 31).
Sự cứu rỗi được Đức Chúa Trời ban cho miễn phí là như thế!
Tiên Tri Ê sai đã khẳng định: “Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá. Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no? Hãy chăm chỉ nghe ta, hãy ăn của ngon, và cho linh hồn các ngươi vui thích trong của béo. Hãy nghiêng tai, và đến cùng ta; hãy nghe ta, thì linh hồn các ngươi được sống” (Sách Ê-sai, chương 55, câu 1-3).
Sứ Đồ Giăng cũng cho biết cùng một chân lý như thế: “Thánh Linh và vợ mới cùng nói: Hãy đến! Kẻ nào nghe cũng hãy nói rằng: Hãy đến! Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không (miễn phí)” (Sách Khải Huyền, chương 22, câu 17).
Sở dĩ bạn và tôi nhận được sự cứu rỗi miễn phí là vì Đức Chúa Trời đã trả giá cho tội lỗi của bạn và tôi rồi.
Kinh Thánh dạy: “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 6, câu 20).
Giá cao ấy chính là Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống mình trên thập tự giá cho chúng ta.
Thánh Phi-e-rơ xác nhận: “Vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của chiên con không lỗi không vít, đã định sẵn trước buổi sáng thế” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 1, câu 18-20).
Bạc hoặc vàng là những thứ quý giá đối với con người; nhưng bạc và vàng cũng không thể cứu được con người ra khỏi tội lỗi, ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan được. Con người tội lỗi chỉ có thể được cứu bởi huyết vô tội của Đức Chúa Giê-su Christ mà thôi, vì không đổ huyết thì không có sự tha thứ.
Qua đây, chúng ta có thể nói trên đời nầy không có gì là... miễn phí cả. Tất cả đều có cái giá của nó.
Con người được hưởng miễn phí ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Con người được hưởng không khí miễn phí để sống. Con người được hưởng miễn phí những sản vật có sẵn trong lòng đất và dưới lòng biển. Hãy nhớ rằng những thứ đó không tự nhiên mà có để chúng ta được hưởng đâu. Nó đến từ Đức Chúa Trời và được Ngài ban cho, như Kinh Thánh đã dạy: “Hãy răn bảo kẻ giàu ở thế gian nầy đừng kiêu ngạo và đừng để lòng trông cậy nơi của cải không chắc chắn, nhưng hãy để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời là Đấng mỗi ngày ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (Sách I Ti-mô-thê thứ nhất, chương 6, câu 17).
Như vậy, việc của con người khi nhận lãnh những thứ miễn phí đó là hãy biết ơn Đức Chúa Trời, hãy nói lời tạ ơn Thiên Chúa!
Thỉnh thoảng, bạn và tôi thường thấy ở các nhà hàng, siêu thị hay cửa tiêm rửa xe có để bảng “Mua hai tặng một miễn phí”, “Hôm nay, rửa xe miễn phí”. Bạn vào các nơi đó, bạn được... miễn phí như trên bảng đã ghi thật. Nhưng bạn nên nhớ, khi bạn được hưởng miễn phí, có nghĩa là chủ nhà hàng, siêu thị hay cửa tiệm đã... trả thay cho bạn rồi vậy.
Bạn có đồng ý như thế không?
Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì yêu thương bạn và tôi mà đã bằng lòng hy sinh Con Một là Chúa Giê-su để chịu chết thay cho bạn và tôi trên thập tự giá. Lẽ ra chính bạn và tôi phải chết vì tội của mình; nhưng Chúa Giê-su đã chết thay cho chúng ta rồi. Chúng ta được hưởng sự cứu rỗi miễn phí vì Đức Chúa Trời đã trả giá thay cho chúng ta bằng huyết báu của Con Một Ngài là Chúa Giê-su.
Tôi đã đưa tay đức tin ra nhận lấy món quà cứu rỗi miễn phí của Đức Chúa Trời ban cho từ mấy mươi năm qua rồi. Và tôi cảm nhận được một đời sống bình an, và phước hạnh tuyệt vời.
“Mọi việc đã được trọn!” cách đây hai ngàn năm rồi. Xin mời bạn đừng loay hoay với việc làm lành lánh dữ để được cứu nữa. Việc lành của bạn không bao giờ đủ để cứu được bạn đâu! Hãy đến nhận lấy món quà cứu rỗi miễn phí ngay hôm nay, để kinh nghiệm một đời sống phước hạnh như tôi và những người tin Chúa Giê-su đã từng kinh nghiệm, rồi sau đó hãy làm việc lành để được Chúa ban thưởng trong tương lai!
Chúc bạn một Lễ Phục Sinh tràn đầy niềm vui và phước hạnh từ Chúa Phục Sinh ban cho!
California, Mùa Thương Khó và Phục Sinh 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 358
Chuyện... Vỗ Ngực Và... Đấm Ngực
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 24: 29-31; Lu-ca 18: 9-14; 23: 26-27; 47-48
Vỗ ngực hay đấm ngực là hai hành động thường thấy nơi con người.
Vỗ ngực nói đến một hành động bày tỏ sự khoe khoang, lên mình kiêu ngạo của một người nào đó. Còn đấm ngực là một hành động nói lên sự ân hận, ăn năn, hối lỗi của ai đó về một việc làm sai trật, xấu xa nào đó của họ.
Ca Dao có những câu nói về... đấm ngực cũng khá thú vị và đầy thương cảm:
Đôi vợ chồng nầy mới lấy nhau chưa được bao lâu, thì anh chồng phải đi lính cách xa nhà nghìn trùng, nên người vợ dậm chân đấm ngực vì bực tức cho cảnh chiến tranh làm cho họ phải chia lìa nhau:
Dậm chân đấm ngực kêu trời,
Vợ chồng chưa mấy năm trời lại xa.
Ngàn trùng xứ lạ xót xa,
Cái đời lính mộ khổ là biết bao.
Hay cô gái nọ bị hiểu lầm, oan ức thế nào đó khiến chàng trai không còn yêu nàng nữa, nàng đành đấm ngực kêu than mong cho người yêu hiểu cho nỗi oan ức mình đang chịu mà quay trở lại với mình:
Oan ức, bực tức, đấm ngực kêu thương,
Người thương tôi trở lại, khổ vô chừng bạn ơi!
Kinh Thánh có kể một câu chuyện về hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện với Đức Chúa Trời:
“Ngài lại phán thí dụ nầy về kẻ cậy mình là người công bình và khinh dể kẻ khác: Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Pha-ri-si và một người thâu thuế. Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không phải như người khác, tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thâu thuế nầy. Tôi kiêng ăn một tuần lễ hai lần, và nộp một phần mười về mọi món lợi của tôi. Người thâu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội! Ta nói cùng các ngươi, người nầy trở về nhà mình, được xưng công bình hơn người kia; vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Sách Lu-ca, chương 18, câu 9 đến 14).
Người Pha-ri-si là hạng người được biết đến nhiều trong thời Chúa Giê-su. Pha-ri-si là tên một trong hai đảng tôn giáo của người Do-thái ngày xưa (Pha-ri-si và Sa-đu-sê). Người thuộc Đảng Pha-ri-si rất giỏi Kinh Luật của người Do-thái, vì họ là những chuyên viên Kinh Luật. Họ là thành phần bị Chúa Giê-su lên án rất mạnh mẽ, vì hầu hết trong số họ sống một lối sống giả hình, chỉ giữ Kinh Luật bề ngoài để... lòe người khác và cốt để khoe khoang mà thôi.
Chúa Giê-su đã từng căn dặn các môn đồ Ngài rằng: “Bấy giờ, Đức Chúa Giê-su phán cùng dân chúng và môn đồ Ngài rằng: Các Thầy Thông Giáo và người Pha-ri-si đều ngồi trên ngôi của Môi se. Vậy, hãy làm và giữ theo mọi điều họ đã bảo các ngươi; nhưng đừng bắt chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm. Bọn ấy buộc những gánh nặng khó chịu, để trên vai người ta, còn mình thì không muốn động ngón tay vào. Họ làm việc gì cũng cố để cho người ta thấy, mang cái thẻ bài da cho rộng, xủ cái tua áo cho dài, ưa ngồi đầu trong đám tiệc, thích ngôi cao nhất trong nhà hội, muốn người ta chào mình giữa chợ, và ưng người ta gọi mình bằng thầy” (Sách Ma-thi-ơ, chương 23, câu 1 đến 7).
Kinh Thánh ghi lại lời cầu nguyện của người Pha-ri-si như sau: “Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không phải như người khác, tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thâu thuế nầy. Tôi kiêng ăn một tuần lễ hai lần, và nộp một phần mười về mọi món lợi của tôi.”
Dù không tìm thấy từ “vỗ ngực” nào trong lời cầu nguyện của người Pha-ri-si nầy; nhưng chúng ta thấy rất rõ “lối sống” vỗ ngực trong suốt cả bài cầu nguyện của ông ta. Ông chỉ trích người khác, cho mình mới là nhất, còn tất cả những người khác đều xấu, đều thua xa ông. Ông kiêu ngạo, khoe khoang những việc mình làm cho thiên hạ biết.
Chúng ta dễ dàng thấy hạng người “vỗ ngực” nầy trong cuộc sống đời thường hằng ngày.
Có nhiều người khi mới gặp, dù chưa ai hỏi, họ đã khoe... thành tích rồi. Nào là tôi đã từng học trường nầy, trường nọ, tốt nghiệp bằng nầy bằng kia; tôi đã từng Quản Nhiệm mấy Hội Thánh lớn, mở bao nhiêu Hội Thánh cho Chúa; tôi đã từng gặp ông lớn nầy, bà lớn kia; tôi từng đi Mỹ, đi Tây, đi Tàu...
Ngày hôm nay, người ta thường gọi hạng người hay “vỗ ngực” như thế là hạng người hay “nổ”. Một khi gặp hạng người hay “nổ” vang trời đất ấy, bạn có thể đoán biết là họ thường... không có gì cả. Ông cha ta đã có câu “Thùng rỗng kêu to” là đúng lắm vậy!
Trái ngược với hạng người “vỗ ngực” là hạng người “đấm ngực”.
Khi người Pha-ri-si kia đang “vỗ ngực” như thế thì người thâu thuế đứng xa xa và cầu nguyện:
“Người thâu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội!”
Người thâu thuế biết thân phận không ra chi của mình, nên không dám đến gần đền thờ, và cũng không dám ngước mắt lên trời nữa. Hơn nữa, ông còn “đấm ngực” mình, kêu xin Chúa thương xót, tha tội cho mình. Hành động “đấm ngực” của ông bày tỏ rằng ông nhận biết đứng trước mặt Chúa, ông không xứng đáng gì cả, vì ông quá xấu xa, tội lỗi, nên “đấm ngực”, ăn năn, xin Chúa thương yêu, tha thứ cho mình mọi vi phạm xấu xa.
Chúa Giê-su kết luận: “Ta nói cùng các ngươi, người nầy trở về nhà mình, được xưng công bình hơn người kia; vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên”
Chúng ta hơi ngạc nhiên khi nghe Chúa kết luận. Theo suy nghĩ thông thường của con người, thì lẽ ra người Pha-ri-si kia được xưng công bình mới đúng chứ, vì dưới cái nhìn của con người, thì ông quá... tốt, quá... giỏi, quá... tuyệt vời. Nhưng “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 16, câu 7).
Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng của tất cả mọi người. Ngài nhìn thấy trong lòng của người Pha-ri-si kia cũng như trong lòng của người thâu thuế nọ. Ngài cũng là Đấng “chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 5, câu 5). Chính vì thế, nên Chúa cho biết người thâu thuế xấu xa kia mới là người được xưng công bình, chứ không phải là người Pha-ri-si đạo đức đâu.
Người thâu thuế kia để lại cho bạn và tôi một bài học thật quý: Hãy sống một đời sống hạ mình, khiêm nhường trước mặt Chúa và người khác để được Chúa thương xót và ban phước, vì không ai trong chúng ta là xứng đáng hay tốt đẹp, đạo hạnh khi đứng trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối đâu.
Kinh Thánh cũng có nói đến nhiều người sẽ “đấm ngực” khi thấy Chúa từ trời trở lại trần gian để đón rước những người thuộc về Ngài về Thiên Đàng:
“Sự tai nạn của những ngày đó vừa mới qua, thì mặt trời liền tối tăm, mặt trăng không sáng, các ngôi sao từ trên trời sa xuống, và thế lực của các từng trời rúng động. Khi ấy, điềm Con người sẽ hiện ra ở trên trời, mọi dân tộc dưới đất sẽ đấm ngực, và thấy Con người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà xuống. Ngài sẽ sai thiên sứ mình dùng tiếng kèn rất lớn mà nhóm lại những kẻ đã được lựa chọn của Ngài ở khắp bốn phương, từ cuối phương trời nầy cho đến tận phương kia” (Sách Ma-thi-ơ, chương 24, câu 29 đến 31).
Hành động “đấm ngực” của mọi dân tộc được nói đến ở đây là nói về sự hối tiếc, tiếc nuối của họ vì đã không tin Chúa, nên không được Chúa rước về Thiên Đàng để hưởng mọi phước hạnh tuyệt vời như những người tin Chúa. Họ phải hứng chịu những tai nạn kinh khiếp đổ xuống đất trong kỳ đại nạn.
Khi Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập tự giá năm xưa, Kinh Thánh ghi lại có những người đàn bà đã “đấm ngực” mà khóc: “Khi chúng điệu Đức Chúa Giê-su đi, bắt một người xứ Sy-ren, tên là Si môn, từ ngoài đồng về, buộc phải vác cây thập tự theo sau Ngài. Có đoàn dân đông lắm đi theo Đức Chúa Giê-su, và có mấy người đàn bà đấm ngực khóc về Ngài” (Sách Lu-ca, chương 23, câu 26 và 27).
Mấy người đàn bà “đấm ngực” khóc về Ngài, vì thương yêu Ngài, một con người vô tội mà phải chịu chết một cách đau thương như thế. Họ đấm ngực cũng vì tiếc nuối đã không hết lòng hầu việc Ngài khi Ngài còn đang sống và đang ở bên mình. Bây giờ dù có muốn hầu việc cũng đã hết cơ hội rồi.
Cũng có nhiều người khác “đấm ngực” nữa: “Thầy đội thấy sự đã xảy ra, ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: Thật người nầy là người công bình. Cả dân chúng đi xem, thấy nông nỗi làm vậy, đấm ngực mà trở về” (Sách Lu-ca, chương 23, câu 47 và 48). Những người nầy “đấm ngực” có lẽ vì mình đã làm điều sai, đã đồng ý để người ta đóng đinh Ngài, một người công bình vô tội. Họ đấm ngực có lẽ vì đã hối tiếc về những việc làm sai trái của mình với Chúa Giê-su.
Nhân mùa Lễ Kỷ Niệm sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su, chúng ta cùng suy nghĩ vài điều về hai hành động “vỗ ngực” và “đấm ngực” mà Kinh Thánh đề cập đến.
Chúa Giê-su đã chịu chết thay trên thập tự giá vì tội lỗi của hết thảy mỗi một chúng ta, chúng ta phải luôn luôn ghi lòng tạc dạ tình yêu thương quý báu vô ngần ấy của Chúa mà hết lòng yêu mến và hầu việc Ngài ngay khi còn sống trên trần gian nầy, để không phải đấm ngực hối tiếc khi không còn cơ hội dịp tiện được phục vụ Ngài nữa.
Những độc giả chưa tin nhận Chúa cũng cần nhận biết được tình yêu thương lớn lao của Chúa dành cho mình mà sớm mở lòng ra tin nhận Ngài; hầu không phải đấm ngực hối tiếc như những người không tin Chúa đấm ngực hối tiếc khi thấy những người tin Chúa được tiếp về Thiên Đàng hưởng phước hạnh tuyệt vời bên Chúa yêu thương trong tương lai.
Nguyền xin Chúa dùng bài viêt đơn sơ nầy để khích lệ những người đọc cũng như những người nghe!
Kính chúc mọi người một Lễ Thương Khó nhiều ý nghĩa, và một Lễ Phục Sinh tràn đầy niềm vui và phước hạnh từ Chúa phục sinh ban cho!
Mùa Thương Khó Và Phục Sinh 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 359
Chuyện Về... Những Người Nữ Trong Sự Kiện Thương Khó Và Phục Sinh Của Chúa Giê-su Năm Xưa
Kinh Thánh: Mác 15: 39-41; 16: 1-6; 9-11; Lu-ca 24: 1-11
Những người tin Chúa trên khắp địa cầu đang hướng lòng mình về sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su.
Những ngày lễ đặc biệt của người tin Chúa trên khắp hoàn vũ như Giáng Sinh, Thương Khó, Phục Sinh, Thăng Thiên ngày nay có thể nói đã trở thành những ngày Lễ chung cho rất nhiều người, dù họ chưa phải là tín đồ của Chúa.
Nhân mùa Thương Khó và Phục Sinh năm nay, xin mời bạn cùng tôi lần theo Kinh Thánh trở về với hai sự kiện trọng đại là Chúa chịu chết và sống lại cách đây gần hai ngàn năm, để cùng học hỏi đức tin theo Chúa của những người nữ có mặt trong hai sự kiện không thể nào quên được ấy.
Nếu trong mùa Giáng Sinh, chúng ta không thể nào không nhắc đến đức tin của những người nữ nổi tiếng là Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa Giê-su, bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Tiên Tri Giăng Báp-tít và bà Tiên Tri An-ne (Sách Lu-ca, chương 1, và 2); thì trong mùa Thương Khó và Phục Sinh, chúng ta cũng không thể nào không nhắc đến những người nữ nổi tiếng hiện diện trong hai sự kiện Chúa chịu chết và sống lại năm xưa.
Chúng ta thường nói, những người đàn ông là... phái mạnh, nghĩa là những người mạnh mẽ, can đảm, và những người phụ nữ là... phái yếu, nghĩa là những người những người yếu đuối, nhút nhát. Nhưng trong trường hợp những người nữ hiện diện khi Chúa Giê-su chịu chết và sống lại cách đây gần hai ngàn năm trước thì khác. Họ lại là những người nữ can đảm, mạnh mẽ đến không ngờ.
Hãy cùng xem Kinh Thánh nói về những người nữ ấy.
Trong khi Đức Chúa Giê-su bị bắt thì Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa Giê-su phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến mà bắt Ta, khác nào như Ta là kẻ cướp. Ta thường ngày ngồi trong đền thờ và giảng dạy tại đó, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng mọi điều ấy phải xảy đến, hầu cho những lời các Đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm. Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi” (Sách Ma-thi-ơ, chương 26, câu 55, 56).
“Có một người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình, chúng bắt người. Nhưng người bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn khỏi tay chúng” (Sách Mác, chương 14, câu 51).
“Chúng điệu Đức Chúa Giê-su đến nơi thầy cả thượng phẩm, có hết thảy thầy tế lễ cả, trưởng lão và thầy thông giáo nhóm họp tại đó. Phi-e-rơ theo Ngài xa xa” (Sách Mác, chương 14, câu 53, 54).
Những môn đồ là những người trưởng thành thuộc linh đều bỏ trốn hết khi Chúa Giê-su bị bắt. Còn chàng thanh niên trai trẻ đầy sức sống nọ cũng vì sợ hãi đến nỗi phải ở truồng chạy trốn. Phi-e-rơ là vị Sứ Đồ nổi tiếng là can đảm, đã từng hùng hồn tuyên bố sẽ dám chết với Thầy, chứ không bao giờ chối bỏ Thầy đâu, thì lại theo Ngài xa xa đến tội nghiệp, và rồi sau đó chối bỏ Thầy mình cách không thương tiếc đến ba lần.
Ngược lại, khi Chúa đang bị đóng đinh thì có ít nhất ba người nữ ở bên cạnh Ngài: “Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Giê-su, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài là Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba và Ma-ri Ma-đơ-len nữa” (Sách Giăng, chương 19, câu 25).
Rồi khi Chúa Giê-su chịu chết, Kinh Thánh cho biết cũng có nhiều người nữ hiện diện tại thời điểm đó: “Thầy đội đứng đối ngang Ngài, thấy Ngài trút linh hồn như vậy, thì nói rằng: Người nầy quả thật là Con Đức Chúa Trời. Lại có những đàn bà đứng xa xa mà xem. Trong số ấy có Ma-ri, Ma-đơ-len, Ma-ri là mẹ Gia-cơ nhỏ, và Giô-sê, cùng Sa-lô-mê, là ba người đã theo hầu việc Ngài khi Ngài ở xứ Ga-li-lê; cũng có nhiều đàn bà khác nữa, là những người đã theo Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem... Vả, Ma-ri Ma-đơ-len cùng Ma-ri mẹ Giô-sê, đều thấy chỗ táng Ngài” (Sách Mác, chương 15, câu 39 đến 41; và câu 47).
Khi Chúa đã sống lại vào sáng sớm của ngày thứ nhất trong tuần lễ, Kinh Thánh cũng ghi lại có sự hiện diện đầu tiên của những người nữ: “Ngày Sa-bát qua rồi, Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ Gia-cơ, cùng Sa-lô-mê mua thuốc thơm đặng đi xức xác Đức Chúa Giê-su. Ngày thứ nhất trong tuần lễ, sáng sớm, mặt trời mới mọc, ba người đến nơi mộ, nói cùng nhau rằng: Ai sẽ lăn hòn đá lấp cửa mộ ra cho chúng ta? Khi ngó xem, thấy hòn đá đã lăn ra rồi; vả, hòn đá lớn lắm. Đoạn, họ vào nơi mộ, thấy một người trẻ tuổi ngồi bên hữu, mặc áo dài trắng, thì thất kinh. Song người nói cùng họ rằng: Đừng sợ chi, các ngươi tìm Đức Chúa Giê-su Na-xa-rét, là Đấng đã chịu đóng đinh; Ngài sống lại rồi, chẳng còn ở đây; hãy xem nơi đã táng xác Ngài” (Sách Mác, chương 16, câu 1 đến 6).
Rõ ràng trong biến cố Chúa chịu chết và sống lại năm xưa, không phải những người nam, ngay cả các Sứ Đồ, mà bèn là những người nữ mới là những người đã có mặt tại đó sau cùng và trước hết.
Khi Chúa chịu chết, có đến ba người nữ được nêu tên là Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri là mẹ Gia-cơ nhỏ, và Giô-sê, cùng Sa-lô-mê, cũng như nhiều những người nữ khác không nêu tên đã tận mắt chứng kiến thời khắc lịch sử của nhân loại là Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế của tội nhân đã tắt thở.
Không dừng lại ở đó, trong sự việc chôn Chúa, ngoài hai người nam được Đức Chúa Trời chuẩn bị cho việc chôn xác Chúa Giê-su là Giô-sép, người ở thành A-ri-ma-thê, là Nghị Viên Tòa Công Luận, và Ni-cô-đem là Giáo Sư của dân Do-thái; còn có sự chứng kiến của những người nữ: “Các người đàn bà đã từ xứ Ga-li-lê đến với Đức Chúa Giê-su, theo Giô-sép, xem mả và cũng xem xác Ngài đặt thể nào. Khi trở về, họ sắm sửa những thuốc thơm và sáp thơm. Ngày Sa-bát, họ nghỉ ngơi theo luật lệ” (Sách Lu-ca, chương 23, câu 55, 56).
Dầu có nhiều người, trong đó có cả các Sứ Đồ của Chúa, khi Ngài bị bắt và chịu chết trên thập tự giá, đều bỏ Ngài mà trốn hết; nhưng có nhiều người nữ vẫn theo Ngài đến cùng, tận mắt chứng kiến thời khắc Chúa trút hơi thở cuối cùng, và cũng chứng kiến việc chôn Chúa nữa.
Thật đáng nể cho tấm lòng yêu mến Chúa và đức tin đặt nơi Ngài của những người nữ năm xưa!
Trong sự kiện Chúa Giê-su sống lại, những người nữ cũng là những người diện kiến Chúa phục sinh trước hết, chứ không phải là những người nam mạnh mẽ.
Kinh Thánh xác nhận, người nữ đầu tiên diện kiến Chúa sống lại tên là Ma-ri Ma đơ len:
“Vả, Đức Chúa Giê-su đã sống lại buổi sớm mai ngày thứ nhất trong tuần lễ, thì trước hết hiện ra cho Ma-ri Ma-đơ-len, là người mà Ngài đã trừ cho khỏi bảy quỉ dữ. Người đi đem tin cho những kẻ theo Ngài khi trước, và nay đang tang chế khóc lóc. Nhưng các người ấy vừa nghe nói Ngài sống, và người từng thấy Ngài, thì không tin” (Sách Mác, chương 16, câu 9 đến 11).
Chúa phục sinh cũng hiện ra cho những người nữ khác ngoài Ma ri Ma đơ len, như là Gian nơ, Ma-ri, mẹ Gia cơ và các người nữ khác nữa. Hơn thế nữa, những người nữ cũng chính là những người rao tin mừng Chúa sống lại đầu tiên:
“Ngày thứ nhất trong tuần lễ, khi mờ sáng, các người đàn bà ấy lấy thuốc thơm đã sửa soạn đem đến mồ Ngài. Họ thấy hòn đá đã lăn ra khỏi cửa mồ; nhưng bước vào, không thấy xác Đức Chúa Giê-su. Đang khi không biết nghĩ làm sao, xảy có hai người nam mặt áo sáng như chớp, hiện ra trước mặt họ. Họ đang thất kinh, úp mặt xuống đất; thì hai người ấy nói rằng: Sao các ngươi tìm người sống trong vòng kẻ chết? Ngài không ở đây đâu, song Ngài đã sống lại. Hãy nhớ khi Ngài còn ở xứ Ga-li-lê, phán cùng các ngươi thể nào, Ngài đã phán rằng: Con người phải bị nộp trong tay kẻ có tội, phải bị đóng đinh trên cây thập tự, và ngày thứ ba phải sống lại. Họ bèn nhớ lại những lời Đức Chúa Giê-su đã phán. Họ ở mồ trở về, rao truyền mọi sự ấy cho mười một sứ đồ và những người khác. Ấy là Ma-ri Ma-đơ-len, Gian-nơ, và Ma-ri mẹ của Gia-cơ, cùng các đàn bà khác đi với họ đã rao truyền như vậy cho các sứ đồ. Song các sứ đồ không tin, cho lời ấy như là hư không” (Sách Lu-ca, chương 24, câu 1 đến 11).
Rõ ràng, tấm lòng yêu mến Chúa của những người nữ năm xưa đã được Chúa đáp đền, ấy là họ được diện kiến Chúa phục sinh trước tất cả mọi người và là những người đầu tiên rao truyền tin mừng phục sinh vĩ đại cho người khác. Há đó không phải là một phước hạnh lớn sao?
Tuy nhiên, có một điều... đáng tiếc ở đây nơi những người nữ năm xưa trong sự kiện Chúa phục sinh, ấy là việc họ đã mang thuốc thơm đi để xức xác Chúa vào buổi sáng phục sinh.
Lẽ ra, nếu họ ghi nhớ lời Chúa đã dạy cho họ trước đó nhiều lần, thì họ sẽ không cần phải mang thuốc thơm theo để xức xác Chúa làm gì, vì họ biết Chúa sẽ sống lại sau ba ngày nằm trong phần mộ. Nhưng tiếc thay, vì quên mất lời Chúa dạy, nên họ đã mang thuốc thơm theo xức xác Ngài, để rồi cuối cùng không xức được xác Chúa chi cả. Đó là việc làm không cần thiết, nếu không muốn nói là việc làm... dư công của họ. Hay nói như Đại Thi Hào Nguyễn Du đã nói “Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau” vậy.
Tôi tin rằng trong buổi sáng phục sinh năm xưa, trong số những người nữ mang thuốc thơm theo đặng xức xác Chúa, không có Ma ri, em của La xa rơ và Ma thê, vì bà là người đã từng “ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài” (Sách Lu-ca, chương 10, câu 39) và bà là người đã dành cả một chai dầu thơm rất quý giá đập bể ra mà xức cho Ngài trước khi Ngài lên thập tự giá chịu chết vì tội nhân loại (Sách Giăng, chương 12, câu 3). Bà đã xức xác Chúa rồi, và bà cũng biết chắc Chúa sẽ sống lại sau ba ngày nằm trong phần mộ, nên chắc chắn bà sẽ không mang thuốc thơm đến để xức xác Chúa trong buổi sáng phục sinh đầu tiên ấy.
Kinh Thánh cho chúng ta biết người nữ là giống yếu đuối (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 3, câu 7), nên dễ bị dỗ dành hơn người nam, như Ê va đã bị ma quỷ dỗ dành trong vườn Ê đen xưa, chứ không phải A đam: “Lại không phải A đam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi” (Sách Ti-mô-thê thứ nhất, chương 2, câu 14).
Đó là điều phổ biến; nhưng có những trường hợp ngoại lệ, như trường hợp những người nữ trong hai sự kiện Chúa chịu chết và sống lại năm xưa. Họ lại là những người rất can đảm, mạnh mẽ theo Chúa cho đến cùng, đến nỗi chứng kiến cả sự việc Chúa tắt thở và việc chôn Chúa nữa. Chính vì vậy, họ được Chúa ban thưởng là được diện kiến Chúa sống lại đầu tiên và là những người rao giảng tin mừng phục sinh trước hết.
Nguyện xin Chúa dùng tấm gương tin kính của những người nữ trong sự kiện Chúa chịu chết và sống lại năm xưa nầy để nhắc nhở đức tin theo Chúa của chúng ta ngày nay. Xin Chúa cho chúng ta hết lòng tin Chúa, theo Chúa cho đến cùng, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng trong ngày Ngài trở lại trong tương lai chẳng sai.
Kính chúc mọi người, nói chung và những người nữ, nói riêng một Lễ Phục Sinh tràn đầy niềm vui và hạnh phước từ Đấng Sống ban cho!
California, Mùa Phục Sinh 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 360
Chuyện... Sức Người Và... Sức Chúa
Kinh Thánh: Xuất Ê-díp-tô Ký 14: 26-28; Truyền Đạo 12: 3-5; Ê-sai 40: 29-31
Sức lực là một điều rất quan trọng cho con người chúng ta để sống và làm việc.
Một người không có sức lực thì khó có thể làm được việc gì cho kết quả tốt đẹp được.
Sức lực sẽ tăng và giảm theo thời gian.
Khi còn nhỏ thì sức lực còn yếu, khi đến tuổi trưởng thành là lúc sức lực sung sức nhất; và khi tuổi về già thì sức lực lại giảm dần.
Vua Sa-lô-môn đã viết những lời so sánh rất hình ảnh sau đây về tuổi già: “Trong ngày ấy (lúc tuổi già), kẻ giữ nhà run rẩy, những người mạnh sức cong khom, kẻ xay cối ngừng lại bởi vì số ít, những kẻ trông xem qua cửa sổ đã làn mắt, hai cánh cửa bên đường đóng lại, và tiếng xay mỏn lần. Lúc ấy, người ta nghe tiếng chim kêu bằng chờ dậy, và tiếng con gái hát đều hạ hơi; lại người ta sợ sệt mà lên cao, và hãi hùng lúc đi đường. Lúc ấy cây hạnh trổ bông, cào cào trở nên nặng, và sự ước ao chẳng còn nữa, vì bấy giờ người đi đến nơi ở đời đời của mình, còn những kẻ tang chế đều đi vòng quanh các đương phố” (Sách Truyền Đạo, chương 12, câu 3 đến 5).
Tôi nhớ mới ngày nào đây, khi mình còn ở trong tuổi thanh tráng niên, sức lực rất sung mãn, cường tráng, làm việc không biết mệt mỏi. Ấy vậy mà, giờ đến tuổi già, tôi thấy sức lực mình giảm đi thấy rõ, làm việc chi một chút là đã thấy mệt rồi.
Thế thường, con người chúng ta hay cậy vào sức lực của mình để làm việc nầy việc kia, vì nghĩ rằng mình thông minh, mạnh mẽ và đầy năng lực.
Tôi nhớ có một Nhà Thơ đã viết những vần thơ thật kiêu ngạo:
Bàn tay ta làm ra tất cả,
Với sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Cho đến nay, đã mấy chục năm kể từ khi tôi được người ta dạy cho những câu thơ nầy trong trường học, tôi thấy dân mình vẫn còn nghèo khổ, đất nước mình vẫn còn lạc hậu so với mặt bằng chung của cả thế giới. Nếu quả đúng như lời thơ của Nhà Thơ kia, thì với bàn tay, với sức người mạnh mẽ thì dân mình đã giàu, nước mình đã hùng cường, có thể sánh vai ngang hàng với Mỹ, với các nước văn minh bên trời Tây từ lâu rồi.
Tôi bỗng nhớ đến câu Kinh Thánh: “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau. Vá tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Sách Châm Ngôn, chương 16, câu 18).
Kinh Thánh ghi lại câu chuyện về Vua Rô-bô-am của nước Do-thái ngày xưa là một người... điển hình về việc tin cậy vào sức lực mình hơn là nương cậy nơi sức Chúa:
“Xảy ra khi nước của Rô-bô-am vừa được lập vững bền, và người được cường thạnh, thì người và cả Ysơraên liền bỏ luật pháp của Đức Giêhôva. Vì chúng có phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, nên xảy ra trong năm thứ năm đời vua Rôbôam, Sisắc, vua Êdíptô, kéo lên hãm đánh Giêrusalem; có dẫn theo một ngàn hai trăm cỗ xe và sáu vạn lính kỵ; lại có dân Liby, dân Suri, và dân Êthiôbi từ Ê-díp-tô kéo lên với người, số không thể đếm đặng... Sisắc, vua Êdíptô, kéo lên hãm đánh Giê-ru-sa-lem, đoạt lấy các bửu vật của đền Đức Giêhôva và cung vua: Người đoạt lấy hết thảy; cũng đoạt lấy những khiên bằng vàng mà Sa-lô-môn đã làm.”( Sách Sử Ký thứ nhì, chương 12, câu 1 đến 9)
Là vị vua cai trị dân Chúa, đáng lẽ ra Rô-bô-am phải biết nương cậy nơi sức của Đức Chúa Trời để lãnh đạo dân sự Ngài, đằng nầy, ông chỉ tin nơi sức mình mà thôi, hậu quả ông phải lãnh sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời, khi Ngài dùng quân Ê-díp-tô đánh chiếm Do-thái, đoạt lấy đi mất những bửu vật của hoàng cung, và cả những khiên bằng vàng trong đền Đức Chúa Trời mà Salômôn đã làm.
Trước Vua Rô-bô-am nhiều năm, Kinh Thánh có ghi lại câu chuyện về Môi se, khi nương dựa vào sức lực riêng của mình, ông chỉ giết được có một người Ê-díp-tô mà thôi: “Vả, đương lúc đó, Môi se đã lớn khôn rồi, ra đi đến cùng anh em mình, xem thấy công việc nhọc nhằn của họ; cũng thấy một người Ê-díp-tô đánh một người Hê-bơ-rơ trong vòng anh em mình; ngó quanh quất chẳng thấy ai, bèn giết người Ê-díp-tô đem vùi trong cát” (Sách Xuất Ê-díp-tô Ký, chương 2, câu 11 và 12).
Sau sự kiện Chúa chịu chết và chôn trong mộ, các Sứ Đồ trở nên chán chường, thất vọng, Phi-e-rơ tuyên bố trở về nghề cũ để sinh sống. Các Sứ Đồ khác cũng đồng một lòng, hiệp một ý với ông mà đi đánh cá: “Si-môn Phi-e-rơ nói rằng: Tôi đi đánh cá. Các người kia trả lời rằng. Chúng tôi đi với anh. Các người ấy ra đi xuống thuyền, nhưng trong đêm đó chẳng được chi hết” (Sách Giăng, chương 21, câu 3).
Là những ngư phủ lão luyện, họ dùng hết sức lực và sự khôn ngoan của mình để đánh cá cả đêm mà chẳng được một con nào. Thật lạ!
Đó là chuyện... sức người.
Và sau đây là chuyện về... sức Chúa!
Cũng là Môi se đó, nhưng khi ông nương cậy vào sức toàn năng của Chúa, ông đã vùi lấp được cả đạo binh rất hùng mạnh của kẻ thù xuống biển sâu: “Đức Giê-hô-va phán cùng Môi se rằng: Hãy giơ tay ngươi ra trên biển, nước sẽ trở lấp người Ê-díp-tô, binh xa và lính kỵ của chúng nó. Môi se bèn giơ tay mình ra trên biển, lối sáng mai, nước trở lấp phải đáy biển lại, người Ê-díp-tô chạy trốn bị nước chận. Vậy, Đức Giê-hô-va xô họ xuống giữa biển. Thế thì, nước trở lai bao phủ binh xa, lính kỵ của cả đạo binh Pha-ra-ôn đã theo dân Y-sơ-ra-ên xuống biển, chẳng còn sót lại một ai” (Sách Xuất Ê-díp-tô ký, chương 14, câu 26 đến 28).
Cũng là Phi-e-rơ và những con người đó, cũng là chỗ đánh cá đó, nhưng khi họ vâng lời Chúa và nhờ cậy nơi Ngài, thì họ đã thành công đến không ngờ. Sáng sớm hôm sau, Chúa phục sinh hiện ra với họ và phán: “Hỡi các con, không có chi ăn hết sao? Thưa rằng: Không! Ngài phán rằng: Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì các ngươi sẽ được. Vậy, các người ấy thả lưới xuống, được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lên được” (Sách Giăng, chương 21, câu 5, 6)
Thật kỳ diệu!
Có rất nhiều câu Kinh Thánh dạy chúng ta phải biết nương cậy nơi sức toàn năng của Chúa.
“Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi. Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Sách Thi-thiên, chương 46, câu 1).
Lời Chúa cho biết người nào nhờ cậy nơi Đức Chúa Trời, thì người đó sẽ được Ngài giúp sức: “Vì con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian, đặng giúp sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với Ngài” (Sách Sử Ký thứ nhì, chương 16, câu 9).
“Đức Giê-hô-va là sức lực và là bài ca của ta. Ngài trở nên sự cứu rỗi ta” (Sách Thi-thiên, chương 118, câu 14).
“Vả, Chúa Giê-hô-va là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Các ngươi sẽ được rỗi là tại trở lại và yên nghỉ; các ngươi sẽ được sức mạnh là tại yên lặng và trông cậy” (Sách Ê-sai, chương 30, câu 15).
“Đức Giê-hô-va là Chúa, là sức mạnh của tôi. Ngài làm cho chân tôi giống như chân con hươu, khiến tôi đi trên các nơi cao của mình” (Sách Ha-ba-cúc, chương 3, câu 19).
“Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài” (Sách Ê-phê-sô, chương 6, câu 10).
Sức của con người rất là nhỏ bé và giới hạn, cho dù chúng ta có mạnh mẽ đến đâu chăng nữa. Mạnh như Sam-sôn nhưng rồi cuối cùng cũng trở nên yếu đuối như... cây chuối trên đùi của một thiếu nữ xinh đẹp người Phi-li-tin là nàng Đa-li-la (Sách Các Quan Xét, chương 16, câu 19). Mạnh như gã khổng lồ Gô-li-át, nhưng rồi cuối cùng cũng chết chỉ bằng cái trành ném đá bẻ nhỏ của Đa-vít, khi Đa-vít biết nhờ cậy nơi quyền năng tuyệt đối của Đức Chúa Trời mình mà chiến đấu với tên khổng lồ đó (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 17, câu 50).
Sức lực của Đức Chúa Trời mới là sức lực không bao giờ mòn mỏi, mệt nhọc, vì chính Ngài là Đấng chẳng mỏi chẳng mệt, sự khôn ngoan Ngài không thể dò: “Ngài ban sức mạnh cho kẻ nhọc nhằn, thêm lực lượng cho kẻ chẳng có sức. Những kẻ trai trẻ cũng phải mòn mỏi, mệt nhọc, người trai tráng cũng phải vấp ngã. Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng; chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi” (Sách Ê-sai, chương 40, câu 29 đến 31)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thôi nhờ cậy sự khôn ngoan, sức lực riêng của mình để đem lòng nương cậy nơi sự khôn ngoan và sức toàn năng của Ngài để hầu việc Ngài. Nếu nhờ cậy vào sức lực của riêng mình, thì chúng ta sẽ hầu việc Chúa chẳng được bao lâu cả, vì sức lực chúng ta rất giới hạn, chúng ta sẽ mỏi mệt, sờn lòng ngay. Nhưng khi biết nương cậy nơi sức toàn năng của Đức Chúa Trời, thì chúng ta sẽ hầu việc Ngài cách lâu dài và mạnh mẽ, và chúng ta mới có thể “đi tới và thấy sức lực lần lần thêm” lên chẳng sai, cho đến khi chúng ta được gặp Ngài trên Thiên Đàng vinh hiển trong tương lai.
California, Tháng 4/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 361
Chuyện... Rượu Mới... Bình Mới
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 9: 15-17; Mác 7: 8, 9; Giăng 2: 1-11; Công Vụ 2: 12, 13; II Cô-rinh-tô 3: 17
Phép lạ đầu tiên trong chức vụ của Chúa Giê-su trên đất là phép lạ hóa nước thành rượu trong một tiệc cưới được Sứ Đồ Giăng ghi lại trong Giăng chương 2, từ câu 1 đến câu 11.
Hóa nước thành rượu là một trong những phép lạ độc đáo mà Chúa Giê-su đã làm trong chức vụ của Ngài. Phép lạ đó đã đem lại niềm vui mừng khôn xiết cho gia chủ, nhất là cho chàng rể.
Phép lạ đó cũng làm cho gia chủ và chàng rể trở nên... nổi tiếng vì đã để lại rượu ngon đến sau cùng để đãi khách. Gia chủ nầy thật là có phước vì đám cưới của con mình lại có sự hiện diện của vị khách đặc biệt nhất, đó là Chúa Giê-su!
Thật đúng là không có ai giống như Chúa Giê-su! Ngài hiện diện ở đâu thì đem lại phước hạnh tuyệt vời cho người ta ở đó.
Còn nhớ khi các môn đồ của Giăng Báp-tít đến hỏi Chúa Giê-su tại sao họ kiêng ăn còn môn đồ của Ngài thì không? Đức Chúa Giê-su đáp: “Trong khi chàng rể còn ở với bạn hữu đến mừng cưới, thì những bạn hữu đó có thể nào buồn rầu được ư? Nhưng đến ngày nào chàng rể sẽ bị đem đi khỏi họ, thì họ mới kiêng ăn. Không có ai vá miếng nỉ mới vào cái áo cũ, vì nếu làm vậy, miếng nỉ mới sẽ chằng rách áo cũ, và đàng rách trở nên xấu hơn. Cũng không có ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, nếu làm vậy thì bầu nứt, rượu chảy ra, và bầu phải hư, song ai nấy đổ rượu mới vào bầu da mới, thì giữ được cả hai bề” (Sách Ma-thi-ơ, chương 9, câu 15 đến 17).
Cần biết rằng, Chúa Giê-su không lên án sự kiêng ăn, vì chính Ngài đã kiêng ăn bốn mươi ngày rồi sau đó chịu ma quỷ cám dỗ trong đồng vắng, và Ngài đã chiến thắng cách vẻ vang.
Ở đây, Chúa Giê-su lên án sự kiêng ăn hình thức bên ngoài chỉ nhằm để khoe khoang của người Pha-ri-si mà thôi. Ngài lên án việc giữ luật pháp cách câu nệ bằng văn tự, chứ không phải tinh thần của nói, vì “chữ làm cho chết, nhưng Thánh Linh làm cho sống” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 3, câu 6). Kiêng ăn cũng phải đúng thời điểm và có thời điểm của nó, chứ không phải lúc nào cũng kiêng ăn để chung tỏ mình là... thiêng liêng, thuộc linh hơn người khác.
Hình ảnh một Chàng Rể mà Chúa Giê-su nói đến đó là chính Ngài, Ngài đến để ban cho người tin Ngài niềm vui Thiên thượng tuyệt vời. Cho nên, cuộc đời của các tín nhân phải là một cuộc đời vui mừng như một người đang ở trong tiệc cưới chớ không phải cuộc đời buồn bã, tang chế. Hình ảnh tấm vải mới cho chúng ta biết rằng, Ngài đến để ban cho chúng ta một tâm linh tươi mới, trọn lành, chứ Ngài không đến để “chắp vá lại cuộc đời rách nát của chúng ta”. Hình ảnh rượu mới nói đến một lối sống mới đầy hứng khởi mà Chúa ban cho chúng ta, như rượu mới làm hứng chí loài người. Rượu mới cũng chính là hình ảnh về Đức Thánh Linh bước vào trong cuộc đời chúng ta khi chúng ta tin nhận Chúa Giê-su, và thay đổi hoàn toàn cuộc đời cũ của chúng ta. Bầu da cũ tượng trưng cho Do-thái giáo của người Giu-đa sẽ không thể nào chịu đựng nổi khi đổ rượu mới là Tin Lành của Chúa Giê-su vào. Nó sẽ bị nứt, bị rách liền tay.
Chúa không đến để sửa đổi, bổ túc, hay chắp vá Do-thái giáo, như đem vải mới vá vào quần áo cũ. Trái lại, Chúa Giê-su là một nhà cách mạng vĩ đại, Ngài đem đến một phương cách cứu rỗi mới hoàn toàn. Tin Lành của Chúa Giê-su không phải là luật pháp, nhưng là ân điển: “Vì luật pháp đã ban cho bởi Môi se, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Giê-su Christ mà đến” (Sách Giăng, chương 1, câu 17). Chúa Giê-su không phải là một phương tiện để con người nhờ đó mà đến với Ðức Chúa Trời, nhưng Ngài chính là Cứu Cánh cho con người tội lỗi chúng ta như Kinh Thánh đã khẳng định: “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác (ngoài Chúa Cứu Thế Giê-su); vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 4, câu 12).Tin Lành không phải là một tổ chức tôn giáo với những nghi lễ lỗi thời, nhưng là sự liên hệ sống động với chính Đức Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su biết rõ Tin Lành mà Ngài mang đến cho con người là điều hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với những sự dạy dỗ một cách văn tự, máy móc của các Thầy Thông Giáo và người Pha-ri-si. Chúa đã dùng hai hình ảnh miếng vải mới vá vào chiếc áo cũ, và rượu mới với bầu da cũ để cắt nghĩa cho người ta hiểu được Tin Lành độc đáo đến từ Trời.
Miếng vải mới chưa giặt, thì khi giặt thì nó sẽ bị co lại. Nếu đem vá vào chiếc áo cũ, thì sự co lại của miếng vải mới sẽ làm bung chỗ áo bị vá, chỗ rách lại càng to hơn và xấu hơn. Chẳng khác nào Tin Lành sẽ phải tách hẳn ra khỏi Do-thái giáo, chứ không thể nào vá vào Do-thái giáo được. Cái áo cũ của Do-thái giáo thì không thể đổi mới, hay sửa lại, mà cần phải được thay thế bằng Tin Lành của Chúa Giê-su. Ban đầu, Hội Thánh của Chúa vẫn là một phần của Do-thái giáo. Sau đó, khi Hội Thánh An-ti-ốt được mở ra, thì Cơ-đốc giáo đã hoàn toàn tách khỏi Do-thái giáo. Vào thời Trung cổ, khi Giáo Hội đi lệch quá xa lời Chúa, Đức Chúa Trời đã dùng Martin Luther đứng lên can đảm làm cuộc cải chánh Giáo Hội, để đưa Hội Thánh trở về lại con đường đúng với Kinh Thánh, vì không thể nào vá hết những chỗ rách nát của Giáo Hội lúc bấy giờ.
