Trang Chủ :: Chia Sẻ

CHƯƠNG 11

Đức Tin Là Gì

"Ay là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em nhưng là sự ban cho của Đức Chúa Trời." Cô-lô-se 2:8,9

Đến bây giờ bạn đã sẵn sàng đi bước kế tiếp trong việc tìm kiếm bình an với Chúa. Bây giờ bạn đã sẵn sàng từ bỏ cuộc đời tội lỗi cũ và quyết tâm thực hiện thay đổi này trong đời sống. Bạn không còn quay lưng lại với Đức Chúa Trời nữa nhưng đang tiến bước hướng về tình yêu, lòng thương xót và sự bảo vệ của Ngài. Bạn đã quyết định. Bạn đã hối cải, đã chọn con đường chính đáng, dù đó có thể là con đường cam go. Bạn đã chọn con đường Môi-se đi gần 3,500 năm trước, khi ông từ bỏ ngôi vua Ai-cập và quyết định chọn Đức Chúa Trời!

Khi được 40 tuổi, Môi-se đã phải bỏ trốn khỏi Ai-cập để bảo toàn sự sống. Bốn mươi năm sau ông trở lại lãnh đạo tuyển dân ra khỏi Ai-cập. Điều gì đã thay đổi? Môi-se đã làm một quyết định lớn trong đời và kết luận rằng đức tin và chân lý cùng đi với khó khăn và thống khổ vẫn hơn hẳn giàu có và danh vọng mà thiếu vắng tình yêu của Đức Chúa Trời. Trong lịch sử ít có người nào phải đối diện với quyết định khó khăn hơn quyết định của Môi-se.

Con Người Của Đức Tin

Môi-se là một người có học vấn, một người giàu có và thế lực. Là con nuôi công chúa Pha-ra-ôn, ông quen nếp được mọi người tôn trọng, sống trong cảnh xa hoa với tất cả mọi đặc quyền. Ngôi vua Ai-cập, một đế quốc hùng cường, thịnh vượng vào bậc nhất đương thời ở trong tầm tay Môi-se. Nhưng Kinh thánh ký thuật rằng, "Bởi đức tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, bỏ danh hiệu mình là con trai của công chúa Pha-ra-ôn, đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp, hơn là tạm hưởng sự vui sướng của tội lỗi: người coi sự sỉ nhục về Chúa Cứu Thế là quí hơn châu báu Ai-cập, vì người ngửa trông sự ban thưởng. Bởi đức tin, người lìa Ai-cập không sợ vua giận; vì người đứng vững như thấy Đấng không thấy được" (Hê-bơ-rơ 11:24-27). Phân đoạn Kinh thánh này đề cập đến Môi-se sau bốn mươi năm trong sa mạc với Đức Chúa Trời - không phải một tên sát nhân trẻ tuổi hung hăng sợ chết chạy trốn Pha-ra-ôn hồi trước.

Chúng ta lưu ý Kinh thánh nói rằng Môi-se "bỏ" và "từ chối" - đây chính là sự ăn năn thật. Kinh thánh cũng bảo rằng Môi-se đã quyết định như thế là "bởi đức tin"! Đức tin chính là bước kế tiếp. Môi-se đi đến quyết định này không vào lúc xúc cảm vỡ bờ như một số các tâm lý gia coi là điều kiện cần thiết cho kinh nghiệm tôn giáo. Động cơ khiến Môi-se hành động như vậy cũng không phải do chán nản hay thất vọng. Môi-se không phải là một con nguời bất đắc chí hay thất cơ lỡ vận. Môi-se không chọn con đường của Đức Chúa Trời để bù cho những mất mát thiệt thòi của ông trong cuộc đời; ông cũng không trở lại với tôn giáo vì thấy cuộc đời buồn nản, vô vị. Ong không đến với Chúa vì lợi lộc hay để tìm vui thú, tìm chốn giải khuây.

