Trang Đầu | Mục Lục | << Bài 10 | Bài 12 >> | Hướng Dẫn

Bài 11

NGƯỜI ÐÀN BÀ SA-MA-RI (II)

GIĂNG 4:27-44

 

Kính thưa quý vị: Tuần trước chúng ta học sách Giăng đoạn 4, kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-xu với một người đàn bà xấu nết Sa-ma-ri. Chúa bắt đầu bằng cách cho bà có cái nhìn thuộc linh, cao hơn vật chất, và làm bà có sự ham muốn những điều thuộc linh đó. Sau đó, Chúa cho bà thấy tội lỗi mình. Cuối cùng, Chúa cho bà biết chính Ngài là đấng Mê-si đến để cứu rỗi linh hồn bà. Bây giờ chúng ta học tiếp câu chuyện này, từ câu 27 đến câu 44.

 

27Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đàn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? hay là: Sao thầy nói với người?

28Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành, nói với người tại đó rằng:

29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?

30Chúng bèn từ trong thành ra và đến cùng Ðức Chúa Giê-xu.

31Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn.

32Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết.

33Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?

34Ðức Chúa Giê-xu phán rằng: Ðồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Ðấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.

35Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt.

36Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ.

37Vì đây người ta có thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, là rất phải.

38Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi thì đã vào tiếp lấy công lao của họ.

39Có nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cớ lời đàn bà đã làm chứng về Ngài mà rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm.

40Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài bèn ở lại đó hai ngày.

41Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa.

42Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian.

43Khỏi hai ngày ấy, Ðức Chúa Giê-xu từ đó đi qua xứ Ga-li-lê

44(vì chính Ngài đã phán rằng một người tiên tri chẳng bao giờ được tôn kính trong quê hương mình).

 

1. Quan tâm của các môn đồ

 

 

 

 

Ðọc câu chuyện này, chúng ta thấy có ba thái độ trong đó. Thái độ đầu tiên là của những các môn đồ đi theo Ngài. Giăng diễn tả trong câu 27, “Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đàn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? hay là: Sao thầy nói với người?” Xin chúng ta phân tích sự quan tâm, lo lắng, sững sờ của họ. Trong lúc Chúa Giê-xu nhìn người đàn bà đó và thấy một linh hồn cần được cứu rỗi, có vẽ như trong đầu các môn đồ này chỉ có một điều đáng quan tâm mà thôi, đó là phong tục, tập quán của người Do-thái lúc đó. Thấy Chúa nói chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri, mặc dầu họ không nói ra lời, nhưng ánh mắt họ nhìn người đàn bà đó đã nói lên rất nhiều: “Chúng tôi khinh bỉ bà. Tại sao Chúa tôi lại nói chuyện với bà, chúng tôi không hiểu được.” Nhiều khi chúng ta cũng vậy. Cám ơn Chúa là, vì hội thánh chúng ta còn mới nên chưa có nhiều phong tục tập quán, nhưng tôi sợ rằng càng ngày chúng ta sẽ càng bị chúng trói buộc. Khi có người đưa ra một chương trình gì mới, tôi hy vọng không ai nói rằng mình không nên làm vì trước kia không ai làm điều đó. Hội thánh Việt-nam nói chung cũng vậy. Chúng ta cần phải nhìn kỹ những phong tục tập quán, xem chúng có còn thích hợp hay không.

Xin nhớ Giăng nói trong câu 8 rằng, “Môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn.” Khi họ trở về, điều quan tâm lớn nhất của họ là sự ăn uống của Chúa: “31Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn.... 33Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?” Ðây là điều tốt. Nhưng điều không tốt là các sứ đồ chỉ nghĩ đến điều vật chất đó mà thôi, nhưng không thấy linh hồn của người đàn bà đang đối diện với Chúa. Tuần này là tuần đặc biệt đối với chúng ta, vì chúng ta đang cầu nguyện về vấn đề tạo mãi ngôi nhà thờ này. Vâng, đây là điều tốt, không có gì sai lầm hết. Nếu Chúa mở đường, chúng ta cám ơn Ngài. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng đây là điều vật chất, không phải là điều chính mà Chúa muốn chúng ta đặt hết tâm trí vào, và quên linh hồn những người đang hư mất.