Tương tự như thế, thời Chúa Giê-su, người ta giữ rượu nho trong các bầu bằng da thú. Khi da còn mới thì còn độ co giãn, nhưng lúc cũ đi thì không còn nữa, nên dễ nứt. Rượu mới thì còn độ lên men, sẽ dễ làm căng bầu da. Bầu da mới sẽ co giãn mới có thể giữ được rượu mới đổ vào, còn bầu da cũ mà đổ rượu mới vào, sẽ bị nứt ngay, mất cả rượu, hỏng luôn cả bầu da.
Rượu mới chính là quyền năng biến đổi của Tin Lành. Chúa Giê-su là Đấng chiến thắng, khi Tin Lành của Ngài đến đâu thì có quyền phép phá bỏ những cái cũ, và tạo nên cái mới đến đó.
Qua câu chuyện của Chúa Giê-su dạy về rượu mới, bầu mới, chúng ta cần xin Chúa cho mỗi chúng ta nhận biết được bài học sâu xa và giá trị việc đổi mới trong đời sống theo Chúa của mỗi chúng ta.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần đầu nhứt, khi Đức Thánh Linh được ban xuống cho các môn đồ, mở miệng họ và họ khởi sự nói các thứ tiếng của ít nhất mười bốn dân tộc khác nhau đang có mặt tại Thủ Đô Giê-ru-sa-lem lúc bấy giờ, khiến các dân tộc đó ngạc nhiên đến sợ hãi, không hiểu thấu được... chuyện kỳ diệu ấy, nên có người đã nhạo báng: “Ai ai đều sợ hãi, không biết nghĩ làm sao, bèn nói với nhau rằng: Việc nầy là nghĩa làm sao? Nhưng có kẻ lại nhạo báng rằng: Họ say rượu mới đó.” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 2, câu 12 và 13).
Rượu mới mà người ta nhạo báng đó chính là Đức Thánh Linh. Các môn đồ của Chúa Giê-su đã... say rượu mới thật sự (tức say trong Thánh Linh của Đức Chúa Trời).
Chính Đức Thánh Linh đã bước vào trong đời sống của họ và ban cho họ khả năng nói các thứ tiếng ngoại quốc của ít nhất mười bốn dân tộc có mặt trong buổi Lễ Ngũ Tuần đầu nhứt tuyệt diệu năm xưa, những ngôn ngữ mà trước đó họ chưa từng học bao giờ.
Đức Thánh Linh có thể làm được những điều mới mẻ tuyệt diệu cho người tin Chúa Giê-su và sẵn lòng để Đức Thánh Linh làm việc.
Trở lại với câu chuyện Chúa hóa nước thành rượu vừa nêu ở trên.
Kinh Thánh nói gì về việc uống rượu?
Có thể nói rằng, Kinh Thánh có khá nhiều chỗ... ủng hộ cho việc uống rượu! Kinh Thánh cho biết rượu là một món quà Chúa ban cho con người: “Rượu nho là vật khiến hứng chí loài người” (Sách Thi-thiên, chương 104, câu 15). Rượu nho là một dấu hiệu về sự chúc phước của Chúa dành cho người có lòng dâng hiến: “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con mà tôn vinh Đức Giê-hô-va. Vậy, các vựa lẫm con và những thùng của con sẽ tràn rượu mới” (Sách Châm Ngôn, chương 3, câu 9, 10). “Hãy đi ăn bánh cách vui mừng, và uống rượu cách hớn hở, vì Đức Chúa Trời đã nhận các công việc ngươi” (Sách Truyền Đạo, chương 9, câu 7). Rượu cũng là một thành phần trong của lễ dâng hiến cho Đức Giê-hô-va: “Ngươi phải dâng lễ quán bằng rượu nho cho Đức Giê-hô-va trong nơi thánh” (Sách Dân Số Ký, chương 28, câu 7)
Chúa Giê-su đã thực hiện phép lạ đầu tiên rất độc đáo là hóa nước thành rượu ngon. Tôi tin rằng Chúa Giê-su và các môn đồ Ngài cũng đã ăn và uống rượu cùng với các thực khách có mặt trong tiệc cưới hôm đó. Hy vọng rằng, nhiều người cũng sẽ có cùng niềm tin như tôi. Và hy vọng rằng, sẽ không có ai... ném đá tôi về niềm tin có cơ sở ấy. Chẳng lẽ, Chúa hóa nước thành rượu mà Ngài lại không uống sao? Chúa Giê-su không bao giờ là mỵ dân cả! Tôi cũng tin chắc rằng, Ngài không bao giờ say sưa, luông tuồng, vì Ngài luôn biết tiết độ, tự chủ. Tôi tin rằng, nhiều người cũng có niềm tin như vậy.
Tuy rượu và việc uống rượu được nhắc tới trong Kinh Thánh nhiều lần, nhưng say sưa, buông tuồng là điều không được chấp nhận: “Đừng say rượu, vì rượu xui cho buông tuồng, nhưng phải đầy dẫy Thánh Linh” (Sách Ê-phê-sô, chương 5, câu 18). Hãy nhớ điều đó!
Theo sách Thi-thiên, chương 104, câu 15, thì rượu đem lại sự hứng chí, thỏa thích cho con người. Chúa Giê-su hóa nước thành rượu đem lại sự phấn khích, hứng chí vô cùng cho gia chủ và chàng rể.
Từ câu chuyện hóa nước thành rượu thú vị nầy, chúng ta có thể thấy một trong những đặc điểm quan trọng nhất của Cơ đốc giáo chân thật là sự vui vẻ, lòng vui mừng.
Nhân nói chuyện... bình mới,... rượu mới, chúng ta suy gẫm một chút về việc tuân giữ những truyền thống giáo điều do Giáo Hội đặt ra, chứ không đến từ Lời Chúa.
Chúa Giê-su đã từng lên án rất mạnh mẽ giới lãnh đạo tôn giáo thời xưa là người Pha-ri-si và Thầy Thông Giáo khi họ xem truyền thống của loài người là trọng hơn Lời Đức Chúa Trời: “Các ngươi bỏ điều răn của Đức Chúa Trời, mà giữ lời truyền khẩu của loài người. Ngài cũng phán cùng họ rằng: Các ngươi bỏ hẳn điều răn của Đức Chúa Trời, đặng giữ theo lời truyền khẩu của mình” (Sách Mác, chương 7, câu 8 và 9).
Chúng ta rất dễ bị để cho những truyền thống, những giáo điều của Giáo Hội “nhốt” chúng ta trong bốn bức tường của nó, đến nỗi chúng ta không còn thèm khát được đổi mới nữa để có thể sống một đời sống mỗi ngày càng đẹp lòng Chúa hơn.
Có những truyền thống nào trong đời sống theo Chúa của bạn hay Giáo Hội của bạn đi ngược lại với Kinh Thánh không? Chính những truyền thống phi Kinh Thánh đó sẽ làm cho cuộc đời theo Chúa của bạn mất hết sức sống mới và niềm vui mới trong rượu mới của Đức Thánh Linh.
Để có thể say trong rượu mới của Đức Thánh Linh thì không có cách nào khác là hãy ra khỏi, hãy đoạn tuyệt những truyền thống “chết người” ấy, thì bạn sẽ được đầy tràn rượu mới vui mừng, phấn khởi, thỏa thích của Đức Thánh Linh ban cho.
Kinh Thánh cho biết: “Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 3, câu 17).
Những truyền thống phi Kinh Thánh sẽ... giết chết sự tự do hành động của Đức Thánh Linh trong đời sống theo Chúa của chúng ta.
Bạn và tôi rất cần phải mạnh dạn “bước theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt” (Sách Ga-la-ti, chương 5, câu 16), của những truyền thống phi Kinh Thánh do con người đặt ra.
Chúng ta rất cần phải biết sống đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng việc say rượu mới của Thánh Linh Đức Chúa Trời hơn là sợ làm mất lòng con người, khi cứ khư khư ôm giữ những truyền thống phi Kinh Thánh, để rồi nói “rượu cũ ngon hơn” (Sách Lu-ca, chương 5, câu 39).
Nguyện xin Chúa Thánh Linh giúp đỡ cho chúng con để sẵn lòng say rượu mới của Thánh Linh Ngài, hầu cho đời sống theo Chúa của chúng con sẽ được kết quả cho Chúa từ nay cho đến ngày chúng con được gặp Ngài trong tương lai. A men!
California, Tháng 4/2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 362
Chuyện... Chúa Về Trời Và Phước Hạnh Của Người Tin
Kinh Thánh: Giăng 16: 13; Công Vụ Các Sứ Đồ 1:9-11; I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 16-18; Hê-bơ-rơ 11: 5
Sau khi Chúa Giê-su sống lại, Kinh Thánh cho biết Ngài ở lại với các môn đồ bốn mươi ngày để dạy họ nhiều lẽ thật quan trọng về Nước Trời: “Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các Sứ Đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các Sứ Đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về Nước Đức Chúa Trời” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 3).
Nếu các sự kiện Chúa Giê-su giáng sinh, chịu chết và sống lại là những sự thật lịch sử hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được; thì sự kiện Chúa Giê-su về trời cũng vậy, vì có nhiều người chứng kiến, và được Kinh Thánh ghi lại rất nhiều lần trong nhiều sách khác nhau.
Tại sao Chúa Giê-su phải về trời?
Câu trả lời phải có là vì Ngài vốn từ trời xuống thế gian để thực thi chương trình cứu rỗi nhân loại. Cho nên, sau khi đã hoàn thành chương trình cứu rỗi rồi, thì Ngài trở về với Cha Ngài ở trên trời. Chính Chúa Giê-su đã phán: “Ta ra từ Cha mà đến thế gian, nay Ta lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha” (Sách Giăng, chương 16, câu 28). Đó là chân lý, không có gì phải bàn cãi.
Trước khi nói về chân lý quan trọng là Chúa về trời, chúng ta hãy đi ngược lại thời Cựu Ước để xem một số hình mẫu về sự về trời của các Thánh Nhân được Kinh Thánh ghi lại.
Chúng ta biết Tiên Tri Hê-nóc được Kinh Thánh ký thuật là người được... về trời đầu tiên: “Hê-nóc được sáu mươi lăm tuổi, sanh Mê-tu-sê-la. Sau khi Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la rồi, đồng đi cùng Đức Chúa Trời trong ba trăm năm, sanh con trai con gái. Vậy, Hê-nóc hưởng thọ được ba trăm sáu mươi lăm tuổi. Hê-nóc đồng đi cùng Đức Chúa Trời rồi mất biệt, bởi vì Đức Chúa Trời tiếp người đi” (Sách Sáng Thế Ký, chương 5, câu 21 đến 24).
Tác giả thơ Hê-bơ-rơ đã nhắc lại sự kiện Hê-nóc được tiếp về trời: “Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên và không hề thấy sự chết, người ta không thấy người nữa, vì Đức Chúa Trời đã tiếp người lên. Bởi chưng, trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Đức Chúa Trời rồi” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 11, câu 5).
Sau Hê-nóc một thời gian, Kinh Thánh cũng cho biết Tiên Tri Ê-li cũng được Chúa đem về trời một cách rất vinh hiển: “Khi đi qua rồi, Ê-li nói với Ê-li-sê rằng: Hãy xin điều ngươi muốn ta làm cho ngươi, trước khi ta được cất lên khỏi ngươi. Ê-li-sê thưa rằng: Nguyền xin thần của thầy cảm động tôi được bội phần. Ê-li nói với người rằng: Ngươi cầu xin một sự khó. Song nếu ngươi thấy ta lúc ta được cất lên khỏi ngươi, ắt sẽ được như lời, bằng chẳng, thì không được. Hai người cứ vừa đi vừa nói với nhau, kìa, có một cái xe lửa và ngựa lửa phân rẽ hai người. Ê-li lên trời trong một cơn gió lốc. Ê-li-sê nhìn thấy bèn la lên rằng: Cha tôi ôi! Cha tôi ôi! Là xe và lính kỵ của Y-sơ-ra-ên! Đoạn, Ê-li-sê không còn nhìn thấy người nữa. Rồi người nắm áo tơi mình xé ra làm hai mảnh.” (Sách Các Vua thứ nhì, chương 2, câu 9 đến 12).
Như vậy, qua Kinh Thánh, chúng ta được biết, trong thời Cựu Ước, ít nhất có hai con người vĩ đại của Đức Chúa Trời, cũng là hai Tiên Tri của Ngài là Hê-nóc, và Ê-li đã được Ngài cất lên trời trong sự vinh hiển tuyệt vời.
Trở lại với sự kiện Chúa về trời là một trong những chân lý quan trọng nhất của Đạo Chúa, đó là Chúa giáng sinh, Chúa chịu chết, Chúa sống lại, Chúa về trời, và Chúa sẽ tái lâm.
Sau khi sống lại, Chúa Giê-su ở với các môn đồ của Ngài trong bốn mươi ngày để dạy dỗ họ về Nước Trời.
Sau bốn mươi ngày đó, Chúa được cất về trời trước sự chứng kiến của các môn đồ: “Ngài phán bấy nhiêu lời rồi thì được cất lên trong lúc các người đó nhìn xem Ngài, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa. Các người đó đương ngó chăm trên trời trong lúc Ngài ngự lên, xảy có hai người nam mặc áo trắng hiện đến trước mặt, và nói rằng: Hỡi người Ga-li-lê, sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Giê-su nầy đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 9 đến 11).
Chúa Giê-su về trời là một chân lý quan trọng mà mỗi con dân Ngài phải học biết để đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận, hầu đời sống được phước.
Chúa Giê-su về trời đem lại nhiều ích lợi lớn lao cho chúng ta.
Ngài về trời và ngự bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho chúng ta: “Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Giê-su Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa. Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta” (Sách Rô-ma, chương 8, câu 34).
Là những người thuộc về Chúa, chúng ta được Chúa Giê-su hiện đương ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời để cầu thay cho chúng ta. Đó là một phước hạnh lớn lao mà những người không tin Ngài không thể nào có được.
Chúa ngồi bên hữu Đức Chúa Trời nói lên rằng Ngài bình đẳng với Đức Chúa Cha. Ngài cũng chính là Đức Chúa Trời.
Ngài về trời để sắm sẵn Thiên Đàng cho con cái Ngài đến ở:
“Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đã đi và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu, thì các ngươi cũng ở đó” (Sách Giăng, chương 14, câu 2 và 3).
Không ai được phước hạnh hơn những người tin Chúa, vì họ được Ngài chăm sóc một cách tuyệt vời. Chính Ngài đã về trời không chỉ để cầu thay cho chúng ta, mà còn để chuẩn bị một chỗ thật vinh hiển cho chúng ta đến ở sau khi qua đời nầy.
Những gì Chúa Giê-su đã hứa thì chắc như đinh đóng cột, không bao giờ sai trật, không bao giờ thay đổi cả. Chúng ta đáng đem lòng tin trọn vẹn để nhận lấy những lời phán hứa của Ngài đã dành cho chúng ta trong Kinh Thánh.
Chúa Giê-su về trời để ban Đức Thánh Linh đến ở với chúng ta và ở trong chúng ta: “Dầu vậy, Ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi, vì nếu Ta không đi, Đấng Yên Ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu. Song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Ngài đến” (Sách Giăng, chương 16, câu 7).
Khi Đức Thánh Linh được ban xuống để ở với chúng ta thì Ngài sẽ dạy dỗ Lời Chúa cho chúng ta: “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật, vì Ngài không nói tự mình; nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Sách Giăng, chương 16, câu 13).
Đây là sự khác biệt cơ bản giữa việc học Lời của Đức Chúa Trời với việc học các sách của thế gian. Học các sách thế gian thì chỉ cần dùng trí óc, sự hiểu biết của mình để học thôi; nhưng khi học lời Chúa cần phải được Đức Thánh Linh hướng dẫn, dạy dỗ, nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu sai và dạy điều sai cho người khác: Sứ Đồ Phi-e-rơ đã khẳng định: “Trước hết phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 1, câu 20 và 21).
Đây là một chân lý quan trọng mà tất cả tôi, con Chúa cần lưu ý khi học và dạy Lời Chúa cho người khác vậy. Tất cả những sự giảng dạy sai trật, đi xa sự dạy dỗ của Kinh Thánh, đẻ ra các tà giáo đều đến từ việc hiểu sai Lời Chúa khi họ nhờ cậy sự khôn ngoan riêng của mình để giải nghĩa Kinh Thánh mà không để lòng nhờ cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-su về trời cũng để ban Đức Thánh Linh xuống cáo trách tội lỗi của thế gian: “Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét” (Sách Giăng, chương 16, câu 8).
Khi chúng ta ra đi giới thiệu về Chúa Giê-su cho người khác, thì chính Đức Thánh Linh mới là Đấng cáo trách tội lỗi của tội nhân, chứ không phải là chúng ta. Việc của chúng ta là giới thiệu về Chúa cho tội nhân, và việc của Đức Thánh Linh là cáo trách tội lỗi để tội nhân ăn năn mà trở về cùng Chúa. Chúng ta như là những người trồng và tưới, còn chính Đức Chúa Trời mới là Đấng làm cho lớn lên (ý từ sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 3, câu 6).
Sự kiện Chúa Giê-su về trời cũng như hai Tiên tri Hê-nóc và Ê-li đã về trời là hình mẫu tuyệt vời cho chúng ta biết rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đem về trời trong tương lai một cách vinh hiển như thế để ở với Chúa mãi mãi:
“Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống. Bấy giờ, những kẻ chết trong Đấng Christ sẽ sống lại trước hết. Kế đến, chúng ta là kẻ sống mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa. Như vậy, chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên ủi nhau” (Sách Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất, chương 4, câu 16 đến 18).
Được cất về trời để ở với Chúa luôn luôn thì còn phước hạnh nào lớn hơn thế nữa cho mỗi một chúng ta!
Chúa về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như thế trong tương lai để đoán phạt thế gian tội lỗi nầy:
“Giê-su nầy đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy”(Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 1, câu 11).
Khi Chúa về trời, chỉ vài trăm người chứng kiến, nhưng ngày Chúa Giê-su tái lâm thì toàn thể nhân loại khắp địa cầu sẽ chứng kiến:
“Khi ấy, điềm Con Người sẽ hiện ra ở trên trời, mọi dân tộc dưới đất sẽ đấm ngực, và thấy Con Người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà xuống” (Sách Ma-thi-ơ, chương 24, câu 30).
“Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cũng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài. Quả thật vậy. A-men!” (Sách Khải Huyền, chương 1, câu 7).
Trước hết, Chúa Giê-su sẽ trở lại nơi không trung để tiếp rước những người tin Chúa về với Ngài, và sau đó, Ngài sẽ trở lại cách hiển nhiên trên đất và mọi người đều nhìn thấy, những người không tin Chúa sẽ than khóc vì cớ đã không tin Ngài.
Chúng ta cần phải biết tạ ơn Chúa Giê-su vì Ngài đã về trời hai ngàn năm đã qua, và Ngài sẽ trở lại trong một tương lai rất gần đây đề tiếp đón người thuộc về Ngài.
Những người được Ngài tiếp rước về trời ở với Ngài là những người được phước hơn hết, vì Thiên Đàng là một nơi phước hạnh ngàn muôn năm không dứt cho những ai có mặt ở đó.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta hết lòng tin cậy và chờ đợi sự hiện đến vinh hiển của Ngài trong một tương lai không xa! Amen!
California, Mừng Kỷ Niệm Ngày Chúa Về Trời năm 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 363
Chuyện... Đao To Búa Lớn
Kinh Thánh: Giăng 13: 34; Công Vụ Các Sứ Đồ 17: 24-26; II Cô-rinh-tô 9: 8; Gia cơ 1: 17
Thành Ngữ “Đao to búa lớn” chỉ những người thường thích dùng những từ ngữ “to lớn” để làm tăng thêm độ... vĩ đại cho những việc làm của một người nào đó mà họ yêu mến. Nó nói lên sự cường điệu quá đáng, không phù hợp với nội dung.
“Đao to búa lớn” là một thành ngữ có nguồn gốc từ thành ngữ “đại đao khoát phủ”. Xuất xứ của thành ngữ này là từ tác phẩm “Thủy Hử” của Thi Nại Am đời Minh, bên Trung Quốc. “Đại đao” và “khoát phủ” là những thứ vũ khí thời xưa. “Đại đao khoát phủ” là câu nói dùng để miêu tả khí thế uy nghi dũng mãnh của quân đội.
Có điều khác biệt là trong tiếng Hán thì “đại đao khoát phủ” chỉ về điều tốt, còn khi đi vào tiếng Việt thì thành ngữ “đao to búa lớn” lại mang ý nghĩa xấu.
Trong giới những người tin Chúa trong Tin Lành, chúng ta thấy có nhiều người hay dùng những từ ngữ dạng “đao to búa lớn” không cần thiết, làm nhiều con dân Chúa cảm thấy khó gần gũi với những Mục Sư hơn.
Xin được nêu ra đây một số từ ngữ mà chính tôi cũng thường hay nghe thấy nhiều người sử dụng trong những buổi thờ phượng Chúa hằng tuần.
Chắc nhiều người trong chúng ta cũng thường nghe nhiều người hướng dẫn chương trình giới thiệu vị Mục Sư lên giảng lời Chúa bằng những lời lẽ như sau:
“Bây giờ là thì giờ chúng ta sẽ được nghe Lời Chúa qua tôi tớ Ngài là Mục Sư (tên của Mục Sư). Xin kính mời Mục Sư lên tòa giảng ban phát Lời Chúa.”
Tôi cũng có một số lần được người hướng dẫn chương trình dành cho những lời lẽ “đao to búa lớn” như thế khi được mời giảng Lời Ngài, nhưng thú thật là tôi cảm thấy... sợ sợ (hơn là thích thú) khi nghe người ta mời mình với những lời lẽ ấy. Vì tôi cảm biết, tôi chẳng có gì để... ban phát cho ai cả. Tôi học được điều gì từ Lời Chúa dạy cho tôi thì tôi rao giảng, hay chia sẻ lại cho hội chúng thôi. Những gì tôi có được để rao giảng hay chia sẻ lại cho hội chúng là từ Đức Thánh Linh ban cho tôi, chứ không phải tự tôi có được đâu mà dám... ban phát. Đấng duy nhất có thể ban phát Lời Chúa cho chúng ta chính là Đức Thánh Linh là Thần Khôn Ngoan và Thông Sáng, Đấng hiểu biết mọi sự, mới có thể ban phát cho chúng ta những điều tốt lành từ Lời Ngài để dạy dỗ chúng ta mà thôi.
Vả lại, nhiều khi chúng ta dùng những từ ngữ “đao to búa lớn” như “ban phát” nghe có vẻ gì đó ghê gớm lắm; nhưng đến khi người được mời lên “ban phát” đó lại chẳng có gì để ban phát cả, chỉ nói toàn những chuyện đâu đâu, không đi sâu vào việc giảng giải Lời Chúa cho dân sự hiểu chi hết. Thiệt là buồn!
Theo thiển ý của tôi, những người hướng dẫn chương trình các buổi thờ phượng Chúa của các Hội Thánh nên nói: “Bây giờ, là thì giờ chúng ta sẽ được nghe Lời Chúa qua tôi tớ Ngài là Mục Sư (tên Mục Sư). Xin kính mời Mục Sư lên “rao giảng” hay “chia sẻ” Lời Chúa cho Hội Thánh” là vừa phải nhất. Đừng dùng từ “ban phát”, coi chừng chúng ta phạm thượng đến Chúa cao cả của chúng ta chứ không phải chơi.
Chỉ một mình Chúa mới có đầy đủ mọi sự tốt lành toàn hảo để ban phát cho con người chúng ta mà thôi; còn con người tội lỗi, xấu xa như chúng ta chẳng có gì tốt lành để ban phát cho ai cả.
Kinh Thánh cho biết: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài; hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Sách Giăng, chương 3, câu 16).
Chúa Giê-su phán: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau, như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng phải yêu nhau thể ấy” (Sách Giăng, chương 13, câu 34).
Sứ Đồ Phao-lô đã rao giảng: “Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu. Ngài cũng chẳng dùng tay người ta hầu việc Ngài dường như có cần đến sự gì, vì Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 17, câu 24-26).
Kinh Thánh cũng cho biết: “Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa đặng làm các thứ việc lành” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 9, câu 8).
Thánh Phao-lô lại nói: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 9, câu 15).
Thánh Gia-cơ cũng khẳng định Đức Chúa Trời mới là Đấng ban cho cách rộng rãi: “Mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào” (Sách Gia-cơ, chương 1, câu 17).
Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, Hội Thánh khắp nơi đều có dự Lễ Tiệc Thánh để tưởng nhớ đến sự hy sinh cao quý của Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta cũng thường hay nghe người hướng dẫn mời những lời “đao to búa lớn” như sau:
“Thì giờ nầy là thì giờ chúng ta sẽ cùng dự Tiệc Thánh để tưởng nhớ đến sự hy sinh cao quý của Chúa dành cho mỗi một chúng ta. Xin kính mời Mục Sư (tên Mục Sư) lên ban Tiệc Thánh cho Hội Thánh.”
Mục Sư nào mà dám cả gan... ban Tiệc Thánh cho Hội Thánh?
Tiệc Thánh là do chính Đức Chúa Giê-su thiết lập. Chúa Giê-su là Đấng duy nhất ban Tiệc Thánh mà thôi, chứ không có con người nào dám... ban Tiệc Thánh cả.
Nếu chúng ta dùng từ ngữ như thế là chúng ta cũng vô tình hay cố ý xúc phạm đến Chúa của mình vậy.
Thiết nghĩ, chúng ta không thể nào dùng từ “ban Tiệc Thánh” được cả, vì Tiệc Thánh đã được Chúa Giê-su ban cách đây hai ngàn năm rồi. Và chính Chúa đã dạy chúng ta: “Hãy làm điều nầy (Tiệc Thánh) để nhớ Ta.” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 11, câu 24, 25).
Không thể dùng từ “Ban Tiệc Thánh”, vậy thì chúng ta có thể dùng từ gì cho phù hợp?
Cũng theo thiển ý của tôi, chúng ta có thể nói: “Thì giờ nầy là thì giờ chúng ta cùng nhau dự Thánh Lễ Tiệc Thánh để tưởng nhớ đến sự hy sinh cao quý của Chúa dành cho mỗi một chúng ta, xin kính mời Mục Sư (tên của Mục Sư) lên cử hành Lễ Tiệc Thánh.”
Một điều nữa mà tôi cũng thường hay thấy nhiều Hội Thánh ghi trong tờ chương trình thờ phượng Chúa, ở mục: “Giảng Lời Chúa”: Diễn giả: Mục Sư Quản Nhiệm.
Tôi thiết nghĩ, “Diễn giả” là từ thường dùng cho những Mục Sư được Mục Sư Quản Nhiệm mời đến giảng Lời Chúa cho Hội Thánh buổi thờ phượng hôm đó để bày tỏ một sự tôn trọng cần có với một vị khách mời của Hội Thánh.
Trong trường hợp, Mục Sư Quản Nhiệm là người rao giảng Lời Chúa cho Hội Thánh nhà thì thiết nghĩ đâu cần gì phải dùng từ “Diễn giả” làm chi cho nó... xa lạ và khách sáo, thiếu đi sự gần gũi, thân thiện vốn có giữa Hội Thánh với vị Mục Sư Quản Nhiệm của mình.
Trên đây là vài thiển ý của tôi về cách sử dụng một số từ ngữ có vẻ... đao to búa lớn không cần thiết trong Hội Thánh cần thay đổi để cho mọi sự được trở nên nhẹ nhàng, gần gũi và thân thiện hơn giữa Mục Sư và tín đồ. Mặt khác cũng tránh được sự phạm thượng đến Chúa kính yêu, Đấng mà mỗi chúng ta đang tôn thờ và hầu việc.
Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Giê-su, tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với mỗi một chúng ta luôn luôn!
California, Tháng 4/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 364
Chuyện... Đi Xuống Hay... Đi Lên?
Kinh Thánh: Châm Ngôn 14: 12; Giăng 3: 36; 14: 6; Công Vụ Các Sứ Đồ 4: 12
Mỹ là một trong những đất nước có hệ thống đường giao thông rất hiện đại, nhất là hệ thống đường cao tốc (freeway). Ở mỗi lối vào (entrance) của đường cao tốc (freeway) đều có bảng hiệu màu đỏ rất rõ với dòng chữ “wrong way” (sai đường) và ký hiệu cấm vào (do not enter) để cảnh báo mọi người, hầu không đi sai đường, vì nếu đi sai đường, sẽ cực kỳ nguy hiểm đến tính mạng.
Mỗi khi lái xe vào đường cao tốc (freeway) và thấy tấm bảng cảnh báo đó, tôi lại nhớ đến chuyện... đi xuống hay... đi lên trong đời sống đức tin của con người.
Đi xuống hay đi lên là hai hướng đi ngược nhau rất rõ ràng.
Chúng ta rất quen thuộc với câu nói “Đường nào cũng về La-Mã”. Câu nầy cho chúng ta biết Đế Quốc La-Mã ngày xưa trong thời Chúa Giê-su, một thời là đế quốc hùng mạnh, chinh Đông phạt Tây. La-Mã là một quốc gia rất giỏi về kỹ nghệ giao thông, đường sá. Người La-Mã đi đến đâu là xây dựng đường sá đến đó, với mục đích là để cho việc cai trị của họ trên các quốc gia họ chiếm đóng được cho dễ dàng, thuận lợi.
Kiểu làm đường được lát bằng đá tảng là xuất phát từ Đế Quốc La Mã. Thông thường sau khi chiếm cứ và bình định xong một vùng đất mới, người La Mã liền tổ chức xây dựng các con đường lát đá dẫn đến thuộc địa đó ngay để họ dễ bề cai trị.
Câu nói “Đường nào cũng về La-Mã” còn có nghĩa là một việc làm có thể có nhiều cách để đi đến thành công; mọi việc còn tùy thuộc vào con đường bạn chọn để đi. Khi quyết định một vấn đề chúng ta có thể mở đầu óc để suy nghĩ rộng ra nhiều hướng, nhiều phương pháp mà giải quyết vấn đề cho được hiệu quả tối ưu.
“Đường nào cũng về La-Mã” là một câu nói hay và ý nghĩa, nhưng nó chỉ đúng trong khi xử lý, giải quyết một vấn đề nào đó trong cuộc sống tạm bợ của con người khi sống ở trên trần gian nầy; nhưng nó hoàn toàn không đúng khi nói đến lĩnh vực niềm tin, lĩnh vực đức tin để được sự cứu rỗi.
Trên con đường đức tin để dẫn đến sự cứu rỗi, con người chỉ có hai hướng để đi: Đi lên hay đi xuống. Tin Chúa Giê-su hay chối bỏ Ngài, chứ không có hướng đi trung gian nào khác.
Khi thấy tấm biển “Wrong way” là người lái xe tự nhiên phải nhớ rằng mình không được phép đi vào con đường đó, vì sai đường lạc lối, đi vào sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của mình. Đã có những trường hợp người lái xe bất cẩn hoặc không biết mà đi vào đường cấm ấy, và đã gây ra tai nạn cho mình và cho cả người khác nữa, nếu không mất mạng là cả một sự may mắn lớn.
Trong niềm tin của con người trên trần gian nầy, chúng ta càng cần phải cẩn thận hơn gấp nhiều lần khi đi tìm con đường cứu rỗi linh hồn cho chính mình.
Trong con đường niềm tin, không có nhiều hướng đi để chúng ta lựa chọn, chỉ có hai hướng, đi xuống hoặc đi lên, và bạn phải chọn một cho chính mình.
Bạn có biết là mình đang đi trên con đường đi xuống hay đi lên không?
Nếu bạn không biết mình đang đi lên thì chắc chắn là bạn đang đi xuống. Không có hướng nào khác nữa để cho ta chọn.
Hướng đi lên là hướng đi Đúng Đường (RIGHT WAY), còn hướng đi xuống chính là hướng đi Sai Đường (WRONG WAY) vậy.
Từ bao nhiêu năm đã qua cho đến ngày hôm nay, tôi tạ ơn Chúa vì Ngài đã cho tôi chọn hướng đi lên Thiên Đàng; cho nên tôi biết chắc rằng mình không đi chiều ngược lại là chiều đi xuống Địa Ngục đau khổ đời đời.
Nhiều lần đọc Kinh Thánh, tôi luôn chú ý đến lời phán độc đáo của Chúa Giê-su: “Ta là Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Sách Giăng, chương 14, câu 6).
Tôi cũng tìm đọc thêm một số sách vở của các Triết Gia và Giáo Chủ nổi tiếng khác trên thế giới, xem thử có ai nói lời độc đáo như Chúa Giê-su đã nói đó không? Tôi tuyệt nhiên không tìm thấy một lời tuyên bố nào giống như thế. Và tôi hiểu lý do vì sao không có ai tuyên bố như Chúa Giê-su đã tuyên bố?
Lý do dễ hiểu nhất, vì không một ai là Đường Đi, là Chân Lý và Sự Sống cả. Chỉ một mình Chúa Giê-su mà thôi. Kinh Thánh cho biết, Ngài đến từ Đức Chúa Trời và Ngài cũng chính là Đức Chúa Trời.
Lý thuyết Phật Giáo dạy rằng:
“Phật pháp như ngón tay. Mặt trăng như chân lý. Phật pháp là ngón tay chỉ mặt trăng, chứ không phải là mặt trăng. Phật pháp là con đường dẫn tới giác ngộ và giải thoát, chứ không phải là bản thân sự giác ngộ và giải thoát.” *
Như vậy, Phật Thích Ca không hề nói mình là Chân Lý. Và cũng không một Triết Gia, Giáo Chủ nào dám tuyên bố mình là Chân Lý cả, vì họ thực sự không phải là Chân Lý.
Tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết không hơn không kém, như Khổng Tử đã khẳng định: “Nhơn nhơn giai hữu tội” (Mọi người đều có tội). Và tất cả đều cần được sự cứu rỗi qua dòng huyết vô tội của Chúa Giê-su đã đổ ra trên thập tự giá.
Thánh Phi-e-rơ cũng đã xác nhận con đường cứu rỗi duy nhất là qua Chúa Giê-su: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 4, câu 12).
Mọi con đường ngoài Chúa Giê-su đều là Sai Đường (Wrong Way) dẫn con người đến sự chết mà thôi. Kinh Thánh xác quyết: “Có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người; nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo sự chết” (Sách Châm Ngôn, chương 14, câu 12, và chương 16, câu 25).
Xin mời bạn hãy đến với Chúa Giê-su trong khi còn có cơ hội và dịp tiện, trong khi còn có hơi thở trong lỗ mũi, để biết chắc rằng hướng đi mình sẽ là hướng đi lên Thiên Đàng khi mình kết thúc cuộc sống tạm bợ trên trần gian nầy.
Nếu bạn vẫn còn chần chừ, do dự, và chưa quyết định tin Chúa Giê-su hôm nay là bạn đang ở trên hướng đi Sai Đường (Wrong Way) vậy. Và nếu bất ngờ, Đức Chúa Trời rút hơi thở của bạn đi, thì mãi mãi nơi ở của linh hồn bạn sẽ là Địa Ngục đau khổ kinh khiếp.
Kinh Thánh khẳng định dứt khoát: “Ai tin Chúa Giê-su thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Chúa Giê-su thì không được sự sống đâu; nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn giáng trên người đó” (Sách Giăng, chương 3, câu 36).
Chọn cho cuộc đời mình một niềm tin đúng đắn, một hướng đi đúng đắn là một lựa chọn quan trọng nhất, vì điều đó sẽ làm cho cuộc đời bạn được bình an trong hiện tại và nhận được phước hạnh miên viễn trong tương lai.
Chúc bạn sớm chọn được một hướng đi đúng đắn cho cuộc đời của mình, không phải ngày mai, mà ngay hôm nay!
California, Cuối Tháng 4/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
* niemphat.vn/tudien/ngon-tay-chi-mat-trang.html
Bài 365
Ngày Lễ Mẹ, Học... Gương Một Người Mẹ Tuyệt Vời
(Kính tặng tất cả những người Mẹ ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: I Sa-mu-ên 1; Thi-thiên 42: 3; 56: 8
Tháng Năm về nhắc chúng ta nhớ Ngày Lễ Mẹ đầy ý nghĩa.
Chúa Nhật Thứ Hai của Tháng Năm hằng năm là Chúa Nhật được dành để những người con có thì giờ đặc biệt ghi nhớ công ơn Người Mẹ dấu yêu của mình.
Nhân Ngày Lễ đẹp đẽ nầy, xin mời bạn cùng suy gẫm về một người mẹ tuyệt vời được Kinh Thánh Cựu Ước nhắc đến, đó là người Mẹ An-ne, thân mẫu của vị Tiên Tri nổi tiếng là Sa-mu-ên, được ghi lại trong sách Sa-mu-ên thứ nhất.
Người Mẹ An-ne có những điều tuyệt vời rất đáng để học hỏi.
An-ne sống vào khoảng năm 1125 năm trước Chúa Giê-su, có nghĩa là cách chúng ta chừng trên ba ngàn năm.
Dựa theo Lời Chúa trong sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương một, xin chia sẻ những gương tốt nơi người Mẹ tuyệt vời nầy như sau:
Điều tuyệt vời thứ nhất là bà không ăn thua đủ với người khác:
"Kẻ phân bì nàng khôn xiết trêu ghẹo nàng, để giục nàng lằm bằm vì Đức Giê-hô-va đã khiến nàng son sẻ. Từ năm nầy đến năm kia, mỗi khi nàng đi lên đền Đức Giê-hô-va, chồng đãi nàng như vậy, còn Phê-ni-na cứ trêu ghẹo nàng; An-ne khóc và không ăn. Ên-ca-na, chồng nàng, nói rằng: Hỡi An-ne, sao nàng khóc? Cớ sao không ăn và lòng buồn bực dường ấy? Ta há chẳng đáng cho nàng hơn mười đứa con trai ư?" (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 1, câu 6 đến 8).
Ca Dao Việt Nam có câu nói về sự nhường nhịn rất hay:
Ai nhứt thì tôi thứ nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba
Kinh Thánh dạy: “Khi nín lặng, dầu người ngu dại, cũng được cầm bằng khôn ngoan. Còn kẻ nào ngậm môi miệng mình lại được kể là thông sáng” (Sách Châm Ngôn, chương 17, câu 28).
Bà không ăn thua đủ, không đốp chát lại người trêu chọc mình như thế thường nhiều người, nhất là những người nữ thường làm. Bà không sống theo kiểu “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, hay “bốn chín gặp năm mươi”, hoặc “kẻ tám lạng, người nửa cân”. Bà chọn cách xử sự im lặng và... khóc mà thôi.
Thật tuyệt vời!
Điều tuyệt vời thứ hai ở người Mẹ An-ne là tấm lòng cầu nguyện với Chúa:
“An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Đức Giê-hô-va, vừa tuôn tràn giọt lệ. Nàng hứa nguyện rằng: Ôi, Đức Giê-hô-va của vạn quân, nếu Ngài đoái xem nỗi sầu khổ của con đòi Ngài, nhớ lại nó chẳng quên, và ban cho con đòi Ngài một đứa trai, thì tôi sẽ phú dâng nó trọn đời cho Đức Giê-hô-va, và dao cạo sẽ chẳng đưa ngang qua đầu nó. Vì nàng cầu nguyện lâu dài trước mặt Đức Giê-hô-va, Hê-li chăm xem miệng nàng; vả, An-ne nói trong lòng, chỉ nhóp nhép miệng mà thôi, không có ai nghe tiếng nàng; nên Hê-li tưởng nàng say, bèn hỏi rằng: Chừng nào nàng mới hết say? Hãy đi giã rượu đi. An-ne thưa rằng: Chẳng phải vậy, chúa; tôi vốn một đàn bà có lòng buồn bực, chẳng uống rượu hay là vật gì uống say; nhưng tôi giãi bày lòng tôi ra trước mặt Đức Giê-hô-va” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 1, câu 10 đến 15).
Bài cầu nguyện của bà An-ne có những điều rất quý, đáng cho chúng ta noi theo:
Bà cầu nguyện trong nước mắt: “An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Đức Giê-hô-va, vừa tuôn tràn giọt lệ.”
Vua Đa-vít cũng có một tấm lòng cầu nguyện trong nước mắt giống như An-ne:
“Đương khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm” (Sách Thi-thiên, chương 42, câu 3).
“Chúa đếm các bước đi qua đi lại của tôi. Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa. Nước mắt tôi há chẳng được ghi vào sổ Chúa sao?" (Sách Thi-thiên, chương 56, câu 8).
Mỗi chúng ta, nhất là những người Mẹ đã có những thì giờ đến với Chúa và tuôn tràn giọt lệ như người Mẹ An-ne nầy chưa? Nếu chúng ta có được những thì giờ như thế, thì chắc chắn đời sống theo Chúa của chúng ta sẽ rất phước hạnh và Chúa sẽ rất vui lòng khi nhìn thấy những tấm lòng ta vỡ ra trước mặt Ngài như thế!
Bà cầu nguyện lâu dài trước mặt Chúa: “Vì nàng cầu nguyện lâu dài trước mặt Đức Giê-hô-va, Hê-li chăm xem miệng nàng.”
Bà An-ne không cầu nguyện chiếu lệ theo nghi thức tôn giáo, không cầu nguyện cho xong, cho có cầu nguyện với người ta. Bà dành thì giờ cách hào phóng cho Chúa, để thưa chuyện với Ngài.
Xin Chúa giúp cho chúng ta biết... hào phóng thời gian với Chúa mỗi khi cầu nguyện như An-ne đã làm.
Bà cầu nguyện thầm trong lòng: “vả, An-ne nói trong lòng, chỉ nhóp nhép miệng mà thôi, không có ai nghe tiếng nàng.”
Bà cầu nguyện chỉ vừa đủ cho linh hồn của bà nghe với Chúa của bà mà thôi. Có lẽ bà hiểu rằng, không ai có thể hiểu được nỗi lòng sầu khổ của bà, ngoài Chúa của bà, nên bà chỉ trình dâng lên cho Ngài là Đấng duy nhất hiểu thấu mọi điều trong lòng người ta, hiểu thấu mọi điều trong lòng bà.
John Bunyan đã rất hay khi nói rằng: “Trong khi cầu nguyện, có tấm lòng, không có lời nói, thì tốt hơn là có lời nói mà không có tấm lòng.”
Bà cầu nguyện như giải bày lòng mình ra với Chúa: “An-ne thưa rằng: Chẳng phải vậy, chúa; tôi vốn một đàn bà có lòng buồn bực, chẳng uống rượu hay là vật gì uống say; nhưng tôi giãi bày lòng tôi ra trước mặt Đức Giê-hô-va”
Cầu nguyện thực sự là giải bày lòng mình với Chúa, như trút đổ hết tâm sự mình cho Chúa vậy. Khi chúng ta tin cậy một ai đó đủ là chúng ta không ngần ngại mà ... trút bầu tâm sự với người đó.
Qua việc người Mẹ An-ne cầu nguyện như giải bày lòng mình trước mặt Chúa, chúng ta biết bà là người có lòng tin cậy Chúa một cách tuyệt đối, không nghi ngại bất cứ điều gì ở nơi sự tốt lành trọn vẹn của Ngài cả.
Vua Đa-vít cũng đã sẵn sàng trao mọi gánh nặng của mình cho Chúa: “Hãy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ nâng đỡ ngươi. Ngài sẽ chẳng hề cho người công bình bị rúng động” (Sách Thi-thiên, chương 55, câu 22)
Điều tuyệt vời thứ ba ở người Mẹ An-ne là biết dâng con mình cho Chúa, sẵn sàng cho Chúa mượn con của mình:
“Vừa khi dứt sữa, nàng bèn dẫn nó theo mình đến đền của Đức Giê-hô-va tại Si-lô, cùng đem theo ba con bò đực, một Ê-pha bột mì, và một bầu rượu. Đứa trẻ hãy còn nhỏ lắm. Họ giết con bò đực, rồi dẫn đứa trẻ đến Hê-li. Nàng bèn nói cùng người rằng: Xin lỗi, chúa! xưa có người đàn bà đứng tại đây, gần bên ông, đặng cầu khẩn Đức Giê-hô-va, tôi chỉ sanh mạng ông mà thề rằng tôi là người đó. Ấy vì đứa trẻ nầy mà tôi cầu nguyện. Đức Giê-hô-va đã nhậm lời tôi đã cầu xin cùng Ngài. Vì vậy, tôi cũng dâng nó cho Đức Giê-hô-va; tôi cho Đức Giê-hô-va mượn nó trọn đời nó. Đoạn mẹ con đều thờ lạy tại đó trước mặt Đức Giê-hô-va” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 1, câu 24 đến 28).
Người Mẹ An-ne là người biết giữ lời hứa nguyện với Chúa.
Bà không thuộc hạng người hay... hứa suông hẹn hão như nhiều người xưa cũng như nay. Bà là người tôn trọng lời hứa và biết giữ lời hứa. Nhiều người không chịu... ăn nuốt Lời Chúa mà chỉ thích... ăn nuốt lời hứa. Bà An-ne thì ngược lại, bà là người... ăn nuốt Lời Chúa chứ không... ăn nuốt lời hứa.
Bà đã chăm sóc con mình một cách kỹ lưỡng cho đến khi dứt sữa một cách đàng hoàng, và rồi đem con đến đền thờ để dâng cho Chúa, đung như lời mà bà đã hứa nguyện năm xưa.
Bà “cho Chúa mượn” con của mình lâu dài.
“Cho Chúa mượn” là một suy nghĩ nghe thật ngộ nghĩnh của người Mẹ tuyệt vời nầy, nhưng là một sự ngộ nghĩnh rất ý nghĩa.
“Cho Chúa mượn” có nghĩa là bà không phó mặc con mình, không quan tâm gì đến con mình nữa khi đã dâng cho Chúa. Bà vẫn tiếp tục quan tâm đến con, tiếp tục cầu nguyện cho chức vụ của con mình, và theo dõi sự tiến bộ của con.
Bà không sống lối sống giả hình, vô trách nhiệm như người Pha-ri-si. Người Pha-ri-si lý luận với Chúa Giê-su rằng: “Vì Đức Chúa Trời đã truyền điều răn nầy: Phải hiếu kính cha mẹ ngươi; lại điều nầy: Ai mắng nhiếc cha mẹ thì phải chết. Nhưng các ngươi lại nói rằng: Ai nói cùng cha mẹ rằng: Những điều mà tôi có thể giúp cha mẹ, đa dâng cho Đức Chúa Trời rồi, thì người ấy không cần phải hiếu kính cha mẹ. Như vậy, các ngươi đã vì lời truyền khẩu mình mà bỏ lòi Đức Chúa Trời” (Sách Ma-thi-ơ, chương 15, câu 4 đến 6).