Vấn Đề Chọn Lựa

Tất cả những lập luận này và những lập luận khác nữa thường được đưa ra làm lý do để tìm kiếm đời sống với Chúa đều không có giá trị trong trường hợp Môi-se. Ong không bị buộc phải chạy trốn xác thịt hay ma quỉ. Ong bỏ đi do quyết định cá nhân. Chắc chắn Môi-se không phải là con người kém cỏi hay hèn yếu. Ong không phải là một đứa trẻ bám víu nương nhờ vào sự an toàn của trật tự xã hội. Ong không phải là một tiểu tốt đi tìm danh vọng. Ong không phải là một trong bất cứ điều gì mà những kẻ chế diễu tôn giáo gán ghép, bảo rằng vì những điều đó mà Môi-se phải cần có sự cứu rỗi. Những điều Môi-se có hơn cả những giấc mơ nhiều người mong ước, nhưng với một nhận định trưởng thành trong giai đoạn sung mãn nhất của cuộc đời, ông quay lưng lại với sự giàu có, địa vị, danh vọng để chọn đức tin nơi Đức Chúa Trời.

Mỗi lần tôi nghe người ta bảo rằng chỉ có những người tuyệt vọng, vô vọng, và chỉ những người thất cơ lỡ vận mới cần có sự an ủi của "tôn giáo", tôi liền nghĩ đến Môi-se.

Tôi có cơ hội nói chuyện với nhiều người về những nan đề tâm linh, tôi học được điều này, đó là khi những người khôn ngoan sáng suốt từ chối tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu làm Chủ và làm Đấng Cứu Chuộc, họ từ chối không phải vì khám phá ra rằng giáo lý Cơ-đốc không hợp lý về phương diện trí tuệ, nhưng chỉ vì họ muốn tránh né những trách nhiệm và bổn phận của cuộc sống Cơ Đốc Nhân. Điều ngăn cản họ đến với Chúa Cứu Thế không phải là trí óc sáng suốt, nhưng chính là tấm lòng yếu ớt của họ. Họ không sẵn lòng tùng phục và giao nạp mọi điều cho Chúa. Điều lý thú đáng để ý là hai nhân vật được Đức Chúa Trời sử dụng nhiều nhất trong Kinh Thánh (một trong Cựu Ước, một trong Tân Ước) lại là hai người học thức nhất: Môi-se và Phao-lô.

Môi-se xem xét kỹ lưỡng những đòi hỏi và bổn phận Đức Chúa Trời đưa ra cho ông. Năm bốn muơi tuổi, Môi-se chạy trốn như một kẻ sát nhân, đến năm tám mươi ông trở về làm lãnh tụ. Môi-se ý thức rằng nếu chọn Đức Chúa Trời, ông sẽ phải chấp nhận hy sinh những điều hầu hết mọi người ôm ấp, trân quí. Ong không suy xét vội vàng. Ong không đi đến những kết luận thiếu chín chắn do những thôi thúc bất ngờ hay do phản ứng của xúc cảm. Ong đoán biết những gì có thể gặp hiểm nguy và chỉ kết luận sau khi đã vận dụng mọi khả năng của một tâm trí sắc bén đã được tinh luyện. Lựa chọn cuối cùng của Môi-se không phải là một thí nghiệm có tính cách tạm thời. Ong không chọn đức tin như một biện pháp giai đoạn, nhưng do lòng tin quyết chín chắn với một mục tiêu không thay đổi, một lòng tin quyết không rúng động bởi những biến thiên của thuận cảnh hay của những thử thách lâu dài. Môi-se thận trọng đốt cả cầu lẫn thuyền là những phương tiện có thể khiến Môi-se triệt thoái từ vị trí mới. Trong biến động lớn Môi-se đối diện năm 80 tuổi, ông hoàn toàn phó thác chính mình cho Đức Chúa Trời, ở dưới sự điều động của Ngài, không giữ lại chút gì trong bất cứ thời gian hay hoàn cảnh nào.

Phẩm chất quyết định của Môi-se thật khác biệt với quyết định của tiểu sử gia nổi tiếng Gamaliel Bradford là người vào cuối đời đã viết rằng, "Tôi không dám đọc Tân Ước, sợ rằng sẽ đánh thức cơn bão lo lắng, nghi ngờ, hoảng sợ vì đã chọn lầm đường, đã trở thành kẻ phản bội một Đức Chúa Trời hiển hiện, đơn sơ."

Môi-se không có nỗi sợ hãi đó. Bạn cũng sẽ không sợ nếu với đức tin, bạn hết lòng phó thác chính mình cho Chúa Cứu Thế bây giờ và mãi mãi. Xin đừng đến với Chúa bảo rằng, "Tôi thử đi theo Chúa Cứu Thế trong một thời gian, nếu thấy được tôi sẽ tiếp tục, nhưng nếu không, tôi vẫn còn đủ thì giờ để chọn một một lối sống khác." Khi bạn đến với Chúa Cứu Thế, mọi cây cầu sau lưng bạn đều phải phá sập để đừng bao giờ nghĩ rằng bạn sẽ có ngày quay lại.