 

2. Quan tâm của Chúa Giê-xu

 

 

Trong lúc các môn đồ của Chúa bị phong tục, tập quán trói buộc và bị giới hạn vào những điều vật chất, dầu là bánh cho Chúa ăn, điều Chúa quan tâm là gì? Ngài phán với họ, “34Ðồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Ðấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” Các người sứ đồ này đi về làng, giao thiệp với bao nhiêu người Sa-ma-ri, kết quả chỉ đem được vài miếng bánh về cho Chúa ăn; Chúa đứng tại miệng giếng, nói chuyện với chỉ một người đàn bà, và đã thay đổi đời sống của bà. Trong suốt đời của Ngài, Ngài dồn tất cả mọi năng lượng, tâm trí vào việc làm trọn công việc Ðức Chúa Trời giao phó, để trong phút cuối cùng trên thập tự giá, Ngài có thể nói, “Mọi việc đã được trọn.” Ðó là điều Chúa Giê-xu muốn làm, và cũng là điều Ngài muốn chúng ta làm. Chúa muốn chúng ta làm theo ý muốn của Ðức Chúa Cha trên trời, hơn là quan tâm đến những việc trên đất (như ăn gì, mặc gì), dầu là những việc liên quan đến cơ sở nhà thờ.

Lúc Chúa Giê-xu đang nói chuyện với các sứ đồ, người đàn bà Sa-ma-ri này đi về thành, và kéo một số người đến gặp Ngài. Nhìn thấy họ đang đi đến, Chúa nói: “35Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt.” Hãy nhướng mắt lên, hãy nhìn những điều thuộc linh; đừng nhìn xuống những điều vật chất nữa, đừng quan tâm đến miếng ăn, áo mặc. Chúa sẽ ban cho chúng ta những điều đó, như Ngài hứa trong Ma-thi-ơ 6:33, “Trước hết, hãy tìm kiếm nước Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” Ðừng nhìn xuống và thấy những người này chỉ là những người Sa-ma-ri đáng khinh, những hãy nhướng mắt lên, và thấy đây là một cánh đồng đã chín vàng, trong đó người ta sẵn sàng được gặt hái về nhà Ðức Chúa Trời.

Lúc đó khoảng chừng tháng 12. Sau khi gieo giống rồi, người ta không có gì làm hết, vì cánh đồng lúa mạ vẫn còn non. Họ phải chờ đến bốn tháng sau, rồi hối hả mướn người đến gặt lúa. Nhưng nếu nhướng mắt lên nhìn linh hồn con người, chúng ta sẽ thấy có một sự khẩn trương, cấp bách, vì biết mình không còn nhiều thì giờ nữa. Cánh đồng thuộc linh đã chín vàng. Thì giờ đến cấp bách hơn là mình nghĩ. Chúng ta thấy một người không biết Chúa hôm nay, nhưng tối nay có thể họ không còn nữa. Xin chúng ta đừng nhìn ngôi nhà thờ này, và coi đây là mục đích của mình và hội-thánh, nhưng xin hãy nhìn con người, nhìn đến cộng đồng Việt-nam xung quanh với biết bao nhiêu người không biết Chúa. Chúng ta có thấy những linh hồn cần được sự cứu rỗi hay không, hay nghĩ là mình được vui vẻ trong hội-thánh là đủ rồi?

Chúng ta không thể nào ngồi chờ, nhưng phải cùng nhau làm việc. Tôi nhấn mạnh chữ “cùng nhau” ở đây, vì như Chúa nói trong câu 36-38: “Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ. Vì đây người ta có thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, là rất phải. Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi thì đã vào tiếp lấy công lao của họ.” Người gặt, người hái không ai hơn ai. Ðôi khi trong hội-thánh, chúng ta trọng những người có vẽ “có ơn” làm chứng, nhưng không để ý đến những người lặng lẽ gieo từng hạt giống, để người khác đến gặt. Có thể Chúa sẽ hạ người được tâng bốc đó, để Ngài được nâng lên. Ðiều quan trọng là không ai có thể nghĩ mình có độc quyền trong cánh đồng thuộc linh chín vàng. Mỗi người chúng ta phải tùy theo ơn tứ Chúa ban mà đóng góp một tay. Tôi hy vọng hội thánh chúng ta không chỉ có một số người làm, còn những người khác ngồi đó mà xem (và chỉ trích). Niềm tin không đóng góp vào cánh đồng thuộc linh là niềm tin chết.

 

3. Quan tâm của người đàn bà Sa-ma-ri

 

Chúng ta trước hết ghi nhận một sự thay đổi lớn trong người đàn bà này. Lúc mới gặp Chúa bà nói, “9 Ông là người Giu-đa.” Sau đó bà gọi Ngài bằng Chúa và chất vấn, “12Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao?” Rồi bà thú nhận, “19Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri.” Ðoạn bà hy vọng, “25Tôi biết rằng Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ) phải đến.” Cuối cùng bà công khai nói với mọi người, “29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?”