Người khôn ngoan là người biết đem con mình dâng cho Chúa và... cho Chúa mượn trọn đời.
Cho người mượn có thể bị gạt mất, nhưng... cho Chúa mượn thì không sợ bị Chúa gạt bao giờ.
Ðức Chúa Trời nhìn thấy tấm lòng chân thành của bà và bà đã được Ngài ban thưởng thật... hậu hỉ:
“Ðức Giê-hô-va đoái xem An-ne, nàng thọ thai và sanh ba con trai và hai con gái. Còn cậu bé Sa-mu-ên khôn lớn trước mặt Ðức Giê-hô-va” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 2, câu 21).
Bà An-ne không dâng con cho Đức Chúa Trời với mục đích để trục lợi, để được Chúa cho lại nhiều hơn. Bà dâng con cho Chúa là vì lòng yêu Chúa của mình.
Và Sa-mu-ên, món quà đặc biệt Chúa ban cho bà, và bà đã dâng cho Chúa, đã trở nên một con người được Chúa dùng cách đặc biệt: Ông trở thành và một Tiên Tri đầu tiên và vị quan xét cuối cùng nổi tiếng của Đức Chúa Trời (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 3, câu 24, và chương 13, câu 20). Ông cũng được Chúa dùng để xức dầu cho hai vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên là Sau-lơ (vị vua đến từ con người) và Đa-vít (vị vua đến từ Đức Chúa Trời).
Chúa đã ban thưởng lại cho người Mẹ An-ne trổi hơn vô cùng những gì bà cầu xin hoặc suy tưởng (ý từ Sách Ê-phê-sô, chương 3, câu 20).
Thật đúng như lời Phao-lô đã bày tỏ: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 9, câu 15).
Đó là một số điều tuyệt vời từ người Mẹ An-ne để lại cho chúng ta là những người hậu thế được học hỏi ngày hôm nay trong đời sống đức tin theo Chúa mỗi ngày, nhất là những người làm Mẹ.
Kính chúc những người Mẹ ở khắp mọi nơi một ngày Lễ Mẹ thật nhiều ý nghĩa và đầy tràn niềm vui từ Thiên Chúa ban cho.
California, Tháng 5/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 366
Chuyện Về... Mẹ Chồng Nàng Dâu
(Kính tặng tất cả những người Mẹ ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: Phục Truyền 23: 3; Ru-tơ 1; Lu-ca 12: 53; Ê-phê-sô 3: 18
Ngày Lễ Mẹ đáng yêu hằng năm lại trở về với sự mong chờ háo hức của nhiều người, nhất là những người làm con.
Nhân Ngày Lễ Mẹ năm nay, xin được nói chuyện về đề tài...mẹ chồng nàng dâu.
Ca Dao có khá nhiều câu nói về mẹ chồng nàng dâu.
Trong xã hội, chúng ta thấy mẹ chồng nàng dâu thì thường không thuận thảo với nhau:
- Bà già mặc áo bông chanh,
Ngồi trong đám hẹ nói hành nàng dâu.
- Thật thà cũng thể lái trâu,
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
- Mẹ anh như mẹ người ta,
Thì anh có cửa, có nhà từ lâu,
Mẹ chồng đối với nàng dâu,
Như mèo với chuột có thương nhau bao giờ.
- Cô kia đội nón đi đâu?
Tôi là phận gái làm dâu mới về,
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê,
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi.
- Thương chồng phải luỵ mụ gia,
Chớ tui với bả có bà con chi!
Mẹ chồng nàng dâu là một đề tài được người ta đề cập đến khá nhiều. Kinh Thánh cũng có nói đến đề tài nầy. Thế thường, khi con người phạm tội với Đức Chúa Trời, con người muốn đi theo đường riêng mình, làm việc theo ý riêng mình, nên có nhiều xung đột xảy ra giữa vòng họ, ngay cả trong môi trường gia đình. Đặc biệt trong thời kỳ cuối cùng của thế giới nầy, sự xung đột đó càng gia tăng bội phần:
“Bởi vì con trai sỉ nhục cha, con gái nổi lên nghịch với mẹ của nàng, con dâu nghịch cùng bà gia, và những kẻ thù của một người chính là người nhà của mình” (Sách Mi-chê, chương 7, câu 6).
“Cha nghịch cùng con trai, con trai nghịch cùng cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà gia.” (Sách Lu-ca, chương 12, câu 53).
Dầu bức tranh mẹ chồng nàng dâu không thuận thảo, hay xung đột lẫn nhau là bức tranh chung trong xã hội loài người; nhưng Kinh Thánh có ghi lại một câu chuyện mẹ chồng nàng dâu ngược hẳn với bức tranh chung đó.
Có dịp đọc Kinh Thánh, chắc chắn bạn sẽ rất thích thú khi đọc câu chuyện về...mẹ chồng nàng dâu được ghi chép lại trong sách Ru-tơ.
Câu chuyện nói về gia đình bà Na-ô-mi, một gia đình người Do-thái, gồm bốn người là vợ chồng bà và hai con trai.
Khi trong xứ Do-thái bị đói kém, gia đình bà đi đến xứ Mô-áp để sinh sống. Sau khi đến nơi xứ người chưa được bao lâu, thì chồng bà chết. Hai con trai bà cưới vợ tại xứ Mô-áp. Hai nàng dâu của bà tên là Ọt-ba và Ru-tơ. Họ sống với nhau được mười năm, thì cả hai người con trai của bà cũng chết, để lại Na-ô-mi không chồng, không con, chỉ còn có... hai người con dâu mà thôi. Một tình cảnh thật đáng thương!
Khi bà nghe tại quê hương bà nạn đói đã qua rồi, bà bèn đứng dậy cùng hai dâu mình trở về Bết-lê-hem. Bà nói cùng hai dâu rằng, hai con hãy trở về nhà của mình đi, đừng đi theo mẹ làm chi.
Hai nàng dâu không muốn quay về nhà mình mà muốn đi theo mẹ chồng. Nhưng bà bảo đừng theo mẹ làm chi nữa, đời mẹ cay đắng lắm. Ọt-ba hôn bà và quay về nhà cha mẹ mình, còn Ru-tơ quyết tâm đi với mẹ chồng.
Kinh Thánh ghi lại cụ thể:
“Hai nàng lại cất tiếng lên khóc. Đoạn, Ọt-ba hôn và từ biệt bà gia mình; còn Ru-tơ không chịu phân rẽ người. Na-ô-mi nói cùng Ru-tơ rằng: Nầy, chị con đã trở về quê hương và thần của nó; con hãy trở về theo nó đi. Ru-tơ thưa rằng: Xin chớ nài tôi phân rẽ mẹ; vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó. Dân sự của mẹ, tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ, tức là Đức Chúa Trời của tôi; mẹ thác nơi nào, tôi muốn thác và được chôn nơi đó. Ví bằng có sự chi khác hơn sự chết phân cách tôi khỏi mẹ, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa cho tôi! Na-ô-mi thấy nàng quyết định theo mình, nên không nói nữa. Vậy, hai người đi đến Bết-lê-hem. Khi hai người đến, cả thành đều cảm động. Các người nữ hỏi rằng: Ấy có phải Na-ô-mi chăng? Người đáp: Chớ gọi tôi là Na-ô-mi, hãy gọi là Ma-ra, vì Đấng Toàn năng đã đãi tôi cách cay đắng lắm. Tôi đi ra được đầy dẫy, nhưng Đức Giê-hô-va dắt tôi về tay không. Đức Giê-hô-va đã giáng họa cho tôi, và Đấng Toàn năng khiến tôi bị khốn khổ, vậy còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi? Na-ô-mi và Ru-tơ, người Mô-áp, dâu của Na-ô-mi, từ ở xứ Mô-áp trở về là như vậy. Hai người đến Bết-lê-hem nhằm đầu mùa gặt lúa mạch” (Sách Ru-tơ, chương 1, câu 14-22).
Dù Na-ô-mi muốn cho hai dâu trở về nhà cha mẹ họ, nhưng Ru-tơ thì quyết tâm đi theo mẹ chồng, nhất quyết không chịu phân rẽ.
Hãy nghe lại lời hứa nguyện không rời mẹ chồng chắc như đinh đóng cột của Ru-tơ:
“Ru-tơ thưa rằng: Xin chớ nài tôi phân rẽ mẹ; vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó. Dân sự của mẹ, tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ, tức là Đức Chúa Trời của tôi; mẹ thác nơi nào, tôi muốn thác và được chôn nơi đó. Ví bằng có sự chi khác hơn sự chết phân cách tôi khỏi mẹ, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa cho tôi!”
Đây quả là một trong những lời hứa nguyện thật tuyệt vời.
Vì sao mà Ru-tơ lại có một lời hứa nguyện hiếm thấy nơi một nàng dâu dành cho mẹ chồng như thế?
Câu trả lời có thể được tìm thấy là do sự đối xử tử tế của mẹ chồng dành cho cô. Nếu Na-ô-mi không đối xử tử tế thì... còn lâu Ru-tơ mới có một quyết tâm theo mẹ chồng đến cháy bỏng như vậy.
Theo thế thường thì mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu hiếm khi nào thuận thảo, thương yêu nhau; nhưng mối quan hệ giữa mẹ chồng Na-ô-mi và nàng dâu Ru-tơ ở đây thì khác với thế thường. Họ yêu thương nhau thật sự.
Người ta nói “Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai”. Ở đây, có lẽ hai nàng dâu của Na-ô-mi là hai người phụ nữ hiền lành, đạo đức, nên mới được mẹ chồng thương yêu như con gái vậy.
Dù biết mẹ chồng không còn gì cả (chồng và con đều đã chết hết) và cũng chẳng có tương lai gì xán lạn; nhưng Ru-tơ vẫn quyết định đi theo mẹ chồng về quê với bà. Phải chăng, trong quá trình sống với mẹ chồng, Ru-tơ nhận biết mẹ chồng có một điều đáng quý, đó là bà đang tôn thờ một Đức Chúa Trời, Đấng có quyền ban phước, giáng họa, “Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho hai con được bình yên ở nơi nhà chồng mới! Rồi người ôm hôn hai nàng, còn hai nàng cất tiếng lên khóc” (Sách Ru-tơ, chương 1, câu 9); nên Ru-tơ quyết định theo mẹ chồng để được tôn thờ Đức Chúa Trời như mẹ chồng mình đã tôn thờ?
Bởi đức tin kiên định đặt nơi Đức Chúa Trời của mẹ chồng, cũng là Đức Chúa Trời của chính nàng, nên Ru-tơ đã kinh nghiệm được ân sủng dư dật của Ngài dành cho cuộc đời của mình, dù nàng chỉ là người nữ ngoại bang. Qua đây, chúng ta thấy được ân sủng rộng lớn diệu kỳ của Đức Chúa Trời vượt qua bất cứ luật lệ nào của con người: “Dân Am-môn và dân Mô-áp sẽ không được phép vào hội Đức Giê-hô-va, dầu đến đời thứ mười cũng chẳng hề bao giờ vào được” (Sách Phục Truyền, chương 23, câu 3).
Có thể nói, phước hạnh lớn nhất trong cuộc đời của Ru-tơ không phải là có được một người chồng giàu có và quyền thế như Bô-ô; nhưng phước hạnh lớn nhất ấy là nàng được Chúa cho gia nhập vào dân thánh của Ngài, và tên của cô được ghi vào trong gia phổ của Chúa Giê-su. Nàng đã trở thành tổ mẫu của Chúa Giê-su, như được chép: “Bô-ô lấy Ru-tơ làm vợ, người đi lại cùng nàng; Đức Giê-hô-va làm cho nàng được thọ thai và sanh một con trai. Các người đàn bà nói cùng Na-ô-mi rằng: Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va chẳng từ chối cho bà một người có quyền chuộc lại; nguyện danh của người trở nên sang trọng nơi Y-sơ-ra-ên! Nó sẽ an ủi lòng bà, dưỡng già bà; vì ấy là dâu bà vẫn thương bà, đã sanh nó cho bà; nàng quí cho bà hơn bảy con trai. Na-ô-mi bồng đứa trẻ, để vào lòng mình, và nuôi nó. Những người nữ lân cận đặt tên cho nó là Ô-bết, mà rằng: Một đứa trai đã sanh cho Na-ô-mi. Ô-bết là cha của Y-sai, ông của Đa-vít” (Sách Ru-tơ, chương 4, câu 13-17). Còn gì phước hơn như thế!
Thật diệu kỳ!
Có đến bốn phụ nữ dân ngoại trong gia phổ Chúa Giê-su. Ta-ma và Ra-háp là người Ca-na-an, Ru-tơ người Mô-áp và Bát-sê-ba là người Hê-tít. Hầu hết không phải là người đạo đức. Ta-ma và Ra-háp là gái điếm. Bát-sê-ba phạm tội ngoại tình. Chỉ có Ru-tơ là một người nữ hiền đức (“cả dân sự trong thành ta đều biết rằng nàng là một người đàn bà hiền đức”, Sách Ru-tơ, chương 3, câu 11), nhưng bà lại thuộc dân tộc thù nghịch với dân sự Ngài.
Tại sao Ðức Chúa Trời lại dùng bốn người nữ như thế? Ngài muốn cho con người “hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của tình yêu thương của Ngài là thể nào” (Sách Ê-phê-sô, chương 3, câu 18). Chúa Giê-su đã phán “Ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội” (Sách Ma-thi-ơ, chương 9, câu 13) là như vậy!
Thật cảm động khi chúng ta đọc câu chuyện mẹ chồng nàng dâu rất thuận thảo trong sách Ru-tơ, vì qua đó, chúng ta thấy được tình yêu lớn lao và ân sủng diệu kỳ của Đức Chúa Trời dành cho con người tội lỗi, xấu xa như chúng ta.
Nàng dâu Ru-tơ là một người nữ không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà nàng còn có một vẻ đẹp bên trong nữa. Ru-tơ là một người thuộc... phái yếu, nhưng nàng có một đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, đáng cho cả những người đàn ông là những người thuộc... phái mạnh noi theo luôn.
Ước ao Hội Thánh của Chúa có được thật nhiều những mẹ chồng nàng dâu như Na-ô-mi và Ru-tơ, thì Hội Thánh sẽ được phước biết bao nhiêu!
Kính chúc tất cả những người làm Mẹ và làm dâu một ngày Lễ Mẹ được nhiều ân sủng tốt lành từ Thiên Chúa!
California, Mừng Ngày Lễ Mẹ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 367
Ngày Lễ Mẹ, Nói Chuyện Về... Thân Mẫu Và... Nhạc Mẫu
Kinh Thánh: Ê-sai 49: 15; Ma-thi-ơ 8: 14, 15; 16: 21-23
Như người ta đã quy định, Chúa Nhật thứ hai của Tháng Năm hằng năm là Ngày Lễ Mẹ.
Như vậy, Ngày Lễ Mẹ năm 2024 nầy nhằm vào Chúa Nhật Ngày Mười Hai Tháng Năm.
Nhân dịp Lễ Mẹ năm nay, xin được nói chuyện với quý độc giả, thính giả về... Thân Mẫu và Nhạc Mẫu.
Trước hết, xin nói về Thân Mẫu.
Thân Mẫu là người đẻ ra mình mà chúng ta thường hay gọi bằng một từ ngắn gọn, thân thương nhất, đó là MẸ. Ai trong chúng ta cũng có Thân Mẫu cả. Chính Thân Mẫu là người đã mang nặng đẻ đau ra mình. Chính Thân Mẫu cũng là người đã bú mớm, chăm sóc mình từ khi mình vừa mới chào đời cho đến khi lớn khôn, và cũng luôn dõi theo suốt cuộc đời của mình nữa. Có thể nói, về phương diện con người, không có ai quan tâm, thương yêu mình hơn chính Thân Mẫu mình cả.
Kinh Thánh xác nhận điều đó: “Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi” (Sách Ê-sai, chương 49, câu 15).
Thân Mẫu tôi đã qua đời từ khi tôi mới mười một tuổi, nên tôi thiếu đi tình thương của Thân Mẫu, và vì vậy, tôi nhớ thương Mẹ tôi nhiều vô kể. Mỗi khi nói đến Thân Mẫu là lòng tôi trào dâng bao cảm xúc sâu lắng về Người. Có thể nói, không có sự thiếu thốn nào của người con lớn cho bằng sự thiếu thốn tình cảm của người Mẹ. Không có sự mất mát nào lớn hơn đối với người con là mất mát tình thương người Mẹ.
Những ai đang có Thân Mẫu còn sống với mình, đó là một niềm hạnh phúc vô cùng lớn trong cuộc đời. Hãy biết trân quý và dành cho Thân Mẫu mình những gì tốt đẹp nhất mà mình có thể, khi còn có cơ hội, dịp tiện; để một ngày nào đó khi Thân Mẫu mình có qua đời, mình sẽ không hối tiếc là đã không trân quý, thương yêu Thân Mẫu như đáng phải làm.
Bên cạnh Thân Mẫu, phần lớn những người nam còn có Nhạc Mẫu nữa, trừ một số ít người không lập gia đình thì không nói.
Nhạc Mẫu là gì? Từ nầy có lẽ hơi... lạ đối với một số người.
Theo sách vở cho biết, thì nguồn gốc của từ Nhạc Mẫu như sau:
“Nhạc” có nghĩa là đỉnh núi hay dãy núi cao.
Tại Trung Quốc có Ngũ Nhạc (Năm Ngọn Núi Cao) là:
Đông Nhạc tức núi Thái Sơn là "Ngọn núi tĩnh lặng" ở tỉnh Sơn Đông.
Tây Nhạc tức núi Hoa Sơn là "Ngọn núi lộng lẫy" ở tỉnh Thiểm Tây.
Nam Nhạc tức núi Hành Sơn là "Ngọn núi cân bằng", ở tỉnh Hồ Nam.
Bắc Nhạc tức núi Hằng Sơn là "Ngọn núi vĩnh hằng", ở tỉnh Sơn Tây.
Trung Nhạc tức núi Tung Sơn là "Ngọn núi cao ngất", ở tỉnh Hà Nam.
Trên Núi Thái Sơn có một ngọn núi tên là Trượng Nhân Phong (vì hình giống như một ông già). Người Trung Quốc thường quen gọi bố vợ là Trượng Nhân, mà núi Trượng Nhân lại ở dãy Đông Nhạc, nên người ta mới dùng chữ Nhạc thay cho chữ Trượng Nhân để chỉ nhà vợ; như Nhạc Gia là Nhà Vợ, Nhạc Phụ là Cha Vợ, Nhạc Mẫu là Mẹ Vợ.” 1
Cha vợ mà chết rồi, ta không gọi là Nhạc Phụ mà gọi là Ngoại Khảo. Còn mẹ vợ mà chết rồi không gọi là Nhạc Mẫu mà gọi là Ngoại Tỷ. Thế đấy, xem ra việc xưng hô trong gia đình cho đúng và phải phép cũng không phải là... chuyện dễ dàng chút nào.
Nhạc Mẫu là người đã đẻ ra... vợ mình. Chính bà đã nuôi nấng, chăm sóc vợ mình từ khi mới lọt lòng cho đến khi khôn lớn, chuẩn bị tất cả một cách tốt nhất để rồi sẵn sàng trao cô con gái yêu của bà cho mình làm vợ. Bạn thấy có ai tốt như Nhạc Mẫu của mình không? Không tốt sao được, khi nuôi con hết hơi, hết sức, hết tiền, hết bạc, rồi đến khi con gái khôn lớn đến thời điểm đẹp đẽ nhất, viên mãn nhất thì bà lại sẵn sàng để cho bạn... rước về nhà mình làm vợ. Còn có ai tốt hơn thế nữa bạn ơi?
Nhạc Mẫu của bạn còn sống không? Nhạc Mẫu của tôi, Ông Trời cho vẫn còn sống, đến nay bà đã gần bước vào tuổi 90 rồi. Dầu sức khỏe không còn được như xưa, đó là điều tất yếu; nhưng Nhạc Mẫu tôi vẫn còn nghe được, nói được, ăn được, ngủ được, vui chơi, đùa giỡn với con cháu được. Đó là một niềm vui lớn cho con cho cháu trong gia đình.
Cầu xin Chúa cho Nhạc Mẫu tôi được khỏe và sống thêm với con với cháu một thời gian nữa để nhìn thấy dòng dõi mà Chúa đã ban cho mình.
Cho đến nay, Nhạc Mẫu của tôi đã có một đàn hậu duệ lên đến hơn bảy chục người, gồm cả con, dâu, rể, cháu, chắt.
Thật cảm tạ Chúa về “dòng giống được lựa chọn” ấy!
Kinh Thánh có nói đến Nhạc Mẫu của một Sứ Đồ nổi tiếng, đó là Sứ Đồ Phi-e-rơ như sau:
“Đức Chúa Giê-su vào nhà Phi-e-rơ, thấy bà gia (Nhạc Mẫu) người nằm trên giường, đau rét. Ngài bèn rờ tay người bịnh, rét liền mất đi; rồi người đứng dậy giúp việc hầu Ngài” (Sách Ma-thi-ơ, chương 8, câu 14, 15).
Sau khi Đức Chúa Giê-su chữa lành cho đứa đầy tớ của một Thầy Đội được lành bịnh bại liệt, thì Ngài vào nhà Phi-e-rơ, thấy bà gia (Nhạc Mẫu) của ông đang đau rét nằm trên giường. Ngài lấy tay mình rờ vào tay Nhạc Mẫu Phi-e-rơ, thì bịnh rét của bà liền mất đi. Khi thấy mình khỏi bịnh rét rồi, Nhạc Mẫu của Phi-e-rơ liền đứng dậy hầu việc Chúa.
Câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành bịnh rét cho Nhạc Mẫu của Phi-e-rơ được Kinh Thánh ghi lại ở đây, cho chúng ta thấy rõ ràng rằng, Sứ Đồ Phi-e-rơ là người đã lập gia đình, bằng chứng là ông có bà gia (tức mẹ vợ, hay còn gọi là Nhạc Mẫu). Hơn nữa, hôn nhân là do chính Đức Chúa Trời thiết lập như đã được ghi lại trong Sách Sáng Thế Ký, chương 2, từ câu 18 đến 25. Vậy mà có Giáo Hội dám “vượt qua lời đã chép” cấm hàng Giáo Phẩm của họ không được lấy vợ mới lạ chứ?
Đi xa Kinh Thánh hơn nữa, Giáo Hội đó còn tin rằng, Phi-e-rơ là không sai lầm, nên đưa ra quan niệm rằng người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội đó là vô ngộ (tức không sai lầm). Trong khi đó, Kinh Thánh ghi lại việc làm sai lầm trầm trọng của Phi-e-rơ như sau: “Từ đó, Đức Chúa Giê-su mới tỏ cho môn đồ biết rằng mình phải đi đến thành Giê-ru-sa-lem, phải chịu tại đó nhiều sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại. Phi-e-rơ bèn đem Ngài riêng ra, mà can rằng: Hỡi Chúa, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu! Nhưng Ngài xây mặt lại mà phán cùng Phi-e-rơ rằng: Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 21-23).
Với việc can ngăn Chúa Giê-su lên thập tự giá, Phi-e-rơ tưởng làm như thế là thể hiện mình thương Chúa, yêu Chúa, không bao giờ muốn Chúa đi đến chỗ chết. Nhưng Chúa Giê-su đã quở trách ông rất nặng.
Một chỗ khác, Kinh Thánh cũng có ghi lại một việc làm không đúng khác của Phi-e-rơ: “Nhưng khi Sê-pha (tức là Phi-e-rơ) đến thành An-ti-ốt, tôi có ngăn can trước mặt người, vì là đáng trách lắm. Bởi trước lúc mấy kẻ của Gia-cơ sai đi chưa đến, thì người ăn chung với người ngoại; vừa khi họ đã đến thì người lui đứng riêng ra, bởi sợ những kẻ chịu phép cắt bì. Các người Giu-đa khác cũng dùng một cách giả dối như vậy, đến nỗi chính Ba-na-ba cũng bị sự giả hình của họ dẫn dụ. Nhưng khi tôi thấy họ không đi ngay thẳng theo lẽ thật của Tin Lành, thì nói với Sê-pha trước mặt mọi người rằng: nếu anh là người Giu-đa, mà ăn ở theo cách dân ngoại, không theo cách người Giu-đa, thì làm sao anh ép dân ngoại phải theo thói Giu-đa?” (Sách Ga-la-ti, chương 2, câu 11-14).
Rõ ràng, Sứ Đồ Phi-e-rơ không phải là người vô ngộ như nhiều người đã quan niệm một cách sai lầm, với mục đích để biện minh cho quan điểm muốn tôn sùng người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội đó là không sai lầm. Thật là một quan điểm không thể chấp nhận được.
Là người tin Chúa, xin Đức Thánh Linh giúp cho chúng ta nhận biết được lẽ thật nầy: Chỉ có một mình Đức Chúa Trời Ba Ngôi là Đấng vô ngộ (tức không sai lầm) mà thôi. Còn tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Chúa và đầy dẫy những sai lầm, thiếu sót, cần được Chúa thương xót và ban ơn.
Nhân Ngày Lễ Mẹ năm nay, cầu xin Đức Chúa Trời ban cho tất cả những người Mẹ: Thân Mẫu (Người sinh ra mình), Nhạc Mẫu (Người sinh ra vợ mình), Quân Mẫu (Người sinh ra chồng mình), Tức Phụ (Con dâu, người sinh ra cháu mình), và cả những người chuẩn bị làm Mẹ một ngày Lễ Mẹ thật nhiều niềm vui và bình an từ Thiên Chúa ban cho.
California, Mừng Ngày Lễ Mẹ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
1 facebook.com/vuihocchuhan
Bài 368
Chuyện... Quỳ Lạy
Kinh Thánh: Thi-thiên 95: 3-8; Công Vụ Các Sứ Đồ 14: 11-18
Quỳ lạy là một hành động thường thấy nơi con người và chỉ thấy nơi con người. Hành động đó bày tỏ sự tôn thờ một vị thần nào đó mà một người đang tôn thờ.
Quỳ lạy là một hành động của sự thờ phượng, và sự thờ phượng là một việc làm chỉ có nơi con người, còn các loài vật khác không hề có hành động nầy. Cho nên, ta có thể nói sự thờ phượng là điều mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong sâu thẳm tâm hồn con người, khi Ngài sáng tạo nên họ.
Gần đây, trên mạng xã hội, thấy lan truyền hình ảnh một người khoác áo thầy tu đi khất thực từ Nam ra Bắc ở nước ta. Người nầy còn trẻ tuổi, nhưng thu hút được sự chú ý của khá nhiều người. Người nầy đi đến đâu, thì có nhiều người ra đón, cho thức ăn, nước uống (từ ngữ nhà Phật gọi là” cúng dường”). Cũng có nhiều người khác, ở nhiều độ tuổi khác nhau, già có trẻ có, nam có nữ có, với lòng ngưỡng mộ người nầy, đã chào đón và sấp mình trước mặt rồi lạy nhiều lạy một cách hết sức thành kính, xem như đây là một vị thánh sống mà họ gặp được ở giữa thời... mạt pháp nầy vậy.
Từ câu chuyện nầy, tôi nhớ đến câu chuyện được ghi trong Kinh Thánh.
Kinh Thánh có ghi lại câu chuyện khi hai Sứ Đồ Phao-lô và Ba-na-ba chữa lành người què chân từ lúc sinh ra tại thành Lít-trơ, thì dân chúng ngạc nhiên kêu lên: “Các thần đã lấy hình loài người mà xuống cùng chúng ta. Chúng bèn xưng Ba-na-ba là thần Giu-bi-tê, còn Phao-lô là thần Mẹt-cu-rơ, vì là người đứng đầu giảng đạo. Thầy cả của thần Giu-bi-tê có miếu nơi cửa thành, đem bò đực và tràng hoa đến trước cửa, muốn đồng lòng với đoàn dân dâng một tế lễ. Nhưng hai sứ đồ là Ba-na-ba và Phao-lô hay điều đó, bèn xé áo mình, sấn vào giữa đám đông, mà kêu lên rằng: Hỡi các bạn, sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người giống như các ngươi; chúng ta giảng Tin Lành cho các ngươi, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó. Trong các đời trước đây, Ngài để cho mọi dân theo đường riêng mình, dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng. Tuy sứ đồ nói như vậy, chỉ vừa đủ ngăn trở dân chúng dâng cho mình một tế lễ” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 14, câu 11-18).
Dân chúng thành Lít-trơ thấy hai Sứ Đồ làm phép lạ chữa lành cho người què bẩm sinh đi được, họ tưởng hai Sứ Đồ là thần từ trên xuống, và họ đặt tên cho Ba-na-ba là thần Giu-bi-tê, còn Phao-lô là thần Mẹt-cu-rơ. Không dừng lại ở đó, họ còn đem bò đực và hoa đến để dâng một của tế lễ cho... hai thần.
Hai Sứ Đồ hay biết điều đó, liền ngăn, không cho họ làm, vì hai Sứ Đồ cũng chỉ là người như họ mà thôi.
Đây là việc làm rất phải của hai Sứ Đồ Phao-lô và Ba-na-ba.
Dầu Chúa cho hai Sứ Đồ làm được nhiều phép lạ, chữa lành bệnh tật cho dân chúng, thậm chí còn kêu được kẻ chết sống lại nữa; nhưng hai Sứ Đồ vẫn không quên mình chỉ là tôi tớ của Chúa, cũng chỉ là con người như bao người khác, chứ không phải là thần thánh gì đâu.
Còn nhớ câu chuyện về Vua Phi-líp của xứ Ma-xê-đoan ngày xưa:
“Vào thế kỉ thứ IV trước Công Nguyên, tại Vương Quốc Ma-xê-đoan (thuộc Hi Lạp hiện nay) có một vị vua hùng mạnh, đã đánh đông dẹp bắc, uy danh lừng lẫy. Đó là quốc vương Philíp.
Mặc dầu ngai vàng vững chắc, thần dân quy phục, nhưng ông vua này vẫn luôn luôn nghĩ rằng ở cương vị chúa tể của mình, mình dễ tự phụ mà mắc những sai lầm đáng tiếc, nên ông đã ra lệnh cho một người hầu cận là mỗi buổi sáng, khi ông thức dậy thì đến trước long sàng dõng dạc nhắc một câu:
– Hỡi Vua Phi-líp, Nhà Vua cũng chỉ là người!” *
Đó là một lời nhắc nhở đúng và hay để vua không quên vị trí của mình, dù là vua cai trị, có nhiều quyền hành trong tay, nhưng cũng chỉ là người mà thôi.
Không một con người nào trên trần gian nầy xứng đáng để chúng ta cúi xuống mà thờ lạy cả, vì tất cả đều là tội nhân đáng chết trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối.
Kinh Thánh không dạy chúng ta thờ lạy con người, vì là loài thọ tạo. Kinh Thánh dạy chúng ta phải thờ lạy Đức Chúa Trời vì Ngài là Đấng Tạo Hóa.
Lời Kinh Thánh chép: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời rất lớn, Là Vua cao cả trên hết các thần. Các vực sâu của đất đều ở nơi tay Ngài; Những đỉnh núi cũng thuộc về Ngài. Biển thuộc về Ngài, vì chính Ngài đã làm nó; Còn đất khô, tay Ngài cũng đã nắn nên nó. Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy; Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo hóa chúng tôi! Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi: Chúng tôi là dân của đồng cỏ Ngài, Và là chiên tay Ngài dìu dắt” (Sách Thi-thiên, chương 95, câu 3-7).
Khi chưa biết Chúa, thì chúng ta thường hay thờ lạy theo kiểu “xưa bày nay bắt chước”, hoặc thờ lạy theo đám đông; nhưng một khi chúng ta biết đến Đức Chúa Trời và đem lòng tin nhận Ngài, thì chúng ta đã tin đúng Đấng đáng tin và thờ lạy đúng Đấng đáng thờ lạy vậy.
Cho dù bạn đang theo tôn giáo nào và đang thờ lạy ai đi nữa, thì có một điều chắc chắn là khi gặp gian nguy, khổ nạn, hoặc khi đối diện với sự chết, bạn cũng phải kêu đến Ông Trời mà thôi. “Trời ơi, cứu tôi!”, hay “Chỉ có Trời cứu!” là những câu nói mà người ta thường hay nói mỗi khi đến đường cùng vậy!
Bạn có đồng ý không?
Nếu bạn đồng ý như thế, thì bạn đã hiểu rằng, Ông Trời là Đấng duy nhất đáng tôn thờ, đáng thờ lạy cho con người của chúng ta, chứ không có Đấng nào khác, hay con người nào khác.
Mọi Giáo chủ, hay Triết gia của đời cũng đều chỉ là người, không phải là Ông Trời. Còn Chúa Giê-su chính là Ông Trời trong thân xác con người. Ngài vừa là Trời vừa là Người, gọi là Đấng Thần Nhân. Chúa Giê-su là Đấng đáng tôn thờ, đáng thờ lạy cho con người chúng ta.
Chữ Nho có câu: "Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo giả" nghĩa là mắc tội với Ông Trời, thì không thể nào cầu khẩn nơi nào được. Có tội với Đức Chúa Trời, con người không thể tìm được lối giải thoát ở bất cứ nơi đâu khác được cả.
Cách duy nhất để được giải thoát, để được tha thứ tội lỗi, chính là trở về với Đức Chúa Trời, thờ lạy và hầu việc Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi.
Ông cha ta xưa rất đúng khi nói:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.
Vâng! Không lạy ai khác, ngoài lạy Ông Trời, vì chỉ Ông Trời mới ban nắng, làm mưa cho con người. Kinh Thánh khẳng định: Đức Chúa Trời “khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác” (Sách Ma-thi-ơ, chương 5, câu 45).
Không hiểu tại sao nhiều người lại dễ dàng quỳ mọp một cách thành kính để lạy một vật, hay một con người nào đó đến thế? Trong khi đó, Ông Trời ban nắng, làm mưa, ban cho không khí để mình hưởng một cách miễn phí trọn cả đời, thì lại không chịu cúi xuống để thờ lạy. Khi mình là tội nhân, Đức Chúa Trời đã ban Chúa Giê-su xuống thế gian để chịu chết thay tội cho mình và sống lại, sống mãi mãi để ban sự sống đời đời cho mình thì mình lại không chịu quỳ xuống để thờ lạy Ngài???
Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho tôi nhận biết mình là tội nhân trước mặt Ngài, và tôi đã quay trở lại thờ phượng Ngài cách đây mấy chục năm rồi. Được Chúa tha thứ tội lỗi, được Ngài nhận làm con và được ở trong nhà của Ngài thật là một phước hạnh vô cùng lớn lao, không còn phước hạnh nào lớn hơn thế!
Vua Đa-vít đã cho biết: “Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình, được khỏa lấp tội lỗi mình! Phước thay cho người nào Đức Giê-hô-va không kể gian ác ch, và trong lòng không có sự giả dối!” (Sách Thi-thiên, chương 32, câu 1, 2).
Nguyện xin Đức Chúa Trời mở mắt lòng nhiều người Việt Nam thân yêu để họ sớm nhận biết Ngài là Chân Thần duy nhất, đặng quay về thờ lạy Ngài như đáng phải thờ lạy! Amen!
California, Tháng 5/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
*100-mau-chuyen-co-dong-tay
Bài 369
Chuyện... Thầy Tu Và... Cái Áo
(Viết nhân hiện tượng Thầy Tu Phật Giáo Thích Minh Tuệ ở Việt Nam đang làm dậy sóng cộng đồng mạng xã hội hiện nay)
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 7: 21; Công Vụ Các Sứ Đồ 16: 31; Rô-ma 2: 28, 29; Gia cơ 2: 1-9
Những ngày vừa qua, tại Việt Nam, rộ lên một hiện tượng làm... nóng cả mạng xã hội, thu hút được rất nhiều người quan tâm, theo dõi.
Hiện tượng ấy là có một người đàn ông, tên là Lê Anh Tú, sinh năm 1981, tại Huyện Kỳ Anh, Tỉnh Hà Tĩnh, được người ta gọi là thầy Thích Minh Tuệ, mặc áo thầy tu kiểu mới (đủ màu, chứ không phải chỉ màu vàng, hay màu đà như chúng ta thường thấy trong truyền thống của các thầy tu trong Phật Giáo), để đầu trần, đi chân đất, ôm bình bát bằng nồi cơm điện, khất thực từ Nam ra Bắc để tu hành theo những lời Phật Thích ca dạy, mong tìm được sự... giải thoát cho mình.
Nếu xem trên mạng xã hội, bạn sẽ dễ dàng thấy có khá nhiều người cùng đi theo người thầy tu nầy.
Thầy Minh Tuệ đi đến đâu thì có người ra đón chào thầy và cho thức ăn, nước uống đến đó (ngôn ngữ nhà Phật gọi là “cúng dường”). Thầy cho biết chỉ ăn một bữa trong ngày, và không nhận tiền của ai. Rất nhiều người cảm mến thầy, tôn trọng thầy, và đặc biệt có nhiều người già có, trẻ có, nam có, nữ có, sang trọng có, nghèo hèn có còn... tôn thờ thầy nữa. Họ đến trước mặt thầy quỳ mọp người xuống đất thành kính vái lạy thầy ba, bốn lạy, như là vái lạy một vị... thánh sống vậy. Có người còn... tạc tượng thầy bằng đất, rồi có người còn tạo tượng thầy một cách trang trọng trên đầu tóc của mình nữa.
Ngược lại với sự cảm mến, tôn trọng, tôn thờ thầy như... Phật sống giữa thời buổi nhiễu nhương nầy, thì cũng có không ít người (trong đó có nhiều thầy tu ở các chùa Phật Giáo) lại lên tiếng chế giễu, chê bai, nhục mạ, thậm chí có những lời lẽ chống đối ra mặt những hành động tu hành của thầy.
Nghe đâu, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cũng vừa ra văn thư chính thức lên tiếng không công nhận thầy là tu sĩ Phật Giáo. Sao lạ vậy nhỉ???
Tại sao có nhiều người cảm mến, tôn trọng, thậm chí tôn thờ thầy như... Phật sống? Có lẽ người ta thấy thầy... hiền lành, có tấm lòng chân thành, không tham lam tiền bạc, của cải (thầy không nhận tiền cúng dường), không sân si?
Thầy Minh Tuệ thường khẳng định với mọi người mến mộ mình là thầy không phải sư, cũng không thuộc môn phái nào, không thuộc chùa nào cả. Thầy tự nguyện đi khất thực để tu luyện theo lời Phật Thích Ca dạy, mong tìm được... sự giải thoát cho bản thân mình mà thôi.
Từ câu chuyện của người thầy tu nầy, xin có vài suy nghĩ tản mạn về... thầy tu và chiếc áo.
Có câu nói rất hay rằng: “Một chiếc áo không làm nên thầy tu.”
Thầy Minh Tuệ đi tu mà không có một chiếc áo tu giống như nhiều thầy tu truyền thống khác đã có; nhưng thầy lại được nhiều Phật tử cũng như nhiều người khác ngưỡng mộ, tôn trọng, thậm chí thờ lạy nữa.
Thật đúng là, “một chiếc áo không làm nên thầy tu”; nhưng chính việc thực hành sự tu luyện mới làm nên một... thầy tu thực sự. Người ta không ngưỡng mộ thầy khi nhìn thấy chiếc áo tu của thầy; nhưng ngưỡng mộ thầy vì cách tu của thầy là làm theo lời Phật dạy.
Dầu “một chiếc áo không làm nên thầy tu” là đúng; nhưng mặt khác, người ta cũng nói, “đã là thầy tu thì phải có cái áo”. Vâng, thầy Minh Tuệ cũng có một... chiếc áo thầy tu rất đặc trưng theo cách của thầy.
Vì thầy Minh Tuệ tu theo phái “khổ hạnh đầu đà” (nghĩa là tu khổ hạnh để tôi luyện thân tâm), nên trên hành trình đi bộ, thầy thường tự nhặt các tấm vải vứt ở bên đường hoặc trong thùng rác rồi may lại làm quần áo mặc, ai đó cố tình vứt cho, thầy sẽ không nhận. Chính vì vậy mà chiếc áo tu của thầy có nhiều màu khác nhau, rất lạ, chứ không phải một màu vàng hay đà như áo của các các thầy tu truyền thống mà ta thường thấy.
Thế thường, con người chúng ta hay có tâm lý đánh giá một con người dựa vào vẻ bề ngoài như áo quần, giày dép, xe cộ, theo kiểu “trông mặt mà bắt hình dong”. Đó là cách đánh giá không chính xác, nếu không muốn nói là... sai trật. Chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều người ăn mặc rất bình dân, nhưng lại có một tâm hồn cao thượng đáng nể. Ngược lại, có những người ăn mặc rất bảnh bao, sang trọng, nhưng lại có một nhân cách rất thấp hèn. Chính vì thế nên người ta mới nói “Chiếc áo không làm nên thầy tu” là vậy.
Kinh Thánh có đề cập đến cách đánh giá sai lầm của con người chúng ta khi nhìn vào vẻ bề ngoài: “Hỡi anh em, anh em đã tin đến Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa vinh hiển chúng ta, thì chớ có tây vị người nào. Giả sử có người đeo nhẫn vàng, mặc áo đẹp, vào nơi hội anh em, lại có người nghèo, quần áo rách rưới, cũng vào nữa; nếu anh em ngó kẻ mặc áo đẹp, mà nói rằng: Mời ngồi đây, là chỗ tử tế; lại nói với người nghèo rằng: Hãy đứng đó, hoặc ngồi dưới bệ chân ta, thế có phải anh em tự mình phân biệt ra và lấy ý xấu mà xét đoán không? Hỡi anh em rất yêu dấu, hãy nghe nầy: Đức Chúa Trời há chẳng lựa kẻ nghèo theo đời nầy đặng làm cho trở nên giàu trong đức tin, và kế tự nước Ngài đã hứa cho kẻ kính mến Ngài hay sao? Mà anh em lại khinh dể kẻ nghèo! Há chẳng phải kẻ giàu đã hà hiếp anh em, kéo anh em đến trước tòa án sao? Há chẳng phải họ phạm thượng đến danh tốt đã lấy đặt cho anh em sao? Thật vậy, nếu anh em vâng giữ cho trọn vẹn luật pháp tôn trọng, theo như Kinh Thánh rằng: Hãy yêu người lân cận như mình, thì anh em ăn ở tốt lắm. Nhưng nếu anh em tây vị người ta, thì phạm tội, luật pháp bèn định tội anh em như kẻ phạm phép” (Sách Gia-cơ, chương 2, câu 1 đến 9).
Tâm lý thông thường của con người là chúng ta hay trọng những người giàu sang, ăn mặc đẹp đẽ, dành cho họ chỗ ngồi vinh dự; và xem thường những người nghèo khổ, ăn mặc rách rưới, dành cho họ chỗ ngồi thấp kém hơn. Tự chúng ta cố tình phân biệt và thiên vị, phân cấp thứ hạng giàu nghèo, sang hèn. Kinh Thánh cho biết khi làm như thế là chúng ta đã mắc tội với Chúa rồi.
Kinh Thánh cũng cho biết: “Vì người nào chỉ bề ngoài là người Giu-đa, còn phép cắt bì làm về xác thịt ở ngoài, thì không phải là phép cắt bì; nhưng bề trong là người Giu-đa mới là người Giu-đa, phép cắt bì bởi trong lòng, làm theo cách thiêng liêng, không theo chữ nghĩa mới là phép cắt bì thật” (Sách Rô-ma, chương 2, câu 28 và 29).
Bi kịch của người Do Thái, ấy là việc họ hãnh diện vào dấu hiệu cắt bì theo phần xác bên ngoài, thay vì phép cắt bì bên trong của tấm lòng. Một người Do Thái thật là người từng trải kinh nghiệm thuộc linh với Chúa trong lòng, chớ không chỉ là sự phẫu thuật của thân thể bên ngoài.
Chúa Giê-su cũng nói “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ nào làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi” (Sách Ma-thi-ơ, chương 7, câu 21).
Quả thật vậy, người theo Chúa, tin Chúa thật sự không dựa vào vẻ bề ngoài của họ với danh hiệu là Cơ-đốc nhân; nhưng dựa vào cách thực hành đức tin của người ấy với Chúa, dựa vào cách người ấy có vâng giữ, làm theo Lời Chúa dạy hay không?
Còn nhớ, Chúa Giê-su có lần đã từng phán: “Khi Đức Chúa Giê-su còn phán cùng dân chúng, thì mẹ và anh em Ngài đến đứng ngoài, muốn nói cùng Ngài. [Có người thưa cùng Ngài rằng: Đây nầy, mẹ và anh em thầy ở ngoài, muốn nói cùng thầy.] Ngài đáp rằng: Ai là mẹ ta, ai là anh em ta? Ngài giơ tay chỉ các môn đồ mình, mà phán rằng: Nầy là mẹ ta cùng anh em ta! Vì hễ ai làm theo ý muốn Cha ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em ta, cùng là mẹ ta vậy” (Sách Ma-thi-ơ, chương 12, câu 46 đến 50).
Người thực sự là anh em, chị em và là mẹ của Chúa không phải là mối liên hệ huyết thống về xác thịt, mà bèn là mối liên hệ về thuộc linh, qua việc làm theo ý muốn của Cha Ngài ở trên trời.
Chúa không đánh giá con người dựa vào hình thức, vóc dáng, diện mạo bên ngoài; nhưng Ngài nhìn thấy tận nơi sâu thẳm trong lòng con người chúng ta.
Lời Chúa phán: “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài; nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 16, câu 7).
Cách đây mấy năm, trong kỳ đại dịch Covid 19, đã từng có một hệ phái Tin Lành cũng công khai tuyên bố rằng Hội Thánh nọ không phải là Hội Thánh Tin Lành, trong khi những người đó cũng cùng niềm tin nơi Chúa Giê-su như mình.
Họ có thể nói Hội Thánh đó không thuộc hệ phái của họ thì đúng; chứ làm sao họ lại dám tuyên bố Hội Thánh đó không phải là Hội Thánh Tin Lành, không phải là Hội Thánh của Chúa?
Thật đáng buồn cho một lời tuyên bố sai trật như thế!
Lại nói về chuyện người thầy tu tên Thích Minh Tuệ,
Phải công nhận, Thích Minh Tuệ là người có tấm lòng với Phật Thích Ca-một Giáo Chủ mà thầy ngưỡng mộ, muốn rời bỏ sự ham muốn tiền bạc, giàu sang ở đời để đi khất thực suốt đời, tu luyện theo lời Phật dạy, hầu mong “giải thoát” bản thân khỏi mọi sự tham, sân, si.
Không biết rồi đường tu của thầy tới đâu và sẽ được bao lâu? Cho đến chừng nào thầy mới được... giải thoát để thân tâm được an lạc như lòng mong ước của thầy cũng như của nhiều tín đồ Phật Giáo ao ước???