Rời Bỏ Chiến Thuyền

Nhiều năm trước khi cánh con đại bàng hung hãn Rô-ma phủ bóng đe dọa trên thế giới thì những tay chiến sĩ liều lĩnh dưới quyền Sê-sa đã giương buồn đi chinh phạt Anh Quốc. Khi các chiến thuyền địch quân xuất hiện ở chân trời thì hàng ngàn người Anh can đảm tập trung trên các cao điểm để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lúc đó họ rất ngạc nhiên khi thấy biển và thủy triều đã nhận chìm hầu hết các chiến thuyền La-mã và như vậy là đường triệt binh duy nhất của đạo quân xâm lăng liều lĩnh đã bị cắt đứt. Chúng chiến đấu một cách man dại vì không còn đường rút. Với tinh thần bất khuất đó, làm sao họ không chiến thắng! Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi ngôi làng nhỏ bé bên bờ sông Tiber đã trở thành Bà Hoàng của thế giới!

Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nào được Chúa Cứu Thế chấp nhận nếu không đầu phục hoàn toàn với lòng sùng mộ tuyệt đối. Phúc âm Lu-ca 9:62 chép như sau: "Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Ai đã tra tay cầm cầy còn ngó lại đàng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời."

Khi đứng giữa ngã ba đường đời Môi-se đã có một lựa chọn rúng động linh hồn. Tâm trí quen phán đoán của ông cân nhắc tất cả các dữ kiện trước khi quyết định. Ong nhìn thật sâu, thật cẩn thận xuống từng con đường cho đến tận cùng. Ong xem xét tất cả từng điểm lợi điểm hại và lúc đó mới quyết định đặt lòng tin cậy và đức tin nơi Đức Chúa Trời.

Môi-se Đốt Cầu

Trước hết, ông nhìn xuống cuối con đường thênh thang, rạng rỡ, đầy quyền uy, xa xỉ, đầy trò vui, rượu say, tràn ngập những thứ trần gian coi là lạc thú. Đối với Môi-se, đây là con đường thật quen thuộc ông biết rõ, con đuờng ông đã đi suốt bốn mươi năm và biết rằng nó sẽ kết thúc ở chỗ hủy diệt và chỉ đưa đến hỏa ngục.

Rồi Môi-se nhìn xuống con đường kia, con đường hẹp và khó đi hơn nhiều. Ong thấy đầy những đau thương khổ ải, nhục nhã, thất vọng. Ong thấy đầy gian nguy, thử thách, buồn thảm và đau đớn, nhưng với đức tin, ông cũng thấy cả chiến thắng và phần thưởng là sự sống vĩnh hằng.

Một người kém trí phán đoán và ít kinh nghiệm hơn Môi-se rất có thể đã bị cám dỗ đi con đường thứ nhất. Ai-cập lúc đó là một cường quốc hùng mạnh nhất hoàn cầu, trấn giữ đồng bằng sông Nile màu mỡ, là vựa lúa của thế giới. Quân đội Ai-cập không thể đánh bại, các trường cao đẳng và đại học Ai-cập đưa ra những mẫu mực con người hàng bao nhiêu thế kỷ sau vẫn phải theo!

Rất ít người trong chúng ta bị đòi phải từ bỏ nhiều như Đức Chúa Trời đòi Môi-se từ bỏ. Ít người trong chúng ta phải đứng trước nhiều cám dỗ đa diện như Môi-se rồi bị đòi phải chống lại những cám dỗ đó. Ít người trong chúng ta phải chứng kiến những thú vui trần tục phơi bầy trước mắt, và Kinh Thánh cũng xác nhận rằng ngay cả tội lỗi cũng có những thú vui của nó, những thú vui tạm bợ, mau qua và cũng không lưu lại một dấu vết an ủi nào.

Chọn Đức Chúa Trời, Môi-se đã chấp nhận hy sinh rất lớn, nhưng cũng đã được phần thưởng lớn không kém. Trong thời Môi-se những tài sản lớn rất hiếm cho nên cũng rất ít người có cơ hội như Môi-se, trở thành người giàu nhất thế giới.