Sau đó, Giăng ghi một chi tiết ngắn gọn nhưng đáng cho chúng ta suy nghĩ: “28Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành.” Xin chúng ta thử tìm cách giải thích tại sao bà lại bỏ cái vò lại. Lối giải thích thứ nhất là bây giờ bà không thấy cần nước nữa. Như Chúa nói với bà, “13Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; 14nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời.” Vì bà đã nhận dòng nước vĩnh hằng Ngài cho, đời bà luôn được tươi mát nên không cần vò nước nữa. Ðó là lối giải thích “thiêng liêng.”

Lối giải thích giản dị hơn là: Sau khi gặp Chúa, bà được thay đổi hoàn toàn. Chúa cho bà một nhân sinh quan mới, một đời sống mới, và một mục đích mới trong đời, vì thế bà quên việc đem nước về nhà. Trước kia, đói bụng Chúa sai các môn đồ đi mua thức ăn, nhưng vì quan tâm đến linh hồn của bà, Ngài quên ăn luôn. Cũng vậy, người đàn bà này không còn nghĩ đến chuyện múc nước nữa, nhưng vội vã chạy vào thành để nói với người khác về đấng Mê-si mình mới gặp.

Lối giải thích thứ ba là bà không muốn đem cái vò đó theo vì nó làm bà bị vướng bận, cản trở điều bà muốn làm lúc này, ấy là đi nhanh đến người khác, để rao báo Tin-lành. Xin chúng ta để ý rằng, mang nhiều mặc cảm tội lỗi, muốn tránh người khác vì sợ họ chê cười, bà đã lặng lẽ đến giếng múc nước giữa trưa nắng. Nhưng sau khi biết Chúa, bà không còn né tránh người khác, nhưng mạnh dạn “vào thành, nói với người tại đó rằng: 29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?” Chúa có thể sẽ không còn ở đó, nếu bà chậm trễ. Cái vò đó thật là quan trọng về phương diện kinh tế đối với bà, nhưng giờ đây trở thành một gánh nặng cho sứ mệnh mới của bà, và vì thế bà bỏ nó lại. Nếu có điều gì trong đời sống mà thành chướng ngại vật trên bước đường theo Chúa, chúng ta có sẵn sàng bỏ nó qua một bên như bà hay không?

Lối giải thích thứ tư là bà bỏ cái vò đó lại vì bà không có ý định chạy trốn khỏi Chúa Giê-xu, nhưng sẽ trở lại, và sẽ đem cái vò đó về nhà sau. Sau khi biết Chúa rồi, xin đừng ai bỏ Ngài đi luôn. Chúng ta phải trở lại nguồn gốc của đời sống của mình, là Chúa Giê-xu Christ. Chỉ bằng cách trở lại, chúng ta mới tìm được năng lực mới để tiếp tục đi ra.

Bỏ cái vò lại, vội vã vào trong thành gặp người khác, bà không cãi cọ về những điều thần học, không đưa ra những lý luận cao xa, nhưng chỉ nói, “29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?” “Ðến mà xem!” cũng là lời mời của Chúa (Giăng 1:39), của Phi-líp (Giăng 1:46) mà chúng ta đã học mấy tuần trước. Chúng ta cũng chỉ cần làm chừng đó mà thôi. Tôi luôn khuyến khích quý vị mời gọi người thân của mình đến hội thánh này “mà xem,” không phải xem ông mục sư giảng ra sao, hay hội-thánh vui như thế nào, nhưng để cảm nhận được quyền năng của Ðức Thánh Linh trong đời sống người tín đồ. Như bà, chúng ta không cần đợi cho đến khi học được bao nhiêu lớp truyền giảng mới ngỏ lời mời đó.

Bà nói thêm, “29Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm.” “Mọi điều mà tôi đã làm” là điều gì? Thưa, không có điều gì đáng hãnh diện hết, và có thể trước kia bà cứ chối quanh. Nhưng giờ đây bà có can đảm nói đến chúng để làm vinh danh Chúa. Ðến mà xem trước kia tôi nhuốc nhơ như thế nào, nhưng bây giờ tôi thay đổi như thế nào. Ðưa ra những điều xấu xa trong đời sống mình để làm vinh danh Chúa, bà biết mình phải đi xuống, để Chúa đi lên. Thông thường những người có vẽ giàu có, sang trọng không muốn thú nhận là đời họ thiếu ý nghĩa, nhưng ai thật sự gặp Chúa đều cũng sẵn sàng làm chứng về kinh nghiệm này của mình trước đó.

Bà kết luận lời chứng bằng một câu hỏi để người nghe suy nghĩ, “29Ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?” Kết quả là những người Sa-ma-ri “30từ trong thành ra và đến cùng Ðức Chúa Giê-xu.... 41Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa. 42Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian.”

 

Mục Sư Ðỗ Lê Minh