Thánh Kinh cho chúng ta biết: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá; và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi” (Sách Ê-sai, chương 64, câu 6).
“Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Sách Rô-ma, chương 3, câu 23).
Hầu như tất cả các tôn giáo của thế gian nầy đều lấy việc tu hành, công đức để làm cho mình được trở nên công bình, xứng đáng, và rồi hy vọng sẽ được... giải thoát.
Người xưa có câu “Chung thân hành thiện thiện du bất túc, nhất nhật hành ác, ác tự hữu dư” (Nghĩa là cả đời làm lành, lành không đủ; một ngày làm ác, ác dư thừa)
Tin Lành của Đức Chúa Trời là Đạo của Đức Tin, Đạo của Ân Điển, chứ không phải là Đạo của tu hành, công đức.
Đức Chúa Trời là Đấng Thánh Khiết, công bình, còn loài người là tội nhân đáng chết trước mặt Ngài, con người với bản chất yếu đuối, xấu xa, làm sao có khả năng làm lành đủ để được Đức Chúa Trời chấp nhận? Vả lại, mọi việc làm lành, tu thân, hành xác của con người trước mặt Đức Chúa Trời chỉ như một chiếc áo nhớp không hơn, không kém.
Đức Chúa Trời biết con người bất lực hoàn toàn trong sự tự giải thoát chính mình khỏi tội lỗi, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giê-su xuống thế làm người để chịu chết đền tội cho chúng ta hai ngàn năm qua. Ngài đã bị chôn trong mồ mả ba ngày, sau đó sống lại và sống đời đời, để ban sự cứu rỗi cho những ai tin nhận Ngài.
Chúa Giê-su là giải pháp duy nhất cho vấn đề tội lỗi của con người. Không có con đường nào khác để được cứu rỗi, để được giải thoát, ngoài Chúa Cứu Thế Giê-su!
Kinh Thánh khẳng định: “Hãy tin Đức Chúa Giê-su thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Sách Công Vụ, chương 16, câu 31).
Kinh Thánh không dạy “tu” để được cứu mà dạy tin Chúa Giê-su thì sẽ được cứu rỗi!
Ước chi có ai đó tặng cho thầy Thích Minh Tuệ một quyển Kinh Thánh Tân Ước, hoặc thầy có dịp được đọc Kinh Thánh để nhận biết Chúa Giê-su là con đường giải thoát duy nhất; hầu đem lòng tin trọn vẹn nhận lấy Ngài, thì thầy sẽ được Ngài tha thứ tội lỗi, được làm con cái của Ngài, và cuộc đời của thầy sẽ bình an, phước hạnh biết bao!
Cầu xin Đức Chúa Trời ban ơn giải cứu cho nhiều người Việt Nam thân yêu, hầu danh Chúa Giê-su được tôn cao trên khắp quê hương Việt Nam!
California, Tháng 5/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 370
Chuyện... Đi
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 9: 35, 36; 28: 18-20; Mác 16: 15, 16
Những ngày vừa qua, tại Việt Nam, có một người được gọi là thầy Thích Minh Tuệ khoác áo cà sa... kiểu mới (áo đủ màu sắc), ôm bình bát... kiểu mới (cái lõi nồi cơm điện), đi chân trần dọc suốt chiều dài đất nước, xin ăn mỗi ngày một bữa, để tu trì theo những lời Phật Thích Ca đã dạy, hầu tìm con đường giải thoát.
THẦY THÍCH MINH TUỆ ĐI BỘ ĐỂ TỰ TU TẬP HẦU MONG GIẢI THOÁT CHÍNH MÌNH.
Thầy Thích Minh Tuệ bỏ nhà đi bộ xin ăn để tu trì (Phật Thích Ca ngày xưa cũng bỏ nhà, ra đi tìm kiếm chân lý như thế) mong một ngày nào đó mình có thể biến được thành... tiên, thành... Phật đã thu hút được số lượng lớn người quan tâm, ngưỡng mộ với lòng thành kính, thậm chí có người còn... tôn thờ như một... Phật sống nữa. Không ai biết, ngay cả chính thầy cũng không thể biết được khi nào thì việc đi bộ tu tập một cách khổ hạnh như thế sẽ đạt thành... chánh quả (ngôn ngữ của Phật Giáo), tức thành... Phật. Thầy cứ đi trong vô định và rồi thầy cứ hy vọng trong... vô minh (ngôn ngữ của Phật Giáo), vô định.
Cho đến nay, không biết có ai đã đi bộ suốt cả cõi đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc và ngược lại như người thầy tu nầy hay không; nhưng đi bộ bằng chân không suốt dọc dài đất nước như thế, thì tôi đoán chừng chỉ có mình thầy? Nhìn đôi bàn chân đen sì, chai cứng mà nể cho sự chịu đựng khó khăn, gian khổ của thầy để đi tu. Không dễ gì để một người dám bỏ tất cả mọi sự để đi bộ tu tập được như thầy Thích Minh Tuệ đâu. Nhìn những người đã gọi là đi tu rồi mà còn ăn mặc sang trọng, đi xe sang trọng, đeo đồng hồ sang trọng, tu ở chùa sang trọng, và ở nhà sang trọng là chúng ta có thể biết đi bộ để tự tu như thầy Thích Minh Tuệ là điều không phải ai cũng làm được đâu. Người ta so sánh những thầy tu... sang trọng với thầy tu... thấp hèn Minh Tuệ là có thể nhận biết được đâu là... chân tu, đâu... không phải là chân tu rồi.
CHÚA GIÊ-SU ĐI BỘ ĐỂ RAO GIẢNG TIN LÀNH CỦA NƯỚC ĐỨC CHÚA TRỜI CHO LOÀI NGƯỜI.
Nhân nói về chuyện thầy Thích Minh Tuệ đi bộ để tu tập hầu tìm được giải thoát cho chính bản thân mình, tôi nhớ Kinh Thánh có ghi lại việc đi bộ của Chúa Giê-su ngày xưa, khi Ngài còn tại thế như sau:
“Đức Chúa Giê-su đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng Tin Lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật bịnh. Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn” (Sách Ma-thi-ơ, chương 9, câu 35, 36).
Ngày xưa, Chúa Giê-su cũng đi bộ khắp các thành thị, các làng quê của nước Do-thái, không phải để khất thực, tu tập gì đâu, mà là để dạy dỗ Lời Đức Chúa Trời trong các Nhà Hội người Do-thái, rồi giảng Tin Lành của nước Đức Chúa Trời cho mọi người nghe, cùng chữa lành các thứ tật bịnh cho dân chúng.
Kinh Thánh cho biết mục đích của Chúa Giê-su khi đến thế gian là “Bởi Con Người (tức Chúa Giê-su) đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Sách Lu-ca, chương 19, câu 10).
Thánh Phao-lô cũng khẳng định: “Đức Chúa Giê-su Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội; ấy là lời chắc chắn đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy” (Sách Ti-mô-thê thứ nhất, chương 1, câu 15).
Chúa Giê-su không đi tìm chân lý, không đi tìm con đường giải thoát cho mình và cho nhân loại như nhiều người đã và đang đi tìm; vì Ngài chính là Chân Lý và Ngài chính là Đấng Giải Thoát nhân loại ra khỏi tội lỗi, ra khỏi bàn tay độc ác của Sa-tan. Chúa Giê-su tuyên bố: “Ta là Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha (tức Đức Chúa Trời)” (Sách Giăng, chương 14, câu 6).
Chúa Giê-su không đi tìm ánh sáng để được sống trong sự sáng, vì Ngài chính là Sự Sáng rồi. Chúa đã từng phán: “Ta là sự sáng của thế gian, người nào theo Ta, sẽ không đi trong nơi tối tăm; nhưng có ánh sáng của sự sống” (Sách Giăng, chương 8, câu 12).
Chúa Giê-su đến thế gian nầy với mục đích là để tìm và cứu chúng ta là những tội nhân. Ngài đến để cất tội lỗi của thế gian đi như lời Kinh Thánh chép: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời (tức Chúa Giê-su) là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Sách Giăng, chương 1, câu 29).
Tiên Tri Ê-sai cũng rao ra Lời của Đức Chúa Trời phán với loài người rằng:
“Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem Ta và được cứu! Vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác” (Sách Ê-sai, chương 45, câu 22).
Nhiều người xưa cũng như nay đã và đang đi tìm con đường giải thoát cho chính bản thân mình. Họ cứ tưởng tìm đến với Giáo Chủ nầy, Giáo Chủ nọ của thế gian nầy và tu tập, làm theo lời họ nói, thì sẽ được giải thoát, nếu kiếp nầy chưa... giải thoát được thì... kiếp sau và... kiếp sau nữa, sau nữa thế nào rồi cũng sẽ được (theo sự dạy dỗ của Phật Giáo).
Trong khi đó, Chúa Giê-su đã đến thế gian nầy để ban cho nhân loại một phương cứu rỗi duy nhất; ấy là hãy đến với Ngài, hãy tin nhận Ngài thì sẽ được sự cứu rỗi, thì nhiều người lại không tin và không tiếp nhận. Tại sao vậy??? Câu trả lời từ Kinh Thánh rất rõ ràng: “Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ hư mất, cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì, chương 4, câu 3, 4).
Sở dĩ có nhiều người còn đang tự đi tìm sự giải thoát cho bản thân mình là vì chúa đời nầy (tức là Sa-tan, là ma quỷ) đã làm mù lòng họ, nên họ không trông thấy được sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ.
Xin Chúa soi sáng cho thầy Thích Minh Tuệ cũng như nhiều người còn đang đi tìm con đường giải thoát cho mình sớm nhận biết được Chúa Giê-su chính là Con Đường giải thoát duy nhất cho loài người, để đem lòng tin trọn vẹn nhận lấy Ngài, thì sẽ nhận được sự cứu rỗi, nhận được một đời sống bình an, thỏa nguyện. Một khi có Chúa Giê-su trong cuộc đời rồi, chắc chắn chúng ta sẽ không còn mong ước đi tìm sự giải thoát nào khác nữa cả.
Kinh Thánh dạy:“Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và những người nào không có tiền bạc, hãy đến mua mà ăn! Hãy đến mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá. Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no? Hãy chăm chỉ nghe Ta, hãy ăn của ngon, và cho linh hồn các ngươi vui thích trong của béo. Hãy nghiêng tai và đến cùng Ta; hãy nghe Ta thì linh hồn các ngươi được sống!” (Sách Ê-sai, chương 55, câu 1 đến 3).
Chúa Giê-su chính là Nguồn Nước Sống (suối nước), Nguồn Vui Mừng (rượu), và Lời Kinh Thánh (sữa) là Nguồn Dinh Dưỡng miễn phí cho linh hồn con người chúng ta.
Khi chưa nhận biết Chúa Giê-su thì con người sẽ phải mất công sức, tiền bạc để đi tìm những thứ tưởng là bánh mà thực ra không phải là bánh; tu thân, ép xác để đổi lấy vật tưởng sẽ làm cho linh hồn mình no đủ, nhưng những thứ đó chỉ có thể làm cho mình no một cách giả tạo mà thôi, để rồi đói vẫn hoàn đói.
Làm sao để đời sống mình có được Bánh Hằng Sống? Làm sao để linh hồn mình được no đủ? Không có bất cứ phương cách nào khác ngoài việc đến với Chúa Giê-su, tin nhận Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, như Kinh Thánh đã xác quyết: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác (ngoài Chúa Cứu Thế Giê-su), vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác (ngoài Chúa Cứu Thế Giê-su) ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 4, câu 12).
Cầu xin Chúa soi sáng con mắt lòng của nhiều người dân Việt Nam thân yêu để họ sớm nhận biết Ngài, hầu linh hồn họ được no đủ, không còn phải khổ sở đi tìm sự giải thoát trong vô vọng nữa.
NHIỀU TÔI, CON CHÚA NGÀY HÔM NAY KHÔNG CHỊU RA ĐI ĐỂ RAO GIẢNG TIN LÀNH, CỨU NGƯỜI.
Có một điều mà nhiều người tin Chúa ngày hôm nay... thua xa thầy Thích Minh Tuệ, đó là sự ra đi, sự chấp nhận gian khổ.
Là người tin Chúa, không ai là không biết và không nhớ mạng lịnh của Chúa Giê-su để lại cho người tin Ngài trước khi về trời như sau:
“Đức Chúa Giê-su đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Sách Ma-thi-ơ, chương 28, câu 18 đến 20).
Một chỗ khác, Chúa Giê-su cũng phán: “Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp-têm, sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin, sẽ bị đoán phạt” (Sách Mác, chương 16, câu 15, 16).
Những câu Kinh Thánh trên đều dạy cho người tin Ngài là phải ra đi nói về Chúa Giê-su cho người khác, hãy ra đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Lành cho mọi người; nhưng có thể nói ngày hôm nay, rất nhiều những người tin Chúa, rất nhiều những Nhà Thờ chỉ muốn rao giảng Tin Lành tại Nhà Thờ hơn là muốn đi ra nói về Chúa cho người khác để dắt đưa họ về cho Ngài. Có thể nói số người tin Chúa chịu dành thì giờ hằng tuần ra đi các thành, các làng để rao báo Tin Lành cho người khác rất là ít ỏi. Đó là một thực trạng đáng buồn cho Hội Thánh của Chúa chung ở khắp mọi nơi.
Chúng ta không thể nào ngồi ở Nhà Thờ... chờ người chưa tin đến với chúng ta để nghe chúng ta rao giảng về Chúa Giê-su được. Điều đó là sai trật với Đại Mạng Lịnh của Chúa đã để lại. Chúa dạy “hãy đi”, chứ Chúa không dạy “hãy ngồi chờ”.
Thiết nghĩ, nếu mỗi một tôi, con Chúa đều quyết tâm dành thì giờ hằng tuần ra đi các nơi để rao giảng Tin Lành thì chắc chắn Chúa sẽ làm những việc lớn và khó cho chúng ta; ấy là Ngài sẽ đem thêm những linh hồn hư mất vào trong nhà của Ngài.
Mạng lịnh của Chúa vẫn còn đó, quyền năng của Ngài “hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 13, câu 8). Vấn đề còn lại là mỗi tôi, con Ngài có quyết định dành thì giờ để ra đi rao giảng Tin Lành hay không mà thôi. Đừng ngồi chờ người chưa tin đến với Nhà Thờ để nghe mình rao giảng Tin Lành, hãy ra đi đến với những người đang lạc mất và đang tự đi tìm sự giải thoát cho riêng mình trong vô vọng, dẫn họ về cho Chúa Giê-su.
Cả đoàn đông người đang bắt chước thầy Thích Minh Tuệ ra đi theo thầy cũng chỉ để mong tìm con đường giải thoát cho bản thân mình, vì có thể họ chưa nghe biết về Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giê-su chăng? Nếu có nhiều người tin Chúa chịu ra đi từ nhà nầy sang nhà khác, từ làng nầy sang làng kia, từ chợ nầy sang chợ nọ, rao giảng Tin Lành như Chúa Giê-su đã ra đi, như các Sứ Đồ ngày xưa đã ra đi, thì có lẽ sẽ bớt đi nhiều người ra đi trong vô vọng, đi mà không biết mình đi đâu, như chúng ta đang thấy.
Một con cá được tạo nên để bơi. Một con chim được tạo nên để bay. Chúng ta là những Cơ-đốc nhân được cứu để chinh phục các linh hồn tội nhân về cho Chúa Giê-su. Đó là lý do tại sao chúng ta sống động trên trần gian nầy.
Nguyện xin Đức Chúa Trời đốt cháy lòng chúng ta, làm cho lòng mỗi chúng ta nóng nảy như hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út ngày xưa sau khi họ nghe Chúa Giê-su cắt nghĩa Kinh Thánh, hầu ra đi khắp nơi rao giảng Tin Lành của Chúa Giê-su cho mọi người, để có thêm nhiều người được cứu vào trong nhà Ngài trước ngày Ngài trở lại trong một tương lai không xa. Amen!
California, Tháng 6/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 371
Ngày Lễ Cha, Nói Chuyện Về... Thân Phụ Và... Quân Phụ
(Kính tặng những người cha ở khắp mọi nơi!)
Kinh Thánh: Rô-ma 10: 15; I Phi-e-rơ 3: 15
Như chúng ta đã biết, Chúa Nhật thứ ba của Tháng Sáu hằng năm là Ngày Lễ Cha. Lễ Cha là một ngày dành để cho những người con bày tỏ lòng biết ơn người cha đã có công sinh thành dưỡng dục mình.
Với tôi, Lễ Cha là một ngày đáng yêu và đáng mong đợi trong năm.
Nhân Ngày Lễ Cha năm nay, xin được thưa chuyện với quý độc giả và thính giả về... Thân Phụ và... Quân Phụ.
Trước hết, xin được thưa chuyện về... Thân Phụ.
Thân Phụ là người cha đã... sinh ra mình. Người Việt mình thường nói câu “Cha sinh mẹ đẻ” là... có lý lắm vậy. Thực ra thì cha chẳng thể nào... sinh được như mẹ; nhưng sở dĩ người ta thường nói “cha sinh mẹ đẻ” là để cho ta biết rằng cả cha lẫn mẹ đều góp phần... hình thành nên ta. Một mình cha hay một mình mẹ đều không thể nào... làm nên ta được, phải là cả hai. Từ rất lâu nay, tôi chỉ nghe người ta nói là “Cha sinh mẹ đẻ”, chứ chưa nghe ai nói ngược lại là “Cha đẻ mẹ sinh”. Không biết vì sao???
Từ “Phụ” có nghĩa là Cha (nói đến người đàn ông); nhưng... phụ nữ thì lại là... đàn bà. Cũng không hiểu tại sao lại... ngược đời như thế không biết nữa?
Tình phu phụ thì có nghĩa là tình chồng vợ.
Ca Dao có câu: “Mình về tôi cũng về theo
Sum vầy phu phụ (chồng vợ), giàu nghèo có nhau."
Cũng có câu “Phu quý phụ vinh”, nghĩa là chồng được phú quý, sang trọng thì vợ cũng được vinh hiển, danh giá.
Thật thú vị khi có hai chữ “phụ” được dùng rất nhiều trong tiếng Việt, thì một chữ được dùng để chỉ về... người đàn ông, một chữ lại dùng để chỉ về... người đàn bà.
Người ta gọi anh ruột của cha là... bá phụ, em ruột của cha là... thúc phụ, (bá là anh, thúc là em). Cha dượng thì gọi là... kế phụ( tức là người chồng thứ hai của mẹ). Còn... phụ lão là để chỉ những người lớn tuổi.
Còn từ "phu phụ" nghĩa là chồng vợ, phu là chồng và phụ là vợ. Chữ "phụ" ở đây lại chỉ người đàn bà.
Chữ Nho có câu “Phu xướng phụ tùy” (nghĩa là chồng xướng vợ theo)
Ngôn ngữ tiếng Việt mình nghe cũng... rối rắm, chứ không phải dễ để... thông thạo cho hết được đâu!
Thân Phụ và Thân Mẫu thì người ta gọi là song thân, nghĩa là cả cha lẫn mẹ đều góp phần... hình thành nên ta như đã nói ở trên.
Thân Phụ của bạn có còn sống không? Thân Phụ tôi thì đã qua đời về trước “Miền Phước Hạnh” trên trời cách nay đã hơn hai mươi năm rồi. Mỗi lần đến Ngày Lễ Cha là lòng tôi trào dâng bao cảm xúc bồi hồi khó tả, khi nhớ về Người.
Thân Phụ tôi là một Mục Sư và là một Mục Sư lãnh đạo. Ông là một Mục Sư lãnh đạo mạnh mẽ, và có tính quyết đoán. Trong những tình huống khó khăn, nan giải, Thân Phụ tôi thường đưa ra được những quyết định dứt khoát và đúng đắn, làm thay đổi được tình thế một cách tốt đẹp.
Tính tình Thân Phụ tôi có những nét... đặc biệt mà tôi rất... ấn tượng. Người rất nhanh nhẹn, mau mắn trong công việc cũng như trong ăn uống. Thành ngữ “Chậm như rùa” có lẽ không hợp với tính cách của Thân Phụ tôi. Còn nhớ có lần, Thân Phụ tôi đi công việc với người con rể, đến trưa, khi về, ghé vào quán bún bên đường, hai cha con cùng ăn trưa. Vừa kêu hai tô bún ra, sau khi cầu nguyện xong, hai cha con vừa ăn vừa nói chuyện. Người con rể ăn mới được đâu nửa tô, thì Thân Phụ tôi đã ăn xong tự hồi nào rồi, ông uống nước, gọi tính tiền và... ngồi chờ anh con rể ăn cho xong để đi về. Là con trong nhà, nên chúng tôi hiểu được tính nhanh nhẹn của Thân phụ mình, nên mỗi khi vào quán ăn với Người, anh em chúng tôi đều lo... tích cực ăn để đi, chứ không để Thân phụ chờ. Thân Phụ tôi ít khi nào... cà kê dê ngỗng, dây cà dây muống. Việc gì Người cũng may mắn cả.
Những ngày đầu năm mới, Thân phụ tôi thường đi thăm tín đồ, những gia đình người ngoại ở gần những gia đình tín đồ cũng mong muốn Thân phụ tôi ghé thăm họ dịp đầu năm, có lẽ họ nghĩ rằng người có tính may mắn như Thân phụ tôi mà ghé thăm thì cả năm họ sẽ được... may mắn, ăn nên làm ra, mua mau bán đắt chăng???
Ngoài Thân phụ ra, tôi còn có một Quân phụ (tức cha chồng) nữa.
Quân Phụ tôi sở hữu một mái tóc bạc phơ đẹp tuyệt và một nụ cười thật nhân hậu. Nhớ đến Người, tôi nhớ đến mái tóc và nụ cười ấy biết bao!
Quân Phụ tôi sống thanh bạch, giản dị, thật thà, không cầu kỳ, se sua. Tôi thích tính cách ấy của Người, và tính cách ấy có lẽ cũng đã ảnh hưởng đến chồng tôi rất nhiều cho đến ngày hôm nay.
Nhớ đến Quân Phụ tôi, tôi nhớ nhất là đức tin nơi Chúa của Người.
Cha chồng tôi tin Chúa một cách chân tình, và hết mình, không chút màu mè, kiểu cách. Có thể nói, đối với Quân Phụ tôi, không có gì quý báu, quan trọng với Người bằng Chúa cả. Chúa là trước hết và trên hết.
Dù cuộc sống còn nghèo khó, nhưng Quân Phụ tôi quyết định chỉ làm việc để lo cho cuộc sống bốn đến năm ngày một tuần thôi. Những ngày còn lại, Thứ Năm thì ông thường dành để đi rao giảng Tin Lành ở các địa phương trong Huyện Thăng Bình (Tỉnh Quảng Nam) cùng với các con cái Chúa khác trong Hội Thánh. Có thể nói “bàn chân rao truyền Tin Lành”của Quân Phụ tôi đã đặt hầu như khắp nơi trong địa bàn Huyện Thăng Bình thân yêu. Thứ Bảy, ông dành thì giờ đến Nhà Thờ để quét dọn, lau chùi Nhà Thờ cho sạch sẽ, chuẩn bị cho buổi thờ phượng Chúa ngày hôm sau được tươm tất. Ngày Chúa Nhật, thì dành cho Chúa để thờ phượng Ngài và nghỉ ngơi về thể xác.
Tôi rất vui khi thỉnh thoảng cùng chồng đi ra các nơi trong Huyện Thăng Bình chia sẻ Tin Lành cho bà con tại địa phương, thì người ta thường hay hỏi “Có phải đạo Tin Lành mà ông cụ tóc bạc phơ thường hay đi nói đó không?”
Có thể nói tinh thần rao giảng Tin Lành của Quân Phụ tôi thật đáng nể đối với tôi, vì Người đi hầu như khắp vùng Huyện Thăng Bình, sẵn sàng giới thiệu về Chúa cho tất cả mọi người, bất kể người đó là ai mà không sợ hãi gì hết, đúng như tinh thần của câu Kinh Thánh: “Hãy tôn Đấng Christ là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 3, câu 15).
Mỗi khi nhớ đến câu Kinh Thánh “Những bàn chơn kẻ rao truyền Tin Lành là tốt đẹp biết bao!” (Sách Rô-ma, chương 10, câu 15) là tôi nhớ đến bàn chân rao giảng Tin Lành của Quân Phụ tôi, một đôi bàn chân chai sạm; nhưng đó là đôi bàn chân đẹp biết bao!
Học theo gương làm chứng về Chúa của Quân Phụ ngày xưa, ngày hôm nay, chồng tôi cũng nhờ ơn và sức của Chúa, ra đi rao giảng Tin Lành cho đồng bào của mình ỏ nhiều nơi nhiều chỗ từ gần đến xa.
Ước ao Chúa cho ngày càng có nhiều tôi, con Chúa ở khắp mọi nơi có tình thần sẵn sàng rao giảng Tin Lành, không sợ hãi gì hết để có thêm người biết đến Chúa và tin nhận Ngài, hầu hưởng được sự sống đời đời.
Cảm tạ Chúa đã ban cho cha chồng có một tấm lòng như thế!
Cả Thân Phụ và Quân Phụ tôi đều đã được Chúa đem về “Miền Phước Hạnh” hơn hai mươi năm qua rồi.
Tôi tạ ơn Chúa đã cho tôi có được một Thân Phụ và Quân Phụ thật đáng kính, để lại cho tôi nhiều bài học quý báu trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài!
Nhân Ngày Lễ Cha, nhắc lại những nét tính cách đẹp đẽ của hai người Cha (Thân Phụ, người sinh ra tôi, và Quân Phụ, người sinh ra... nhà có tóc (chồng) của tôi) để biết ơn hai Người Cha, và cũng để nhớ về hai người Cha kính yêu. Ước chi hai người Cha của tôi còn sống cho đến ngày hôm nay thì tôi sẽ hạnh phúc, sung sướng biết bao nhiêu!
Những ai còn Thân Phụ và Quân Phụ sống với mình thì đó là điều rất quý. Hãy biết tận dụng thời gian để ở gần với họ, làm những việc hữu ích để bày tỏ lòng hiếu kính với họ ngay khi họ còn sống bên cạnh mình.
Cảm tạ Cha trên trời (Thiên Phụ) từ ái đã ban cho tôi và bạn có Thân Phụ và Quân Phụ trong cuộc đời nầy để nuôi nấng, dạy dỗ mình cũng như chồng mình nên người, và lập gia đình cho chúng ta trong tình yêu thương!
Tình yêu của Thân Phụ và Quân Phụ dù có lớn lao như núi, như Ca Dao đã nói “Công cha như núi Thái Sơn”, cũng không thể nào sánh nổi với tình yêu vĩ đại của Thiên Phụ dành cho con người được. Nếu tình yêu của Thân Phụ và Quân Phụ được ví cao lớn như núi Thái Sơn, thì tình yêu của Thiên Phụ bao la, cao sâu hơn cả vũ trụ, trời đất nầy gấp nhiều lần. Tình yêu của Thiên Phụ dành cho loài người là vô hạn vậy!
Cầu xin Chúa ban nhiều niềm vui và bình an cho tất cả những người cha (Thân Phụ, người sinh ra mình, và Quân Phụ, người sinh ra chồng mình) nhân ngày Lễ Cha năm nay!
California, Tháng 6/ 2024!
Happy Father’s Day!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 372
Ngày Lễ Cha, Nói Về... Tình Cha Của Đa-vít
Kinh Thánh: II Sa-mu-ên 12: 13-25; Công Vụ Các Sứ Đồ 17: 6; Phi-líp 4: 6
Ngày Lễ Cha năm 2024 nầy nhằm vào Chúa Nhật ngày 16 Tháng 6.
Lễ Mẹ và Lễ Cha là hai ngày Lễ được người dân Mỹ đón nhận cách hân hoan bên cạnh những ngày Lễ lớn truyền thống khác như Độc Lập, Tạ Ơn, Giáng Sinh, Năm Mới, Phục Sinh...
Nhân Ngày Lễ Cha năm nay, xin được nói chuyện về... tình cha qua câu chuyện của Vua Đa-vít dành cho con của mình.
Kinh Thánh ghi lại câu chuyện đó như sau:
“Đa-vít bèn nói cùng Na-than rằng: Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va. Na-than đáp cùng Đa-vít rằng: Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu. Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết. Đoạn, Na-than trở về nhà mình. Đức Giê-hô-va bèn đánh đứa trẻ mà vợ của U-ri đã sanh cho Đa-vít, và nó bị đau nặng lắm. Đa-vít vì con cầu khẩn Đức Chúa Trời và kiêng ăn; đoạn, người trở vào nhà, trọn đêm nằm dưới đất. Các trưởng lão trong nhà chổi dậy đứng chung quanh người đặng đỡ người lên khỏi đất; nhưng người không khứng, và chẳng ăn với họ. Ngày thứ bảy đứa trẻ chết. Các tôi tớ của Đa-vít ngại cho người biết đứa trẻ đã chết; vì họ nói rằng: Lúc đứa trẻ còn sống, chúng tôi có khuyên giải vua, vua không khứng nghe chúng tôi; vậy làm sao chúng tôi lại dám nói cùng vua rằng đứa trẻ đã chết? Có lẽ vua rủi ro! Nhưng Đa-vít thấy những tôi tớ nó nhỏ nhỏ, hiểu rằng đứa trẻ đã chết, nên hỏi rằng: Có phải đứa trẻ đã chết chăng? Họ thưa: Phải, đã chết rồi. Bấy giờ, Đa-vít chờ dậy khỏi đất, tắm mình, xức dầu thơm, và thay quần áo; rồi người đi vào đền của Đức Giê-hô-va và thờ lạy. Đoạn, người trở về cung, truyền dọn vật thực cho mình, và người ăn. Các tôi tớ hỏi người rằng: Vua làm chi vậy? Khi đứa trẻ nầy còn sống, vua kiêng ăn và khóc vì nó; và bấy giờ, nó đã chết vua chờ dậy và ăn! Vua đáp: Khi đứa trẻ còn sống, ta kiêng ăn và khóc lóc, vì ta nghĩ rằng: Nào ai biết; có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ thương xót ta, và cho đứa trẻ được sống chăng. Nhưng bây giờ nó đã chết, ta kiêng ăn làm chi? Ta có thế làm cho nó trở lại ư? Ta sẽ đi đến nó nhưng nó không trở lại cùng ta. Đa-vít an ủi Bát-sê-ba, vợ mình, đến ngủ cùng nàng; nàng sanh một đứa trai, đặt tên là Sa-lô-môn. Đức Giê-hô-va yêu mến Sa-lô-môn, nên Ngài sai đấng tiên tri Na-than đến đặt tên cho nó là Giê-đi-đia, vì Đức Giê-hô-va yêu mến nó” (Sách Sa-mu-ên thứ nhì, chương 12, câu 13 đến 25).
Đứa con của Đa-vít bị đau trong câu chuyện nầy là đứa con mà Đa-vít đã có với Bát-sê-ba, người vợ xinh đẹp của U-ri, một chiến binh dũng cảm và đầy tinh thần, trách nhiệm trong quân đội Hoàng Gia, vừa bị Đa-vít lập mưu để giết một cách thật đáng thương.
Khi con bị đau nặng hầu chết, Đa-vít đã kiêng ăn, nằm dưới đất, cầu nguyện khẩn thiết với Đức Chúa Trời, xin Ngài thương xót, chữa lành và cho nó sống. Đa-vít làm như thế trong vòng bảy ngày, đến nỗi sức khỏe suy giảm, tiều tụy, các trưởng lão là những người hầu cận vua đứng xung quanh đỡ vua dậy để ăn hầu giữ gìn sức khỏe, nhưng vua không nghe. Khi đứa trẻ chết, các người hầu cận không dám cho vua biết, vì sợ vua buồn, ảnh hưởng đến long thể; nhưng vua nghe người ta nói thầm thầm với nhau, vua hỏi họ và họ thú thực với vua.
Sau khi nghe con mình đã chết, vua không kiêng ăn nữa, ông liền đứng dậy khỏi đất, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, xức dầu thơm, rồi đi vào đền thờ để thờ lạy Đức Chúa Trời. Rồi vua trở về cung điện bảo người ta dọn thức ăn và vua ăn.
Hành động có vẻ... kỳ lạ của Đa-vít khiến cho những người hầu cận thắc mắc:
Vua làm chi vậy? Khi đứa trẻ còn sống, vua kiêng ăn, buồn rầu và khóc lóc. Nay, đứa trẻ đã chết, vua lại dậy và ăn là nghĩa làm sao?
Đa-vít giải thích: Khi nó còn sống, ta kiêng ăn, nằm đất và cầu nguyện với Đức Chúa Trời, biết đâu Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện ta mà thương xót cho đứa trẻ sống chăng? Nhưng nay nó đã chết rồi thì ta còn kiêng ăn làm chi nữa.
Tình thương của người cha dành cho đứa con chưa có tên nầy của Đa-vít thật cảm động.
Thấy con đau nặng hầu chết, Đa-vít đã chạy đến với Chúa cách hết lòng bằng cách kiêng ăn, cầu nguyện tha thiết để xin Ngài thương xót cứu con mình.
Đây cũng là điều mà mỗi bậc cha mẹ Cơ-đốc ngày hôm nay nên học tập và làm theo. Mỗi khi con cái hoặc gia đình chúng ta có nan đề như đau ốm, bệnh tật hay những gian nguy khác trong đời sống, hãy chạy đến với Đức Chúa Trời với cả tấm lòng của mình để dâng trình mọi nan đề lên cho Ngài và nhờ cậy nơi Ngài trước hết. Lời Chúa dạy: “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho, Ta sẽ tỏ cho các ngươi những việc lớn và khó là những việc các ngươi chưa từng biết” (Sách Giê-rê-mi, chương 33, câu 3).
Không ít tôi, con Chúa, nhất là những bậc cha mẹ, khi gặp nan đề như con cái đau ốm, bệnh tật, thì thường chỉ lo đem con chạy đến thầy thuốc, tìm kiếm thuốc uống, mà quên mất việc nhờ cậy nơi Đức Chúa Trời là Đấng chữa bịnh cho chúng ta như Đa-vít đã làm (Sách Xuất Ê-díp-tô ký, chương 15, câu 26).
Trong câu chuyện nầy, dầu Đa-vít đã hết lòng cầu nguyện, nhưng Đức Chúa Trời đã quyết định cho đứa trẻ chết. Đó là việc chúng ta khó hiểu bằng trí óc hữu hạn của con người. Nhưng Đức Chúa Trời, Ngài có chương trình cho mỗi một người trên thế gian nầy theo ý định khôn sáng đời đời của Ngài mà chúng ta không hiểu nổi và không biết được. Đức Chúa Trời chính là Đấng có quyền để định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở (ý từ sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 17, câu 26)
Công việc của chúng ta là những người tin Chúa, nói chung, những người làm cha, nói riêng, chúng ta phải có một đời sống cầu nguyện nhờ cậy nơi Đức Chúa Trời, dầu Chúa đáp lời cầu nguyện theo hướng nào, chúng ta cũng không thôi cầu nguyện cùng Ngài. Lời Kinh Thánh dạy: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự, hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Sách Phi-líp, chương 4, câu 6).
Ở đây, dầu Chúa đáp lời cầu nguyện của Đa-vít không theo như điều ông cầu xin, nhưng không vì vậy mà Đa-vít oán trách Chúa.
Đa-vít đã làm một điều... khá lạ mà chúng ta thấy... ngạc nhiên, khó hiểu. Sau khi con chết, ông đứng dậy, không kiêng ăn nữa, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, xức dầu thơm vào người, rồi đi vào đền để thờ phượng Đức Chúa Trời. Sau đó, sai người dọn đồ để ăn.
Không ít người trong chúng ta, khi Chúa đáp lời cầu nguyện không theo như điều cầu xin, thì chúng ta thường hay oán trách Ngài, thậm chí không còn muốn tiếp tục trong sự cầu nguyện với Chúa nữa, và trở nên yếu đuối trong đời sống tin kính, yếu đuối trong sự thờ phượng Ngài.
Đa-vít đã để lại cho chúng ta, nhất là những người làm cha, một bài học thật sâu sắc.
Hãy học theo người cha Đa-vít trong câu chuyện nầy, ông đã không tiếp tục âu sầu nữa; nhưng tiếp tục thờ phượng Đức Chúa Trời và ăn uống để có sức khỏe, tiếp tục sống và phục vụ Ngài, lãnh đạo dân sự của Ngài.
Cách tốt nhất để vượt qua những nỗi niềm đau thương trong cuộc đời là tiếp tục thờ phượng Đức Chúa Trời và tiếp tục sống một đời sống ý nghĩa như Chúa muốn chúng ta sống.
Đa-vít cũng như chúng ta có nhiều yếu đuối, bất toàn trong cuộc đời; nhưng nếu chúng ta biết dâng trình mọi nan đề lên cho Chúa qua lời cầu nguyện và nài xin, thì Chúa sẽ lắng nghe và đáp lời theo ý muốn tốt lành của Ngài cho đời sống chúng ta.
Chúng ta cần vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống, không để những lo buồn, âu sầu làm chìm đắm đức tin nơi Chúa của mình. Sau những nan đề, thử thách Chúa cho phép xảy đến, hãy tiếp tục thờ phượng Đức Chúa Trời, để rồi được Ngài thêm sức, tiếp tục sống và hầu việc Ngài một cách đẹp lòng Ngài, không sợ hãi gì hết.
Cầu xin Chúa thương xót và ban ơn, giúp đỡ mỗi một chúng ta để có thể vừa muốn vùa làm theo y tốt của Ngài. A men!
Cảm tạ Chúa đã cho vua Đa-vít, một người cha dầu có nhiều lỗi lầm trong câu chuyện nầy, đã để lại cho chúng ta những bài học quý báu, hữu ích trên linh trình theo Chúa. Chính vì vậy mà Kinh Thánh đã xác nhận: “Ta đã tìm thấy Đa-vít, con của Gie-sê, là người vừa lòng Ta, người sẽ tuân theo mọi ý chỉ Ta” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 13, câu 22).
Kính chúc những người cha một ngày Lễ Cha thật nhiều niềm vui và bình an trong danh Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta!
HAPPY FATHER’S DAY!
California, Tháng 6/ 2024!
Mục Sư Nguyễn Đình Liễu
Bài 373
Chuyện... Mù Và... Sáng
Kinh Thánh: Lu-ca 18: 35-43
Mắt bị mù là một trong những điều bất hạnh lớn cho con người trong cuộc sống nầy.
Theo báo chí chi biết, hiện nay trên thế giới, số người bị mù mắt lên đến hàng trăm triệu người.
“Trên thế giới hiện có khoảng 314 triệu người mù và thị lực thấp, trong đó khoảng 45 triệu người mù, những người trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ 80 phần trăm. Cứ 5 giây thế giới có thêm một người bị mù, và cứ 1 phút thế giới có thêm 1 trẻ bị mù. 90 phần trăm người mù sống ở các nước nghèo và đang phát triển. Tuy nhiên, 80 phần trăm các nguyên nhân gây mù có thể điều trị hoặc phòng tránh được.
Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người mù loà; một phần ba trong số đó là những người nghèo không có tiền điều trị mang lại ánh sáng. Qua điều tra cho thấy, các nguyên nhân gây mù chính hiện nay thì đục thể thủy tinh vẫn là nguyên nhân chủ yếu (chiếm tới 66,1 phần trăm), tiếp đó là các bệnh lý đáy mắt, glôcôm, tật khúc xạ...” *
Trong sách Lu-ca, chương 18, có ghi lại câu chuyện về một người mù được Chúa Giê-su chữa lành một cách kỳ diệu như sau:
“Đức Chúa Giê-su đến gần thành Giê-ri-cô, có một người đui ngồi xin ở bên đường, nghe đoàn dân đi qua, bèn hỏi việc gì đó. Người ta trả lời rằng: Ấy là Giê-su, người Na-xa-rét đi qua. Người đui bèn kêu lên rằng: Lạy Giê-su, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng! Những kẻ đi trước rầy người cho nín đi; song người càng kêu lớn hơn nữa rằng: Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng! Đức Chúa Giê-su dừng lại, truyền đem người đến. Khi người đui lại gần, thì Ngài hỏi rằng: Ngươi muốn ta làm gì cho? Thưa rằng: Lạy Chúa, xin cho tôi được sáng mắt lại. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy sáng mắt lại; đức tin của ngươi đã chữa lành ngươi. Tức thì, người sáng mắt, đi theo Đức Chúa Giê-su, ngợi khen Đức Chúa Trời. Hết thảy dân chúng thấy vậy, đều ngợi khen Đức Chúa Trời” (Sách Lu-ca, chương 18, câu 35 đến 43).
Người bị mù mắt thì sẽ không còn thấy được thế giới chung quanh mình, không còn phân biệt được sắc màu, không còn thưởng thức được vẻ đẹp của thiên nhiên, cây cỏ, hoa lá. Đó quả là một thiệt thòi rất lớn.
Câu chuyện người mù do Bác Sĩ Lu-ca ghi lại ở trên cho chúng ta thấy:
Người mù nầy ngồi bên đường để xin ăn. Vì mù không thấy đường để có thể làm việc kiếm sống, nên anh ta phải ngồi bên đường để xin người qua lại bố thí cho mình. Một ngày nọ, bất ngờ anh nghe tiếng nói ồn ào như tiếng của một đoàn người đông sắp đến gần chỗ anh ngồi. Anh liền hỏi việc gì vây? Người ta trả lời rằng đang có Chúa Giê-su, người Na-xa-rét đi qua đây. Nghe vậy, anh liền kêu lên: “Lạy Giê-su, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng!”
Nghe anh kêu lên lớn tiếng như thế, nhiều người đã rầy anh; nhưng anh vẫn không nhụt chí, anh tiếp tục kêu lớn hơn nữa. Chúa Giê-su nghe thấy cảm động liền truyền cho đem anh lại gần, và Ngài hỏi “Ngươi muốn ta làm chi cho?” Anh liền nói: “Lạy Chúa, xin cho tôi được sáng mắt lại”
Thấy anh có đức tin, Chúa phán một lời là mắt anh được sáng lại như thường tức thì. Anh vui mừng đi theo Chúa Giê-su để ngợi khen Ngài.
Giả sử nếu anh mù nầy khi nghe Chúa hỏi “Ngươi muốn ta làm chi cho?” mà anh trả lời “Xin cho tôi ít tiền”, thì có lẽ anh sẽ tiếp tục làm người mù, ngồi bên vệ đường để xin người ta bố thí cho mình như đã từng làm bao nhiêu năm qua mà thôi. Đòi anh sẽ không có gì thay đổi cả! Mù vẫn hoàn mù! Ăn xin vẫn hoàn ăn xin!
Đó chỉ là giả sử. Người mù nầy có lẽ đã ngồi xin ăn nhiều năm qua bên vệ đường, vì anh không có tiền để tìm thầy chữa mắt cho mình, nên anh đành chấp nhận số phận hẩm hiu. Có lẽ anh đã có nghe biết về một người tên Giê-su nào đó đầy tình yêu thương và quyền năng, làm nhiều phép lạ dấu kỳ; nhưng anh mù nên không biết làm sao tìm gặp được Ngài.
Bỗng một hôm, nói theo cách dân gian người ta thường nói, “trời xui đất khiến” thế
nào, Chúa Giê-su lại đi ngang qua con đường chỗ anh đang ngồi ăn xin (dĩ nhiên là Ngài có chương trình, kế hoạch của Ngài sẵn, chứ không phải ngẫu nhiên mà Ngài đi qua đó đâu). Đúng là cơ hội ngàn năm một thuở đến với anh, anh liền chớp lấy cơ hội kêu xin Chúa cứu chữa cho mình. Lòng khao khát được sáng mắt cháy bỏng trong anh được Chúa trả lời. Chúa Giê-su đã chữa lành cho anh bởi anh đã đặt đức tin nơi Ngài.
Lời Kinh Thánh chép rằng: “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu. Điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Sách Ê-phê-sô, chương 2, câu 8, 9).
Bởi đức tin đặt đúng đối tượng đáng tin là Đức Chúa Giê-su, anh mù đã được sáng mắt. Có thể nói, không có niềm vui mừng, sung sướng nào lớn hơn cho anh nữa. Trước đây, anh buồn bả bao nhiêu, thì nay anh vui mừng bấy nhiêu, bằng chứng là anh đã đi theo Chúa và ngợi khen Ngài.
Mù đôi mắt thể xác nầy là một bất hạnh lớn của một con người; nhưng mù đôi mắt tâm linh mới là bất hạnh lớn nhất của đời người.
Khi con người bị ma quỷ làm cho mù mắt tâm linh, thì người ta sẽ không thấy đường để đi, không biết đối tượng nào để thờ lạy cho đúng. Cho nên, con người thường hay thờ lạy đủ thứ thần, thậm chí còn tôn con người lên... làm thần để thờ nữa, dầu không biết đối tượng đó có đem lại bất kỳ phước hạnh nào cho mình hay không, có giải thoát được mình ra khỏi bàn tay độc ác của ma quỷ hay không?
Anh mù kia, nếu không gặp được Chúa Giê-su thì cuộc đời anh mãi mãi vẫn mù lòa và vẫn ngồi bên đường để xin ăn trước sự thương hại của mọi người, vì mọi người đều bất lực, không ai có quyền năng để chữa lành được đôi mắt cho anh cả. Cho đến khi anh gặp được Chúa Giê-su, thì cuộc đời anh được biến đổi hoàn toàn: TỪ MÙ QUA SÁNG.
Cũng một thể ấy, rất nhiều người ngày hôm nay giống như anh mù kia, bị mù lòa tâm linh, nên cứ thờ lạy lung tung, cứ vái bốn phương tám hướng, ai sao tôi vậy, được chi hay nấy, theo kiểu “xưa bày nay làm” như Kinh Thánh đã cho biết: “Xưa kia, anh em chẳng biết Đức Chúa Trời chi hết, thì làm tôi các thần vốn không phải là thần” (Sách Ga-la-ti, chương 4, câu 8). Cho đến khi nào họ nhận biết được Chúa Giê-su là “đường đi, chân lý và sự sống” (Sách Giăng, chương 14, câu 6), và đến với Ngài, kêu xin Ngài như anh mù kia đã từng kêu xin Ngài, thì mắt tâm linh họ mới được mở ra, và cuộc đời họ mới được thay đổi từ tối tăm qua sáng láng, từ quyền lực của quỷ Sa-tan đến Đức Chúa Trời (ý từ sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 26, câu 18).
Trước đây, khi chưa tin nhận Chúa, thì mỗi chúng ta cũng là những người bị mù mắt tâm linh, không biết Chúa, nên không kêu cầu Ngài và không thờ phượng Ngài. Nhưng khi nhận biết Chúa Giê-su là sự sáng theo như Kinh Thánh đã bày tỏ: “Ta là sự sáng của thế gian, người nào theo Ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống” (Sách Giăng, chương 8, câu 12), thì mỗi chúng ta mở lòng ra tin nhận Ngài, và được Ngài mở mắt tâm linh cho. Từ khi tin Chúa, chúng ta không còn bước đi trong tối tăm, làm những việc tối tăm do ma quỷ trói buộc như trước nữa.