Sự Giàu Có Của Trần Gian

Ngày nay nhiều người có thể thâu gom được những tài sản kếch sù. Năm 1923 (thời gian việc tích lũy tài sản là mối quan tâm hàng đầu trên đất nước này), có một nhóm các nhà tài phiệt thành công nhất thế giới họp nhau tại Khách sạn Edgewater Beach Hotel ở Chicago. Ngay cả đối với thời kỳ cực thịnh của thập niên 20, buổi họp đó cũng là một tập hợp quyền lực và tài sản đáng nể. Ngồi chung trong cái bàn lớn đó là chủ tịch một công ty thép độc lập lớn nhất thế giới, chủ tịch công ty tiện ích lớn nhất, chủ tịch Ngân Hàng Chứng Khoán Nữu Ước, một nhân viên nội các của Tổng Thống Mỹ, chủ tịch Ngân Hàng Giao Dịch Quốc Tế, một nhà kinh doanh lớn nhất Wall Street, và một nhân vật nữa là người đứng đầu

một công ty độc quyền lớn nhất thế giới. Tất cả những nhân vật trên kiểm soát một số tài chánh nhiều hơn cả ngân khố Hoa Kỳ! Bất cứ em học sinh nào cũng biết những câu chuyện thành công của họ. Họ là những mẫu mực cho người khác noi theo. Họ là những nhà tài chánh và kỹ nghệ gia đứng đầu của nước Mỹ!

Năm 1923 những câu chuyện được quảng bá rộng rãi về những nhân vật này thật phấn khích, đầy thích thú, kích thích trí tưởng tượng, khơi dậy lòng ganh đua, thôi thúc nhiều người cố gắng vươn tới như họ! Nhưng trong năm 1923, câu chuyện đời họ mới chỉ được kể có một nửa còn những chương kết thúc chưa viết xong.

Vào lúc tám nhân vật trên ngồi với nhau trong khách sạn tại Chicago, mỗi người trong đời sống riêng, đang đứng ở chỗ của Môi-se trước ngã ba đường. Hai hướng đi trải dài trước mặt mỗi người, nhưng có lẽ đó là những lối đi họ không thấy, những lối đi họ không quan tâm, và chắc chắn đó cũng không phải là những lối đi họ chọn, và hôm nay tiểu sử những người này đã hoàn tất. Hôm nay chúng ta đã biết những chương cuối, chúng ta có thể ôn lại cuộc đời họ như chúng ta đã ôn lại cuộc đời Môi-se để xem đâu là cuộc đời thành công nhất, đâu là cuộc đời khôn ngoan nhất.

Charles Schwab, chủ tịch công ty thép sống những năm cuối đời trong nợ nần và chết không một xu dính túi. Arthur Cutten, thương gia lúa mì lớn nhất đã chết khánh tận ở ngoại quốc. Richard Whitney, chủ tịch Ngân Hàng Chứng Khoán Nữu Ước ngồi tù ở cải hối thất Sing Sing. Albert Fall, nhân viên nội các bị tù nhưng được ân giảm để có thể về chết ở nhà. Jessie Livermore, "con gấu" của Wall Street; Leon Frazer, Chủ tịch Ngân Hàng Giao Dịch Quốc Tế; và Ivon Kreuger, người đứng đầu một công ty độc quyền lớn nhất thế giới, cả ba đều đã tự sát!

Những người này có tất cả tiền tài, quyền lực, danh vọng, ưu quyền, trí thông minh và học vấn, nhưng tất cả đều thiếu một thuộc tính đem lại ý nghĩa đích thực và mục tiêu cho đời sống. Họ thiếu một thuộc tính thiết yếu đối với giáo lý và tác phong Cơ-đốc, một thuộc tính đưa đến sự hoán cải và khiến cho sự tái sinh trở thành thực hữu. Họ không chịu tin! So sánh cuộc đời những người này với cuộc đời những giáo sĩ đã bỏ mọi sự theo Chúa, là những người có thể chết trong đớn đau, trong cảnh thanh bần, nhưng đó là cái chết có ý nghĩa!

Những nhân vật giàu có trên không có đức tin, hoặc giả có đức tin đi chăng nữa thì họ đã không chịu hành động thể hiện đức tin đó. Những chương cuối cuộc đời họ sẽ khác biết chừng nào nếu họ coi đức tin nơi Chúa Cứu Thế là một trong những tài sản quí.