Có Chúa Giê-su trong cuộc đời là có Ánh Sáng cho cuộc đời. Ở trong Chúa Giê-su là ở trong Sự Sáng và được bước đi trong Sự Sáng. Thật đó là một phước hạnh vô cùng lớn! Ha-lê-lu-gia! Ngợi khen Chúa!
Cầu xin Đức Chúa Trời, Chúa của sự vinh hiển, quyền năng ban cho nhiều người dân Việt Nam thân yêu sớm nhận biết Ngài và kêu cầu Ngài như người mù trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay; hầu họ sẽ được Chúa mở mắt tâm linh mà đến với Ngài, thờ phượng Ngài. Khi một người tin nhận Chúa Giê-su thì cuộc đời của họ sẽ được bình an, phước hạnh thật sự trong tâm hồn. Khi chúng ta tin đúng Đấng đáng tin, thờ đúng Đấng đáng thờ là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa toàn năng thì chắc chắn “phước hạnh và sự thương xót sẽ theo mỗi một chúng ta” (ý từ Sách Thi-thiên, chương 23, câu 6). Chúng ta không còn cần phải đi tìm sự giải thoát ở đâu nữa hết, vì Chúa Giê-su chính là Đấng Cứu Rỗi, Đấng Giải Thoát duy nhất cho con người. Amen!
California, Tháng 6/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
* moh.gov.vn
Bài 374
Chuyện... Bất Trung Và... Trung Tín
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 25: 14-30; Lu-ca 16: 1-12; Hê-bơ-rơ 3: 6
Bất trung và trung tín là hai phạm trù trái ngược nhau.
Bất trung là nét tính cách đạo đức không tốt, nói đến việc không trung thành với chủ và không trung tín trong công việc chủ giao. Ngược lại, trung tín là nét tính cách đạo đức tốt, nói đến lòng trung thành với chủ và sự trung tín trong công việc được giao.
Bạn là người bất trung hay trung tín? Hỏi như vậy thì khó để trả lời? Chẳng lẽ nói cho người ta biết mình là người bất trung? Không đời nào ai làm như thế bao giờ? Dù chúng ta không bao giờ nói cho người ta biết mình là người bất trung? Nhưng Ông Trời biết ai là người bất trung, ai là người trung tín, vì Ngài là Đấng duy nhất nhìn thấy tận trong tấm lòng con người.
Trong khi loài người thì không ai có thể biết được trong nơi sâu thẳm của lòng con người:
Ca Dao có câu:
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Kinh Thánh khẳng định: “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài; nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (Sách Sa-mu-ên thứ nhất, chương 16, câu 7).
Một chỗ khác, Kinh Thánh cũng cho biết: “Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm sẽ thưởng cho ngươi” (Sách Ma-thi-ơ, chương 6, câu 6).
Chữ Tín nghĩa là tin, nghĩa là giữ và làm những gì đã nói. Chữ Tín được kết hợp bởi chữ Nhân và chữ Ngôn. Điều đó có ý nghĩa rằng người mà có đức tín thì lời nói của người ấy phù hợp với hành vi, nói sao làm vậy, chứ không nói một đường làm một nẻo.
Ca dao cũng có câu:
Nói lời phải giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Sách Luận Ngữ có câu: “Tử dĩ tứ giáo: văn, hạnh, trung, tín”. Khổng Tử dạy bốn điều: văn học, đức hạnh, trung thành và niềm tin.
Chữ Tín hay sự trung tín là rất quan trọng cho một con người.
Nếu người bất trung bị người ta lên án, khinh chê bao nhiêu, thì người trung tín lại được nhiều người tôn trọng, kính nể bấy nhiêu.
Chúa Giê-su có kể một câu chuyện về một người đầy tớ bất trung như sau:
“Đức Chúa Giê-su lại phán cùng môn đồ rằng: người giàu kia có một quản gia bị cáo với chủ rằng người tiêu phá của chủ. Vậy, chủ đòi người đó mà nói rằng: Ta nghe nói về ngươi nỗi chi? Hãy khai ra việc quản trị của ngươi, vì từ nay ngươi không được cai quản gia tài ta nữa. Người quản gia tự nghĩ rằng: Chủ cách chức ta, ta sẽ làm gì? Làm ruộng thì ta không có sức làm nổi, còn đi ăn mày thì hổ ngươi. Ta biết điều ta sẽ làm, để khi bị cách chức, có kẻ tiếp rước ta về nhà. Người ấy bèn gọi riêng từng người mắc nợ chủ mình đến, và hỏi người thứ nhất rằng: Ngươi mắc nợ chủ ta bao nhiêu? Trả lời rằng: Một trăm thùng dầu. Quản gia nói rằng: Hãy cầm lấy tờ khế, ngồi xuống đó, viết mau: Năm chục. Rồi hỏi người kia rằng: Còn ngươi, mắc bao nhiêu? Trả lời rằng: Một trăm hộc lúa mì. Quản gia rằng: Hãy cầm lấy tờ khế và viết: Tám chục. Chủ bèn khen quản gia bất nghĩa ấy về việc người đã làm khôn khéo như vậy. Vì con đời nầy trong việc thông công với người đồng đời mình thì khôn khéo hơn con sáng láng. Còn ta nói cho các ngươi: Hãy dùng của bất nghĩa mà kết bạn, để khi của ấy hết đi, họ tiếp các ngươi vào nhà đời đời. Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn; ai bất nghĩa trong việc rất nhỏ, cũng bất nghĩa trong việc lớn. Vậy nếu các ngươi không trung tín về của bất nghĩa, có ai đem của thật giao cho các ngươi? Nếu các ngươi không trung tín về của người khác, ai sẽ cho các ngươi được của riêng mình?” (Sách Lu-ca, chương 16, câu 1 đến 12).
Người đầy tớ trong câu chuyện nầy bị xem là người đầy tớ bất trung, có nghĩa là không trung tín với công việc được giao, nên chủ muốn sa thải anh ta. Anh ta liền chớp lấy thời cơ lấy đồ của chủ mà chia cho những con nợ của chủ, để mai kia, khi bị chủ sa thải, anh ta sẽ có được nhiều người “nhận ơn” của anh sẽ tiếp đón anh và giúp đỡ anh.
Câu chuyện nhiều khi hơi... khó hiểu với chúng ta vì những lời khen của chủ về tên đầy tớ bất trung. Nên nhớ, chủ không khen sự bất trung của tên đầy tớ; nhưng chủ khen tên đầy tớ biết chớp lấy thời cơ ngắn ngủi còn lại trước khi bị sa thải để... làm ơn hầu kết thân với nhiều con nợ của chủ, bằng cách là xóa bớt nợ cho họ.
Đó chính là... sự tinh khôn của con cái đời nầy so với con cái của sự sáng láng.
Chúa Giê-su thông qua câu chuyện nầy cũng muốn con cái của Ngài cũng cần biết tận dụng cơ hội ngắn ngủi của cuộc sống nầy mà trung tín chia sẻ “của cải đời đời” (tức Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giê-su) cho mọi người., hầu kết nối được nhiều người vào Vương Quốc Thiên Đàng.
Kinh Thánh cũng ghi lại câu chuyện khác về những đầy tớ trung tín và bất trung như sau:
“Vả, nước thiên đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình. Chủ đó cho người nầy năm ta-lâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường. Tức thì, người đã nhận năm ta-lâng đi làm lợi ra, và được năm ta-lâng khác. Người đã nhận hai ta-lâng cũng vậy, làm lợi ra được hai ta-lâng nữa. Song người chỉ nhận một thì đi đào lỗ dưới đất mà giấu tiền của chủ. Cách lâu ngày, chủ của những đầy tớ ấy trở về khiến họ tính sổ. Người đã nhận năm ta-lâng bèn đến, đem năm ta-lâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi năm ta-lâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm ta-lâng nữa. Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. Người đã nhận hai ta-lâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi hai ta-lâng; đây nầy, tôi đã làm lợi ra được hai ta-lâng nữa. Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. Người chỉ nhận một ta-lâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra, nên tôi sợ mà đi giấu ta-lâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa. Song chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. Vậy, các ngươi hãy lấy ta-lâng của người nầy mà cho kẻ có mười ta-lâng. Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ đã có nữa. Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Sách Ma-thi-ơ, chương 25, câu 14 đến 30).
Người chủ nầy trước khi đi xa, gọi ba đầy tớ lại và giao cho mỗi người một số tiền khác nhau lần lượt là năm ta lâng, hai ta lâng và một ta lâng, tùy theo tài của mỗi người. Cách lâu ngày, chủ trở về và khiến ba đầy tớ tính sổ. Hai người đầy tớ nhận năm và hai ta lâng đều làm lợi gấp đôi, nên đem cả tiền vốn và lời đến giao cho chủ. Cả hai được chủ khen như nhau: “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi”
Tên đầy tớ thứ ba thì đem trả y nguyên một ta lâng lại cho chủ, vì không chịu làm chi cả trong suốt thời gian chủ đi xa, và còn lý luận... cà khịa với chủ: “Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra, nên tôi sợ mà đi giấu ta-lâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa.”
Chủ giận lắm bèn phán: “Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời?” Sau đó, chủ lấy ta lâng của hắn mà giao luôn cho người đầy tớ đã có mười ta lâng, rồi chủ cho quăng tên đầy tớ vô ích đó vào chỗ tối tăm là nơi có khóc lóc và nghiến răng.
Đầy tớ trung tín sẽ được khen ngợi và được hưởng phước, còn đầy tớ bất trung chắc chắn sẽ bị quở trách và bị đoán phạt đích đáng với việc gian ác mình đã làm.
Câu chuyện vừa là tấm gương khích lệ vừa là lời cảnh tỉnh mỗi một chúng ta trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài!
Lời Kinh Thánh cũng nhắc nhở chúng ta ở một chỗ khác nữa rằng: “Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành (trung tín)” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 4, câu 2).
Chúa Giê-su trong vai trò là Con Người khi thi hành chức vụ trên trần gian nầy đã để lại một tấm gương trung tín tuyệt vời, hầu làm gương mẫu cho chúng ta noi theo.
Chúa Giê-su đã trung tín hoàn thành công việc Cha Ngài giao cho. Chính Ngài đã tuyên bố: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Sách Giăng, chương 17, câu 4). Một đầy tớ trung tín là một đầy tớ luôn luôn hoàn thành công việc của chủ giao.
Chúa Giê-su đã luôn luôn trung tín với Đấng đã lập Ngài là Đức Chúa Cha. Ngài trung tín như con trai quản trị nhà Chúa vậy: “Đấng Christ thì trung tín như con trai quản trị nhà Chúa, mà nhà Chúa tức là chúng ta” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 3, câu 6).
Môi se, nhà lãnh đạo tài ba của người Do-thái, cũng được Đức Chúa Trời xác nhận rằng: “Tôi tớ Môi se Ta không có như vậy, người thật trung tín trong cả nhà Ta” (Sách Dân số ký, chương 12, câu 7).
Trong thơ Hê-bơ-rơ, Môi se được công nhận là một tôi tớ trung tín: “Còn về Môi se, người đã trung tín trong cả nhà Chúa, như một kẻ tôi tớ, gọi đến làm chứng về điều ngày sau sẽ được rao giảng” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 3, câu 5).
Là con người, Môi se cũng có những khiếm khuyết như chúng ta. Ông không phải là một con người toàn hảo; dù vậy, ông cũng đã tiếp tục trong công việc được Đức Chúa Trời giao là lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập một cách thành công. Chính vì vậy mà Kinh Thánh đã xác nhận Môi se là một tôi tớ trung tín trong nhà Chúa!
Đầy tớ bất trung chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời quở trách và đoán phạt nặng nề, còn đầy tớ trung tín thì sẽ được khen ngợi và được ban thưởng chẳng sai. Đó là điều chắc chắn!
Chúa Giê-su đã tuyên bố rất rõ ràng: “Nầy, ta đến mau chóng và đem phần thưởng theo với Ta để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Sách Khải Huyền, chương 22, câu 12).
Nguyền xin Chúa cho mỗi một chúng ta dặn lòng trung tín theo Chúa và hầu việc Ngài một cách dư dật luôn cho đến khi được gặp Ngài trong tương lai để được Ngài ban thưởng. A men!
California, Tháng 6/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 375
Chuyện... Sống Chết Của Con Người
(Viết nhân sự cố Cựu Tổng Thống Donald Trump bị ám sát hụt ngày 13/ 7/ 2024!)
Kinh Thánh: I Các Vua 22: 29-38; Gióp 12: 10; Thi-thiên 31: 15; 104: 33; Công Vụ Các Sứ Đồ 17: 25, 26
Vào ngày 13/ 7/ 2024 vừa qua, một tin xảy ra làm chấn động cả nước Mỹ và toàn thế giới. Ấy là tin Cựu Tổng Thống Donald Trump, trong khi đang phát biểu trong cuộc vận động tranh cử tại Tiểu bang Pennsylvania, thì bị một tay súng phục trên mái nhà gần nơi ông Trump đang phát biểu, ước chừng 130 mét, nã một loạt đến tám phát đạn vào vị Cựu Tổng Thống.
Một viên đạn đã trúng vào vành tai bên phải của ông Trump, làm máu chảy xuống mặt của ông. Ngay lập tức, Cựu Tổng Thống đã ngồi xuống để tránh nguy hiểm, và sau khi nghe kẻ thủ ác đã bị nhân viên mật vụ hạ gục, thì các nhân viên an ninh mới đưa ông Trump ra xe để đưa tới bệnh viện chữa trị vết thương.
Vết thương nơi vành tai phải của Cựu Tổng Thống Trump chỉ bị viên đạn xợt qua nhẹ, nên không gây nguy hiểm gì đến tính mạng của vị Cựu Tổng Thống.
Tay súng ám sát Cựu Tổng Thống Trump tên là Thomas Crooks, 20 tuổi, sống cùng tiểu bang nơi xảy ra vụ việc.
Hai ngày sau vụ ám sát bất thành, vào ngày 15/ 7/ 2024, Ông Trump đã có mặt trong Đại Hội toàn quốc của Đảng Cộng Hòa tổ chức tại bang Wisconsin để được Đảng Cộng Hòa chính thức bầu chọn ông làm ứng cử viên Tổng Thống để tranh cử với đương kiêm Tổng Thống Joe Biden của Đảng Dân Chủ vào tháng 11 sắp tới.
Việc Cựu Tổng Thống Trump thoát chết trong đường tơ kẽ tóc trong vụ ám sát vừa qua là một điều kỳ diệu, hay có thể nói đó là một phép mầu bởi bàn tay vô hình của Đức Chúa Trời can thiệp.
Nhân nói đến sự việc ám sát làm chấn động dư luận toàn thế giới nầy, xin mời bạn cùng suy gẫm về chuyện... sống chết của con người.
Kinh Thánh có ghi lại câu chuyện về sự sống và cái chết rất hy hữu của hai vị vua nước Do-thái ngày xưa:
Đó là câu chuyện về Vua A-háp của nước Y-sơ-ra-ên (Vương Quốc phái Bắc) rủ Vua Giô-sa-phát của nước Giu-đa (Vương Quốc phía Nam) cùng đem quân đi đánh chiếm Ra-mốt trong xứ Ga-la-át:
“Vậy, vua Y-sơ-ra-ên đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át với Giô-sa-phát, vua Giu-đa. Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ giả dạng ăn mặc, rồi ra trận; còn vua hãy mặc áo của vua. Như vậy, vua Y-sơ-ra-ên ăn mặc giả dạng mà ra trận. Vả, vua Sỵ-ri đã truyền lịnh cho ba mươi hai quan coi xe mình rằng: Các ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi. Vậy, khi các quan coi xe thấy Giô-sa-phát thì nói rằng: Ấy quả thật là vua Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn đến gần người đặng áp đánh; nhưng Giô-sa-phát kêu la lên. Khi các quan coi xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại, không đuổi theo nữa. Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm người nơi giáp đâu lại. Vua nói cùng kẻ đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại, dẫn ta ra ngoài hàng quân, vì ta bị thương nặng. Nhưng trong ngày đó thế trận thêm dữ dội; có người nâng đỡ vua đứng trong xe mình đối địch dân Sy-ri. Đến chiều tối vua chết; huyết của vít thương người chảy xuống trong lòng xe. Lối chiều, trong hàng quân có rao truyền rằng: Ai nấy hãy trở về thành mình, xứ mình. Vua băng hà là như vậy; người ta đem thây vua về Sa-ma-ri, và chôn tại đó. Người ta rửa xe người tại trong ao Sa-ma-ri, là nơi những bợm buôn hương tắm, và có những chó liếm máu người, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán” (Sách Các Vua thứ nhất, chương 22, câu 29 đến 38).
Chúng ta được biết, Vua A-háp và Vua Giô-sa-phát là sui gia với nhau (con trai của Vua A-háp là rể của Vua Giô-sa-phát). Vua A-háp đã cố tình cải trang thành một người lính bình thường để tránh bị quân Si-ry phát hiện mà bắn chết. Ngược lại, Vua Giô-sa-phát thì lại... ngu ngơ nghe theo lời của Vua A-háp mặc nguyên áo bào Vua mà ra trận.
Vua Si-ry đã truyền cho quân lính của mình là không được bắn bất cứ ai ngoại trừ Vua Y-ơ-ra-ên. Khi quân Si-ry thấy một người mặc áo bào của vua, tưởng đó là Vua Y-sơ-ra-ên, thì áp sát lại gần định bắn, thì phát hiện ra đó là Vua Giô-sa-phát của Giu-đa, chứ không phải là A-háp, Vua Y-sơ-ra-ên, nên họ... không bắn.
Cùng lúc đó, tình cờ có một tên lính giương cung bắn Vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm nơi giáp đâu lại của áo Vua (tức chỗ đường nối của áo), Vua A-háp bị thương rất nặng, máu chảy ra rất nhiều trong lòng xe và đến chiều tối, thì Vua chết.
Người lính Si-ry nầy giương cung bắn đại vào Vua A-háp, chứ chẳng có ngắm nghía kỹ lưỡng gì cả; nhưng không ngờ lại trúng ngay vào chỗ đường nối của áo Vua (tức ngay chỗ dễ bị đâm thủng nhất), và Vua bị chết vì cú bắn không có chuẩn bị gì cả đó.
Cựu Tổng Thống Trump bị một tên sát thủ có chủ đích rõ ràng là chuẩn bị tư thế sẵn sàng để nhằm bắn chết ông với cả một loạt đạn đến tám viên, nhưng ông chỉ bị thương rất nhẹ nơi vành tai bên phải mà thôi. Cũng có một viên đạn trúng nơi ngực phải của áo vét-tông, nhưng đó là áo có lớp chống đạn, nên viên đạn không lọt vào được trong ngực của vị Cựu Tổng Thống.
Còn Vua A-háp của nước Y-sơ-ra-ên ngày xưa thì lại bị chết bởi một mũi tên của một người lính bắn càng về phía Vua, mà không ngờ mũi tên lại trúng ngay vào chỗ dễ đâm thủng nhất của áo, khiến cho Vua phải chết một cách tức tửi.
Thật đúng là không thể hiểu nổi!
Chuyện... sống chết của một con người không ai có thể lường trước được.
Làm sao Vua A-háp có thể chết được, khi ông đã cải trang thành một người lính bình thường? Vậy mà, ông lại bị chết chỉ bởi một mũi tên được bắn đi một cách tình cờ của một người lính đối phương. Vua Giô-sa-phát mới là đối tượng dễ bị quân Si-ry tiêu diệt, vì ông ra trận trong áo bào của một vị vua. Vậy mà, Vua Giô-sa-phát lại thoát chết, dù bị quân thù áp sát, nhưng lại... chê không giết, vì không phải là mục tiêu hướng đến của họ.
Người Việt Nam có câu “Số Trời đã định” thiệt là đúng với trường hợp của Vua A-háp ngày xưa, cũng như Cựu Tổng Thống Trump hiện nay.
Cũng chợt nhớ đến câu chuyện sống chết hy hữu trong Tam Quốc Chí của La Quán Trung bên xứ Trung Quốc ngày xưa, đại ý như sau:
Gia Cát Lượng dẫn dụ cha con Tư Mã Ý vào Thượng Phương cốc bằng cách cho người nói với Tư Mã Ý rằng tất cả lương thực của quân Thục đều ở trong hang đó. Khi cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì Gia Cát Lượng cho ném rơm rạ, địa lôi chặn bít hai đầu, và phóng hỏa thiêu cháy cha con Tư Mã Ý trong hang.
Cha con Tư Mã Ý không còn đường thoát thân, chỉ biết bó gối chờ chết. Nhưng ngay lúc ấy, bất chợt có một cơn mưa tầm tã đổ xuống, khiến toàn bộ lửa đều bị dập tắt. Nhờ đó, cha con Tư Mã Ý chạy thoát chết. Gia Cát Lượng đành ngữa mặt lên trời kêu than “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (nghĩa là mưu chước là do con người, nhưng thành bại là do Ông Trời).
Theo ý con người, thì cha con Tư Mã Ý bị vô thế như vậy, chỉ có chết, chứ không cách nào thoát được. Nhưng mưu người khác ý Trời, Ông Trời còn muốn để cha con ông sống, nên đã cho một cơn mưa lớn đổ xuống, và nhờ đó, hai cha con... không chết.
Một khi Đức Chúa Trời đã quyết định kết thúc cuộc sống của một con người nào đó thì dù người đó có... chạy đằng trời cũng không... thoát khỏi được. Và một khi Đức Chúa Trời còn cho người nào đó sống thì dù cho có ai đó tìm cách để mưu sát thì cũng... thất bại.
Kinh Thánh cho chúng ta biết, Đức Chúa Trời là Đấng cầm trong tay Ngài sự sống của con người cũng như muôn loài vạn vật: “Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, và hơi thở của cả loài người” (Sách Gióp, chương 12, câu 10).
Vua Đa-vít cũng khẳng định: “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (Sách Thi-thiên, chương 31, câu 15).
Sứ Đồ Phao-lô cũng cho biết cùng một chân lý như thế: “Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống muôn vật cho moi loài. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người, và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 17, câu 25, 26).
Qua câu chuyện Cựu Tổng Thống Trump vừa bị ám sát mà không chết được, cũng như câu chuyện về cái chết bất ngờ của Vua A-háp ngày xưa được Kinh Thánh ghi lại, hay như câu chuyện của cha con Tư Mã Ý trong Tam Quốc Chí cho chúng ta bài học cần ghi nhớ:
Dù bạn là ai, ở đâu, làm gì, bạn phải biết rằng sự sống, sự chết của con người trên thế gian nầy đều nằm trong tay của Đức Chúa Trời toàn năng, chứ không phải bạn muốn gì được nấy được đâu.
Một khi Chúa quyết định kết thúc cuộc đời bạn thì dù cho bạn có trốn ở đâu, hay có mưu chước gì để tránh, thì cũng không tránh khỏi được. Và một khi Chúa còn cho bạn sống, thì dù ai có tìm cách mưu hại bạn, thì Đức Chúa Trời cũng có cách để bảo vệ mạng sống của bạn một cách kỳ diệu.
Hãy hạ mình, khiêm nhường trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của chúng ta, và hãy đem lòng tin trọn vẹn mà tin thờ Ngài, thì chắc chắn cuộc đời của bạn sẽ được sự cứu rỗi, được bình an và phước hạnh, dù sống hay chết.
Tôi đã từng nhiều lần vào sinh ra tử khi làm lính chiến đấu nơi chiến trường gần năm năm trời ròng rả, nhiều lúc mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc; nhưng rồi, Đức Chúa Trời vẫn thương yêu, bảo vệ, giữ gìn tôi được bình yên, còn trở về được với gia đình, và còn sống để hầu việc Chúa cho đến ngày hôm nay.
Tạ ơn Đức Chúa Trời vì lòng nhơn từ và thương xót lớn lao cả thể của Ngài đã dành cho!
Tôi không biết là Đức Chúa Trời còn cho tôi sống được bao lâu nữa? Điều đó tôi không biết, nhưng Đức Chúa Trời biết, và tôi hoàn toàn tin cậy nơi sự chăm sóc, bảo vệ của Ngài.
Còn đây là điều tôi quyết định: “Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ hát xướng cho Đức Giê-hô-va bấy lâu. Hễ tôi còn chừng nào, tôi sẽ hát ngợi khen Đức Chúa Trời tôi chừng nấy!” (Sách Thi-thiên, chương 104, câu 33).
Xin mời bạn hãy cùng tôi ca tụng và tôn thờ Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng cao cả, quyền năng, Đấng cầm giữ mạng sống của bạn và tôi trong tay của Ngài!
California, Tháng 7/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 376
Chuyện... Hội Đồng Tin Lành
Kinh Thánh: Giô-suê 1: 8; Công Vụ Các Sứ Đồ 15: 7-11; Hê-bơ-rơ 5: 13, 14
Như chúng ta thường thấy, mỗi năm các Giáo Hội Tin Lành Việt Nam ở nhiều nơi trên thế giới thường tổ chức các kỳ Hội Đồng để bồi bổ tâm linh cho tôi, con Chúa trong Giáo Hội của mình và cũng là dịp để qúy tôi, con Chúa được gặp gỡ nhau, thông công, tâm tình, trao đổi với nhau về niềm tin và về cuộc sống.
Truyền thống nầy bắt nguồn từ Kinh Thánh.
Ngay từ thời Hội Thánh đầu tiên, người ta cũng đã tổ chức Hội Đồng để bàn lo, giải quyết những công việc quan trọng và có cần của Hội Thánh.
Hội Đồng đầu tiên của Hội Thánh được tổ chức nhằm giải quyết vấn nạn chủ nghĩa duy luật đang len lỏi vào trong Hội Thánh làm hoang mang đức tin con cái Chúa người ngoại (không thuộc Do-thái giáo), bắt họ phải làm phép cắt bì và tuân giữ luật pháp Môi se y như người Do-thái. Trong Hội Đồng đó, Phi-e-rơ đã phát biểu với Hội Đồng rằng: “Hỡi anh em, hãy biết rằng từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong các anh em để cho người ngoại được nghe Tin Lành bởi miệng tôi và tin theo. Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng người, đã làm chứng cho người ngoại mà ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta. Ngài chẳng phân biệt chúng ta với người ngoại đâu, vì đã lấy đức tin khiến cho lòng họ tinh sạch. Vậy, bây giờ cớ sao anh em thử Đức Chúa Trời, gán cho môn đồ một cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta cũng chưa từng mang nổi? Trai lại, chúng ta tin rằng, nhờ ơn Đức Chúa Giê-su, chúng ta được cứu cũng như người ngoại vậy” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 15, câu 7 đến 11).
Sau đó, cả Hội Đồng thống nhất viết thư gởi đến cho những Hội Thánh người ngoại tại thành An-ti-ốt, trong xứ Sy-ri và xứ Si-li-si. Bức thư nhấn mạnh đến bốn điểm sau: “Ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài điều cần dùng: tức là anh em phải kiêng ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột, và chớ tà dâm. Ấy là mọi điều mà anh em khá kiêng giữ lấy vậy. Kính chúc bình an!” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 15, câu 28, 29).
Hội Đồng đã giải quyết được hai vấn đề quan trọng cần cấp lúc bấy giờ. Một là về Giáo lý: Người Do-thái và người ngoại bang đều được cứu như nhau bởi đức tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ, không có sự phân biệt chi hết. Hai là về thực hành đời sống đức tin qua việc kiêng cữ bốn điều: kiêng ăn của cúng, huyết, thú vật chết ngột, và không tà dâm.
Mỗi năm ở Mỹ, vào dịp Hè là dịp học sinh, sinh viên được nghỉ học, và nhất là vào dịp Lễ Độc Lập, có kỳ nghỉ dài ngày, nên các Giáo Hội Tin Lành thường tổ chức Hội Đồng vào dịp nầy.
Chúng ta thường thấy các Giáo Hội Báp-tít, Giáo Hạt Việt Nam Hoa Kỳ, Giáo Hội Trưởng Nhiệm và các Giáo Hội khác đều tổ chức Hội Đồng vào những ngày đầu tháng 7, hoặc trong tháng 8. Ngoài ra, có Giáo Hội còn tổ chức Hội Đồng vào dịp tháng 10 hằng năm.
Giáo Hạt Việt Nam Hoa Kỳ vừa tổ chức Hội Đồng năm 2024 tại thành phố Po-mo-na, tiểu bang California vào cuối tháng 6 cùng thời điểm với Đại Hội của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Hải Ngoại (gọi tắt là OVEC) tại thành phố Houston, tiểu bang Texas.
Theo thông lệ mấy chục năm qua, Giáo Hạt Việt Nam Hoa Kỳ đều tổ chức Hội Đồng hằng năm vào dịp Lễ Độc Lập của nước Mỹ (Ngày 4 Tháng 7); nhưng không hiểu vì sao năm nay, dường như lần đầu tiên Giáo Hạt lại tổ chức Hội Đồng vào tháng 6? Có lẽ Giáo Hạt Việt Nam Hoa Kỳ muốn làm một sự... đổi mới nào đó về thời gian để các tôi, con Chúa có thể được đi dự Đại Hội của các Giáo Hội khác, cho khỏi trùng thời gian chăng???
Đại Hội của Giáo Hội Báp-tít Việt Nam Bắc Mỹ năm nay cũng như bao năm qua vẫn tổ chức vào dịp Lễ Độc Lập sắp tới tại thành phố Atlanta, bang Georgia.
Còn Đại Hội của Giáo Hội Trưởng Nhiệm Việt Nam Hoa Kỳ thì sẽ tổ chức vào dịp tháng 8 tới tại thành phố Houston, bang Texas, như họ vẫn thường tổ chức mỗi năm.
Hằng năm, các Giáo Hội thường tổ chức Đại Hội để bàn thảo những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mình, đồng thời để bồi dưỡng đời sống tâm linh cho tôi, con Chúa trong Giáo Hội và cũng để tạo điều kiện cho những người có cùng niềm tin trong Đấng Christ được gặp gỡ, thông công với nhau là điều rất tốt.
Thông qua những kỳ Đại Hội như thế, nhiều tôi, con Chúa được nghe những bài giảng bồi linh của một số các Mục Sư được ơn trong sự giảng dạy, có thể làm... tươi mới tâm linh của họ, thêm cho họ những năng lực mới trên linh trình theo Chúa.
Thông qua những kỳ Đại Hội như thế, nhiều tôi, con Chúa có thể được gây dựng trong đức tin; một số người có thể được Chúa đụng chạm và được biến đổi một cách tích cực, hăng hái, sốt sắng hơn trong sự hầu việc Ngài, trong sự rao giảng Tin Lành.
Thông qua những kỳ Đại Hội như thế, nhiều tôi, con Chúa có thể học hỏi được những điều hay, điều tốt từ các tôi, con Chúa ở các Hội Thánh bạn để có thể đem về áp dụng cho Hội Thánh của mình để làm cho Hội Thánh được tươi mới hơn.
Có thể còn có nhiều điều ích lợi khác nữa từ những kỳ Đại Hội bồi linh đem lại cho các tôi, con Chúa mà người viết không thể kể hết được trong một bài viết ngắn ngủi nầy, vì chúng ta biết rằng, Đức Thánh Linh có thể làm nhiều điều kỳ diệu mà chúng ta không hiểu được và không ngờ tới, như Chúa Giê-su đã phán với Giáo Sư Ni-cô-đem ngày xưa: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động; nhưng chẳng biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” (Sách Giăng, chương 3, câu 8).
Nguyền xin Chúa tiếp tục ban phước cho những kỳ Đại Hội hằng năm của các hệ phái Tin Lành ở khắp mọi nơi hầu đem lại nhiều sự khích lệ, gây dựng, nâng đỡ đời sống tâm linh cho các tôi, con Chúa gần xa.
Như đã nói, người đi tham dự Hội Đồng Tin Lành hằng năm có thể được bồi bổ tâm linh, làm mới lại tâm linh theo Chúa, có thêm năng lực, có thể được Chúa đụng chạm để có được những thay đổi tích cực trong niềm tin, và có thể học hỏi được thêm những điều hay, điều tốt từ những người anh chị em trong cộng đồng đức tin. Nhưng việc lớn lên trong Chúa, việc tăng trưởng đức tin của mỗi con dân Chúa thì theo tôi, có lẽ... không đến từ những kỳ đi dự Đại Hội như thế.
Một người muốn được trưởng thành trong Chúa, muốn được “tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 3, câu 18), thì không cách nào khác ngoài cách tự mỗi cá nhân người đó phải dành thì giờ mỗi ngày đọc, học, suy gẫm Lời Chúa và áp dụng vào trong cuộc sống thực tiễn của mình.
Lời Kinh Thánh cho biết: “Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (Sách Giô-suê, chương 1, câu 8).
Tác giả Thi-thiên chương 119 câu 97 đã bày tỏ: “Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao. Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy.”
Một chỗ khác, Thánh Phi-e-rơ đã viết: “hãy ham thích sữa thiêng liêng của đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất, chương 2, câu 2).
Mỗi một con dân Chúa muốn lớn lên trong đời sống tin kính của mình, muốn được “tầm thước, vóc giạc” trong Đấng Christ thì thiết tưởng không có cách nào khác hơn là mỗi ngày cần phải đọc, học và suy gẫm Lời Chúa, rồi vâng giữ, làm theo. Nếu không làm như thế, thì rất khó để có thể lớn lên trong Ngài.
Còn nhớ Tiên Tri Giê-rê-mi ngày xưa đã để lại cho chúng ta một tấm gương về sự ham thích Lời Đức Chúa Trời: “Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng, hớn hở của lòng tôi vậy” (Sách Giê-rê-mi, chương 15, câu 16).
Còn nhớ người Bê-rê ngày xưa đã nhờ vào việc “ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh”, nên họ mới trưởng thành thuộc linh, đến mức độ có đủ khả năng để “xem xét lời giảng” của các Sứ Đồ, các Mục Sư là có thật chăng? (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 17, câu 11).
Nếu con dân Chúa ngày hôm nay, ai cũng có tinh thần ham thích Lời Chúa như Tiên Tri Giê-rê-mi, như người Bê-rê ngày xưa thì chắc chắn Hội Thánh của Chúa sẽ được phước rất nhiều; vì nhiều người sẽ hiểu được Đạo Công Bình và biết góp phần vào sự hầu việc Chúa trong nhà của Ngài.
Đi dự Hội Đồng Tin Lành để được nghe bài giảng của các Mục Sư được ơn giảng dạy là điều quý. Những bài giảng đó có thể là những... bữa tiệc thuộc linh nhiều chất bổ dưỡng cho linh hồn mình, làm tươi mới tâm linh mình. Nhưng để trưởng thành trong đời sống đức tin thì mỗi một tín nhân phải dành những thì giờ riêng tư để đọc, học, suy gẫm lời Chúa mỗi ngày, rồi áp dụng vào trong đời sống. Không làm như thế thì tín nhân không thể lớn lên được, cho dù có đi dự Hội Đồng bao nhiêu lần trong cuộc đời đi nữa. Không làm như thế thì tín nhân mãi mãi cứ ở trong tình trạng “con đỏ thuộc linh”, uống sữa hoài, vì còn là thơ ấu, chứ không thể nào “ăn được đồ ăn đặc”. Kinh Thánh cho biết: “Vả, kẻ nào chỉ ăn sữa thôi, thì không hiểu đạo công bình, vì còn là thơ ấu. Nhưng đồ ăn đặc là để cho kẻ thành nhân, cho kẻ hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 5, câu 13, 14).
Mỗi năm, được ăn một vài...bữa tiệc thuộc linh qua kỳ Hội Đồng; thậm chí mỗi tuần, được ăn một...bữa tiệc thuộc linh qua Mục Sư Quản Nhiệm Hội Thánh, thì một tín nhân cũng không thể nào...đủ dinh dưỡng để nuôi sống tâm linh mình suốt tuần được cả, chứ nói chi đến chuyện lớn lên.
Giống như mỗi một người trong chúng ta phải ăn uống mỗi ngày mới có thể lớn lên được thể nào, thì một tín nhân cũng phải "ăn nuốt" Lời Chúa mỗi ngày thì mới có thể lớn lên trong sự hiểu biết Chúa thể ấy.
Không ai có thể sống và lớn lên nhờ lâu lâu được đi ăn một vài... bữa tiệc cả; mà người ta sống và lớn lên là nhờ vào những bữa ăn hằng ngày của họ vậy.
Hẳn là bạn đồng ý với tôi điều đó!
Mỗi một tín nhân phải được lớn lên trong sự hiểu biết Chúa, đó là ý muốn của Ngài vậy. Lời Chúa dạy: “Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc” (Sách Ê-phê-sô, chương 4, câu 14).
Cầu xin Chúa ban phước cho mỗi một con dân Ngài để mỗi một chúng ta sẽ biết dành thì giờ riêng tư mỗi ngày đọc, học, suy gẫm Lời Chúa và làm theo, hầu đời sống thuộc linh của mỗi chúng ta được lớn lên, tầm thước vóc giạc trong Ngài.
California, Tháng 7/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 377
Chuyện Về... Cõi Vĩnh Hằng
Kinh Thánh: Thi-thiên 53: 1; Ma-thi-ơ 10: 28; 16: 26; Lu-ca 12: 16-26
Khi có một ai đó qua đời, người ta thường hay có những lời tiễn biệt như sau:
- “Vĩnh biệt Ông/ Anh! Cầu chúc linh hồn Ông/ Anh được bình yên nơi cõi vĩnh hằng!”
- “Vĩnh biệt Ông/ Anh! Cầu chúc hương hồn Ông/ Anh được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng!”
- “Mãi mãi vắng bóng Ông/ Anh! Cầu chúc linh hồn Ông/ Anh được siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng!”
Và còn nhiều câu tiễn biệt khác tương tự như thế nữa!
Tựu trung lại là những lời chúc, những mong ước tốt lành dành cho người đã qua đời đến được nơi ở vĩnh hằng (đời đời) mới được bình yên, siêu thoát; không bị đọa đày nơi khốn khổ, hay bị làm một kiếp nào đó tồi tệ, thấp kém hơn kiếp người theo như quan niệm luân hồi của nhà Phật!
Chúc là một chuyện, mong ước là một lẽ; nhưng người được chúc có đạt được như lời chúc, lời mong ước đó hay không lại là một chuyện khác. Người chúc cũng không có quyền quyết định cho lời chúc, lời mong ước của mình phải đạt được như mình mong muốn. Và người được chúc cũng chưa chắc đã nhận được đúng như những gì người ta chúc đâu. Cả hai (người chúc và người được chúc) đều không có quyền quyết định.
Kinh Thánh cho chúng ta biết có một Đấng duy nhất có quyền quyết định số phận linh hồn mỗi một con người khi qua đời:
“Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn; nhưng thà sợ Đấng làm cho mất được linh hồn và thân thể trong địa ngục” (Sách Ma-thi-ơ, chương 10, câu 28).
Đấng duy nhất có quyền bỏ cả linh hồn và thân thể con người chúng ta vào trong Địa Ngục đó chính là Đức Chúa Trời.
Lý do duy nhất mà Đức Chúa Trời có quyền bỏ linh hồn và thân thể một con người nào đó vào Địa Ngục là vì họ chối bỏ Con của Ngài là Chúa Giê-su, như lời Kinh Thánh khẳng định:
“Ai tin Con (tức Đức Chúa Giê-su), thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời chính là sự đoán phạt của Ngài trên người đó ở trong hồ lửa đời đời) (Sách Giăng, chương 3, câu 36).
Chúng ta được Lời Chúa dạy rằng, Đức Chúa Trời sắm sẵn Hồ Lửa đời đời là để hình phạt ma quỷ và những quỷ sứ thuộc hạ của nó:
“Còn ma quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm, trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời. Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở trên; trước mặt Ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa, và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa, là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy. Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. Đoạn, Sự Chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa” (Sách Khải Huyền, chương 20, câu 10 đến 15).
Qua phân đoạn Kinh Thánh trên, chúng ta cũng được biết con người không tin Chúa sẽ phải chịu hai lần chết.
Lần chết thứ nhất là chết cái thân thể tro bụi nầy.
Dù anh là ai, làm gì và ở đâu, đến thời điểm Đức Chúa Trời rút linh hồn lại, thì anh phải... ngoan ngoãn mà ra đi, không cưỡng lại được, vì đó là luật định của Đức Chúa Trời:
“Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 9, câu 27).
Lần chết thứ nhất nầy thì mọi người đều phải trải qua, cả người tin Chúa lẫn người không tin Chúa.
Nhưng lần chết thứ hai là chết cả linh hồn và thân thể trong Hỏa Ngục đời đời thì chỉ dành cho những kẻ không tin thờ Đức Chúa Giê-su. Như Lời Kinh Thánh đã dạy: “Kẻ nào không được biên tên vào sách sự sống thì bị ném xuống Hồ Lửa”
Sách sự sống là quyển sách đặc biệt của Đức Chúa Trời dành để ghi tên tất cả những người đã tin thờ Chúa Giê-su khi còn sống trên trần gian.
Nếu khi còn sống trên trần gian mà anh không quan tâm tìm kiếm sự cứu rỗi cho linh hồn mình, mà chỉ lo tranh giành quyền lực, địa vị, chức tước, tham quyền cố vị cho đến chết, thì khi qua đời, chắc chắn cả linh hồn và thân thể đều phải chịu sự đoán phạt kinh khiếp của Đức Chúa Trời trong Hồ Lửa đời đời, vì không có tên được ghi trong sách sự sống của Đức Chúa Trời.
Đó chính là sự công bình của Đức Chúa Trời vậy!
Xưa nay, không ít người, sống không hề quan tâm đến sự cứu rỗi linh hồn. Họ chỉ chăm chăm lo làm sao cho thân thể mình được vinh hoa, phú quý, có được quyền cao, chức trọng; và tìm cách để giữ mãi chiếc ghế quyền lực mà mình cố công giành được. Nhiều người còn đáng sợ hơn là phủ nhận cả sự cứu rỗi linh hồn. Họ đi theo một chủ thuyết gọi là duy vật, chỉ quan tâm đến đời nầy mà phủ nhận giá trị của cõi đời đời.
Chúa Giê-su tuyên bố những người chỉ lo quan tâm đến cuộc sống đời tạm nầy mà không quan tâm đến sự cứu rỗi linh hồn là những người dại dột:
“Ngài lại phán cùng chúng lời ví dụ nầy: Ruộng của một người giàu kia sinh lợi nhiều lắm, người bèn tự nghĩ rằng: Ta phải làm thể nào? Vì không có đủ chỗ chứa hết sản vật. Lại nói: Nầy, việc ta sẽ làm: ta phá cả kho tàng và cất cái khác lớn hơn, thâu trữ sản vật và gia tài vào đó; rồi sẽ nói với linh hồn ta rằng: Linh hồn ơi, mầy đã được nhiều của để dành dùng lâu năm; thôi, hãy nghỉ, ăn uống, và vui vẻ. Song Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: Hỡi kẻ dại! Chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai? Hễ ai thâu trữ của cho mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời thì cũng như vậy” (Sách Lu-ca, chương 12, câu 16 đến 21).
Kinh Thánh nhiều lần xác nhận lời Đức Chúa Trời tuyên bố với những người không tin thờ Ngài là ngu dại, là dại dột: “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời. Chúng nó đều bại hoại, phạm tội ác gớm ghiếc. Chẳng có ai làm điều lành” (Sách Thi-thiên, chương 14, câu 1, và chương 53, câu 1).
Vì sao không tin thờ Đức Chúa Trời là dại dột? Vì không tin thờ Chúa thì cả thân thể và linh hồn đều phải bị đoán phạt trong Hồ Lửa đời đời đau khổ, thì rõ ràng là quá dại dột, chứ còn gì nữa.
Chúa Giê-su đã từng phán rất rõ ràng rằng: “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Sách Ma-thi-ơ, chương 16, câu 26).
Không có gì đau khổ và đáng sợ hơn cho một người mà linh hồn phải bị đoán phạt đời đời trong Hồ Lửa có diêm cháy bừng bừng cả ngày lẫn đêm, không bao giờ dứt.
Khi một người qua đời thì linh hồn họ sẽ đi về một trong hai cõi vĩnh hằng: Cõi vĩnh hằng phước hạnh, và cõi vĩnh hằng bất hạnh.
Cõi vĩnh hằng phước hạnh chính là Thiên Đàng, nơi có Chúa Giê-su ngự. Những người tin Chúa Giê-su khi còn sống thì khi qua đời, chắc chắn linh hồn họ sẽ về nơi cõi vĩnh hằng phước hạnh để ở với Chúa Giê-su đời đời trong sự vui mừng trường cửu.
Còn cõi vĩnh hằng bất hạnh chính là Hồ Lửa là nơi có sự hiện diện của Sa-tan và quỷ sứ của nó. Những người không tin thờ Chúa Giê-su khi còn sống, thì khi qua đời, chắc chắn linh hồn họ sẽ đi về trong cõi vĩnh hằng bất hạnh để ở với ma quỷ đời đời trong sự khóc lóc và nghiến răng.
Khi còn sống, nếu bạn chối từ Chúa Giê-su, không mời Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời, thì khi qua đời, linh hồn bạn chắc chắn sẽ phải đi vào cõi vĩnh hằng bất hạnh, không thể nào khác được; và cũng không ai có thể chúc bạn đi về cõi vĩnh hằng phước hạnh được đâu.
Bạn và tôi hãy nhớ lấy chân lý quan trọng nầy: Cõi vĩnh hằng phước hạnh chỉ dành cho những người tin Chúa Giê-su khi còn sống trên trần gian tạm bợ nầy đến ở sau khi họ qua đời.
Ma quỷ luôn luôn tìm cách lừa dối, ngăn trở con người không tin thờ Chúa Giê-su để rồi sẽ cùng chung số phận với nó trong cõi vĩnh hằng bất hạnh mà thôi!
Trước khi kết thúc bài viết nầy, xin gởi đến bạn một đoạn lời trong một bài Thánh Ca kinh điển có tựa đề “Tuy Tôi Có Cả Thiên Hạ” rất ý nghĩa như sau:
Tuy tôi có cả thiên hạ nhưng mất Giê-su,
Vui chăng sống bơ vơ một ngày vô chủ?
Tâm khao khát an ninh và yên ủi đêm ngày,
Nhưng trong thế gian đây tìm được gì nay?
Nếu có thế gian mà mất Chúa muôn muôn thì,
Vinh hoa ấy đâu cần đời tranh đấu nhỉ?
Các thú vui trong trần thế há đem so bằng,
Đôi giây phút yên vui đời đầy Christ chăng?
Trân trọng tha thiết mời bạn hãy đem lòng tin trọn vẹn mà tin nhận Chúa Giê-su ngay khi còn có hơi thở trong lỗ mũi như tôi bạn nhé; đừng nghe theo lời lừa dối của Sa-tan để rồi linh hồn mình phải chịu đau đớn trong cõi vĩnh hằng bất hạnh kinh khiếp!
Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho bạn và linh hồn quý giá của bạn, cũng như Ngài đã ban phước cho tôi và cứu rỗi linh hồn của tôi vậy!
California, Tháng 7/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 378
Chuyện... Luật Pháp Và... Ân Điển
Kinh Thánh: Ma-thi-ơ 18: 23-35; Ga-la-ti 3: 24; 5: 18
Luật pháp và ân điển là hai thuật ngữ thần học được bày tỏ trong Kinh Thánh.
Luật pháp nói đến những luật lệ và phép tắc mà con người phải tuân theo để được sống bình yên và vui vẻ. Hầu như quốc gia nào cũng có hiến pháp và luật pháp để người lãnh đạo điều hành đất nước và giữ gìn trật tự, kỹ cương của xã hội. Một trong những bộ luật lâu đời nhất trên thế giới là luật của Môi se được ghi lại trong Kinh Thánh Cựu Ước. Nhiều quốc gia đã dựa trên bộ luật quan trọng nầy để làm ra luật pháp cho quốc gia của mình, trong đó có nước Mỹ.
Có thể nói, nước Mỹ là một quốc gia ngay từ khi thành lập đã đặt luật pháp của quốc gia mình trên nền tảng là Kinh Thánh. Nước Mỹ được mệnh danh là “Một Quốc Gia Dưới Quyền Đức Chúa Trời”
Ở trên đồng tiền đô-la của mình, nước Mỹ đã cho in trang trọng dòng chữ IN GOD WE TRUST (Nghĩa là CHÚNG TÔI TIN CẬY ĐỨC CHÚA TRỜI). Không có đồng tiền của quốc gia nào đặc biệt như thế! Điều đó nói lên tấm lòng biết nhờ cậy Đức Chúa Trời của người Mỹ, cũng như người Do-thái luôn luôn biết tin cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ vậy.
Luật pháp của người Do-thái được ghi lại trong Kinh Thánh có ít nhất 613 điều mà con người phải tuân giữ và làm theo để cuộc đời của họ được bình yên và phước hạnh, trong đó có 248 điều nên làm, và 365 điều không nên làm.
Còn Ân điển là nói đến đặc ân, hay phước hạnh đặc biệt mà Đức Chúa Trời ban cho người không xứng đáng nhận lại được nhận. Hay nói cách khác, ân điển là khi Chúa chọn ban phước cho chúng ta thay vì đoán phạt chúng ta vì những tội lỗi của mình. Đó chính là sự nhân từ lớn lao của Đức Chúa Trời đối với những tội nhân đáng chết. Đặc ân hay phước hạnh đặc biệt đó là gì? Đó chính là món quà cứu rỗi được ban cho không điều kiện trong Đấng Christ khi tội nhân đón nhận nó bằng đức tin.
Khi nói đến luật pháp là nói đến Môi se, còn khi nói đến ân điển là nói đến Chúa Giê-su. Kinh Thánh cho biết: “Luật pháp đã ban cho bởi Môi se, còn ơn (ân điển) và lẽ thật bởi Đức Chúa Giê-su Christ mà đến” (Sách Giăng, chương 1, câu 17).
Luật Môi se chỉ cho con người thấy tội lỗi và cho họ biết họ cần phải có Đấng Christ. Nếu không có luật pháp thì con người không thấy tội lỗi. Luật pháp chỉ cho con người biết họ là tội nhân. Chúa Giê-xu đã tuyên bố Ngài đến không phải để phá hủy nhưng làm cho trọn luật pháp. Điều nầy rất quan trọng, bởi vì có nhiều người nghĩ rằng việc giữ luật pháp Môi-sẽ có thể mang đến sự cứu rỗi cho họ; nhưng Kinh Thánh cho biết sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin mà thôi: “Áp ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sách Sáng Thế Ký, chương 15, câu 6).
Cũng một thể ấy, hệ thống của tế lễ trong luật pháp Môi se không thể xóa sạch tội lỗi như Kinh Thánh đã chép: “Vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được” (Sách Hê-bơ-rơ, chương 10, câu 4). Nó chỉ là hình bóng về sự gánh tội của Đấng Christ mà thôi. Tự bản thân luật pháp không có vấn đề, vì luật pháp là tốt lành vì được ban cho bởi Đức Chúa Trời: “Ấy vậy, luật pháp là thánh, điều răn cũng là thánh, công bình và tốt lành” (Sách Rô-ma, chương 7, câu 12); nhưng Luật pháp không có khả năng để ban cho con người sự sống mới, và trên một phương diện khác, con người với bản chất yếu đuối của mình, cũng không đủ sức để làm theo Luật pháp một cách trọn vẹn được: “Vì người nào giữ trọn luật pháp mà phạm một điều răn, thì cũng đặng tội như đã phạm hết thảy” (Sách Gia-cơ, chương 2, câu 10).
Nhưng có một Tin Mừng cho con người chúng ta, đó là Đức Chúa Giê-su Christ đã được “sinh ra dưới luật pháp để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp” là chúng ta (Sách Ga-la-ti, chương 4, câu 4).
Sứ Đồ Phao-lô đã từng viết: "Nhưng nếu anh em được Thánh Linh dắt dẫn thì chẳng ở dưới luật pháp đâu, nhưng ở dưới ân điển" (Sách Ga-la-ti, chương 5, câu 18). Nhờ đặt đức tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ, chúng ta không còn ở dưới luật pháp nữa, nhưng trái lại, luật pháp đang “ở dưới” chúng ta vậy.
Nói như thế thì luật pháp có còn cần thiết cho chúng ta nữa không? Cần chứ!
Luật pháp giống như chiếc gương soi chỉ cho chúng ta thấy tội lỗi. Khi chúng ta soi mặt mình vào gương, chúng ta thấy vết nhơ. Tấm gương chỉ cho chúng ta thấy vết nhơ, chứ không làm sạch vết nhơ cho chúng ta được.
Tương tự, luật pháp chỉ cho chúng ta thấy tội lỗi, chứ không làm sạch tội lỗi chúng ta được. Luật pháp dẫn chúng ta đến với Đấng Christ, Đấng duy nhất có thể làm sạch mọi tội lỗi chúng ta: “Luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Đấng Christ, hầu cho chúng ta bởi đức tin mà được xưng công bình” (Sách Ga-la-ti, chương 3, câu 24).
Nếu luật pháp chỉ tội chúng ta, thì Đấng Christ tha tội chúng ta.
Chúng ta yếu đuối, không thể làm trọn luật pháp được, thì Đấng Christ đến để làm trọn luật pháp thay cho chúng ta. Đức Chúa Trời biết điều đó, nên Ngài làm điều mà con người không làm được: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Sách Rô-ma, chương 5, câu 8).
Thật đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “vì luật pháp đã ban cho bởi Môi se, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Giê-su Christ mà đến”( Sách Giăng, chương 1, câu 17).
Chúa Giê-su Christ đã ban ân điển cho chúng ta. Bởi ân điển đó, Ngài đã buông tha cho chúng ta được tự do rồi. Cho nên, chúng ta không còn phục dưới luật pháp nữa, nhưng phục dưới ân điển của Ngài.
Hãy biết rõ điều đó để được sống tự do, vui mừng và bình an trong ân điển của Đức Chúa Giê-su Christ, đừng để gánh nặng luật pháp đè nặng cuộc đời chúng ta nữa, sau khi chúng ta đã thuộc về Chúa Giê-su Christ và ở trong ân điển vô lượng vô biên của Ngài.
Không ít người đã được cứu nhờ ân điển bởi đức tin nơi Chúa Giê-su rồi lại còn cứ muốn trở về giữ luật pháp mới cảm thấy yên tâm về sự cứu rỗi của mình. Nếu chúng ta làm như thế là chúng ta đang làm cho Chúa buồn lòng, và xem thường sự chết chuộc tội của Đấng Christ. Phao-lô khẳng định: “Tôi không muốn làm cho ân điển Đức Chúa Trời ra vô ích; vì nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Đấng Christ chịu chết là vô ích” (Sách Ga-la-ti, chương 2, câu 21).
Nhân nói chuyện về luật pháp và ân điển, chợt nhớ đến câu chuyện Chúa Giê-su kể như sau:
“Vậy nên, nước thiên đàng giống như vua kia, muốn tính sổ với các đầy tớ mình. Khi vua khởi soát sổ, thì có người đem nộp một tên kia mắc nợ vua một vạn ta-lâng. Bởi vì người chẳng có gì mà trả, thì chủ dạy bán người, vợ con và gia tài người, đặng trả nợ. Kẻ đầy tớ nầy bèn sấp mình xuống nơi chân chủ mà xin rằng: Thưa chủ, xin giãn cho tôi, thì tôi sẽ trả hết! Chủ bèn động lòng thương xót, thả người về, và tha nợ cho. Nhưng khi đầy tớ đó ra về, gặp một người trong bạn làm việc, có thiếu mình một trăm đơ-ni-ê, thì nắm bóp cổ bạn mà nói rằng: Hãy trả nợ cho ta! Người bạn sấp mình xuống mà nài xin rằng: Xin giãn cho tôi, thì tôi sẽ trả cho anh. Song người chẳng khứng, cứ việc bắt bỏ tù cho đến khi trả hết nợ. Các bạn thấy vậy, buồn lắm, đến thuật lại cùng chủ mình mọi điều đã xảy ra. Chủ bèn đòi đầy tớ ấy đến mà nói rằng: Hỡi đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi cầu xin ta; ngươi há lại chẳng nên thương xót bạn làm việc ngươi như ta đã thương xót ngươi sao? Chủ nổi giận, phú nó cho kẻ giữ ngục cho đến khi nào trả xong hết nợ. Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy” (Sách Ma-thi-ơ, chương 18, câu 23 đến 35).
Câu chuyện có ý nghĩa thật sâu sắc.
Nhiều người trong chúng ta dầu đã được Chúa tha thứ hết tội lỗi rồi, nhưng vẫn còn sống trong tinh thần luật pháp với anh em của mình, đối xử với anh em mình... nặng mùi của luật pháp.
Chúa đã tha thứ hết mọi tội lỗi xấu xa của chúng ta. Ngài quăng nó khỏi xa chúng ta như phương Đông xa cách phương Tây vậy, không nhớ đến tội lỗi chúng ta nữa; nhưng chúng ta thì lại không tha thứ những lỗi lầm nhỏ của anh em mình. Chúng ta thường hay bắt tội anh em mình từng những sai phạm nhỏ nhặt trong đời sống.
Nhiều người trong chúng ta muốn người khác đối xử cách nhân từ, ân điển với mình khi mình phạm lỗi với họ; nhưng rồi mình lại đối xử với anh em mình theo cách luật pháp khi họ phạm lỗi gì đó với mình.
Đó là điều Chúa không vui lòng chút nào!
Chúa muốn chúng ta là con cái Ngài: “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Sách Ê-phê-sô, chương 4, câu 32).
Nếu chúng ta không chịu tha thứ cho anh em mình thì chúng ta sẽ bị Chúa xét đoán. Chính Chúa đã phán: “Vì các ngươi đoán xét người ta thể nào, thì họ cũng đoán xét lại thể ấy. Các ngươi lường cho người ta mực nào, thì họ cũng lường lại cho mực ấy” (Sách Ma-thi-ơ, chương 7, câu 2).
Xin Chúa thương xót và cho mỗi người trong chúng ta biết sống và đối xử với nhau trong ân điển và trong lẽ thật của Ngài, chứ đừng lúc nào cũng đem luật pháp ra mà chỉ trích nhau và lên án nhau nữa!
California, Tháng 7/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 379
Chuyện... Từ Bỏ Và... Nắm Giữ
(Viết Nhân Kỳ Bầu Cử Tổng Thống Mỹ Năm 2024!)
Kinh Thánh: Lu-ca 9: 23; Phi-líp 2: 7-11; II Phi-e-rơ 1: 5-7
Nước Mỹ đang hiện đang ở trong thời kỳ rất sôi động của cuộc bầu cử Tổng Thống năm nay.
Ngày 13 Tháng Bảy vừa qua, một sự cố xảy ra làm chấn động cả thế giới, ấy là Cựu Tổng Thống Donald Trump trong khi đang phát biểu tại một cuộc vận động tranh cử của mình, đã bị một tay sát thủ rất trẻ mới 20 tuổi ám sát bằng một loạt đến 8 viên đạn; nhưng không lấy được mạng sống ông. Ông chỉ bị thương nhẹ nơi vành tai bên phải bởi một viên đạn sợt vào.
Đối thủ của Cựu Tổng Thống Trump trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm nay là đương kim Tổng Thống Joe Biden.
Hai vị đã có một cuộc tranh luận đầu tiên nẩy lửa vào cuối tháng Sáu vừa qua, và dư luận chung đều cho thấy rằng Cựu Tổng Thống Donald Trump đã ở thế thượng phong trong cuộc tranh luận đó. Tổng Thống Biden đã bị nhiều người trong Đảng Dân Chủ của ông tỏ ra không bằng lòng, và chỉ trích ông là đã thất bại trong cuộc tranh luận với đối thủ Donald Trump. Nhiều nhân vật có tiếng nói trong Đảng Dân Chủ đã lên tiếng kêu gọi ông nên dừng cuộc đua, để Đảng lựa chọn nhân vật khác thay thế làm ứng cử viên Tổng Thống cho Đảng của mình, hầu đủ sức đối đầu với ứng cử viên kỳ cựu của Đảng Cộng Hòa, một người đã từng là Tổng Thống của nước Mỹ cách đây mấy năm mà thôi.
Vào ngày 21 Tháng Bảy, Tổng Thống Biden sau một thời gian cân nhắc, đã can đảm công bố trước quốc dân rằng ông quyết định từ bỏ cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc năm nay, và giới thiệu đương kim Phó Tổng Thống Kamala Harris làm ứng viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ thay thế ông. Phó Tổng Thống Kamala Harris đã vui mừng và sẵn sàng nhận lấy nhiệm vụ to lớn nầy từ người sếp của mình trao lại. Ngay sau đó, bà Phó Tổng Thống đã có cuộc vận động tranh cử và đã dành được hơn phân nửa sự đồng ý của 3, 896 đại biểu Đảng viên Đảng Dân Chủ.
Nếu không có gì thay đổi, thì bà Kamala Harris, 59 tuổi, sẽ là ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ để đối đầu với ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Cộng Hòa là Cựu Tổng Thống Donald Trump, 78 tuổi. Kamala Harris là người được biết đến như là người rất mạnh mẽ ủng hộ quyền phá thai của nữ giới.
Việc Tổng Thống Biden quyết định dừng việc tranh cử chức Tổng Thống Mỹ vào tháng 11 năm nay đã được nhiều người trong Đảng Dân Chủ khen ngợi, và cho đó là một quyết định sáng suốt vì đất nước và người dân Mỹ. Dầu như thế nào đi nữa, thì không ít người dân Mỹ cũng có thể đã đánh giá ông là người... không tham quyền cố vị, là người biết dừng và lui lại phía sau (dù chậm còn hơn không) để nhường chỗ cho những người trẻ hơn, có tiềm năng hơn lên thay thế mình, lãnh đạo đất nước.
Một trong những điều rất khó từ bỏ nơi một con người, đó là quyền lực một khi họ nắm được nó trong tay.
Có không ít người, dù là ở ngoài xã hội hay là trong tôn giáo, khi có được quyền lực tột đỉnh trong tay rồi, thì cố nắm giữ cho đến chết, chứ không bao giờ chịu buông bỏ. Có người còn tệ hại hơn là sửa đổi cả Hiến chương, Điều lệ để tiếp tục giữ khư khư chiếc ghế quyền lực trong tay mình. Cho nên, việc Tổng Thống Biden... can đảm từ bỏ cuộc đua vào chiếc ghế quyền lực nhất tại Tòa Bạch Ốc của nước Mỹ cũng là điều đáng khen vậy.
Biết sức của mình và biết lúc nào phải dừng lại, phải từ bỏ để dành chỗ cho người khác có thể làm được việc đó tốt hơn mình, không phải là điều dễ làm, nếu không có... dũng khí.
Một trong những điều khó từ bỏ nhất, đó là từ bỏ cái tôi của mình, cái bản ngã của mình. Ai đó đã nói rằng “Cái tôi rất đáng ghét” (nhưng đó là cái tôi của kẻ khác, chứ cái tôi của... mình thì lại rất... đáng yêu).
Chúa Giê-su dạy người theo Ngài phải từ bỏ cái tôi của mình mới có thể theo Ngài được: “Nếu ai muốn theo Ta, thì phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Sách Lu-ca, chương 9, câu 23).
Từ bỏ mình đi, tức là từ bỏ cái tôi, cái bản ngã của mình, cái mà người ta nói một cách văn chương bóng bẫy là cái “thị dục huyễn ngã”. “Thị dục huyễn ngã” là một trong những cái... khó từ bỏ nhất nơi con người. Không từ bỏ được cái tôi của mình thì không thể nào đủ sức để mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Chúa được, vì vác mình cái tôi của mình đã hết sức rồi, còn sức đâu để vác thập tự giá mà theo Chúa nữa. Chúa biết điều đó, nên Chúa mới dạy người theo Ngài phải từ bỏ cái tôi của mình trước khi theo Ngài vậy.
Chính Chúa Giê-su, Ngài cũng đã làm gương tự bỏ mình đi cho chúng ta noi theo:
“Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người. Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 7, 8)
Ngài không chỉ tự bỏ mình trong vai trò là Đức Chúa Trời, bình đẳng với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh để xuống thế làm người, mà Ngài còn tự hạ mình xuống, chấp nhận làm đại tội nhân (mặc dù Ngài hoàn toàn vô tội) để chết trên thập tự giá, một cái chết nhục nhã nhất.
Chính vì sự tự bỏ mình và tự hạ mình tuyệt vời đó của Chúa Cứu Thế mà “Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-su Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Sách Phi-líp, chương 2, câu 9 đến 11).
Nếu Chúa Giê-su mà... tham quyền cố vị, thì Ngài chẳng bao giờ từ bỏ ngai vàng cao sang vinh hiển tột đỉnh trên Thiên Đàng, để xuống trần gian thấp hèn tột cùng nầy làm người, và mang lấy danh hiệu “đại tội nhân” làm gì cho... khổ tấm thân Ngài. Và nếu Ngài không xuống từ bỏ địa vị cao sang tột đỉnh mà Ngài đang có đó, thì tất cả nhân loại phải chấp nhận án chết và bị đoán phạt đời đời nơi Hỏa Ngục do tội lỗi của chính mình.
Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời đã ban Chúa Cứu Thế Giê-su cho chúng ta, và tạ ơn Đức Chúa Giê-su đã vui lòng từ bỏ tất cả để cứu nhân loại tội lỗi nầy!
Người ngoài Chúa tham quyền cố vị, tìm mọi cách bám giữ quyền lực để hưởng bổng lộc, để có điều kiện làm giàu cho mình và cho gia đình mình, âu cũng là điều không có gì là khó hiểu lắm, vì đó là sự tham dục của thế gian.
Nhưng có không ít người dù đã tin Chúa rồi, đã trở thành những Mục Sư, ngay cả là Mục Sư lãnh đạo Giáo Hội nữa; lại không học theo gương từ bỏ của Chúa Giê-su để sống và hầu việc Ngài, mà lại luôn luôn muốn có thêm cho mình những quyền lực trong Giáo Hội, kiêm thêm chức vụ nầy chức vụ kia, và... giữ mãi những chức vụ đó cho đến khi không còn có thể giữ được nữa (hoặc cho đến chết), mới chịu buông ra mà thôi. Chẳng lẽ nào chỉ có họ mới đủ tài năng để đảm nhận những chức vụ đó thôi hay sao???
Hình ảnh của Phao-lô hiện lên trong bài giảng dành cho các Mục Sư tại thành Ê-phê-sô ngày xưa là một hình ảnh thật cảm động và đáng cho những người hầu việc Chúa noi theo biết bao:
“Bây giờ, tôi giao phó anh em cho Đức Chúa Trời và cho đạo của ơn Ngài, là giao phó cho Đấng có thể gây dựng và ban gia tài cho anh em chung với hết thảy những người được nên thánh. Tôi chẳng ham bạc, vàng, hay là áo xống của ai hết” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 20, câu 32, 33).
Phao-lô là người đã được Chúa dùng mở mang và gây dựng rất nhiều Hội Thánh trong thời của ông; nhưng Phao-lô không hề công thần địa vị với họ, cũng không hề tham quyền cố vị, cố nắm giữ quyền lực trên họ. Ông giao phó họ cho Đức Chúa Trời và cho đạo của ơn Ngài (nghĩa là cho Lời Kinh Thánh). Ông hoàn toàn tin vào Đấng có thể gây dựng họ và Lời có thể gây dựng họ đó chính là Đấng mà ông đã tin và Lời mà ông đã giảng. Phao-lô không muốn tạo ảnh hưởng của mình trên bất cứ ai cả. Ông chỉ muốn chính Chúa và Lời của Ngài ảnh hưởng trên đời sống của họ thôi.
Phao-lô không tham lam bạc, vàng hay áo xống của người nào cả. Ông không lợi dụng lòng tốt của những người mà chính ông đã đem họ đến với Chúa.
Với Phao-lô, ông từ bỏ tất cả mọi sự của thế gian, ông chỉ... ham nắm giữ lấy Chúa Giê-su Christ và Chúa Giê-su Christ bị đóng đinh trên thập tự giá mà thôi: “Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Giê-su Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ” (Sách Phi-líp, chương 3, câu 7, 8).
Thật đáng buồn, có không ít người hầu việc Chúa ngày hôm nay vẫn còn ham đủ thứ thuộc về thế gian nầy, vẫn luôn luôn muốn thêm nhà vào nhà, thêm đất vào đất, thêm xe vào xe, thêm tiền vào tiền, thêm quyền vào quyền, thêm chức vào chức; chứ chẳng hề muốn từ bỏ bớt “gánh nặng dễ vấn vương” ấy chút nào!
Trong khi đó điều Chúa muốn con dân Ngài thêm vào trong đời sống đức tin, ấy là: “về phần anh em, phải gắng hết sức thêm cho đức tin mình sự nhân đức, thêm cho nhân đức sự học thức, thêm cho học thức sự tiết độ, thêm cho tiết độ sự nhịn nhục, thêm cho nhịn nhục sự tin kính, thêm cho tin kính tình yêu thương anh em, thêm cho tình yêu thương anh em lòng yêu mến.” (Sách Phi-e-rơ thứ nhì, chương 1, câu 5 đến 7), thì lại không thấy họ... thêm vào được bao nhiêu cả.
Tổng Thống Biden cuối cùng rồi ông cũng quyết định từ bỏ cuộc chạy đua vào ghế Tổng Thống Mỹ nhiệm kỳ 2, nhường chỗ cho một người trẻ hơn tiếp bước mình trong cuộc chay đua đầy khó khăn sắp tới vào chức vụ Tổng Thống của cường quốc số một thế giới.
Được biết, cách đây hơn 200 năm, Tổng Thống đầu tiên của Mỹ là Geogre Washington đã từng từ chối ra tranh cử chức Tổng Thống nhiệm kỳ 3 theo lời kêu gọi của nhiều người dân Mỹ, vì họ thấy được tầm vóc và nhân cách của ông . Vào thời điểm đó, Hiến Pháp nước Mỹ chưa có quy định giới hạn về nhiệm kỳ của Tổng Thống, nhưng ông Washington đã quyết định rút lui, vì tin chắc còn nhiều người khác có tài năng và nhân cách hơn mình. Một con người không tham quyền cố vị như Washington thật đúng là một nhân cách lớn đáng cho hậu thế học hỏi vậy.
Cầu xin Chúa cho mỗi một chúng ta nhờ ơn và sức của Chúa để từ bỏ bớt đi những ham muốn, những tham dục của thế gian, và quyết nắm giữ lấy Chúa Giê-su cùng Đạo của ân điển Ngài, hầu cho chúng ta có thể theo đòi cuộc chạy đua thuộc linh một cách tốt nhất, kết quả nhất!
California, Đầu Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 380
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 1)
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 3: 19; Ê-sai 29: 6
Hầu như bất cứ người Việt nào cũng kêu “Trời ơi!”, dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù học thức hay bình dân...
Có người đã nhận xét:
“Dân Việt Nam là dân hữu thần, sống rất gần gũi với Trời. Từ khi chào đời tới khi qua đời, người ta nói rất nhiều tới Trời xanh cao cả trên đầu, qua trời xanh đó, người ta nhận rằng có Đấng tối cao dựng nên trời đất, cai quản vũ trụ, nhất là loài người”
Có thể nói, thờ Trời là một nhu cầu tâm linh không thể thiếu của tất cả các dân tộc trên thế giới từ xưa cho đến nay.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao con người lại có nhu cầu thờ Trời?
Câu trả lời không lấy gì làm khó khăn, ấy là tại vì chính Ông Trời đã sáng tạo nên con người cũng như muôn loài vạn vật.
Giống như con cái thì phải hiếu kính cha mẹ, mà không cần phải thắc mắc hay lý luận gì cả, bởi vì cha mẹ là người đã sinh thành, dưỡng dục mình; thì đã sinh ra làm người, con người phải thờ Trời là lẽ đương nhiên vậy.
Có một điều rất dễ thấy trong cuộc sống, cho dù bạn là ai, thuộc dân tộc nào trên thế giới nầy và đang theo một tôn giáo nào đi chăng nữa, khi gặp tai nạn hay chuyện gì bất trắc nguy hiểm đến tính mạng, thì tự nhiên người đó sẽ bật kêu lên mấy tiếng “Trời ơi, cứu tôi!”, chứ không kêu một ai khác. Vì sao? Câu trả lời cũng rất tự nhiên là vì chính Ông Trời đã tạo nên mình.
Tiếng kêu “Trời ơi!” và tâm thức thờ Trời đã được người Việt Nam thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
I. TÂM THỨC THỜ TRỜI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM QUA CA DAO, TỤC NGỮ:
1. Thờ Trời và Nhờ Trời:
Khi hạn hán, nắng nóng, thiếu nước để uống, để cày ruộng, thì người dân kêu cầu xin Ông Trời cho mưa xuống:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp!
“Lạy” là nói đến một hành động của sự thờ phượng. “Lạy” là tôn cao, suy phục một đối tượng đáng tôn trọng và đầy quyền năng. Đối tượng ở trong câu hát trên chính là Ông Trời.
Người Việt tin tưởng nơi tấm lòng tốt của Ông Trời dành cho người có chí hay lam hay làm:
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
“Hay làm thì giàu, có chí thì nên” là điều hữu lý, không ai không đồng ý.
Mặt khác, cho dù người ta có siêng năng, chăm chỉ bao nhiêu đi chăng nữa cũng không bằng Trời cho là sẽ không mấy hồi mà có của ăn của để:
Trời cho không thấy,
Trời lấy không hay.
Lý do ông cha ta dạy làm người thì phải nhờ Trời và phải thờ Trời là đây:
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có,
có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có,
làm sao có mình?
Mượn hình ảnh con chim hót trên cành cây để qua đó thể hiện tấm lòng biết đến nguồn cội, gốc rễ của mình. Nguồn cội của con người chính là Ông Trời. Gốc rễ của con người chính là Ông Trời.
Đó chính là sự tinh tế, sâu sắc của cha ông ta!
Nhìn lên núi, nhìn xuống sông, rồi nhìn ra biển thì sẽ biết có Ông Trời là Đấng tạo dựng:
Núi kia ai đắp nên cao,
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Hay nhìn gần hơn, nhỏ hơn, nhìn cái gai trên rừng, nhìn trái trên cây thì ta cũng biết mọi vật không thể tự nhiên mà có được như ta thấy:
Gai trên rừng ai mứt mà nhọn,
Trái trên cây ai vo mà tròn?
2. Kêu Trời:
Khi thấy có người... làm chơi mà ăn thiệt, ăn nên làm ra; có người thì làm đổ mồ hôi trán mà vẫn... thiếu ăn, người Việt than thở:
Trời sao Trời ở chẳng cân,
Kẻ ăn không hết, người lần không ra.
Đã đành rằng từ khi phạm tội, con người phải làm “đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Kinh Thánh); nhưng nên nhớ nếu Trời không cho mưa thuận gió hòa, thì cũng không có mùa màng tốt tươi, kết quả được. Và dẫu cho có mùa màng tốt tươi đó; nhưng Ông Trời làm cho một trận lụt, một cơn bão đổ xuống bất ngờ, thì cũng “của sông đổ biển” mà thôi, chỉ còn biết “giương hai mắt ếch” nhìn lên trời và... than Trời chứ còn biết làm chi hơn:
Của Trời, Trời lại lấy đi,
Giương hai mắt ếch làm chi được Trời?
Những cơn bão, những trận lụt thường đổ xuống đây đó gây thiệt hại, mất mát biết bao đồ của của con người, và cũng làm chết nhiều người nữa. Những “cơn giận” của thiên nhiên đó như những sự “thăm phạt” của Ông Trời đến với con người, vì những gì con người đã “đối xử” thiếu... nhân hậu với thiên nhiên, cây cỏ chung quanh mình:
Trời làm bão lụt mênh mông,
Sông khô hồ cạn, cá trên đồng còn chi.
Kinh Thánh cho biết: “Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ dùng sấm sét, động đất, tiếng ầm, gió lốc, bão, và ngọn lửa thiêu nuốt mà thăm phạt chúng nó” (Ê-sai, chương 29, câu 6).
Khi có một sự việc gì đó xảy ra ngoài ý muốn, và vượt xa khả năng giải quyết của con người, thì người dân Việt chỉ còn nước... khóc và...giậm chân kêu đến Ông Trời giúp đỡ chứ không còn biết phải làm chi hơn:
Hai hàng nước mắt rưng rưng,
Chàng xa, thiếp cách, giậm chân kêu trời.
Thái độ đau đớn với nước mắt chảy rưng rưng, và hành động “giậm chân” thể hiện sự bất lực không thể nào giữ được người yêu mình ở lại bên mình được. Trong hoàn cảnh ấy, người ta chỉ còn biết cách giải tỏa sự đau đớn và bất lực lên Ông Trời mà thôi.
Một tác giả đã có thống kê như sau:
Ca Dao miền Trung có 4309 lời có từ chỉ thiên nhiên, trong đó có 598 lời có từ trời. Trong 598 lời ca dao có từ trời này có đến gần một nửa số lời (267 lời) mà trong đó chữ trời không phải dùng để chỉ các hiện tượng tự nhiên mà để chỉ một Đấng siêu nhiên, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến ông Trời
Qua thống kê trên, chúng ta thấy, người Việt Nam phân biệt rất rõ giữa các hiện tượng thiên nhiên, giữa bầu trời với Ông Trời; có nghĩa là giữa tạo vật với Đấng Tạo Hóa:
Trời sinh có biển có nguồn,
Có ta, có bạn, có buồn nỗi chi.
Hay:
Trời sinh cái cực mần chi,
Bán thì nỏ được, cho thì không ai xin.
“Trời sinh” là nói đến Đấng Tạo Hóa, còn “biển”, “nguồn”, “ta”, “bạn” là tạo vật của Ngài vậy.
(Còn tiếp)
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 381
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 2)
Kinh Thánh: Thi-thiên 103: 6; Châm Ngôn 15: 3; Ga-la-ti 6: 7
(Tiếp theo phần 1)
3. Ý Người và Ý Trời:
Ý người không thể vượt qua ý Trời được, vì con người ở dưới đất, còn Ông Trời ở trên cao. Con người hữu hạn, còn Ông Trời là Đấng vô hạn.
Ý Trời là một trong những quan niệm của người dân Việt từ ngàn xưa. Tất cả mọi sự đều là ý Trời, do Ông Trời định đoạt, không ai có thể... vượt được quyền Tạo Hóa:
Tơi mang không cổ, nón đội không vành,
Ông Trời đã định, rách lành phải theo.
Hôn nhân vợ chồng, người Việt cũng cho rằng do Ông Trời định đoạt, do ý Ông Trời tác hợp mà thành:
Lương duyên trời định đất kề,
Lòng em khăng khắng một bề anh thương.
Hay:
Thề xưa lời đã nặng lời,
Anh cố xa em đi nữa,
Nếu chẳng phải ý trời thời cũng khó xa.
Hoặc:
Nhờ ơn cô bác giúp lời,
Chị em giúp của, Ông Trời định đôi.
Hay:
Số Trời đã định
4. Trời Sinh, Trời Dưỡng:
Người Việt có quan niệm Trời sinh ra con người rồi thì không bỏ mặc con người, nhưng luôn luôn quan tâm, chăm sóc. Có nhiều câu Tục Ngữ rất sâu sắc như sau:
- Trời sinh, Trời dưỡng
- Trời sinh voi, sinh cỏ
- Trời xanh có mắt
- Trời cho, hơn lo làm
- Trời cho ai nấy hưởng, Trời kêu ai nấy dạ
Ông Trời có con mắt, nên soi xét khắp thế gian để thưởng thiện và phạt ác:
Ở hiền thì lại gặp lành,
Những người nhân đức trời dành phước cho.
Kinh Thánh cũng cho biết, con mắt Đức Chúa Trời soi xét khắp cả thế gian nầy:
“Con mắt Đức Giê-hô-va ở khắp mọi nơi, xem xét kẻ gian ác và người lương thiện” (Châm Ngôn, chương 15, câu 3).
5. Than Trách Trời:
Khi thấy có những bất công trong cuộc sống, con người cũng không biết làm chi hơn là... than trách Ông Trời:
- Trời sao Trời ở chẳng cân,
Kẻ ăn không hết, người mần không ra
Hay:
- Trời sao trời ở chẳng công,
người ba bốn vợ, người không vợ nào?
6. Trời Phù Hộ, Độ Trì:
Để được Ông Trời phù hộ, độ trì, người Việt Nam dựng bàn thờ Ông Thiên trước sân nhà:
Hầu như trước sân nhà người Việt Nam nào cũng có một bàn thờ Ông Thiên (Ông Trời).
Bàn thờ này thật đơn giản. Người ta đặt lên đó một bình bông, một bát nhang, và một ly nước. Chủ nhà làm lễ tế Trời với tấm lòng thành khẩn thể hiện qua sự vái lạy của họ trước bàn thờ. Sáng và chiều, gia chủ đứng trước bàn thờ để vái bốn phương và dâng lời khấn xin Ông Trời phù hộ, độ trì cho gia đình thuận hoà, êm ấm, làm ăn phát đạt.
Sự thành khẩn với Ông Trời trước bàn thờ Thiên đó của người Việt Nam được thể hiện qua Ca Dao:
Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Hay một dị bản khác:
Đêm đêm thắp ngọn đèn Trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Khi sinh con cái, ngoài việc phải lo chăm sóc con mình như nuôi nấng, bú mớm như bao người làm cha mẹ khác; nhưng việc lớn khôn hay sự bình an của con cái là ngoài tầm tay của cha mẹ. Chính vì vậy, mà cha mẹ cần đến bàn tay của Ông Trời là Đấng cao cả, quyền năng vượt trên con người để bảo vệ, phù hộ, độ trì, che chở:
Lạy Trời phù hộ ấu nhi,
Ăn no chóng lớn, biết đi biết đùa.
Xin cho có được tuổi già bình an, trường thọ:
Lạy trời cho miễn sống lâu,
Ai kêu bằng chó bằng trâu cũng ừ
Tục Ngữ có câu rất sâu sắc nói về sự tài tình của Ông Trời:
Người tính không bằng Trời tính
Trời phù hộ, độ trì cho người có lòng thành với Ông Trời; nhưng ngược lại, Ông Trời cũng sẽ trừng phạt những kẻ sống trái Đạo Trời, sai lòng người.
7. Trời Trừng Trị:
Người Việt Nam tin rằng Ông Trời sẽ trừng trị những kẻ sống dối trá, lường gạt, sống hai lòng tráo trở, ăn ở thất đức:
- Anh mà có nói dối ai,
Thì Trời đánh chết dây khoai ngoài đồng.
- Em mà ăn ở hai lòng,
Trời tru đất diệt không mong thấy chàng.
Hoặc:
- Ai mà ở bạc có Trời,
Lòng em khăng khẳng một lời như xưa.
Hay:
- Thiên bất dung gian,
Người gian dối, lọc lừa, Ông Trời sẽ không dung tha.
Giáo Sư Nguyễn Văn Huyên đã nhận xét: “Ông giời, đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt”
Nhận xét nầy khá đúng với Kinh Thánh.
Kinh Thánh cho biết, Đức Chúa Trời là Đấng công bình, chẳng vị nể ai cả.
Tác giả Thi-thiên thứ 103, câu 6 cho biết: “Đức Giê-hô-va thi hành sự công bình và sự ngay thẳng cho mọi người bị hà hiếp”
Sứ Đồ Phao-lô cho biết: “Chớ hề dối mình, Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu, vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy” (Ga-la-ti, chương 6, câu 7).
Chữ Nho cũng có câu:
Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc,
Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa
Nghĩa là: Người làm điều tốt, thì Trời báo lại cho điều tốt. Người làm điều không tốt, thì Trời báo cho lại điều không tốt vậy.
Một câu khác:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Cao phi viễn tẩu giả nan tàng
Nghĩa là: Điều thiện hay điều ác cuối cùng rồi cũng sẽ có báo trả, cho dù có cao bay xa chạy cũng không thoát được.
(Còn tiếp)
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 382
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 3)
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 2: 24
(Tiếp theo phần 2)
8. Ơn Trời, Đạo Trời:
Người Việt Nam phần đông sống bằng nghề nông, nên rất cần Ông Trời ban cho mưa nắng thuận hòa để mùa màng tươi tốt, kết quả. Và thế là họ cầu xin ơn Trời:
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu,
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Khi người mẹ sinh con, họ cầu Trời cho sinh được “mẹ tròn, con vuông” là không còn chi hạnh phúc hơn:
Lọt lòng nghe tiếng u oa,
Ơn Trời,ơn Phật mừng đà xiết bao.
Người Việt Nam tin vào lòng tốt của Ông Trời, tin vào sự phù hộ của Ông Trời ở trên cao:
- Ở hiền gặp lành,
Những người nhân đức Trời dành phúc cho.
Hoặc:
Làm ơn ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ
Làm người thì phải sống sao cho đúng đạo làm người và cho hợp Đạo Trời:
Khi yêu nhau, lấy nhau thành vợ thành chồng thì không bao giờ xa nhau, ấy là trọn Đạo Trời:
Lấy nhau cho trọn đạo trời,
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời xa nhau.
Và dù nghèo khổ cũng không hề bỏ nhau:
Theo nhau cho trọn đạo trời,
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm.
Hoặc một dị bản khác:
Thương nhau cho trọn đạo trời,
Dù mà không chiếu nằm tơi cũng đành.
Đạo vợ chồng là mầu nhiệm, không hiểu được. Dù không phải bà con, thân thiết gì, chỉ là... người dưng nước lã; nhưng một khi đã phải lòng nhau, yêu nhau rồi, thành vợ thành chồng rồi là trở nên như một thịt, thương yêu nhau còn hơn cả cha mẹ là người đẻ ra mình nữa:
Cha mẹ bú mớm nâng niu,
Tội Trời đành chịu, không yêu bằng chồng
Kinh Thánh cho biết: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng Thế Ký, chương 2, câu 24)
Có thể nói, đối với người Việt Nam, Ông Trời là vị thần linh tối cao, dù họ chưa biết rõ, và không thấy được Ngài. Nhưng Ông Trời vẫn luôn hiện hữu cùng dân tộc Việt Nam qua kho tàng văn chương bình dân rất độc đáo và sâu sắc, nhất là kho tàng Ca Dao, Tục Ngữ được truyền tụng rộng khắp đất nước và vẫn trường tồn với chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc.
II. TÂM THỨC THỜ TRỜI TRONG VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC:
Trong văn chương bình dân, tâm thức thờ Trời thể hiện rất rõ ràng và sâu sắc vô cùng. Tâm thức ấy được thể hiện trong văn chương bác học ra sao?
Danh Tướng của Việt Nam và cũng là Nhà Thơ Lý Thường Kiệt (1019-1105) có bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư4.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận ở sách trời,
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.,
(Trần Trọng Kim)
Hay một bản dịch khác:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Hoàng Xuân Hãn)
Bài thơ nầy của Lý Thường Kiệt được xem như là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước Việt Nam.
Qua bài thơ, chúng ta thấy, Lý Thường Kiệt nhận thức rất rõ về Ông Trời là Đấng có quyền trong việc phân định ranh giới, bờ cõi của các nước trên thế gian nầy, mà các nước khác không được quyền xâm phạm. Vì điều thiêng liêng ấy đã được ghi vào “Sách Trời” từ lâu rồi. Một khi nước nào đó đi xâm phạm bờ cõi nước khác một cách bất hợp pháp thì chắc chắn “sẽ bị đánh tơi bời”, bởi đó là một việc làm phi nghĩa, Ông Trời không chấp nhận.
Nguyễn Trãi, Nhà Thơ lớn của dân tộc Việt Nam có những vần thơ nói về Ông Trời rất đáng để ý:
- Sang cùng khó bởi chưng Trời,
Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi.
- Ðược thua, phú quý đều Thiên Mệnh,
Chen chúc làm chi cho nhọc thân.
Không phải con người muốn làm gì là được nấy đâu, nhưng “được” hay “thua, “phú quý” hay nghèo hèn đều do quyết định ở Ông Trời (Thiên Mệnh).
Nhà Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có một niềm tin vào Ông Trời khá mạnh mẽ
Trời sinh, Trời ắt đã dành phần,
Tu hãy cho bền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ,
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.,
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá,
Phúc Đức rành hay cỏ đượm xuân,
Chớ có hại nhân mà ích kỉ,
Giấu người, khôn dấu được Linh-Thần.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết công việc làm của Tạo Hóa là mầu nhiệm, không hiểu nổi:
Ðồ thư một quyển nhà làm của,
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền,
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế,
Cơ mầu Tạo Hóa mặc tự nhiên
Đại Thi Hào Nguyễn Du trong kiệt tác Truyện Kiều đã dành rất nhiều câu thơ nói về Ông Trời hơn các nhà thơ khác và được nhiều người biết đến:
Gẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao,
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Danh xưng Ông Trời được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Truyện Kiều. Có thể nói, Nguyễn Du đã đề cập đến Ông Trời hầu như trong suốt tác phẩm của mình. Những câu thơ thâm trầm, sâu sắc nhất trong Truyện Kiều dường như là những câu thơ có liên hệ đến Ông Trời:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
“Mệnh Trời” là một trong những chủ đề chính của Truyện Kiều, cũng như tư tưởng của cha ông ta qua Ca Dao:
Đi đâu cho khỏi lưới Trời,
Ở đâu cho hạp mệnh Trời thì êm
Con người dù làm gì, tài năng, xinh đẹp thế nào, cũng không vượt qua khỏi sự định đoạt của Ông Trời. Mỗi một con người đều có số mệnh khác nhau, không ai giống ai.
Ông Trời rất công bằng (không thiên vị một ai), chẳng lấy đi của ai quá thứ gì, cũng chẳng cho ai thừa thải cả. Nàng Kiều đã được Ông Trời cho một nhan sắc tuyệt trần, và một tài năng hơn người:
Thông minh vốn sẵn tính Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm,
thì nàng phải mang nỗi khổ của cánh hồng nhan bạc mệnh vậy.
(Còn tiếp)
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 383
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 4)
Kinh Thánh: Công Vụ Các Sứ Đồ 24: 45
(Tiếp theo phần 3)
Trời đối xử với người... khắc nghiệt như vậy, nên không lấy làm lạ khi đọc thấy trong Truyện Kiều những câu thơ chán ngán buồn thảm đành chịu buông trôi cuộc đời theo định mệnh được coi như Thiên Mệnh:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem Con Tạo xoay vần đến đâu!
Hay:
Biết thân chạy chẳng khỏi Trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh
Nguyễn Du rất có lý khi cho rằng, hễ Ông Trời còn cho sống thì mới còn có hiện tại để làm việc nọ việc kia, nếu không thì ta đâu có thể làm gì được:
Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
Nguyễn Du tin rằng Ông Trời báo phục rất đúng đắn và chính xác:
Đạo Trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay một mẻ, tóm về đầy nơi!
Trời cao có mắt, khi mình hại người, thì Trời sẽ cho người lại hại mình:
Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.
Nguyễn Công Trứ Thi Sĩ có một bài thơ với lời than trách “ông xanh” (tức Ông Trời) nghe thật đáng thương:
Ngồi buồn lại trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.
Nữ Thi Sĩ Hồ Xuân Hương, được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm, có khá nhiều những câu thơ khen tài tạo dựng cảnh đẹp của Ông Trời (Tạo Hóa):
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen Ai khéo tạc cảnh cheo leo.
(Đèo Ba Dội)
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Khen Ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
(Cảnh Thu)
Khéo khéo bầy trò Tạo Hoá công,
(Ðá ông chồng bà chồng)
Hóa Công xây đắp đã bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.
(Chợ Trời chùa Thầy)
Khen thay Con Tạo khéo khôn phàm,
(“Khéo khôn phàm” tức là quá khôn ngoan.)
(Hang Thanh Hoá)
Quả thật, nhìn vũ trụ và muôn loài vạn vật, không ai không thốt lên lời là Ông Trời thật đúng là một “kỹ sư tinh xảo” bật nhất, không một kỹ sư nào sánh bằng. Chính vì vậy mà Nữ Sĩ tài danh Hồ Xuân Hương đã khen tài năng của Ông Trời là phải lắm vậy!
Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung Oán Ngâm Khúc nổi tiếng cũng đề cập khá nhiều về Ông Trời trong tác phẩm của mình, và sau đây là vài câu tiêu biểu:
- Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh,
Thử xem Con Tạo gieo mình nơi nao?
Hay:
- Quyền phúc họa Trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai
Nhà Thơ tài danh Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng có những vần thơ viết về Ông Trời khá chuẩn xác:
Giang sơn còn nặng gánh tình,
Trời chưa cho nghỉ thì mình cứ đi,
Bao giờ Trời bảo thôi đi,
Giang sơn cất gánh ta thì nghỉ ngơi
Tản Đà xem thân thể con người như một giang sơn quý báu mà Ông Trời đã ban cho. Khi Trời còn cho sống (chưa cho nghỉ) thì cứ hoạt động, làm việc giúp người, giúp đời (cứ đi). Cho đến khi nào Trời “gọi” (Trời bảo thôi đi), Trời lấy hơi sống lại, thì “giang sơn cất gánh” (tức thân thể trở về với cát bụi, còn linh hồn trở về nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã ban nó (ý từ Sách Truyền Đạo, chương 12, câu 7), thì đó là lúc con người được... nghỉ ngơi, tức không còn phải lo toan, vất vả chi nữa.
Nhà Thơ cũng xác nhận nguồn gốc của con người mình là do Ông Trời sinh ra:
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không,
Nửa đời nam, bắc, tây, đông,
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly,
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
Tản Đà cũng đã có những câu thơ than thở với Ông Trời về nỗi sầu trong lòng mình nghe thật thống thiết:
Trời hỡi Trời hôm nay ta chán hết,
Những sắc màu, hình ảnh của trần gian!