Môi-se Quay Lưng Với Của Cải Trần Gian

Môi-se đã từ bỏ cuộc sống sang giàu trong Ai-cập là vì đức tin. Chính đức tin đã giúp ông biết rằng dù phải chịu bao thiệt thòi suốt những năm còn lại của cuộc đời trần gian, đến cuối cùng, ông sẽ nhận được phần thưởng lớn hơn hết là sự sống vĩnh hằng.

Những người như Cutten và Schwab có thể nghĩ Môi-se là một kẻ dại, bảo rằng, "Một con chim trong tay hơn hai con trong bụi." Nếu nói được với Môi-se họ sẽ nói như sau: "Này Môi-se, ông biết tất cả những gì ông có trong Ai-cập và biết một người với đầu óc như ông có đủ mánh lới để thâu đoạt tiền của và quyền lực. Nếu biết cách, ông có thể đưa Ai-cập vào vị trí điều khiển thế giới, triệt hạ tất cả những tiểu quốc khác, chấm dứt mọi cạnh tranh để toàn quyền thao túng." Đó là những điều họ có thể nói với Môi-se, vì đó là cách họ suy nghĩ, cách họ hành xử và cũng là cách nhiều người trong vòng họ đã dùng để thâu đoạt, tích lũy tài sản. Họ sẽ cười vào mũi người nào nhờ cậy Đức Chúa Trời và đặt đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Họ sẽ bảo rằng, "Đức tin không phải là cách làm ăn khéo léo, khôn ngoan."

Kinh Thánh dạy rằng đức tin là phương cách duy nhất đến với Đức Chúa Trời, "vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài" (Hê-bơ-rơ 11:6b). Kinh Thánh cũng dạy rằng đức tin là điều làm vui lòng Đức Chúa Trời hơn nất cứ điều gì khác, "Không có đức tin thì không thể nào ở cho đẹp ý Ngài" (He-bơ-rơ 11:6).

Con người trên khắp thế giới đang tự hành hạ chính mình, mặc những kiểu áo quần dị hợm, ăn chay, ép xác, bỏ nhiều thì giờ cầu nguyện, khắc khổ thân thể mong nhờ đó sẽ được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Tất cả những điều này có thể cũng là những điều tốt, nhưng điều lớn nhất chúng ta có thể làm để được vui lòng Đức Chúa Trời là tin cậy Ngài.

Tôi có thể khen ngợi bạn tôi đủ điều, nhưng sau tất cả những mỹ từ kia tôi thổ lộ rằng tôi không tin anh ta thì tất cả những câu khen ngợi hoa mỹ trên hoàn toàn vô ích. Tôi đã nâng anh ta lên chỉ là để vùi dập anh ta xuống.

Đức Tin Thiết Yếu

Cách tốt nhất chúng ta có thể làm vui lòng Đức Chúa Trời là tin Lời Ngài. Chúa Cứu Thế gần như đã nài nỉ các môn đệ thể hiện đức tin, khi Chúa bảo rằng, "Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta, bằng chẳng, hãy tin bởi công việc ta" (Giăng 14:11). Kinh Thánh công bố rằng đức tin là điều cần thiết tuyệt đối. Bạn sẽ hỏi, "Nếu đức tin cần thiết như thế thì đức tin là gì? Xin giải thích và cho định nghĩa của đức tin. Làm sao biết tôi có một đức tin đúng đắn? Tôi phải có lượng đức tin nào?" Tôi sẽ lần lượt giải thích những vấn nạn trên.

Kinh Thánh nhiều chỗ dạy rằng chúng ta chỉ có thể có sự cứu rỗi qua đức tin:

"Hãy tin Chúa Cứu Thế Giê-xu thì ngươi và cả nhà sẽ được cứu rỗi" (Công-vụ 16:31).

"Nhưng hễ ai nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài" (Giăng 1:12).

"Còn kẻ chẳng làm việc chi hết nhưng tin Đấng xưng người có tội là công bình, thì đức tin của kẻ ấy kể là công bình cho mình" (Rô-ma 4:5).

"Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta" (Rô-ma 5:1).

"Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi" (Hê-bơ-rơ 10:39).

"Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời" (Ê-phê-sô 2:8).