Nhà Thơ mù Nguyễn Đình Chiểu cũng tin vào số mạng của con người tùy thuộc vào Ông Trời:
Có Trời thầm dụ trong lòng,
Trăm năm nhờ mạng, trong thân có Trời
Nguyễn Bính Thi Sĩ thì xác nhận Ông Trời là Đấng làm mưa làm nắng:
Nắng mưa là chuyện của Trời,
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng
Chuyện làm mưa làm nắng là chuyện vĩ mô, con người không thể nào làm chi được, và điều chi con người không làm được, thì Ông Trời quyền năng làm vậy.
Ở đây, tư tưởng của Nhà Thơ bác học giống y tư tưởng của cha ông ta đã được thể hiện trong Ca Dao:
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu,
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Nhà Thơ Huy Cận, là “vua” của thơ sầu trong thơ ca Việt Nam hiện đại đã có những vần thơ về Ông Trời nổi tiếng mà nhiều người biết đến:
Hỡi Thượng Đế, tôi cúi đầu trả lại,
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang,
Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái,
Nhận tôi đi, dầu Địa Ngục, Thiên Đàng.
Khi con người buồn chán, không lối thoát thì con người thường tìm đến với Ông Trời để giải tỏa nỗi niềm của lòng mình vậy.
Phan Khôi, Nhà Văn, Nhà Thơ, Nhà Báo và là Dịch Giả, người đã góp phần tham gia dịch Kinh Thánh của người Tin Lành ra Việt ngữ vào năm 1926 cũng có những bài viết nói đến vai trò của Ông Trời trong cuộc sống con người, như đoạn trích sau, Phan Khôi tin rằng nhờ Ông Trời mở trí cho mình:
“Vào khoảng năm 1920, tôi ở Hà Nội, khi nói chuyện với một nhà văn, tôi đem hai chữ ấy mà hỏi ông ta. Tôi hỏi: “chữ những và chữ các giống nhau hay là khác nhau? Nếu khác nhau thì khác nhau ở chỗ nào? Làm văn thì khi nào nên dùng chữ những, khi nào nên dùng chữ các?
Ông ấy trả lời: Đại để hai chữ giống nhau, khi nào nói các nghe xuôi thì nói các, khi nào nói những nghe xuôi thì nói những.
Số là ông nầy vừa mới diễn thuyết ở hội quán kia. Bấy giờ có Trời mở trí cho tôi. Hỏi tiếp ông ta một câu rằng: “Sao bữa trước, khi ông diễn thuyết, ông nói “Thưa các ngài”? Ông ta đáp: “Ấy, tôi đã nói, khi nào nói các nghe xuôi thì nói các. Nói “Thưa các ngài nghe xuôi thì nói “Thưa các ngài” chứ sao?”
Hay như trong bài thơ “Tình Già” nổi tiếng, nói về mối tình già của ông, ông cũng nhắc đến vai trò của Ông Trời trong chuyện tình cảm trai gái, vợ chồng:
Hay nói mới bạc làm sao chớ!
buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,
mà tính chuyện thuỷ chung!
Có thể nói còn khá nhiều những câu thơ nói về Ông Trời trong các sáng tác của các nhà thơ Việt Nam mà chúng ta không đủ thì giờ để dẫn ra ở đây; cũng như còn nhiều những câu Ca Dao, Tục Ngữ khác nói về Ông Trời chưa được nêu ra vậy.
(Còn tiếp)
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 384
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 5)
Kinh Thánh: Thi-thiên 19: 1; Giăng 4: 23, 24; Rô-ma 1: 19, 20; II Ti-mô-thê 3: 16, 17
(Tiếp theo phần 4)
Người Việt là dân tộc có truyền thống tin thờ Ông Trời từ xa xưa. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong kho tàng Ca Dao, Tục Ngữ, một kho tàng văn chương bình dân sâu sắc của dân tộc Việt Nam, như một số những câu Ca Dao, Tục Ngữ đã trích trong bài viết nầy.
Ông Trời hiện lên trong kho tàng văn chương bình dân của người Việt như là Đấng Tối Cao có quyền năng trên đời sống của họ, và cũng là Đấng họ nương nhờ, tin cậy khi gặp nguy nan, khốn khó.
Hình ảnh Ông Trời cũng hiện lên trong nền văn chương bác học rất rõ ràng, không kém nền văn chương bình dân chút nào!
Qua hình ảnh Ông Trời trong văn chương bình dân và văn chương bác học, ta thấy người Việt có niềm tin vào Ông Trời rất mạnh mẽ, rất chân thật; song đó chỉ mới là một niềm tin theo lương tri, lương tâm mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong tâm hồn của con người, nói chung, và của người Việt, nói riêng, khi Ngài sáng tạo nên loài người. Đó là một niềm tin có tính cách phổ quát cho mọi dân tộc trên thế giới, như tiếng kêu “Trời Ơi!” là tiếng kêu chung của mọi dân tộc vậy!
III. MỘT SỐ NHẬN XÉT CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU VỀ TÂM THỨC THỜ TRỜI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM:
- Ông Trời tuy ở trên cao, có quyền năng siêu việt nhưng cũng rất gần gũi với dân gian. Đặc biệt, ông Trời còn có chức năng như vị thần công lý là khuyến thiện trừ ác. Hễ ai làm điều ác thì Trời sẽ không tha, còn ngược lại nếu làm điều thiện sẽ được Trời ban phước lành. Vì lẽ đó, ông Trời thường là đối tượng để con người hướng đến cầu cạnh, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, nếu gặp chuyện chẳng lành trong cuộc sống người ta đều kêu Trời để than thở, những khi ốm đau bệnh tật người ta cũng van vái Trời cao
- Người Việt Nam chúng ta phần lớn không tin ở thuyết luân hồi. Bằng cớ là nhiều người Việt thờ cúng ông bà, vì tin rằng vong linh ông bà vẫn còn đó. Mỗi năm nhân dịp Tết cổ truyền, người ta rước ông bà về vui Xuân với con cháu, rồi tiễn ông bà đi. Nếu tin ở thuyết luân hồi thì phải tin ông bà cha mẹ đã hóa kiếp thành người ngoại quốc nào khác, hoặc con thú nào đó trong rừng, hoặc một con vật nào đó trong bầy gia súc trong vườn, v.v... Nếu tin rằng ông bà đã luân hồi, đầu thai hoá kiếp, thì người ta sẽ không rước tiễn ông bà, cũng không dám ăn thịt hoặc giết chết một con vật nào. Rõ ràng là người Việt Nam chúng ta tin ở giá trị thiêng liêng và bất tử của linh hồn. Chúng ta tin ở đời sau. Chúng ta tin một cách mơ hồ rằng linh hồn của mọi người chết là về chầu Trời.
- Tín ngưỡng thờ Trời trong dân gian Việt Nam là một tín ngưỡng tự nhiên đã có từ rất lâu. Vì là tín ngưỡng tự nhiên nên mọi cung cách thờ tự trông có vẻ như đơn sơ mộc mạc, có vẻ như mông lung mơ hồ... nhưng đây là một tín ngưỡng rất đáng trân trọng trong kho tàng văn hoá Việt Nam. Tuy tín ngưỡng này vẫn còn mang màu sắc bình dân nhưng không thể thiếu đối với người dân Việt Nam.
- Dân Việt Nam là dân hữu thần, sống rất gần gũi với Trời. Từ khi chào đời tới khi qua đời, người ta nói rất nhiều tới Trời xanh cao cả trên đầu, qua trời xanh đó, người ta nhận rằng có Đấng Tối cao dựng nên trời đất, cai quản vũ trụ, nhất là loài người.
- Tấm lòng kính ngưỡng Trời của người Việt xưa được thấy trong căn bản giáo dục về đạo đức. Lối giáo dục của người Việt xưa ảnh hưởng sâu đậm Khổng Giáo của Trung Hoa với học thuyết Tam Tài: Thiên-Địa-Nhân
Trong “Minh Tâm Bửu Giám”, một tác phẩm hình thành thời Tống (Trung Quốc)phổ biến rộng rãi trong giới Nho học Việt Nam, đã trở thành quyển cẩm nang của nền giáo dục đạo đức luân lý Việt Nam trước đây9, có nhiều câu dạy về tâm thức Thờ Trời rất sâu sắc:
Thuận Thiên giả tồn; nghịch Thiên giả vong
Nghĩa là: Thuận với Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên
Nghĩa là: Mưu tính sự việc thì do con người, nhưng thành bại là do nơi Ông Trời.
Bình sanh hành thiện Thiên gia phúc
Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương
Nghĩa là: Trong cuộc sống hằng ngày, làm điều thiện thì Trời sẽ ban phước cho. Còn nếu ngu dại, ngoan cố thì sẽ bị tai ương.
Hoạch tội ư Thiên, vô khả đảo giả
Nghĩa là: Mắc tội với Trời, không thể cầu khẩn ở đâu được.
Hay: Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại Thiên
Nghĩa là: Chết sống có mạng, giàu sang bởi Trời.
Hoặc:
Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân,
Nghĩa là: Trời không phụ bạc người có lòng tốt bao giờ.
- Trong văn hóa truyền thống, hình tượng ông Trời trong tín ngưỡng tối linh của người Việt đã được cung đình hóa bằng một nghi thức trọng thể của quốc gia, đó là tế Giao (cùng với Đàn Nam Giao - tế Trời còn có Đàn Xã Tắc - tế Đất). Việc tế Giao đã được duy trì trong suốt thời kỳ phong kiến và là một nghi lễ quan trọng nhất của quốc gia, được bộ Lễ đứng ra tổ chức và nhà vua trực tiếp cử hành. Đây cũng là nghi lễ đầu tiên của một vị Hoàng đế phải làm sau khi lên ngôi10.
- Việc thờ Trời, tế Trời của người Việt Nam rõ nét, cao cả và lớn lao hơn cả phải kể đến Tế Nam Giao ở kinh thành Huế. “Tế Nam Giao biểu lộ long trọng niềm tin vào Đấng Tối Cao, là hành vi thờ tự cao cả nhất của người An Nam. Trong nghi lễ Tế Nam Giao, việc thờ tự mang một vẻ long trọng, oai nghiêm xứng với sự cao cả của Đấng người ta tôn sùng, phản ánh sự thuần khiết trong niềm tin vào Đấng ấy, nói lên những tâm tình sâu xa mà Ngài khơi dậy trong tâm hồn người An Nam11.
IV. TÂM THỨC THỜ TRỜI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CẦN ĐƯỢC SOI SÁNG BỞI KINH THÁNH:
1.Kinh Thánh Là Quyển Sách Duy Nhất Bày Tỏ Về Ông Trời (Đức Chúa Trời ) Một Cách Đúng Đắn và Chân Thật Nhất.
Ông Trời được bày tỏ qua Kinh Thánh không phải là Ngọc Hoàng Thượng Đế của người Trung Hoa như nhiều người lầm tưởng.
Học Giả Đào Duy Anh từng có nhận xét: “Trước khi có Cơ-đốc giáo du nhập, người nước ta đồng thời sùng bái cả Trời, Phật, các thần linh ở trong vũ trụ, các quỉ thần hay là linh hồn người chết”
Chính vì vậy mà niềm tin thờ Trời của người Việt Nam cần phải được soi sáng bởi Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời thì mới đầy đủ và đẹp lòng Ngài được.
Thánh Phao-lô đã được Đức Thánh Linh dạy dỗ để viết ra những lời quý báu sau đây:
“Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (Ti-mô-thê thứ nhì, chương 3, câu 16, 17).
Đức Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài qua 4 phương diện:
Qua thiên nhiên,
Qua con người,
Qua Kinh Thánh,
Và qua Chúa Giê-su.
Người Việt cũng như nhiều dân tộc khác đều đã biết về Ông Trời (Đức Chúa Trời) qua thiên nhiên và qua con người.
Đức Chúa Trời sáng tạo nên vũ trụ, thiên nhiên để con người được sống trong đó và được hưởng.
Qua thiên nhiên, con người tự nhiên nhận biết có một Ông Trời đã làm nên vũ trụ đẹp đẽ nầy:
Núi kia ai đắp mà cao,
Sông kia ai cuốc, ai đào mà sâu?
Đây là dạng câu hỏi tu từ của cha ông ta, một dạng câu hỏi thường thấy trong văn chương. Câu hỏi tu từ là dạng câu hỏi mà không cần trả lời, hay hỏi tức là đã trả lời rồi vậy!
Đại Thi Hào Đa-vít đã nói: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi-thiên, chương 19, câu 1)
Sách Rô-ma chép:
“Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài, mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô-ma, chương 1, câu 19, 20).
Qua con người, Đức Chúa Trời cũng cho con người nhận biết về Ngài:
Con chim nó hót trên cao,
Ông Trời không có làm sao có mình?
Con chim nó hót trên cành,
Ông Trời không có có mình làm sao?
Đây cũng là câu hỏi tu từ nữa được sử dụng.
Vua Đa-vít cũng đã từng nói: “Vì chính Chúa đã nắn nên tâm thần tôi. Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm” (Thi-thiên, chương 139, câu 13, 14).
Bàng bạc trong văn chương bình dân cũng như trong văn chương bác học của người Việt Nam những câu Ca Dao, Tục Ngữ, những vần thơ thể hiện tâm thức tin Trời, thờ Trời.
Con người nói chung, người Việt, nói riêng cần phải biết thờ lạy Đức Chúa Trời qua sự bày tỏ trong Kinh Thánh mới đúng và được Ngài chấp nhận.
Kinh Thánh bày tỏ về cách để con người có thể thờ phượng Đức Chúa Trời phải lẽ như sau:
“Nhưng giờ hầu đến và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng, chương 4, câu 23, 24).
“Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô-ma, chương 12, câu 1).
Cách thờ phượng đẹp lòng Đức Chúa Trời, không phải bằng bàn thờ Thiên trước nhà như người Việt Nam đã từng làm theo sự mách bảo của lương tâm mình, cũng không phải là bằng Lễ Tế Nam Giao ở Huế, một nghi lễ rất trang trọng như L. Cadière đã nhận xét: “Có lẽ việc thờ Trời được tập trung nhiều nhất trong việc Tế Nam Giao. Trong nghi lễ này, việc tế tự mang sắc thái hoành tráng uy nghi tương xứng với sự cao cả của đấng tôn thờ, thể hiện sự tinh tuyền của niềm tin vào Trời, phản ánh những tâm tình sâu lắng mà Trời khơi dậy trong tâm hồn”, mà bèn là lấy chính tấm lòng mình để thờ lạy Thiên Chúa. Hay nói cách khác là dâng đời sống mình để Chúa ngự trị, và thờ phượng, hầu việc một mình Ngài.
Kinh Thánh dạy:
“Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Giê-su Christ là Đấng cha đã sai đến” (Giăng, chương 17, câu 3).
(Còn tiếp)
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 385
Tâm Thức Thờ Trời Của Người Việt Nam (Phần 6)
(Tiếp theo phần 5 và hết)
Kinh Thánh: Giăng 3: 18; Công Vụ Các Sứ Đồ 4: 12; 16: 31; II Cô-rinh-tô 5: 21
2.Kinh Thánh Là Quyển Sách Duy Nhất Bày Tỏ Về Chúa Giê-su Cho Con Người Được Biết:
Và cuối cùng là sự thờ phượng Đức Chúa Trời được bày tỏ qua Chúa Giê-su:
“Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao” (Hê-bơ-rơ 1, câu 1 đến 3).
Chúa Giê-su là sự cuối cùng của luật pháp và là sự bày tỏ về Đức Chúa Trời sau cùng cho con người, hầu con người có thể đem lòng tin trọn vẹn mà tin thờ Ngài để được sự cứu rỗi.
Vì sao con người cần phải thờ phượng Chúa Giê-su?
- Vì Chúa Giê-su chính là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được. Ngài “là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài”.
- Chúa Giê-su là Đấng giải bày Đức Chúa Trời cho con người chúng ta biết (Giăng 1, câu 18).
- Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời: “Ban đầu có Ngôi Lời (Chúa Giê-su), Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Giăng 1, câu 1)
- Chúa Giê-su là Đấng Tạo Hóa: “Muôn vật bởi Ngài (Chúa Giê-su) làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (Giăng 1, câu 3)
- Chúa Giê-su là Đấng vô tội duy nhất đã bằng lòng chịu chết đền tội thay cho con người tội lỗi chúng ta: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi (là Chúa Giê-su) trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (Cô-rinh-tô thứ nhì 5, câu 21).
- Chúa Giê-su là Đấng có quyền tha tội cho con người chúng ta: “Đức Chúa Giê-su thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con ta, tội lỗi ngươi đã được tha. Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng: Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng? Đức Chúa Giê-su trong trí đã hiểu họ tự nghĩ như vậy, tức thì phán rằng: Sao các ngươi bàn luận trong lòng thể ấy? Nay bảo kẻ bại rằng: Tội ngươi đã được tha; hay là bảo người rằng: Hãy đứng dậy vác giường mà đi; hai điều ấy điều nào dễ hơn? Vả, để cho các ngươi biết Con người ở thế gian có quyền tha tội, thì Ngài phán cùng kẻ bại rằng: Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà. Kẻ bại đứng dậy, tức thì vác giường đi ra trước mặt thiên hạ; đến nỗi ai nấy đều lấy làm lạ, ngợi khen Đức Chúa Trời, mà rằng: Chúng tôi chưa hề thấy việc thể nầy” (Mác 2, câu 5 đến 12).
- Chúa Giê-su là Đấng duy nhất đã đắc thắng sự chết và sống lại, sống mãi mãi, mới có quyền ban sự cứu rỗi cho con người chúng ta: “Đừng sợ chi, ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ” (Khải Huyền 1, câu 17, 18).
- Chúa Giê-su là cây cầu duy nhất để con người đến được với Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng, chương 14, câu 6); “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công Vụ Các Sứ Đồ 4, câu 12).
- Trong Chúa Giê-su có sự sống đời đời. Sứ Đồ Giăng viết: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3, câu 36).
“Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời (tức Chúa Giê-su)” (Giăng thứ nhất 5, câu 13).
-Chúa Giê-su là Đấng duy nhất đã về trời để sắm sẵn Thiên Đàng cho người tin Ngài đến ở sau khi qua đời nầy: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó. Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa” (Giăng 14, câu 1-4).
-Và Chúa Giê-su là Đấng duy nhất sẽ trở lại thế gian nầy trong tương lai để tiếp rước những người thuộc về Ngài về Thiên Đàng và đoán phạt những kẻ không tin Ngài: “Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con một Đức Chúa Trời” (Giăng 3, câu 18).
Với những kẻ không tin nhận Chúa Giê-su, thì Kinh Thánh khẳng định: “chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét và lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi” (Hê-bơ-rơ 10, câu 27).
Đó là những lý do khiến con người cần phải thờ phượng Đức Chúa Giê-su.
Và đó cũng là những lý do khiến Chúa Giê-su vượt trỗi hơn mọi giáo chủ của các tôn giáo trên thế gian nầy. Vì các giáo chủ của thế gian nầy chẳng qua cũng chỉ là con người tội lỗi như mọi người khác mà thôi. Cho dù, họ có thể có một số mặt tốt nào đó hơn mọi người; nhưng trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết, họ cũng là những tội nhân cần được tha tội để được cứu rỗi, không hơn không kém.
Kinh Thánh chép: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3, câu 23)
Có một số người mắc sai lầm là đem các giáo chủ của thế gian nầy là loài thọ tạo để so sánh với Chúa Giê-su là Đấng Tạo Hóa. Đó là một sự so sánh khập khiễng và phạm thượng, đáng tội với Đức Chúa Trời chẳng sai!
Làm sao ai có thể dám đem một người con lên ngang hàng với vai trò của người cha được. Người cha luôn luôn lớn hơn người con một bực; cũng một thể ấy, Chúa Giê-su luôn luôn cao trọng hơn con người chúng ta một bực, vì Ngài là Đấng Tạo Hóa cao cả, còn con người là loài thọ tạo thấp kém hơn.
Hãy nhớ rằng: “Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút. Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng” (Thi-thiên 8, câu 5).
Con người, dù người đó là ai, danh nhân, triết gia hay giáo chủ, đều ở dưới Đức Chúa Trời một chút, ở dưới Đức Chúa Giê-su một chút; chứ không thể nào ngang bằng được.
Khi chúng ta chưa biết Chúa Giê-su là Đấng Tạo Hóa, Đấng được mệnh danh là “Vua của các vua, Chúa của các chúa”, chúng ta có thể vô tình đem các giáo chủ của thế gian lên ngang bằng với Chúa Giê-su. Nhưng một khi chúng ta đã biết Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời, chính là Đấng Cứu Thế, thì chúng ta không bao giờ dám so sánh phạm thượng như thế nữa.
Cho nên, khi một con người thờ phượng Đức Chúa Giê-su tức là thờ phượng chính Đức Chúa Trời vậy.
KẾT LUẬN:
Với tấm lòng biết tin thờ Ông Trời đã có sẵn trong tâm thức của người Việt, giờ người Việt chỉ cần điều chỉnh niềm tin đó theo đúng những gì Kinh Thánh đã bày tỏ thì sự thờ phượng Đức Chúa Trời của người Việt sẽ rất đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Để kết thúc bài khảo cứu ngắn nầy, người viết xin được phép trích lại một đoạn trong bài viết “Người Việt Nam Với Khái Niệm Về Ông Trời” của một Mục Sư như sau:
“Người Việt biết mình cần ăn hiền ở lành, nhưng không biết rằng tất cả những việc lành mình làm dù cao quí vẫn còn thiếu hụt, không thể sánh với tiêu chuẩn trọn lành mà Đức Chúa Trời đòi hỏi, chẳng khác nào ngọn đèn cầy đem so với ánh mặt trời. Người Việt cần đón nhận chân lý của Chúa để bù đắp cho sự thiếu hụt của mình.
Người Việt biết nguyên tắc "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo" nhưng không biết căn nguyên của mọi nỗi đau khổ bất hạnh trong cuộc đời là do tội lỗi loài người xây lưng phản nghịch lại với Đức Chúa Trời. Người Việt cần trước hết được Chúa tha tội.”
Tâm thức thờ Trời của người Việt Nam qua văn chương bình dân và văn chương bác học như đã nói ở trên là quý báu; nhưng chưa đủ. Người Việt biết ăn ngay ở lành là tốt; nhưng sự ăn ngay ở lành đó không đủ để cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi, vì mọi công việc làm tốt của con người trước mặt Đức Chúa Trời chỉ như... áo nhớp không hơn không kém. Kinh Thánh khẳng định: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi” (Ê-sai, chương 64, câu 6).
Người Việt biết nguyên tắc “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”; nhưng người Việt cần biết Đấng báo ứng đó chính là Đức Chúa Trời, chứ không phải ai khác; để rồi người Việt cần chạy đến với Chúa Giê-su hầu được tha tội và tránh khỏi sự báo ứng, sự đoán phạt kinh khiếp của Đức Chúa Trời trong tương lai.
Kinh Thánh dạy cho con người chúng ta hãy: “xây bỏ các thần hư không kia, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó” (Công Vụ Các Sứ Đồ 14, câu 15).
Cây bút Cơ-đốc Bình Tú Ngọc có bài thơ nói lên sự khác biệt giữa Đạo Chúa với các tôn giáo của thế gian nầy như sau:
Bạn có biết sao có người từ chối,
Không thờ Trời, Đấng Tạo Hóa quyền năng,
Lại cúi đầu thờ lạy núi, sao, trăng,
Và thờ lạy đủ thứ thần khác nữa???
Bạn có thấy nhiều người muốn tu sửa,
Theo đường riêng mong đạt cõi... Niết Bàn,
Bỏ gia đình, quyết chí đi lang thang,
Sống khổ hạnh để tìm đường... siêu thoát???
Không thờ Chúa, vì Sa-tan lừa gạt,
Bóng tối tăm bao phủ cả cuộc đời,
Thờ con người thay cho Đức Chúa Trời,
Tin đủ thứ, xưa bày sao làm vậy...
Chúa mong bạn sớm quay về nhờ cậy,
Tin Giê-su, Đấng Cứu Chuộc cho mình,
Từ tối tăm qua sáng láng hiển vinh,
Tôn thờ Chúa, đời bình an, thỏa nguyện.
Có Giê-su, Đấng đời đời bất biến,
Linh hồn mình giải thoát khỏi âm u,
Chúa dạy tin, chứ không dạy phải tu,
Ơn cứu rỗi không dựa vào công sức.
(Chúa Dạy Tin, Không Dạy Tu)
Cầu xin Đức Chúa Trời ban cho ngày càng có nhiều người Việt Nam sớm nhận biết được những điều Kinh Thánh dạy về sự thờ phượng Ông Trời (Đức Chúa Trời) cách đúng đắn, để quay về với Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật; đem lòng tin trọn vẹn nhận lấy Đức Chúa Giê-su làm Chúa làm Chủ cuộc đời, thờ phượng Ngài như Kinh Thánh đã bày tỏ, thì chắc chắn sẽ nhận được sự cứu rỗi và sự sống đời đời.
Kinh Thánh dạy: “Hãy tin Đức Chúa Giê-su thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Công Vụ Các Sứ Đồ, chương 16, câu 31).
Không biết ai đó đã viết những vần thơ thật hữu lý thế nầy (có lẽ là Ca Dao?):
Xưa kia chỉ biết kêu trời,
mà nay đã biết gọi Trời là Cha,
trần gian chẳng phải là nhà,
đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.
Dù ai nói ngược nói xuôi,
ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng.
Nguyện Đức Chúa Trời thương xót dân tộc Việt Nam thân yêu; nhất là ban cho có nhiều người Việt Nam sớm chạy đến thờ phượng Đức Chúa Trời như lời Kinh Thánh dạy để hưởng được phước hạnh miên viễn ở trong Ngài!
California, Tháng 8/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 386
Chuyện... Nổ
Kinh Thánh: Châm Ngôn 8: 13; 29: 23; Lu-ca 17: 7-10; 18: 9-14; Khải Huyền 3: 7, 8
“Nổ” được nói đến ở đây không phải là tiếng nổ vật lý mà là... một căn bệnh.
Bệnh “nổ” chắc đã có từ lâu, nhưng không biết là từ khi nào? Bệnh xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều đại lục, nhất là ở những nước còn nghèo nàn, lạc hậu. Sở dĩ bệnh phát triển nhiều ở những nước còn nghèo nàn, lạc hậu là vì ở những nước đó, người dân còn nghèo quá, nên... nổ cho... quên đi cái nghèo, và nổ cho người ta tưởng mình cũng đâu có... thua gì ai.
Khi nói đến tiếng nổ là ta biết chắc chắn nó sẽ gây ra tiếng ồn ào cả một vùng, khiến ai cũng... để ý và... lo lắng, vì tưởng có chuyện gì... nguy hiểm đang xảy ra.
Bệnh nổ cũng gây ra những... hệ quả tương tự, khiến nhiều người e ngại, tránh xa cho khỏi bị... văng miểng.
Nguyên nhân của bệnh nổ, như đã nói ở trên là do mặc cảm tự ti, thấy mình thua kém người khác, nên muốn tìm cách... thể hiện để cho người khác biết mình cũng không phải... thứ thường.
...
Hình ảnh trái pháo, một phát minh của người Trung Quốc là hình ảnh tiêu biểu về tiếng nổ, trước khi người ta phát minh ra thuốc súng.
Tiếng pháo nổ nghe thật sướng tai, nhưng sau đó pháo nhà ta tan xác, chỉ còn là đống rác đỏ lòm lom nằm bẹp dí dưới đất.
Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1788), một Nhà Quân Sự và Nhà Thơ của Việt Nam, có bài thơ “Vịnh cái pháo” rất hay như sau:
Xác không vốn những cậy tay người,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi
Pháo nổ càng to thì bản thân càng tan tành xác pháo. Bạo phát thì thường đi liền với bạo tàn.
Người mắc bệnh nổ cũng giống như trái pháo, nổ rất to; nhưng rốt cuộc chỉ là một tiếng “tạch” nghe vui tai một chút mà thôi, chứ chẳng làm nên được công trạng gì đáng kể cho người khác.
Thành Ngữ Việt Nam có nhiều câu diễn tả... bệnh nổ rất chính xác như sau:
- Một tấc đến Trời
- Thùng rỗng kêu to
- Ăn đằng sóng nói đằng gió
- Ăn xuôi nói ngược
- Ăn cò nói leo
- Ăn ốc nói mò
- Mười voi không được bát nước xáo
Cũng có những câu Danh Ngôn nói về... bệnh nổ rất đáng ghi nhớ:
- Người biết ít thường nói nhiều, trong khi người biết nhiều thường nói ít.
- Cái vỏ rỗng tạo ra âm thanh lớn nhất.
- Tự khiêm thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh.
- Người nào hay nói về mình là người chỉ nghĩ đến mình và người chỉ nghĩ đến mình là người thiếu giáo dục, dù học vấn của họ đến đâu chăng nữa.
- Phô tài là hại mình vì có kẻ ghen ghét. Phô sắc là hại mình vì có kẻ cưỡng đoạt. Phô của là nguy vì có kẻ cưỡng đoạt.
Tôi đọc được bài thơ về... bệnh nổ của Nguyễn Văn Giai nghe cũng xứng tầm... nổ:
Ta con ông Cống, cháu ông Nghè*,
Nói có trên trời dưới đất nghe.
Sức khoẻ Hạng Vương** cho một búng,
Cờ cao Đế Thích*** chấp đôi xe,
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại,
Chạy tốc lên non bắt cọp về,
Độ nọ vào chơi trong nội phủ,
Ba ngàn công chúa phải lòng mê.
Nổ như thế khó có người bằng!
Bên ngoài thế gian, người ta nổ là chuyện thường ngày; nhưng bên trong Hội Thánh của Chúa, cũng có không ít người mắc... bệnh nổ khá nặng.
Không nhiều thì ít, bạn cũng như tôi đã từng nghe có những người tự khoe về bằng cấp, học vị mình học trường nầy, trường nọ, ở nước nầy nước kia; các chức vụ mà mình đã từng nắm giữ; các nước mà mình đã từng đi đến; các công việc mà mình đã từng làm và kết quả tốt đẹp như thế nào, cốt là để cho người nghe biết là họ... giỏi ra làm sao! Và rốt cuộc, chẳng thấy Chúa đâu trong họ cả, mà chỉ thấy chính họ là... chúa mà thôi!
Cũng có những người thì khoe về con cái mình học giỏi như thế nào? Tiền lương hằng tháng khủng ra làm sao!
Rồi cũng có người thì khoe về áo quần, xách bóp thời thượng, nhà cửa sang trọng, xe hơi hiệu đắt tiền ít người có được.
Có người thì để trước tên mình hàng loạt các chức danh nào là Mục Sư Hội Trưởng Kiêm Viện Trưởng, Mục Sư Giáo Sư Tiến Sĩ...
Nếu có dịp lướt “phây-búc” trên mạng, ta dễ dàng thấy người ta khoe đi ăn nhà hàng sang trọng nầy, nhà hàng cao cấp nọ; khoe con cái tốt nghiệp với văn bằng loại giỏi ở những trường nổi tiếng. Ôi thôi, đủ thứ... khoe, đủ thứ... nổ, nghe thấy mà... ngao ngán cho thói hợm mình của nhiều người.
Tôi bất ngờ đọc được trên “phây-búc” của một Mục Sư, và là một Mục Sư lãnh đạo của một Giáo Hội nữa, một dòng trạng thái của ông viết như sau:
“Giảng bồi linh sáng nay. Tạ ơn Chúa cho mọi người đáp ứng sứ điệp mạnh mẽ.”
Mục Sư mà lại... tự nổ như thế nghe... kỳ kỳ làm sao ấy!
Không biết ông Mục Sư đó có đọc câu Kinh Thánh nầy chưa?
“Hãy để cho kẻ khác khen ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho một người ngoài tán mỹ con, môi con đừng làm” (Châm Ngôn, chương 27, câu 2).
Nói chung là... bệnh nổ của một số người trong Hội Thánh cũng không... thua gì những người bên ngoài thế gian là bao!
Kinh Thánh nói về... bệnh nổ như sau:
“Ngài lại phán thí dụ nầy về kẻ cậy mình là người công bình và khinh dể kẻ khác: Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Pha-ri-si và một người thâu thuế. Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không phải như người khác, tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thâu thuế nầy. Tôi kiêng ăn một tuần lễ hai lần, và nộp một phần mười về mọi món lợi của tôi. Người thâu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội! Ta nói cùng các ngươi, người nầy trở về nhà mình, được xưng công bình hơn người kia; vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Lu-ca, chương 18, câu 9 đến 14).
Người Pha-ri-si trong ví dụ Chúa Giê-su kể nầy là hạng người... nổ có hạng, khoe khoang có hạng, khó có ai bằng. Còn người thâu thuế thì ngược lại, biết thân phận xấu xa, không ra chi của mình, nên không dám ngước lên nhìn Chúa, chỉ dám đấm ngực đau đớn với tội lỗi của mình.
Chúa Giê-su kết luận: Người thâu thuế trở về được xưng công bình chứ không phải người Pha-ri-si khoe khoang, hay... nổ kia.
Chúa Giê-su đã phán với Hội Thánh Lao-đi-xê ngày xưa rằng:
“Vả, ngươi nói, ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa; song ngươi không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và lõa lồ. Ta khuyên ngươi hãy mua vàng thử lửa của Ta, hầu cho ngươi trở nên giàu có; mua những áo trắng, hầu cho ngươi được mặc vào và điều xấu hổ về sự trần truồng ngươi khỏi lộ ra; lại mua thuốc xức mắt đặng thoa mắt ngươi, hầu cho ngươi thấy được” (Khải Huyền, chương 3, câu 17, 18).
Hội Thánh Lao-đi-xê nầy cũng... tự cao tự đại, cũng... nổ to như pháo: Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa. Nhưng Chúa chỉ họ biết, họ thật sự khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và lõa lồ, chứ không như họ... nổ đâu.
...
Chúa chúng ta đang thờ phượng là Chúa của sự khiêm nhường, nên Ngài ghét những ai kiêu ngạo, khoe khoang.
“Ta ghét sự kiêu ngạo, xấc xược, con đường ác và sự gian tà” (Châm Ngôn, chương 8, câu 13).
“Sự kiêu ngạo của người sẽ làm hạ người xuống. Nhưng ai có lòng khiêm nhượng sẽ được tôn vinh” (Châm Ngôn, chương 29, câu 23).
“Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Phi-e-rơ thứ nhất, chương 5, câu 5).
Chúng ta cần ghi nhớ Lời Chúa dạy rằng, mọi việc chúng ta làm là điều chúng ta phải làm, và điều chắc phải làm, vì chúng ta chỉ là những đầy tớ của Ngài, và Chúa mới là Chủ của chúng ta:
“Ai trong các ngươi có đầy tớ đi cày hoặc đi chăn, khi ở ngoài đồng về, biểu nó rằng: Hãy đến ngay mà ngồi ăn, hay sao? Trái lại, há không biểu nó rằng: Hãy dọn cho ta ăn, thắt lưng hầu ta, cho đến chừng nào ta ăn uống xong, rồi sau ngươi sẽ ăn uống sao? Đầy tớ vâng lịnh mà làm, thì chủ có biết ơn gì nó chăng? Các ngươi cũng vậy, khi làm xong việc truyền phải làm, thì hãy nói rằng: Chúng tôi là đầy tớ vô ích; điều chúng tôi đã làm là điều chắc phải làm” (Lu-ca, chương 17, câu 7 đến 10).
Phao-lô là người được Chúa dùng một cách đặc biệt hơn hết trong Hội Thánh của Ngài; nhưng ông luôn luôn biết sống trong tinh thần khiêm nhường và tôn cao Chúa trong đời sống, vì ông biết tất cả những gì ông làm được cho Chúa là nhờ ơn và sức của Chúa ban cho mà thôi, chứ ông chẳng có gì cả, và chẳng là gì cả.
Phao-lô đã xác nhận: “Nhưng tôi nay là người thể nào, là nhờ ơn Đức Chúa Trời, và ơn Ngài ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy. Trái lại, tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi” (Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 15, câu 10).
Xin Chúa thương xót mỗi một chúng ta là tôi tớ, con cái của Ngài, cho chúng ta nhớ rằng trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là đầy tớ phục vụ Ngài mà thôi. Chúng ta chẳng có gì để... nổ, để khoe khoang cả. Hãy phục vụ Chúa cách hết lòng và để Chúa được tôn cao qua đời sống của mỗi một chúng ta! Amen!
California, Đầu Tháng 9/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
*Ông Cống, Ông Nghè: Hương Cống và Ông Nghè là hai học vị Cử Nhân và Tiến Sĩ trong Kỳ Thi Chữ Hán ngày xưa ở nước ta.
**Hạng Võ (tức Hạng Tịch) là vua nước Sở, có sức mạnh vô địch.
***Đế Thích là vị tiên chơi cờ cao tay có hạng, khó ai bì.
Bài 387
Chuyện... Cảm Tạ Và... Kỷ Niệm
(Viết nhân dịp Cảm Tạ 32 Năm Chức Vụ Hầu Việc Chúa (9/ 1992-9/ 2024), và Kỷ Niệm 40 Năm Ngày Cưới (26/ 9/ 1984-2024))
Đến Tháng 9 Năm 2024 nầy là chúng tôi tròn 32 năm trong chức vụ hầu việc Chúa. Và đến ngày 26/ 9/ 2024 là chúng tôi tròn bốn mươi năm ngày cưới.
Chức vụ chúng tôi bắt đầu từ việc tham gia Lớp Học “Cuộc Đời Chúa Cứu Thế” cũng như những khóa học Kinh Thánh do quý vị Mục Sư trong Ban Trị Sự Địa Hạt Bắc Trung Phần lúc bấy giờ tổ chức vào năm 1992. Chúng tôi vừa tham gia học lời Chúa, vừa thực tập hầu việc Chúa tại Hội Thánh địa phương, với tư cách là Thầy Phụ Tá Mục Sư Quản Nhiệm. Những anh em tham gia học chung Lời Chúa lúc bấy giờ, nay là những Mục Sư, đang hầu việc Chúa tại các hệ phái khác nhau, ở nhiều Hội Thánh khác nhau. Tạ ơn Chúa!
Thời gian trôi đi thật nhanh, mới ngày nào đây, từ bỏ nghề dạy học bên ngoài (tôi thường nói vui là... mất dạy), nghe theo tiếng gọi của Chúa, tham gia học Lời Chúa để dâng mình hầu việc Ngài, mà nay đã 32 năm trong chức vụ rồi.
Chúa cho vợ chồng chúng tôi đã có cơ hội hầu việc Chúa qua một số các Hội Thánh như Hội Thánh Thăng Bình, Hội Thánh Bình Triều, Hội Thánh Định Xuân (thuộc Huyện Thăng Bình, Quảng Nam); Hội Thánh Thu Bồn (Huyện Duy Xuyên, Quảng Nam); Hội Thánh Báp-tít Đức Tin Huyện Thăng Bình (Quảng Nam); Hội Thánh Báp-tít Chi-nô (thành phố Montclair, California, Hoa Kỳ); Hội Thánh Trưởng Nhiệm Stockton (California, Hoa Kỳ); và nay, đang chờ đợi để hầu việc Chúa ở nơi nào Chúa muốn.
32 năm trong chức vụ, chúng tôi nghiệm ra được điều nầy, ấy là người hầu việc Chúa phải là người cúi đầu và quỳ gối trước mặt Chúa, thì mới có thể đứng thẳng trước mặt con người. Nếu không, thì chúng ta sẽ rất dễ “cúi đầu và quỳ gối” trước mặt con người, thay vì cúi đầu, quỳ gối trước mặt Đức Chúa Trời.
Lời Kinh Thánh nhắc nhở, kêu gọi chúng ta: “Hãy đến cúi xuống mà thờ lạy. Khá quỳ gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo Hóa chúng tôi!” (Thi-thiên 95, câu 6).
Vua Đa-vít thật có lý khi nói: “Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi. Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên” (Thi-thiên 3, câu 3).
Vâng! Không ai muốn chúng ta ngước đầu lên và cũng không có ai làm cho chúng ta ngước đầu lên được đâu, chỉ một mình Chúa là Đấng làm cho chúng ta ngước đầu lên mà thôi, vì Ngài là Đấng vinh hiển, quyền năng.
Xin Chúa tiếp tục thương xót và ban ơn cho chức vụ của chúng con trong những năm tháng đến, để được tiếp tục hầu việc Ngài, không sợ hãi gì hết!
Xin Chúa cho chúng con tiếp tục tin cậy Ngài, bước đi với Ngài, cúi đầu, quỳ gối trước mặt Ngài để có thể đứng thẳng trước mặt con người, hầu việc Ngài cách chuyên tâm và ngay thẳng.
Cảm tạ Chúa về ơn lành và sự thương xót của Ngài đã ban cho trên chức vụ của chúng con trong suốt 32 năm dài trôi qua!
Thời gian trôi đi thật nhanh, mới ngày nào đây, tôi rước... cô bé có chiếc răng khểnh duyên dáng (mà tôi thường gọi yêu là chiếc răng... vô trật tự)... đi bộ về nhà mình (vì lúc bấy giờ là thời bao cấp, cuộc sống vô cùng khó khăn; nên không thể đưa nàng... lên xe hoa được), vào một ngày mùa Thu đẹp trời của xứ Quảng Nam quê tôi, mà nay đã... bốn chục năm rồi.
Còn nhớ như in buổi sáng đẹp trời của Ngày 26 Tháng 9 Năm 1984, tôi hồi hộp sánh bước cùng nàng (chắc cũng hồi hộp như tôi) bước vào Nhà Thờ để làm Lễ Thành Hôn.
Nhà Thờ hôm đó khá đông người tham dự. Ngoài phái đoàn của hai Họ Nhà Trai và Nhà Gái, còn có đông tín đồ và bạn bè thân yêu đến cùng chứng kiến Lễ Cưới. Đó cũng là truyền thống đặc biệt của Lễ Cưới ở các Hội Thánh miền quê. Ở hầu hết các Hội Thánh miền quê, mỗi một khi có Lễ Cưới của cặp đôi Nam Nữ nào đó trong Hội Thánh là dường như tín đồ cả Hội Thánh đều háo hức tham dự để chúc mừng cho đôi tân hôn. Các Hội Thánh ở thành phố, dường như không có được... truyền thống đáng yêu nầy, mỗi khi có Lễ Cưới của đôi bạn nào đó, thì dường như chỉ có hai Họ mà thôi, chứ ít có tín đồ tham dự.
Cử hành Lễ Cưới cho chúng tôi hôm đó là Mục Sư Nguyễn Xuân Vọng. Điều làm chúng tôi hồi hộp nhất trong buổi Lễ là lúc hai đứa trao và nhận chiếc nhẫn vàng từ tay của vị Mục Sư Chủ Lễ trao cho và hướng dẫn nói “Bởi chiếc nhẫn nầy, anh cưới em (em nhận anh) làm vợ (làm chồng), nhân danh Cha, Con và Thánh Linh. A men!”
Dĩ nhiên, đó chỉ là một cách nói biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, chứ không phải “bởi chiếc nhẫn vàng đó” mà tôi mới cưới nàng làm vợ, hay là nàng mới ưng tôi làm chồng đâu; nhưng là bởi tình yêu và sự ban cho của Chúa mà chúng tôi nên duyên vợ chồng đó thôi.
Vâng, từ giờ phút thiêng liêng ấy, chúng tôi đã trở thành vợ chồng cho đến ngày hôm nay, đã bốn mươi năm rồi! Tạ ơn Chúa đã ban ơn, gìn giữ hôn nhân của chúng tôi suốt bốn chục năm qua!
Chúng tôi cầu nguyện với Chúa và thống nhất với nhau, cứ mỗi mười năm sẽ tổ chức kỷ niệm ngày cưới một lần, và chúng tôi đã làm được điều đó trong ba mươi năm qua.
Kỷ niêm 10 năm ngày cưới vào năm 1994, Chúa cho chúng tôi có được hai... hoàng tử.
Kỷ niệm 20 năm ngày cưới vào năm 2004, chúng tôi có được ba... hoàng tử.
Đến khi kỷ niệm 30 năm ngày cưới vào năm 2014, chúng tôi có được bốn... hoàng tử.
Và kỷ niệm 40 năm ngày cưới năm 2024 nầy, chúng tôi có thêm được một cô con dâu và ba cháu nội (hai gái, một trai).
Từ lúc chỉ có hai vợ chồng vào năm 1984, đến nay, sau bốn chục năm, Chúa ban cho chúng tôi có một gia đình 10 người rồi. Đó là tài sản, là cơ nghiệp vô giá mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng tôi sau bốn mươi năm, như lời Kinh Thánh dạy rằng: “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra. Bông trái của tử cung là phần thưởng” (Thi-thiên 127, câu 3).
Điều làm cho chúng tôi vui mừng hơn hết là tất cả con, dâu, cháu chúng tôi đều được ở trong Ngài và đều góp phần hầu việc Ngài.
Tôi nhớ Giô-suê ngày xưa đã từng tuyên bố: “Ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va” (Giô-suê 24: 15).
Cả gia đình đều phục sự Chúa. Ta và nhà ta đều phục sự Chúa thì còn phước hạnh nào hơn!
Một điều vui mừng nữa là ba... hoàng tử của chúng tôi được Chúa kêu gọi bước vào trong chức vụ hầu việc Ngài, trở thành những Truyền Đạo để phục vụ Chúa trong Hội Thánh.
Tạ ơn Chúa về những ơn phước quý báu mà Ngài đã ban cho gia đình chúng con trong suốt bốn mươi năm qua!
Chúng tôi ước ao trong năm, mười năm tới, hoặc lâu hơn nữa, gia đình chúng tôi sẽ... gia tăng dân số lên 20 người hoặc nhiều hơn nữa, thì chúng tôi sẽ có một Hội Thánh gia đình để thờ phượng Chúa. Gia Đình Chúng Tôi Thờ Trời, Gia Đình Chúng Tôi Phục Vụ Ông Trời là điều Đức Chúa Trời rất đẹp lòng. Hội Thánh Tư Gia, đó là khuôn mẫu của Hội Thánh ban đầu đã được Kinh Thánh ghi lại để chúng ta phải noi theo mà phát triển Hội Thánh.
Nhân kỷ niệm 32 năm trong chức vụ hầu việc Chúa và 40 năm ngày cưới, chúng tôi ghi lại những ơn lành mà Đức Chúa Trời đã làm cho gia đình và chức vụ để biết ơn Ngài, để cảm tạ Ngài.
Tương lai còn ở phía trước và không ai có thể biết được điều gì sẽ xảy đến với mình. Dù “con không biết ngày mai sẽ thế nào?”* nhưng con vẫn vui sống mỗi ngày, vì con biết Chúa đang nắm giữ tương lai của chúng con và gia đình chúng con trong tay Ngài.
Thánh Gia-cơ đã dạy: “Ví bằng Chúa muốn, và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ, việc kia” (Gia-cơ 4: 15). Vâng, nếu Chúa muốn và cho chúng con còn sống, thì vợ chồng chúng con cũng sẽ tiếp tục hầu việc Ngài, gia đình chúng con cũng sẽ tiếp tục phục sự Ngài.