Bản Chất Đức Tin

Chúng ta có thực sự được cứu bởi đức tin không? Không, chúng ta được cứu nhờ ân sủng, qua đức tin. Đức tin chỉ là phương tiện qua đó chúng ta tiếp nhận ân sủng của Đức Chúa Trời. Đức tin là cánh tay vươn dài để nhận món quà tình yêu của Ngài. Thư Hê-bơ-rơ 11:1 viết như sau, "Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều đang hy vọng, là bằng chứng của những điều chưa thấy." Weymouth đã dịch như sau giúp chúng ta dễ hiểu hơn, "Đức tin là sự bảo đảm chắc chắn điều chúng ta đang hy vọng, là lòng tin quyết tính chất thực hữu của những điều chúng ta không thấy." Đức tin theo nghĩa đen là "bỏ, đầu hàng hay ký thác." Đức tin là lòng tin cậy hoàn toàn.

Tôi chưa bao giờ đặt chân lên Bắc Cực, tuy nhiên tôi tin rằng có Bắc Cực. Làm sao tôi biết? Tôi đọc sách lịch sử nói về Bắc Cực, tôi thấy bản đồ Bắc Cực, và tôi tin những người viết những quyển sách đó.Tôi chấp nhận bằng đức tin.

Kinh Thánh dạy, "Đức tin đến là do nghe lời Đức Chúa Trời được rao giảng" (Rô-ma 10:17). Chúng ta tin những gì Đức Chúa Trời nói về sự cứu rỗi và chúng ta chấp nhận những lời đó không thắc mắc.

Martin Luther dịch Hê-bơ-rơ 11: 27 như sau, "vì Môi-se bám chặt lấy Đấng không thấy được như thể ông đã nhìn thấy Ngài."

Đức tin không phải là một phẩm tính đặc biệt, bí mật mà chúng ta phải cố sức thâu đạt. Chúa Giê-xu dạy rằng chúng ta phải trở thành trẻ thơ, và như trẻ thơ tin cậy cha mẹ thể nào, chúng ta cũng phải tin cậy Đức Chúa Trời như thế.

Giả dụ tôi đang lái xe trên đường với vận tốc 75 cây số một giờ, khi lên đỉnh dốc, có bao giờ tôi thắng gấp, ra khỏi xe, đi bộ tới phía trước để kiểm soát tình trạng con đường hay không? Tất nhiên là không. Tôi tin tưởng sở công chánh của tiểu bang, và tôi cứ tiếp tục lái xe bình thường ở tốc độ 75 cây số/giờ, tin chắc rằng con đường sẽ còn tiếp tục dẫn tới trước, dù tôi không thấy. Tôi chấp nhận bằng đức tin. Đức tin nơi Chúa Cứu Thế cũng tương tự như vậy!

Ba Phương Diện Của Đức Tin

Cũng như sự ăn năn, đức tin liên quan đến ba điều trọng yếu. Trước hết, phải có kiến thức về những điều Đức Chúa Trời phán dạy, và đó là lý do tại sao bạn phải đọc Kinh Thánh. Đó là lý do tại sao bạn cần biết một số điều Kinh Thánh dạy về sự cứu rỗi và linh hồn. Chỉ cần biết rằng bạn là một tội nhân và Chúa Cứu Thế Giê-xu chịu chết thay cho bạn được kể là biết đủ. Chỉ biết câu Kinh Thánh Giăng 3:16 cũng kể là đủ. Nhiều người đã từng được hoán cải với một kiến thức ít hơn như thế nữa! Tuy nhiên, đối với một điều quan trọng như đức tin, bạn cần hiểu biết càng nhiều càng tốt, và chỗ duy nhất bạn có thể học biết về sự cứu rỗi là Kinh Thánh!

Nhiều người từng nói, "Kinh Thánh khó hiểu quá cho nên tôi không muốn đọc." Đây không phải là thái độ khôn ngoan. Tôi không hiểu nhiều điều trong Kinh Thánh vì tâm trí hữu hạn của tôi không bao giờ có thể hiểu hết về cái vô hạn. Tôi không biết hết về vô tuyến truyền hình, nhưng đó không phải là lý do khiến tôi từ chối mở máy xem đài. Tôi chấp nhận bằng đức tin.

Đức Chúa Trời không đòi hỏi một điều bất khả. Trong sự hoán cải, Ngài không đòi bạn phải buông mình nhảy vào đêm tối. Việc bạn đặt đức tin nơi Chúa Cứu Thế dựa trên một bằng chứng vững chắc nhất trên thế giới, đó là Kinh Thánh. Dù bạn không hiểu hết Kinh Thánh, bạn vẫn có thể chấp nhận Kinh Thánh dựa trên gía trị tự tại của Kinh Thánh vì đó là lời Đức Chúa Trời phán. Một trong những cuộc tấn công đầu tiên của ma quỉ là khiến con người nghi ngờ Lời Đức Chúa Trời: "Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi..." (Sáng Thế Ký 3:1). Nếu bạn khởi sự nghi ngờ và đặt dấu hỏi vào Lời Đức Chúa Trời thì bạn đang gặp rắc rối. Bạn phải biết mình là một tội nhân. Bạn phải biết Chúa Cứu Thế đã chịu chết thay thế cho bạn và Ngài đã phục sinh để bạn được kể là công chính. Sự chết, chôn và phục sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu là trái tim của Tin Lành. Đây là những điều tối thiểu bạn phải tin và chấp nhận để được hoán cải.

Thứ hai, đức tin cũng liên hệ đến xúc cảm. Kinh thánh dạy rằng, "Kính sợ Chúa Hằng Hữu là khởi đầu sự khôn ngoan" (Châm Ngôn 1:7). Phao-lô nói, "tình thương của Chúa Cứu Thế cảm động chúng tôi" (2 Cô-rinh-tô 5:14). Mong ước, yêu thương, kính sợ - tất cả đều là xúc cảm. Xúc cảm không thể bị tách rời khỏi cuộc sống và không một người thông minh nào bảo rằng "Chúng ta hãy dẹp hết cảm xúc đi!" Loại bỏ mọi cá tính khỏi những xúc cảm sâu đậm là điều bất khả. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi có một cuộc sống nào lại thiếu tính chất ấm áp của xúc cảm, giả dụ như sinh hoạt trong một gia đình mọi người đều cư xử với nhau đúng bổn phận nhưng thật lạnh lùng, hay chúng ta thử tưởng tượng có một thanh niên ngỏ ý cầu hôn với một thiếu nữ sau khi giải thích cho cô ấy biết rằng anh ta không có một chút rung động nào đối với cô ta cả!

Giống như Tiến sĩ Sangster từng nói, "Tôn giáo cũng có cùng nguyên tắc này. Nếu sứ giả của Đức Chúa Trời đi ra công bố ân huệ của Vua: tha thứ dồi dào và ban phước dư dật, nhưng nghiêm cấm việc đưa bất cứ niềm vui nào vào lời công bố cũng như vào việc tiếp nhận, thì đây là một điều không thể có được."

Trong lòng sẽ có sự giằng co, và xúc cảm có thể thay đổi theo kinh nghiệm tôn giáo. Một số người theo chủ trương khắc kỷ, những người khác bộc lộ tình cảm ra bên ngoài, dù thế nào, xúc cảm vẫn có đó.

Khi thủ tướng Churchill đọc những bài diễn văn lớn cho dân Anh trong thời chiến, ông đưa ra những lập luận vững chắc, nhưng đồng thời, ông cũng làm cho thính giả cảm xúc theo ông. Tôi nhớ có lần được nghe ông diễn thuyết tại Glassglow. Ong thách thức lý trí tôi nhưng ông cũng làm tôi cảm thấy muốn đứng bật dậy hô hào cổ võ và phất cờ! Khi bạn yêu mến Chúa Giê-xu, xúc cảm của bạn không thể nào không được khơi dậy.

Phương diện thứ ba của đức tin và cũng là phương diện quan trọng hơn hết đó là ý chí. Chúng ta có thể coi ba khía cạnh này như ba nhân vật - một người là "Lý trí", người thứ hai là "Xúc cảm" và người thứ ba là "Ý chí". Lý trí cho biết tin lành hợp lý. Xúc cảm áp lực trên Ý chí bảo rằng. "Tôi yêu mến Chúa Cứu Thế," hay "Tôi sợ sự phán xét." Người đứng giữa mệnh danh là Ý chí, đóng vai trò trọng tài. Anh ta ngồi đó chống tay dưới cầm suy nghĩ, cố gắng quyết định. Chính ý chí là yếu tố quyết định cuối cùng có tính cách chắc chắn, lâu bền. Người ta có thể tin bằng lý trí với tất cả thiện cảm trong tâm hồn nhưng vẫn chưa thực sự hoán cải để trở thành môn đồ thật của Chúa Cứu Thế. Đức tin thật phải kèm theo hành động, "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gia-cơ 2: 20).