Nguyện xin Ngài sử dụng cuộc đời còn lại của chúng con theo ý tốt của Ngài cho công việc nhà Ngài.
Nếu Chúa muốn và chúng tôi còn sống, thì đến Tháng 9, Năm 2034, chúng tôi sẽ tổ chức Lễ Cảm Tạ 42 Năm Chức Vụ Hầu Việc Chúa và Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Cưới!
Chúng con tin rằng Chúa sẽ tiếp tục ban phước cho chức vụ của chúng con cũng như gia đình chúng con! Chúng con tin rằng Chúa sẽ ban phước cho hậu tự của chúng con cách dư dật! Amen!
California, Tháng 9/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
*Lời từ bài hát “Tôi Biết Đấng Nắm Tương Lai”của Stanphill
Bài 388
Chuyện Về... Một Đầy Tớ Chúa
(Kính Tặng Bà Quả Phụ Mục Sư LTC và quý Mục Sư hậu tự cùng toàn gia đình!)
Kinh Thánh: Ma-la-chi 3: 10; Công Vụ Các Sứ Đồ 20: 35
Khi chúng ta nghe tin một người thân yêu nào đó của mình qua đời là chúng ta đều cảm thấy chạnh lòng, vì người thân yêu ấy không còn ở bên mình nữa, và mình cũng không còn được gặp người ấy trên trần gian nầy nữa.
Tuần vừa qua, tôi được tin hai người thân yêu của tôi qua đời tạm nầy để bước vào sống trong cõi đời đời vinh hiển với Chúa yêu thương trên Thiên Đàng.
Một người là anh sui của tôi. Tôi và anh sui chưa một lần được gặp nhau ngoài đời, vì tôi thì ở Mỹ, còn anh thì ở Việt Nam, quê Đồng Tháp Mười nổi tiếng với... bông súng cá kho như Ca dao đã nói:
Muốn ăn bông súng cá kho,
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm
Con trai tôi cưới con gái anh, tôi cũng không về tham dự được, vì một số lý do ngoài ý muốn. Đã gần mười năm làm sui gia với nhau rồi, nhưng hai bên vẫn chưa có điều kiện để gặp nhau chuyện trò chi hết. Ngay cô con dâu, tôi cũng chưa một lần gặp mặt nữa. Không những thế, ngay cả ba đứa cháu nội dễ thương, kháu khỉnh, tôi cũng chưa được ôm vào trong vòng tay một lần luôn. Tất cả đều chỉ gặp nhau trên... online, chứ chưa từng gặp nhau mặt đối mặt ngoài đời.
Tôi có dự định là dịp cuối năm nầy, nếu Chúa cho phép và mọi sự không có gì trở ngại, thì tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và quê hương, khi ấy sẽ làm một chuyến... hành miền Tây cùng con cháu để thăm anh chị sui, hàn huyên chuyện trò cho thỏa thích. Anh sui nghe tin ấy cũng háo hức lắm, và đang đón đợi tôi về để... chiêu đãi những món ăn đặc sản miền Tây sông nước do chính bàn tay của anh chị sẽ tự biên tự diễn. Nào ngờ, cách đây mấy ngày, anh bị bịnh nặng phải đưa vào bịnh viện cấp cứu. Sau hai ngày ở bịnh viện, anh đã được Chúa đưa về “MIỀN PHƯỚC HẠNH” trên Thiên Đàng một cách thật bất ngờ.
Thế là tình sui gia mà chưa một lần được gặp nhau ở dưới đất nầy! Thôi, đành hẹn gặp anh trên Thiên Đàng trong tương lai vậy!
Xin Đức Thánh Linh yên ủi chị sui và các cháu trong cảnh chia ly đầy thương nhớ nầy!
Người thứ hai là một đầy tớ Chúa mà tôi hằng yêu mến.
Ông là một trong những đầy tớ Chúa đã nâng đỡ, khích lệ chức vụ chúng tôi rất nhiều, nhất là trong những năm tháng còn khó khăn trong chức vụ.
Khi nhiều anh em Truyền Đạo Tình Nguyện chúng tôi (Một danh xưng không biết do ai đặt ra, nhưng nghe thật... đã là Truyền Đạo Tình Nguyện, còn tất cả những đầy tớ Chúa khác là Mục Sư đều là những Mục Sư... bắt buộc hầu việc Chúa, chứ không... tình nguyện như anh em chúng tôi. Nếu nói về sự chịu đựng khó khăn, gian khổ; sự bị chèn ép, xem thường, thì có thể nói không ai bằng anh em Truyền Đạo Tình Nguyện chúng tôi cả. Nhưng cảm tạ Chúa, Ngài đã ban ơn và thêm sức cho các anh em Truyền Đạo Tình Nguyện chúng tôi để đủ sức chấp nhận tất cả mọi sự mà hầu việc Chúa.) hầu việc Chúa không lương, nhưng phải làm đủ thứ việc thượng vàng hạ cám từ Mục Sư Quản Nhiệm giao cho; thì Chúa lại dùng người đầy tớ Chúa dấu yêu nầy để giúp đỡ chức vụ của chúng tôi qua những món quà hằng tháng rất quý giá lúc bấy giờ.
Phải nói rằng, nhờ những món quà của vị Mục Sư nầy mà anh em Truyền Đạo Tình Nguyện chúng tôi như được tiếp thêm sinh lực để hầu việc Chúa. Chúng tôi được khích lệ rất nhiều khi nhận được quà từ ông mỗi tháng. Dường như Chúa nhắc ông... phải nhớ đến chúng tôi thì phải, vì không tháng nào mà ông quên gởi quà cho chúng tôi cả.
Thật tạ ơn Chúa về tấm lòng tốt của người đầy tớ Chúa dấu yêu nầy!
Được biết người đầy tớ Chúa nầy không những chỉ giúp đỡ quà cho chúng tôi mà thôi, ông còn giúp quà cho nhiều những Mục Sư, Truyền Đạo có hoàn cảnh khó khăn ở nhiều hệ phái Tin Lành khác nữa. Ông sống trong tinh thần mở rộng Vương Quốc Đức Chúa Trời chứ không phải mở rộng hệ phái của riêng mình như nhiều người vẫn thường làm. Đó là tinh thần đáng cho chúng tôi học hỏi và làm theo.
Cũng được biết, người đầy tớ Chúa nầy ngay từ khi còn làm một tín đồ ở Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng, ông và gia đình ông đã sống trong tinh thần dâng hiến cách rời rộng cho công việc nhà Chúa chung ở nhiều nơi.
Tôi được nghe kể rằng, mỗi ngày sau khi kết thúc công việc buôn bán, ông thường không hỏi bà là hôm nay, mình thu được bao nhiêu tiền, mà là hỏi, hôm nay, mình giúp đỡ được cho bao nhiêu người?
Đó quả là một câu hỏi không dễ hỏi, nhưng là một câu hỏi có nhiều điều để chúng ta học hỏi trên linh trình theo Chúa và hầu việc Ngài.
Gia đình người đầy tớ Chúa nầy luôn dâng hiến đúng phần mười cho Chúa, và dâng hiến trong đức tin.
Có lẽ ít có người chịu học và thực hành câu Kinh Thánh trong Ma-la-chi chương 3, câu 10 một cách nghiêm túc như người đầy tớ Chúa nầy: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà Ta; và từ nay, các ngươi khá lấy điều mình mà thử Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem Ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!”
Nghe nói, ông dâng hiến từ một phần mười lên hai phần mười, rồi ba, bốn phần mười.
Đến ngày hôm nay, có một Mục Sư cho biết là ông đã dâng hiến cho Chúa lên đến tám, chín phần mười, thậm chí ông còn dâng hết cho Chúa luôn.
Thật là một tấm gương dâng hiến, ban cho đáng để noi theo!
Người đầy tớ Chúa nầy đã sống đúng theo tinh thần như Chúa Giê-su đã phán: “Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ 20, câu 35).
Bởi tấm lòng dâng hiến đáng nể đó, mà Đức Chúa Trời có ban phước cho gia đình của ông thật rộng rời, vì Ngài biết tấm lòng của ông dành cho Vương Quốc của Ngài. Qua tinh thần hầu việc Chúa của ông, Chúa cũng cho gia đình ông có mấy người con trở thành Mục Sư để hầu việc Ngài, và họ cũng có tinh thần dâng hiến rời rộng như ông vậy.
Hiện nay, sau khi ông qua đời về yên nghỉ trong “MIỀN PHƯỚC HẠNH” tuyệt vời trên trời, các mục vụ dâng hiến hầu việc Chúa của gia đình ông vẫn tiếp tục để góp phần mở mang Vương Quốc của Đức Chúa Trời trên đất nầy.
Nguyện Chúa tiếp tục sử dụng hậu tự của người đầy tớ Chúa nầy cho công việc nhà Ngài cách hữu hiệu như Ngài đã sử dụng chính người đầy tớ Chúa ấy trong nhiều những năm tháng đã qua vậy!
Người đầy tớ Chúa mà tôi nói đến ở trên đây chính là MỤC SƯ LÊ TỰ CAM.
Vừa qua, ông có viết email hẹn với tôi là sẽ gọi điện thoại nói chuyện với tôi; nhưng chưa thực hiện được, thì Mục Sư lại được Chúa tiếp về Thiên Đàng rồi.
Thế là đành phải hẹn gặp Mục Sư trong tương lai trên Thiên Đàng để chuyện trò thôi!
Ông vừa được Chúa đem về “MIỀN PHƯỚC HẠNH” vào sáng Ngày 14 Tháng 9 Năm 2024!
Rất thương kính Mục Sư Lê Tự Cam, người đầy tớ yêu dấu của Đức Chúa Trời!
Cầu xin Đức Thánh Linh yên ủi bà Quả Phụ Mục Sư Lê Tự Cam và quý Mục Sư trong gia đình cùng tang quyến trước sự chia tay đầy lưu luyến nầy! Amen!
California, Tháng 9/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 389
Chuyện... Trẻ Và... Già
(Viết nhân kỳ bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2024!)
Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 41: 39-46; Lê-vi-ký 27: 7; II Sa-mu-ên 5: 1-5
Trẻ hay già trong bài viết nầy là muốn nói đến tuổi tác của con người.
Tuổi trẻ thì thường đầy năng lực và nhiệt huyết, nhạy bén và năng động. Còn tuổi già thì thường đi đôi với... sức yếu (người ta thường nói “tuổi già, sức yếu”); cho nên bầu nhiệt huyết cũng giảm đi nhiều. Tuổi già thường... chậm chạp, không thể nào còn độ nhanh nhạy như tuổi trẻ được.
Tuổi trẻ có thể hơn tuổi già nhiều điều; nhưng chắc chắn... thua tuổi già về... tuổi, vì... chưa nhiều tuổi, nên mới gọi là... tuổi trẻ, và vì được nhiều tuổi rồi, nên mới được gọi là... tuổi già.
Tuổi trẻ có thể... hơn tuổi già nhiều điều, nhưng chắc chắn... thua tuổi già về sự từng trải và kinh nghiệm sống trong cuộc đời. Chẳng thế mà ông bà mình đã từng nói “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” đó sao?
Bạn đang còn ở lứa... tuổi trẻ, hay đã toan bước vào... tuổi già?
Kinh Thánh cho biết, tuổi già bắt đầu từ tuổi sáu mươi trở đi: “Nếu một người già cả từ sáu mươi tuổi trở lên, ngươi hãy định giá mười lăm siếc lơ bạc cho một người nam và mười siếc lơ bạc cho một người nữ” (Lê-vi-ký 27, câu 7).
Người Việt cũng có quan niệm, người nào tròn 60 tuổi là đã được một hoa giáp, tức được 6 lần của chu kỳ 10 can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý). Và người được một hoa giáp là được... bước vào chiếu của những người... sống thọ, chiếu của người... tuổi già.
Nếu bạn đang bước vào tuổi 60, thì có nghĩa là bạn không còn... trẻ nữa, mà đang ở... tuổi già rồi.
Như chúng ta đã biết, nước Mỹ hiện đang ở trong mùa bầu cử Tổng Thống năm 2024 rất sôi động và gay cấn; nhất là từ khi đương kim Tổng Thống Joe Biden tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc vào ngày 21 Tháng 7 vừa qua (vì nhận biết mình đã... quá già); và đề cử Phó Tổng Thống đương nhiệm là bà Kamala Harris làm ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ thay cho mình.
Cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc vào Tháng 11 sắp tới sẽ không... sôi động và gay cấn cho lắm, nếu không có sự thay đổi ứng viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ giữa chừng như vừa qua, vì hai ứng viên nầy đã từng một lần cùng chạy đua vào Tòa Bạch Ốc vào Tháng 11 Năm 2020 rồi, nên họ biết về... đường đi nước bước của nhau khá rõ. Và vả lại, hai ứng viên nầy đã là hai... ông già rồi (Ông Trump nay đã 78 tuổi, còn ông Biden đã đến 81 tuổi), thuộc lớp tuổi... quá già.
Đùng một cái, Tổng Thống Biden, sau một thời gian cân nhắc kỹ lưỡng, và chắc thấy mình đã... quá già, không còn đủ độ minh mẫn, nhạy bén cần thiết để tiếp tục cuộc đua vào chiếc ghế quyền lực nhất nước Mỹ và cả thế giới; nên đã quyết định dừng cuộc đua, nhường chỗ cho người trẻ tuổi hơn để tiếp tục cuộc đua. Vì vậy, cuộc đua vào chức Tổng Thống Mỹ năm nay trở nên... sôi động và gay cấn một cách bất ngờ chưa từng thấy.
Sở dĩ, cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc năm 2024 tự nhiên trở nên sôi động và gay cấn là vì mọi chương trình, kế hoạch bên Đảng Cộng Hòa của Cựu Tổng Thống Trump đã đề ra để đương đầu với đối thủ Biden của Đảng Dân Chủ, giờ phải bỏ đi; bởi không còn thích hợp với đối thủ mới là Kamala Harris, vừa chênh lệch về tuổi tác vừa khác nhau về phái tính nữa.
Phó Tổng Thống Kamala Harris so với ông Trump thì... trẻ hơn khá nhiều. Ông Trump đã 78 tuổi, còn bà Harris mới 59, trẻ hơn ông Trump đến gần 20 tuổi. Vả lại, nước Mỹ đã có 46 đời Tổng Thống đều là nam giới*, chưa bao giờ có một người nữ được làm Tổng Thống; nên sự xuất hiện của bà Harris ngay lúc nầy đem lại cho nhiều người dân Mỹ cơ hội để họ làm nên một điều mới mẻ chưa từng có trong lịch sử, ấy là một... Nữ Tổng Thống.
Nước Mỹ là nước luôn luôn sẵn sàng để... đổi mới, và luôn luôn tạo cơ hội cho mọi người thực hiện được ước mơ của mình, miễn là có tài năng và nghị lực thực sự.
Nước Mỹ đã từng có một người gốc Phi đầu tiên làm Tổng Thống, đó là Cựu Tổng Thống Barack Obama (từ 2009 đến 2017), và phải chăng nước Mỹ đang mong muốn có một... Nữ Tổng Thống đầu tiên cho mình???
Người Mỹ có câu: “Nothing is impossible” (nghĩa là không gì là không thể), và họ cũng có câu “Never say never” (nghĩa là không bao giờ nói không bao giờ!). Dựa vào những câu nói đó, người Mỹ hy vọng điều chưa từng có trong lịch sử chính trị của họ sẽ có thể xảy ra vào tháng 11 tới đây, hoặc là có thể sẽ xảy ra vào một thời điểm nào đó ở tương lai, trong sự cho phép của... Ông Trời.
Hãy theo dõi cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc đang rất sôi động và gay cấn; cũng như chờ xem kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ vào Tháng 11 tới đây để biết... hướng đi mới của nước Mỹ trong những năm tháng tới!
...
Lại nói về chuyện... trẻ và... già!
So với ông Trump (78 tuổi) thì bà Harris (59 tuổi) rõ ràng là trẻ hơn nhiều; hay nói cách khác, so với bà Harris, thì ông Trump... già hơn nhiều. Giữa ông Trump và bà Harris, cách nhau cả một... thế hệ.
Nước Mỹ đã từng có hai... ông già làm Tổng Thống liên tiếp rồi, đó là ông Trump (từ 2017 đến 2021), khi đó đã 71 tuổi, và ông Biden (từ 2021 đến 2024), khi đó đã 78 tuổi. Nay, người Mỹ có lẽ đang mong muốn có một người trẻ hơn lên làm Tổng Thống để nước Mỹ được... sinh động hơn, năng động hơn chăng? Cho nên, bà Harris vừa xuất hiện đã đem lại sự sôi động và gay cấn ngay lập tức cho cuộc bầu cử Tổng Thống năm nay.
Qua những cuộc thăm dò đang diễn ra trên truyền thông, dường như bà Phó Tổng Thống Kamala Harris đang được nhiều người Mỹ ủng hộ ngang ngửa với Cựu Tổng Thống Trump, thậm chí có chiều hướng dẫn điểm trước ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa nữa.
Nói về độ tuổi, so với ông Trump thì bà Harris được xem là... trẻ, chứ thực ra, bà đã 59 tuổi rồi, thì cũng đâu còn chi là... trẻ nữa, nếu không muốn nói bà cũng đã... già rồi. Cách đây hơn ba năm, khi bà trở thành Phó Tổng Thống Mỹ, bà cũng đã 56 tuổi, cũng không phải là... trẻ.
Khi đọc Kinh Thánh, ta thấy nhiều người mới bước vào tuổi ba mươi đã làm Tể Tướng một đất nước (tương đương với Thủ Tướng bây giờ), hoặc đã làm Vua (tương đương với Tổng Thống bây giờ) rồi.
Xin kể ra vài tên tuổi như sau:
Giô-sép khi được 30 tuổi, đã trở thành Tể Tướng của đế quốc Ê-díp-tô hùng mạnh thời cổ đại (tức Ai-cập ngày nay): “Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Vì Đức Chúa Trời xui cho ngươi biết mọi việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh trí-huệ như ngươi nữa. Vậy, ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng theo lời ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi. Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép rằng: Hãy xem! trẫm lập ngươi cầm quyền trên cả xứ Ê-díp-tô. Vua liền cổi chiếc nhẫn trong tay mình, đeo vào tay Giô-sép, truyền mặc áo vải gai mịn, và đeo vòng vàng vào cổ người; rồi, truyền cho lên ngồi xe sau xe vua, có người đi trước hô rằng: Hãy quì xuống! Ấy, Giô-sép được lập lên cầm quyền cả xứ Ê-díp-tô là vậy. Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép: Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu chẳng có ngươi, thì trong cả xứ Ê-díp-tô không có ai giơ tay đưa chân lên được. Pha-ra-ôn đặt tên Giô-sép là Xa-phơ-nát-Pha-nê-ách, đưa nàng Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, cho người làm vợ. Người thường tuần hành trong xứ Ê-díp-tô. Vả, khi Giô-sép ra mắt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, thì người đã ba mươi tuổi. Vậy, người từ tạ Pha-ra-ôn mà đi tuần khắp xứ Ê-díp-tô” (Sáng Thế Ký 41, câu 39 đến 46).
Đa-vít cũng được Đức Chúa Trời ban cho ngôi vua khi ông mới bước vào tuổi 30: “Bấy giờ, hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn, mà nói rằng: Chúng tôi đây vốn là cốt nhục của vua. Đã từ xưa, khi Sau-lơ còn cai trị chúng tôi, chính vua đã dắt Y-sơ-ra-ên ra trận và đem họ về. Đức Giê-hô-va có phán cùng vua rằng: Ngươi sẽ chăn dân sự ta, và làm vua của Y-sơ-ra-ên. Vậy, hết thảy các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cùng vua tại Hếp-rôn, vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt Đức Giê-hô-va, và chúng xức dầu cho Đa-vít làm vua của Y-sơ-ra-ên. Khi Đa-vít khởi trị vì, tuổi đã được ba mươi; người cai trị bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, Đa-vít trị vì trên Giu-đa bảy năm sáu tháng; rồi tại Giê-ru-sa-lem, người trị vì trên cả dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm” (Sa-mu-ên thứ nhì 5, câu 1 đến 5).
Giô-sép, Đa-vít là những con người đầy tài năng và ơn ban từ nơi Đức Chúa Trời. Họ thật sự là những vĩ nhân nổi bật trong Kinh Thánh và được cả thế giới loài người biết đến nữa.
Hãy chờ xem ai sẽ là Tổng Thống Mỹ thứ 47 được bầu chọn vào Tháng 11 sắp tới? Một người... già như ông Trump hay là một người... trẻ như bà Harris?
Một điều trùng hợp... thú vị đối với Cựu Tổng Thống Trump, ấy là trong lần tranh cử Tổng Thống vào năm 2016, ông đương đầu với một phụ nữ nổi tiếng là một Luật Sư, một Cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cựu Đệ Nhất Phu Nhân, bà Hillary Clinton. Lần đó, ông đã chiến thắng bà Clinton và trở thành chủ nhân Tòa Bạch Ốc.
Tranh cử Tổng Thống lần nầy, ông Trump bất ngờ lại đối đầu với một người phụ nữ nữa là một Cựu Tổng Chưởng Lý bang California và là đương kim Phó Tổng Thống Hoa Kỳ, đó là bà Kamalas Harris.
Không biết lần nầy, ông Trump có thắng được bà Harris như đã thắng bà Clinton cách đây 8 năm không?
Người ta hay nói lịch sử thường lặp lại, không biết lần nầy lịch sử có lặp lại cho ông Trump không? Hay lịch sử lại bước sang một trang mới hoàn toàn?
Nếu ông Trump đắc cử, thì Hoa Kỳ đã có 45 người đàn ông làm Tổng Thống. Nếu bà Harris thắng cử, thì nước Mỹ sẽ có người nữ đầu tiên làm Tổng Thống và là Tổng Thống thứ 47.
Hãy chờ xem!
Không biết đến khi nào nước Mỹ mới có được một Tổng Thống trẻ ở độ tuổi 30 như những nhân vật trong Kinh Thánh vừa nêu ở trên? Hay ít nhất cũng ở độ tuổi 35 như quy định của Hiến Pháp nước Mỹ là “Tổng thống phải ít nhất 35 tuổi, đã từng sống ở Hoa Kỳ trong 14 năm và là công dân Hoa Kỳ.”
Dầu cho ai là Tổng Thống Mỹ trong kỳ bầu cử năm 2024 nầy, thì chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời hằng sống vẫn luôn là Đấng tể trị tất cả mọi sự, cũng như mọi nước, mọi đế quốc trên thế giới nầy.
Cầu xin Chúa ban ơn, bảo vệ và giữ gìn đất nước Mỹ trong bàn tay quyền năng, yêu thương của Ngài!
IN GOD WE TRUST!
California, Đầu Tháng 10/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
*Đã có 45 người tuyên thệ nhậm chức tổng thống, và 46 đời tổng thống, vì Grover Cleveland phục vụ hai nhiệm kỳ không liên tiếp và được tính theo thứ tự là tổng thống thứ 22 và 24 của Hoa Kỳ. (Theo wikipedia.org)
Bài 390
Chuyện Về... Người Hầu Việc Chúa (1)
(Kính Tặng Những Người Hầu Việc Chúa Ở Khắp Mọi Nơi, và Riêng Tặng Những Bạn Đồng Lao Yêu Dấu Của Tôi Nhân “Tháng Biết Ơn Mục Sư” Năm 2024.)
Kinh Thánh: I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 12, 13; I Ti-mô-thê 5: 17, 18; I Phi-e-rơ 5: 2-4
Tháng 10 hằng năm, từ mấy chục năm trước, ở xứ Mỹ và ở nhiều quốc gia phương Tây văn minh được người ta chọn làm “THÁNG BIẾT ƠN MỤC SƯ”, trong đó, Chúa Nhật thứ 2 của Tháng được gọi là “NGÀY BIẾT ƠN MỤC SƯ”
Lời kêu gọi dành một tháng, đặc biệt là một ngày để ghi nhớ công ơn của vị lãnh đạo thuộc linh như Mục Sư, Giám Mục, Trưởng Lão, Giáo Sĩ có thể bắt nguồn từ thời Sứ Đồ Phao-lô.
Trong các Thư Tín của mình, Sứ Đồ Phao-lô thường khuyên các Hội Thánh nên dành “đãi ngộ gấp đôi” cho các lãnh đạo Hội Thánh, là những người chăm lo công việc “rao giảng và dạy dỗ”, hãy kính trọng họ, yêu thương họ, và vâng phục họ:
“Các Trưởng Lão khéo cai trị Hội Thánh thì mình phải kính trọng bội phần, nhứt là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ. Vì Kinh Thánh rằng: Ngươi chớ khớp miệng con bò đương đạp lúa; và người làm công thì đáng được tiền công mình” ( Ti-mô-thê thứ nhứt 5, câu 17 và 18)
“Hỡi anh em, xin anh em kính trọng kẻ có công khó trong vòng anh em là kẻ tuân theo Chúa mà chỉ dân và dạy bảo anh em. Hãy lấy lòng rất yêu thương đối với họ, vì cớ công việc họ làm” (Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhất 4, câu 12, 13).
“Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em” (Hê-bơ-rơ 13, câu 17).
Vào năm 1994, tổ chức Cơ đốc giáo Hoa Kỳ mang tên “Tập trung vào Gia đình bắt đầu quảng bá Tháng Tri Ân Mục Sư như một tháng lễ Quốc Gia”. Trong công tác thúc đẩy Tháng Tri Ân Mục Sư, tổ chức này đã tìm cách khuyến khích các tín hữu công khai thể hiện lòng biết ơn của họ đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo trên bình diện Quốc Gia.
Từ Tháng Tri Ân Mục Sư đã nảy sinh ý tưởng nhấn mạnh một ngày cụ thể để tri ân các Mục Sư. Ngày này được gọi là “NGÀY TRI ÂN MỤC SƯ”. Ngày này thể hiện lòng biết ơn của cả đất nước đối với những người hầu việc Chúa được tổ chức vào Chúa Nhật thứ Hai của Tháng Mười.
Tháng 10 năm nay đã và đang về với chúng ta. Bên ngoài, thời tiết se se lành lạnh, như báo hiệu cho một mùa Đông rét mướt sắp về, có nghĩa là Mùa Yêu Thương sắp đến.
Tháng 10 về, là một người hầu việc Chúa, lòng tôi cũng cảm nhận được sự ấm áp trong tâm hồn, khi tự mình đi tìm những bài ca viết về Người Hầu Việc Chúa.
Ba trong nhiều bài ca viết cho người hầu việc Chúa mà tôi đã từng nghe hát có lời rất hay và cảm động, và tôi tin rằng nhiều người hầu việc Chúa cũng rất cảm động khi nghe hai ca khúc nầy.
Nhân NGÀY BIẾT ƠN MỤC SƯ năm 2024, xin mời bạn cùng tôi dành một chút thì giờ để cảm nhận lời của ba ca khúc khá hay nầy.
Ca khúc thứ nhất là ca khúc “HÁT CHO NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA” của Nhạc Sĩ Trương Đoàn Nhật Bảo. Toàn bộ lời của ca khúc ấy như sau:
“Một người đi ra truyền rao, mang tình yêu đến cho muôn người.
Một đời hy sinh tận hiến cho niềm tin.
Và thời gian dẫu có qua mau, và mái tóc dẫu có bạc màu,
Thì người vẫn đi mang chân lý đến mọi nơi.
Hầu việc Cha trên trời cao, là niềm vui sướng trong cuộc đời.
Lời người luôn luôn dạy khuyên tôi nào quên.
Hầu việc Chúa dẫu lúc gian truân, nhờ cậy Chúa chớ có nản lòng.
Và luôn vững tin tạ ơn Chúa trong mọi điều.
Tôi sẽ hát lên cho tấm lòng người hầu việc Chúa.
Tôi sẽ hát lên vì trần gian còn nhiều tội nhân.
Tôi sẽ hát lên cho tấm lòng người hầu việc Chúa.
Trọn cuộc đời dựng xây vương quốc Chúa Trời.
Tôi quyết mãi khắc ghi, lời dạy dỗ trong trái tim này,
Nguyện xin Chúa Cha luôn ban phước cho người bình yên.”
Dưới tựa đề bài hát, Nhạc Sĩ có lời đề tặng: “Kính tặng Mục Sư Võ Quang Hân”
Lời ca khúc thật cảm động, diễn tả được tấm lòng của người hầu việc Chúa với công việc mà Chúa giao cho thật lớn lao; nhưng thật vinh quang.
Người hầu việc Chúa là một người tận hiến cuộc đời mình cho Chúa và cho Vương Quốc của Ngài, cho niềm tin vào Chúa Cứu Thế Giê-su. Khi một người đã tận hiến cuộc đời để hầu việc Đấng yêu thương mình và lấy huyết rửa sạch tội lỗi mình, thì dẫu thời gian có qua đi, mái tóc có bạc màu, tuổi Xuân không còn nữa, người hầu việc Chúa cũng không ngại ngần, mà cứ tiếp tục rao truyền Tin Lành, đem chân lý của chúa đến cho mọi người ở tất cả mọi nơi.
Chúa Giê-su đã tuyên phán: “Tin Lành nầy về Nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất để làm chứng cho muôn dân, lúc bấy giờ, sự cuối cùng sẽ đến” (Sách Ma-thi-ơ 24, câu 14). Chính vì vậy mà bất cứ con dân Chúa nào, bất cứ người hầu việc Chúa nào cũng đều có khao khát và đều phải góp phần rao truyền Tin Lành của Chúa Giê-su đến được cho thật nhiều người.
Được hầu việc cho một vị Tổng Thống ở dưới đất nầy đã là một vinh dự lớn lao, huống hồ gì được hầu việc cho Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa thì còn vinh dự nào lớn hơn, vui sướng nào lớn hơn.
Người hầu việc Chúa không thể nào tránh khỏi những lúc khó khăn, gian truân trong chức vụ; nhưng Lời Chúa dạy “hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy cứ hầu việc Chúa cách dư dật luôn” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất 15, câu 58), nên họ không nãn lòng, mà cứ vững tin nơi sự chăm sóc, bảo vệ của Chúa quyền năng, tiếp tục tiến tới trên linh trình hầu việc Ngài, cho đến khi gặp Ngài, chứ không bao giờ chùn bước, thối lui.
Người hầu việc Chúa là người đã dâng cuộc đời mình cho Ngài, thì họ sẽ dành trọn cuộc đời của họ để xây dựng Vương Quốc Đức Chúa Trời.
Cụm từ “Tôi sẽ hát lên” được lặp đi lặp lại trong ca khúc đến ba lần, tác giả như muốn nhắc nhở, khích lệ mọi người hãy hát lên, trước hết để ca ngợi Đức Chúa Trời, và thứ đến là để khích lệ những người đang dâng đời sống mình hầu việc Ngài.
Cảm ơn Nhạc Sĩ Trương Đoàn Nhật Bảo đã sáng tác nên ca khúc đáng yêu nầy với lời rất sâu lắng và cảm động, để bày tỏ lòng biết ơn những Mục Sư, Truyền Đạo, những Trưởng Lão, những Giáo Sĩ là những con người đã tận hiến cuộc đời mình cho Vương Quốc Đức Chúa Trời.
Ca khúc thứ hai viết về người hầu việc Chúa được nhắc đến ở đây là ca khúc “BÀN CHÂN NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO” của Nhạc Sĩ Thiên Kiều Giang.
Sau đây là lời của ca khúc ấy:
“Có những bàn chân rất âm thầm.
Đi trong đêm khuya, đi trong bão dông,
Đi trong lạnh lùng, cô đơn thiếu vắng,
Đi trong mịt mùng chông gai nước mắt,
Có những bàn chân đi khắp miền xa,
Biền biệt tha phương biết đâu là nhà.
Ôi! Bàn chân người truyền đạo,
Ôi! Bàn chân thanh cao, bàn chân đẹp biết bao!
Bàn chân ấy đi đến từng người,
Bàn chân đi xây dựng cuộc đời,
Bàn chân đi chia sớt yêu thương đẹp ngời,
Bàn chân loan tin Chúa vào đời,
Đấng hy sinh cam chết vì người,
Bàn chân đi rao truyền tin vui,
Có những bàn chân rất khiêm nhường,
Hy sinh riêng tư đi gieo mến thương,
Một đời vì Chúa không nao,
Phục vụ không kể gian lao,
Bàn chân ấy cao đẹp biết bao,
Một đời vì Chúa không nao,
Phục vụ không kể gian lao,
Bàn chân ấy cao đẹp biết bao!”
Lời ca khúc bày tỏ tình cảm rất chân tình dành cho những con người ra đi rao truyền Tin Lành của Chúa Giê-su cho mọi người.
Cụm từ “Có những bàn chân” được lặp đi lặp lại đến ba lần trong ca khúc làm nổi bật đặc điểm của người rao truyền Tin Lành là đi khắp đó đây. Bàn chân người rao truyền Tin Lành thường đi trong âm thầm và đi trong mọi lúc (đêm khuya), mọi nơi (thiếu vắng, vắng vẻ) và trong mọi hoàn cảnh (bão giông, mịt mùng, chông gai).
Bàn chân người truyền đạo thường hay đi xa nhà (đi khắp miền xa), tha phương (biền biệt tha phương) để rao giảng Tin Lành cho mọi người.
Đó là bàn chân thanh cao, bàn chân đẹp biết bao!
Kinh Thánh khẳng định: “Những bàn chân kẻ rao truyền Tin Lành là tốt đẹp biết bao!” (Sách Rô-ma 10, câu 15).
Một khi đã dâng mình để làm người hầu việc Chúa, rao giảng Tin Lành thì họ chấp nhận hy sinh chuyện cá nhân, riêng tư để đem mến thương gieo vào đời. Một khi đã dấn thân vào trong chức vụ thì người truyền đạo không kể gian lao, và không hề nao núng trước mọi nghịch cảnh.
Khi đọc đến những dòng:
“Bàn chân ấy đi đến từng người,
Bàn chân đi xây dựng cuộc đời,
Bàn chân đi chia sớt yêu thương đẹp ngời.”
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh Chúa Giê-su khi còn ở thế gian, bàn chân Ngài cũng đã “đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng Tin Lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật bịnh” (Sách Ma-thi-ơ 9, câu 36).
Chúa Giê-su là gương mẫu tuyệt vời cho hết thảy mọi người theo Chúa và hầu việc Ngài noi theo trong cuộc đời của mình.
Theo gương Chúa Giê-su, hàng ngàn năm qua, bàn chân những người theo Ngài cũng đã ra đi đem Tin Lành đến cho mọi người trên khắp hoàn vũ để hoàn thành Đại Mạng Lịnh của Ngài đã để lại: “Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người” (Sách Mác 10, câu 15).
Có thể nói ca khúc “BÀN CHÂN NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO” của Nhạc Sĩ Thiên Kiều Giang không chỉ viết dành khích lệ những người dâng trọn đời mình để hầu việc Chúa, mà còn cho tất cả mọi người đã được Chúa cứu, vì rao giảng Tin Lành là trách nhiệm của mọi người tin Chúa vậy.
(Còn tiếp)
California, Tháng 10/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 391
Chuyện Về... Người Hầu Việc Chúa (2)
(Kính Tặng Những Người Hầu Việc Chúa Ở Khắp Mọi Nơi, và Riêng Tặng Những Bạn Đồng Lao Yêu Dấu Của Tôi Nhân “Tháng Biết Ơn Mục Sư” Năm 2024)
Kinh Thánh: I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 12, 13; I Ti-mô-thê 5: 17, 18; I Phi-e-rơ 5: 2-4
(Tiếp theo phần 1 và hết)
Ca khúc thứ ba viết về người hầu việc Chúa được khá nhiều người yêu thích, đó là ca khúc “NỖI LÒNG NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA” của Nhạc Sĩ Tiến Nguyễn, với lời như sau:
“Từng đêm nước mắt rơi xuống vì thương,
Thương cho những ai sống trong lạc lầm.
Vì tình уêu Ϲhúa, con đến sẻ chia,
Ước mong bao người biết Ϲhúa.
Ɲhiều lần mệt mỏi con muốn ngã quỵ,
Ϲô đơn đắng caу chẳng ai nâng dìu.
Ɲhiều người khinh ghét, nói xấu, vùi dập,
Ϲhúa ơi Ɲgài có nghe con cầu xin.
Từng đêm nước mắt rơi xuống vì thương,
Thương cho những ai sống trong lạc lầm.
Vì tình уêu Ϲhúa, con đến sẻ chia,
Ước mong bao người biết Ϲhúa.
Ɲhiều lần mệt mỏi con muốn ngã quỵ,
Ϲô đơn đắng caу chẳng ai nâng dìu.
Ɲhiều người khinh ghét, nói xấu, vùi dập,
Ϲhúa ơi Ɲgài có nghe con cầu xin.
Ɲgười hầu việc Ϲhúa có lúc chịu nhiều sóng gió,
Ϲhúa ơi lắng nghe tiếng con kêu cầu.
Ɲhiều lần con nuốt nước mắt. Miệng người vu oan,
Ϲhúa ơi khẩn xin Ɲgài thương.
Ϲầu xin Thiên Ϲhúa Ϲhí Ái. Ɲguуện Ɲgài dẫn dắt,
Thân hồn con giao vào Ϲhúa.
Đỡ nâng con dậу, nguуện Ɲgài ban ơn,
Ϲho con vững bước theo Ɲgài...”
Thông qua ca khúc nầy, Nhạc Sĩ Tiến Nguyễn như muốn nói đến tấm lòng yêu thương tội nhân của người hầu việc Chúa. Song song với tấm lòng yêu thương đó, là những nỗi niềm cô đơn, đắng cay, nói không nên lời của họ, với những sóng gió, hiểu lầm, thiếu cảm thông mà họ phải chấp nhận trong cuộc đời để hoàn thành chức vụ Chúa giao.
Nhiều khi không ai có thể hiểu được nỗi lòng của người hầu việc Chúa, chỉ có Đấng mà họ đang tôn thờ và hầu việc hiểu được mà thôi. Và vì vậy mà người hầu việc Chúa cần phải biết chạy đến với Ngài, giao thân hồn mình vào Chúa; để Ngài đỡ nâng, ban ơn, hầu họ có thể vững bước theo Ngài, tiếp tục chức vụ cao quý mà họ đã nhận lãnh từ Chúa.
Ca khúc cảm động người nghe khi diễn tả tấm lòng của người hầu việc Chúa với nước mắt rơi xuống từng đêm cho những linh hồn hư mất.
Kinh Thánh cho biết Chúa rất quý trọng những giọt nước mắt của những tấm lòng như thế: “Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa. Nước mắt tôi há chẳng được ghi vào sổ Chúa sao?” (Sách Thi-thiên 56, câu 8).
Phao-lô cũng nói đến nước mắt và sự gian lao trong chức vụ hầu việc Chúa của mình: “Tôi hầu việc Chúa cách khiêm nhường, phải nhiều nước mắt, và ở giữa sự thử thách mà người Giu-đa đã lập mưu hại tôi…Vậy, hãy tỉnh thức, nhớ lại rằng trong ba năm hằng đêm và ngày, tôi hằng chảy nước mắt ra mà khuyên bảo cho mọi người luôn” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ 20, câu 19 và 31).
Có thể nói không có chức vụ nào trên trần gian nầy có nhiều khó khăn, gánh nặng và thách thức như chức vụ của người hầu việc Chúa.
Môi-se ngày xưa đã từng xin chết mà rằng: “Tôi không thế một mình gánh hết dân sự nầy, vì thật là rất nặng nề cho tôi quá! Nếu Chúa đãi tôi như vậy và nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, in thà giêt tôi đi, để tôi không thấy sự khốn nạn tôi” (Sách Dân số ký 11, câu 14, 15).
Tiên Tri Ê-li cũng không hơn gì Môi-se và các tổ phụ ông: “Còn người vào đồng vắng, đường đi ước một ngày, đến ngồi dưới cây giếng giêng, xin chết mà rằng: Ôi Đức Giê-hô-va, đã đủ rồi! Hãy cất lấy mạng sống tôi, vì tôi không hơn gì các tổ phụ tôi” (Sách Các Vua thứ nhất 19, câu 4).
Chức vụ của Phao-lô cũng đầy gian lao, hoạn nạn: “Đức Thánh Linh đã bảo trước cho tôi rằng, từ thành nầy sang thành khác dây xích và hoạn nạn đang đợi tôi đó. Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quý, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Giê-su, để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời” (Sách Công Vụ Các Sứ Đồ 20, câu 23, 24).
Một chỗ khác, Phao-lô như ghi lại những gian lao trong chức vụ của ông để những người đi sau biết mà cẩn thận và cân nhắc khi bước vào chức vụ đầy thách thức nầy:
“Tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn, tù rạc nhiều hơn, đòn vọt quá chừng. Đòi phen tôi gần phải bị chết; năm lần bị người Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm. Lại nhiều lần tôi đi đường nguy trên sông bến, nguy với trộm cướp, nguy với giữa dân mình, nguy với dân ngoại, nguy trong các thành, nguy trong các đồng vắng, nguy trên biển, nguy với anh em giả dối; chịu khó chịu nhọc, lắm lúc thức đêm, chịu đói khát, thường khi phải nhịn ăn, chịu lạnh và lõa lồ. Còn chưa kể mọi sự khác, là mỗi ngày tôi phải lo lắng về hết thảy các Hội thánh” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhì 11, câu 23 đến 28).
Với những khó khăn, lao khổ như thế của chức vụ người hầu việc Chúa, nếu không được Chúa kêu gọi, thì chắc chắn không có ai dám bước vào trong chức vụ cả. Vì không ai có thể hầu việc Chúa bằng sức riêng, khả năng riêng của mình được. Người hầu việc Chúa phải nhờ sức Chúa mà hầu việc vậy: “Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài” (Sách Ê-phê-sô 6, câu 10).
Nói như thế không có nghĩa là chức vụ người hầu việc Chúa chỉ toàn là lao khổ và thách thức, chẳng có chi phước hạnh cả. Không phải như thế! Chức vụ người hầu việc Chúa dầu có nhiều gian lao, thách thức hơn bất cứ chức vụ nào khác; nhưng cũng là một chức vụ đầy vinh hiển và phước hạnh đang chực chờ dành cho những người hết lòng, hết linh hồn, hết sức hầu việc Ngài. Phao-lô đã tin quyết rằng: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay, mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài” (Sách Ti-mô-thê thứ nhì 4, câu 7 và 8).
Thánh Phi-e-rơ cũng cho biết về phước hạnh tuyệt vời của người hầu việc Chúa:
“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em, làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm; chẳng phải quản trị phần trách nhiệm chia cho anh em, song để làm gương tốt cho cả bầy. Khi Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển, chẳng hề tàn héo” (Sách Phi-e-rơ thứ nhất 5, câu 2 đền 4).
Nhân THÁNG BIẾT ƠN MỤC SƯ (Tháng 10 hằng năm), và nhân NGÀY BIẾT ƠN MỤC SƯ (Chúa Nhật thứ 2 của Tháng 10), xin tâm tình với quý bạn đọc gần xa, nhất là với những Mục Sư, Truyền Đạo, Trưởng Lão, Giáo Sĩ, những Nhà Truyền Giáo yêu dấu của Chúa Giê-su Christ đôi điều về chức vụ hầu việc Chúa nhiều thách thức, nhưng rất vinh quang và phước hạnh qua ba ca khúc của ba Nhạc Sĩ.
Xin chân thành cảm ơn các Nhạc Sĩ Trương Đoàn Nhật Bảo, Thiên Kiều Giang và Tiến Nguyễn đã sáng tác được những ca khúc viết về chức vụ của người hầu việc Đức Chúa Trời thật cảm động. Tôi tin rằng tất cả những người hầu việc Chúa khi nghe những ca khúc nầy sẽ được khích lệ rất nhiều trong chức vụ, như tôi đã được nghe và được khích lệ trong chức vụ vậy.
Tôi chưa một lần được gặp những Nhạc Sĩ của Chúa nầy ngoài đời, chỉ mới nghe những ca khúc dễ thương nầy của họ mà thôi. Nói một cách văn chương, là tôi mới “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”. Mong có dịp nào đó được gặp những tâm hồn đồng điệu nầy để tâm tình, chuyện trò về công việc Chúa thì chắc là thích thú lắm vậy!
Hãy đợi đấy! Trái đất vẫn tròn, và trong ý chúa, có một dịp tiện nào đó, Chúa cho sẽ có có hội được gặp nhau trong tương lai.
Tôi cũng có một ước ao, trong một dịp tiện nào đó, sẽ có thể cùng với những tâm hồn đồng điệu, tổ chức một đêm “Văn-Thơ-Nhạc Cơ-đốc” để ca ngợi Chúa và giải bày tâm tình hầu việc Chúa với nhau qua những tác phẩm Văn-Thơ-Nhạc đã sáng tác.
Lại hãy đợi đấy! Trái đất vẫn tròn, và trong ý chúa, có một dịp tiện nào đó, Chúa cho sẽ có cơ hội được gặp nhau trong một đêm “Văn-Thơ-Nhạc Cơ-đốc” tuyệt vời trong tương lai!
Là một người hầu việc Chúa và là người yêu thích văn thơ, ca nhạc, nhất là văn thơ, ca nhạc Cơ-đốc; nên tôi hay…lục loại, tìm kiếm và để ý đến những bài văn, bài thơ, những ca khúc viết ca ngợi Chúa, viết khích lệ những người hầu việc Chúa ở khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm được những bài văn, bài thơ, những bài hát nào hay và ý nghĩa là tôi thường lưu lại để thưởng thức và chia sẻ cho nhiều người thân yêu cùng thưởng thức nữa.
Mong rằng cũng sẽ có nhiều người sẵn lòng chia sẻ những bài văn, bài thơ, bài hát hay mà mình biết được đến cho nhiều người khác để họ cũng được khích lệ trên linh trình theo Chúa khi đọc, khi nghe những tác phẩm ấy.
Còn có những ca khúc khác viết về và viết cho người hầu việc Chúa nữa; nhưng trong bài viết ngắn ngủi nầy, không thể nêu ra hết được. Hy vọng trong tương lai, sẽ có dịp nói đến những ca khúc đáng yêu khác viết về và viết cho những người hầu việc Chúa.
Kính chúc tất cả những người hầu việc Chúa một Tháng Mười, và Một Ngày Chúa Nhật dành riêng cho mình (Chúa Nhật thứ 2 của Tháng Mười) thật nhiều niềm vui và hạnh phúc bên gia đình và người thân, và với bầy chiên dấu yêu mà Chúa đang giao cho mình chăm sóc.
Nguyện Chúa ban ơn mới, sức mới và xức dầu mới cho tất cả những người hầu việc Ngài để họ cứ đi tới trong chức vụ cầu nguyện và giảng đạo, hầu đem kết quả tốt đẹp về cho nhà của Ngài. Amen!
California, Tháng 10/ 2024!
Mục Sư Nguyễn - Đình - Liễu
Bài 392
.