Một Thí Dụ Về Đức Tin

Mấy năm trước tôi có nghe kể lại về một nhà làm xiếc đẩy chiếc xe cút kít trên một sợi dây cáp giăng ngang qua sông Niagara. Hàng ngàn người bên dưới hoan nghênh cổ võ. Ong ta bỏ lên xe một bao cát 200 cân Anh, đẩy qua rồi đẩy lại. Sau đó ông hỏi đám đông, "Có bao nhiêu người trong số quí vị tin rằng tôi có thể chở một người đẩy ngang qua sợi dây cáp này?" Mọi người reo hò ủng hộ, trong đó có một người đứng hàng đầu tin tưởng và cổ võ mạnh mẽ hơn cả. Nhà biểu diễn chỉ vào ông giáo sư đó tuyên bố, "Mời ông lên xe!"

Bạn có thể tưởng tượng giây phút kế tiếp là những giây phút hổ thẹn đến chừng nào cho vị giáo sư kia không! Ong ta thực sự tin vào khả năng nhà biểu diễn. Ong ta công bố đức tin và cũng nghĩ rằng mình tin, nhưng lại không muốn ngồi vào chiếc xe một bánh đó!

Đối với Chúa Giê-xu cũng vậy. Rất nhiều người bảo rằng họ tin Ngài, nhiều người bảo rằng họ theo Ngài, nhưng không bao giờ dám ngồi vào xe cút kít! Họ chưa bao giờ thực sự cam kết phó thác cả trăm phần trăm cuộc đời cho Ngài.

Có nhiều người hỏi rằng, "Như vậy lượng đức tin tôi cần có là bao nhiêu?" Chúa Giê-xu bảo rằng chỉ cần có "đức tin bằng hạt cải."

Người khác lại hỏi, "Phải có loại đức tin nào?" Đây không phải là vấn đề loại đức tin đặc biệt, vì chỉ có một loại đức tin. Chính đối tượng của đức tin mới quan trọng. Đối tượng đức tin của bạn là gì? Đối tượng đó phải là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Không phải đức tin nơi nghi thức, đức tin nơi các sinh tế, đức tin vào luân lý, đức tin vào chính mình hay vào bất cứ điều gì khác ngoài Chúa Cứu Thế Giê-xu!

Kinh Thánh dạy rằng đức tin tự thể hiện qua ba phương thức. Đức tin thể hiện trong giáo lý, nghĩa là trong điều bạn tin. Đức tin thể hiện trong sự thờ phượng, nghĩa là trong sự tương thông với Đức Chúa Trời và sự thông công với Hội thánh. Đức tin cũng tự thể hiện trong đời sống luân lý, nghĩa là cách bạn sống và cư xử hàng ngày. Chúng ta sẽ bàn trong những chương khác.

Kinh Thánh cũng dạy rằng đức tin không chấm dứt sau khi một người đã đặt lòng tin nơi Chúa Cứu Thế để nhận sự cứu rỗi, nhưng cứ tiếp tục tiến tới. Đức tin tăng trưởng, lúc đầu có thể yếu ớt, nhưng sẽ mạnh mẽ hơn khi bạn khởi sự đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, đi nhà thờ và kinh nghiệm sự thành tín của Đức Chúa Trời trong cuộc sống Cơ-đốc nhân. Sau khi bạn đã ăn năn tội, tiếp nhận Chúa Giê-xu bằng đức tin, bạn phải tin cậy, phó thác cho Ngài giữ gìn bạn, thêm sức cho bạn, nâng đỡ bạn, bảo tồn bạn. Bạn sẽ ngày càng học biết hơn cách thức tùy thuộc nơi Chúa Cứu Thế trong mọi nhu cầu, đối phó với mọi hoàn cảnh và mọi thử thách. Bạn sẽ học nói được như Phao-lô, "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Chúa Cứu Thế, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Nay tôi còn sống trong thân xác, là sống trong đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và đã phó chính mình Ngài vì tôi" (Ga-la-ti 2: 20).

Khi bạn đã có đức tin để được cứu rỗi nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu, bạn đã bước thêm được một bước nữa tiến đến cuộc sống bình an với Chúa.